Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Phát huy năng lực liên tưởng, tưởng tượng vào tìm hiểu hình tượng con sông đà trong tùy bút “ người lái đò sông đà” của nguyễn tuân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (431.59 KB, 19 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA

TRƯỜNG THPT NÔNG CỐNG 4


SÁNG KIẾN KINH NGIHỆM

PHÁT HUY NĂNG LỰC LIÊN TƯỞNG, TƯỞNG
TƯỢNG VÀO TÌM HIỂU HÌNH TƯỢNG CON SÔNG
ĐÀ TRONG TÙY BÚT “NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ”
CỦA NGUYỄN TUÂN

Người thực hiện: Lê thị Điệp
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường THPT Nông Cống 4
SKKN thuộc môn: Ngữ văn

THANH HÓA - NĂM 2018

MỤC LỤC
1


I. MỞ ĐẦU ----------------------------------------------------------------------- 3
I.1 Lí do chọn đề tài --------------------------------------------------------------- 3
I.2 Mục đích nghiên cứu----------------------------------------------------------- 4
I.3 Đối tượng nghiên cứu --------------------------------------------------------- 4
I.4 Phương pháp nghiên cứu ----------------------------------------------------- 4
II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ----------------------------4
II.1 Cơ sở lí luận -------------------------------------------------------------------4
II.2 Thực trạng dạy học môn Ngữ văn ở trường THPT Nông Cống 4------ 5


II.2.1 Thuận lợi ---------------------------------------------------------------------5
II.2.2 Khó khăn ---------------------------------------------------------------------5
II.3 Các giải pháp thực hiện ----------------------------------------------------- 6
II.3.1 Nhắc lại kiến thức cơ bản ------------------------------------------------ 6
II.3.2 Giáo án --------------------------------------------------------------------- 9
II.3.3 Hiệu quả của sáng kiến kinh nghị ------------------------------------- 17
III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ --------------------------------------------18
III.1 Kết luận -----------------------------------------------------------------------18
III.2 Kiến nghị -------------------------------------------------------------------- 18
TÀI LIỆU THAM KHẢO ------------------------------------------------------19

I. MỞ ĐẦU
2


I.1.Lí do chọn đề tài.
Đặc thù của môn Ngữ văn là không chỉ dạy về kiến thức mà còn giáo dục
các em về tình cảm, về đạo đức, về giá trị thẫm mĩ. Dạy văn là dạy cái hay cái
đẹp. Phải khai thác mọi vấn đề mà tác giả đặt ra trong tác phẩm, giúp các em có
rung cảm thẩm mĩ, có cái nhìn sâu sắc về cuộc sống và tự rút ra bài học cho
chính bản thân mình. Phạm văn Đồng đã từng nói: “ Cái quan trọng nhất trong
giảng dạy nói chung và trong dạy văn nói riêng là rèn luyện bộ óc, rèn luyện
phương pháp suy nghĩ, phương pháp nghiên cứu, phương pháp tìm tòi, phương
pháp vận dụng kiến thức của mình” ( Trích tạp chí nghiên cứu giáo dục số 28,
tháng 11 năm 1973). Từ ý kiến trên đặt ra yêu cầu đối với người dạy là phải có
phương pháp tích cực để giúp học sinh phát triển toàn diện mọi kĩ năng cần
thiết.
Vai trò của người giáo viên là vô cùng quan trọng. Là người điều khiển,
hướng dẫn để học sinh khám phá vẻ đẹp của tác phẩm văn học. Chính vì vậy,
yêu cầu đặt ra cho giáo viên là cần rèn luyện cho học sinh tự nhạy bén, linh hoạt

và tư duy nhanh, phát huy những khả năng mới vốn tiềm ẩn mà lâu nay các em
chưa có điều kiện khám phá. giúp học sinh cảm nhận một cách phong phú, đa
chiều vẻ đẹp của thế giới hình tượng nghệ thuật thông qua khả năng liên tưởng,
tưởng tượng kỳ thú của học sinh.
Từ thực tiễn giảng dạy, tôi thấy khả năng liên tưởng, tưởng tượng trong quá
trình học Văn của các em còn hạn chế. Hầu hết các em mới biết tái hiện lại tác
phẩm, khả năng cảm thụ rất yếu, ngôn ngữ diễn đạt nghèo nàn, cách cảm và hiểu
tác phẩm hết sức nông cạn…Xuất phát từ suy nghĩ làm sao để học sinh nắm
vững kiến thức cảm nhận được những tác phẩm văn học, lại biết cách làm bài thi
đạt kết quả cao. Tích luỹ từ kinh nghiệm trong quá trình giảng dạy của mình và
trao đổi cùng đồng nghiệp tôi mạnh dạn trao đổi với thầy cô đề tài: “ Phát huy
năng lực liên tưởng, tưởng tượng vào tìm hiểu hình tượng con Sông Đà trong
tùy bút “ Người lái đò Sông Đà” của Nguyễn Tuân”

3


Với đề tài này, chúng ta có thể rèn luyện, phát triển tư duy liên tưởng, tưởng
tượng cho học sinh.
I.2. Mục đích nghiên cứu.
Cụ thể với đề tài “Phát huy năng lực liên tưởng, tưởng tượng vào tìm hiểu
hình tượng con Sông Đà trong tùy bút “ Người lái đò Sông Đà” của Nguyễn
Tuân”, mục đích đầu tiên của tôi là giúp học sinh phát huy năng lực liên tưởng,
tưởng tượng trong giờ học Ngữ văn. Cung cấp cho học sinh một số hiểu biết về
vai trò của tưởng tượng, rèn luyện cho học sinh khả năng liên tưởng trong giờ
học văn. Học sinh đặc biệt hiểu bài và hiểu đúng dụng ý nghệ thuật mà tác giả
truyền tải qua tác phẩm.
I.3. Đối tượng nghiên cứu.
- Trong phạm vi đề tài này đối tượng mà đề tài hướng tới là học sinh khối12
- Hoạt động giáo dục của giáo viên và học sinh các lớp 12C3, 12C5 trường

THPT Nông Cống 4 năm học 2017- 2018
I. 4. Phương pháp nghiên cứu.
Để thực hiện đề tài này tôi đã kết hợp nhiều phương pháp như phương pháp
phân tích, tổng hợp, Phương pháp quan sát, liên tưởng, tưởng tượng, phương
pháp đàm thoại, phương pháp thảo luận nhóm, phương pháp gợi mở, phương
pháp điều tra, khảo sát.
II. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
II.1. Cơ sở lí luận
Tiếp tục thực hiện Nghị quyết 29-NQ/TW về đổi mới căn bản toàn diện giáo
dục và đào tạo. Đảng và nhà nước đã đặt ra vấn đề giáo dục là quốc sách hàng
đầu. Phương pháp giáo dục vì vậy cũng phải đổi mới cho phù hợp với xu thế
chung của thời đại, trong đó đặc biệt phải luôn phát huy được tính tích cực, tự
giác, chủ động tư duy sáng tạo của người học. Đối với giáo viên dạy môn Ngữ
văn, do đặc thù bộ môn, còn giúp học sinh cảm nhận một cách phong phú, đa
chiều vẻ đẹp của thế giới hình tượng nghệ thuật thông qua khả năng liên tưởng,
tưởng tượng kỳ thú của học sinh.
4


II. 2. Thực trạng việc dạy học môn Ngữ Văn ở trường THPT Nông Cống 4.
II. 2. 1. Thuận lợi:
Luôn được sự quan tâm của cấp uỷ Chi bộ, BGH, Ban chuyên môn nhà
trường. Đội ngũ giáo viên nhiệt tình, có trách nhiệm cao. Học sinh phần lớn có
thái độ học tập đúng đắn. Xã hội ngày càng phát triển, công nghệ thông tin và
mạng Internet hiện đại đã tạo điều kiện cho đội ngũ giáo viên thuận lợi trong
việc nắm bắt thông tin, tìm kiếm tài liệu hỗ trợ cho việc dạy học.
II. 2.2. Khó khăn:
Yêu cầu của việc đổi mới trong dạy học hiện nay là đòi hỏi học sinh chủ
động, sáng tạo trong quá trình học. Nhưng thực tế đã cho thấy rằng khả năng
liên tưởng, tưởng tượng trong quá trình học văn của các em học sinh còn nhiều

hạn chế. Hầu hết các em mới chỉ biết tái hiện lại tác phẩm, tức là mới chỉ nói
được những gì trong tác phẩm đã có, khả năng cảm thụ yếu dẫn đến học sinh
không thích học văn, cảm giác nhàm chán và khó khăn khi học.
Trước những vấn đề văn học cần phải bộc lộ quan điểm cá nhân, các em
thường phải dựa vào sự đánh giá của người khác trong sách vở hoặc ở bài giảng
của thầy cô. Đối với bài viết, học sinh phụ thuộc nhiều vào tài liệu, nếu không
bài văn thường sơ sài, khô khan, ngôn ngữ diễn đạt nghèo nàn.
Tùy bút “ Người lái đò Sông Đà” của Nguyễn Tuân đặt ra vấn đề hay nhưng
khó. Tác phẩm thuộc loại tiêu biểu nhất của Nguyễn Tuân sau cách mạng tháng
tám. Có thể tìm thấy ở tác phẩm này hầu như mọi đặc trưng về tư tưởng và nghệ
thuật của ông. Dòng Sông Đà đẹp tuyệt vời, đầy chất thơ nhưng cũng hết sức dữ
dội, mãnh liệt. Thể hiện nổi bật tài hoa và sự uyên bác của tác giả khi tập trung
mô tả một đối tượng bằng sự liên tưởng, tưởng tương dồi dào, phong phú và đã
tả thì tả triệt để, tả đến “sơn cùng thủy tận”. Vốn ngôn ngữ giàu có, sắc sảo tung
ra như để thi tài với tạo hóa. Cũng chính vì vậy nên khi tìm hiểu tác phẩm học
sinh khó hiểu đặc biệt là cách dùng từ của Nguyễn Tuân.
Thời gian đầu, khi chưa áp dụng phương pháp này, qua điều tra kết quả học
các lớp tôi dạy như sau:
5


Lớp



Giỏi

Khá

Trung bình


Yếu

Kém

số
12C

42

SL
1

3
12C

46

3

%
0.2

SL
10

0,8

25


% SL
24.3 26

% SL
63.5
5

%
12

SL
0

%
0

60,2

38,8

0.2

0

0

17

1


5
Với kết quả trên ta thấy:
-

Chất lượng chưa cao, số học sinh đạt khá giỏi còn ít, lượng học sinh đạt mức
độ yếu vẫn còn.

-

Mức độ hứng thú học tập chưa cao vì học sinh cảm thấy khó cảm nhận,
nhiều từ ngữ, hình ảnh trừu tượng.

-

Khả năng liên hệ vận dụng giải quyết các đề văn còn yếu, chưa cảm nhận
đúng vấn đề, vì vậy để đạt được điểm cao là khó.

-

Với những thực trạng trên bản thân tôi thấy cần phải có cách dạy tích cực
hơn thì học sinh mới hứng thú học tập, khi thi mới đạt kết quả tốt hơn. Vì
vậy tôi mới áp dụng kinh nghiệm phát huy năng lực liên tưởng, tưởng tượng
vào việc dạy cho học sinh.

II. 3. Các giải pháp thực hiện.
II. 3. 1. Nhắc lại kiến thức cơ bản.


Liên tưởng.


Liên tưởng là một hoạt động tâm lý của con người từ việc này nghĩ đến việc
kia, từ người này nghĩ đến người khác. Cơ sở của liên tưởng là mối quan hệ của
các sự vật trong đời sống tự nhiên và xã hội. Ví dụ nói tới núi người ta nghĩ tới
rừng, suối, khe. Nói tới mây người ta nghĩ tới bầu trời, mưa.


Tưởng tượng.
Tưởng tượng cũng là một hoạt động tâm lý nhằm tái tạo, biến đổi các biểu

tượng trong trí nhớ thành các hình tượng mới. Các nhà văn, nhà thơ thường
thông qua các sự việc, kinh nghiệm có thật, biến hóa đi, mở rộng ra, biến đổi
không gian, thời gian, tạo ra các hình tượng mới.
6




Vai trò của liên tưởng, tưởng tượng trong tiếp nhận văn học.
Liên tưởng, tưởng tượng có một vai trò hết sức quan trọng đối với môn Ngữ

văn. Liên tưởng, tưởng tượng không chỉ giúp học sinh xác định đúng những ấn
tượng trực cảm, chủ quan khi tiếp xúc với văn bản thông qua quá trình phân tích
sẽ giúp học sinh chuyển từ nhận thức cảm tính sang nhận thức lý tính để từ đó
các em đi vào bề sâu, bề rộng của nhận thức, tạo cơ sở khách quan trong thao tác
đánh giá toàn bộ tác phẩm.
Liên tưởng là hiện tượng mang tính phổ biến, góp phần biểu thị các mối quan
hệ đa dạng và phức tạp của đời sống. Nhờ có liên tưởng, cuộc sống con người
mới trở nên phong phú và mang tính xã hội. Liên tưởng có chức năng như cầu
nối tư tưởng con người với con người, giữa con người với thế giới xung quanh,
giữa các chiều không gian với thời gian, giữa thế giới vĩ mô với thế giới vi mô.

Liên tưởng là hiện tượng mang tính phổ biến không chỉ phản ánh các quá
trình tâm lý mà còn ảnh hưởng sâu rộng đến nhiều lĩnh vực khác trong cuộc
sống con người. Phecdăngđơ Xuy, một học giả phương tây nhận xét: “ Trong
cuộc sống tồn tại bao nhiêu thứ quan hệ thì trong đầu óc con người có bấy nhiêu
chuỗi liên tưởng”. Những người có khả năng liên tưởng tốt bao giờ cũng là
người có đời sống tâm hồn phong phú. Trong quá trình sáng tác, người nghệ sĩ
nếu không có sự liên tưởng, tưởng tượng bên cạnh tài năng, vốn sống, sự hiểu
biết thì không xây dựng được thế giới nghệ thuật sống động trong tác phẩm.
Người học thiếu sự liên tưởng, tưởng tượng thì văn phong sẽ nghèo nàn, khô
khan, không còn hấp dẫn. Liên tượng, tưởng tượng của học sinh trong học văn
chính là một phương diện sinh động biểu hiện quá trình cảm thụ văn chương,
năng lực chủ quan của người học trong việc tiếp nhận văn học, từ một vấn đề
này liên tưởng đến một vấn đề khác sinh động hơn.
Quá trình tiếp nhận của học sinh trong học văn phải tuân theo từng quy luật
khách quan của cuộc sống. Lĩnh hội văn chương cũng xuất phát từ đặc trưng
thẩm mỹ, đặc điểm thể loại và tính độc đáo qua từng tác phẩm cụ thể. Ngoài ra,
chúng ta cũng cần nhấn mạnh đến điều kiện xã hội và tâm lý lứa tuổi, nhu cầu
7


thị hiếu cũng như toàn bộ kinh nghiệm sống và kinh nghiệm nghệ thuật đã ảnh
hưởng đến quá trình tiếp nhận văn chương của các em.
Nhờ sự liên tưởng, tưởng tượng các em mới có thể hiểu và khai thác các vấn
đề ẩn chứa trong tác phẩm. Liên tưởng, tưởng tượng vì vậy là hoạt động vô cùng
cần thiết trong quá trình chiếm lĩnh chân giá trị của tác phẩm văn chương.
Tiếp nhận văn học là hoạt động đọc hoặc nghe để thưởng thức tác phẩm,
chiếm lĩnh các giá trị văn học với mục đích giải trí, tìm hiểu nghiên cứu học tập.
Thông qua ngôn từ người đọc dùng trí tưởng tượng của mình, hiểu biết đối
tượng được thể hiện, thưởng thức cái hay, cái đẹp và hiểu được tiếng nói của tác
giả.



Liên tưởng, tưởng tượng trong tùy bút.
Đặc trưng của tùy bút khéo sử dụng tài liệu đời sống kết hợp với liên

tưởng, tưởng tượng, nhận xét, đánh giá. Tất nhiên đan xen vào mạch tự sự còn
có những đoạn thể hiện suy tưởng nhận xét chân thực, tinh tường của nhà văn
trước sự việc. Cái thú vị của tùy bút là những ý riêng, suy nghĩ riêng của tác giả
đan cài với việc tái hiện đối tượng. Vì vậy, sức hấp dẫn của tùy bút chính là ở
khả năng tái hiện sự thật một cách sinh động của tác giả.
Tùy bút ít chấp nhận sự hư cấu, do đó phải dựa vào những liên tưởng, tưởng
tượng bất ngờ, tài hoa của tác giả khi phản ánh sự vật, cuộc sống. Điều đó làm
nên cái hay, cái đẹp của một tác phẩm tùy bút.


Hình tượng con Sông Đà
Hình tượng con Sông Đà in đậm bản ngã văn chương của nhà văn

NguyễnTuân. Ngòi bút của ông đã hòa trộn hai vẻ đẹp, chủ quan của tâm hồn và
khách quan của dòng sông để tái hiện một Đà giang như một sinh thể sống động
có hoạt động, có tri giác, cảm giác và có cá tính tâm hồn.
Pháp hiện và đánh giá được óc quan sát, trí tưởng tượng, năng lực sử dụng
ngôn từ của nhà văn trong tác phẩm tùy bút. Sức hấp hẫn của tùy bút chính là
khả năng tái hiện sự thật một cách sinh động của tác giả. Nếu chỉ đơn thuần là

8


ghi chép tác phẩm tùy bút sẽ hết sức khô khan, không gây được ấn tượng đối với
người đọc.

Với tác phẩm “ Người lái đó Sông Đà” khi khám phá vẻ đẹp hung bạo của
con Sông Đà, cần nhận thấy liên tưởng nhất quán của Nguyễn Tuân. Nhà văn
hình dung con Sông Đà như một con thủy quái khổng lồ, có tâm địa đen tối, với
biết bao tướng dữ quân tợn vây quanh. Đã thế, con thủy quái mang tên Sông Đà
còn có hành động, mưu mô ác độc đối với thuyền và người trên sông.
Như vậy, nhờ vào khả năng sử dụng ngôn từ liên ngành và trí tưởng tượng tài
hoa của tác giả, học sinh vừa hiểu đặc điểm thực của con Sông Đà ở thượng
nguồn, vừa bị cuốn hút vào tài năng miêu tả của Nguyễn Tuân.
Khi khám phá vẻ đẹp thơ mộng trữ tình của con sông, lại cần phải phát hiện ra
sự thay đổi di chuyển điểm nhìn và cách miêu tả. Sông Đà không chỉ là quái thú
sông nước nữa, mà đã lột xác trở thành người thiếu nữ có mái tóc tuôn dài, thành
cố nhân đầy nỗi niềm lâu ngày gặp lại. Điểm nhìn đa chiều bao quát vẻ đẹp của
dáng sông, màu nước Sông Đà bằng cái nhìn xuyên thời gian qua mấy mùa
trong năm: của bờ bãi hoang sơ, của mặt nước lặng yên như tờ thảng hoặc đôi
con cá quẫy làm giật mình đàn hươu.
Để hiểu rõ về vấn đề của đề tài nghiên cứu, tôi xin cụ thể phần trọng tâm bài
học liên quan đến đề tài khi áp dụng phát huy năng lực liên tưởng, tưởng tượng
qua phần thiết kế bài học như sau:
II. 3.2 Giáo án
Hoạt động của GV và HS
GV: Lời vào bài: Nhà thơ Chế Lan

Nội dung bài học

Viên trong bài thơ “ Tiếng hát con
tàu” đã từng viết:
“Tây Bắc ư? Có riêng gì Tây Bắc
Khi lòng ta đã hóa những con tàu
Khi tổ quốc bốn bề lên tiếng hát
Tâm hồn ta là Tây Bắc chứ còn đâu”.

9


Có một thời Tây Bắc đã trở thành
mảnh đất hóa tâm hồn của bao cuộc
đời và là nguồn cảm hứng của bao
văn nhân, nghệ sĩ. Nhà văn Nguyễn
Tuân trên hành trình tìm kiếm cái
đẹp cũng đã dừng chân tại mảnh đất
Tây Bắc và phát hiện chất vàng mười
của thiên nhiên và con người xứ
thiêng liêng rừng núi đã anh hùng
này. Các em có thể thấy đều đó qua
tùy bút “ Người lái đò Sông Đà” của
Nguyễn Tuân.
GV: Gợi mở, dẫn dắt, phát vấn, tạo
tình huống, nêu vấn đề.
GV: Hai câu thơ đề từ gợi cho em
suy nghĩ gì?
Mượn câu thơ của nhà thơ Ba Lan: “Đẹp
vậy thay, tiếng hát trên dòng sông”,
Nguyễn Tuân muốn ca ngợi Sông Đà
như một công trình nghệ thuật ngôn từ,
một sáng tạo tài hoa mà Nguyễn Tuân
tặng cho đời. Đồng thời mượn câu thơ “
Chúng thủy giai đông tẩu – Đà giang độc
bắc lưu” của Nguyễn Quang Bích.
Nguyễn Tuân muốn bộc lộ tài hoa uyên
bác của mình: câu thơ gợi cảm nhận về
cá tính khác thường của Sông Đà cũng

HS: Tìm hiểu,đọc tái hiện, quan sát, gặp được cá tính độc đáo của nguyễn
liên tưởng, tưởng tượng, trao đổi, Tuân.
10


thảo luận và nêu quan điểm chính về
các vấn đề của bài học.
GV: Sông Đà trên trang văn của

I.

Hình tượng con Sông Đà

Nguyễn Tuân hiện lên như một
“nhân vật” có hai tính cách trái
ngược. Đó là những nét tính cách
nào?
GV: Trình chiếu hình ảnh, nêu câu
hỏi:

Hình ảnh 1

Hình ảnh 2

Hình ảnh 3

11


Hình ảnh 4


Hình ảnh 5

Hình ảnh 6
12


GV: Những hình ảnh trên gợi cho em
liên tưởng, tưởng tượng đến đặc
điểm nào của dòng sông Đà?
HS: Quan sát, liên tưởng, tưởng
tượng và trả lời câu hỏi

Hình 1: Cảnh đá bờ sông dựng vách
thành: Đá chẹt lòng sông như cái yết
hầu…
Hình 2: Quãng mặt ghềnh Hát Loóng:
Nước xô đá, đá xô sóng….
Hình 3: Quãng Tà Mường Vát:
Hình ảnh 4: Những cái hút nước quãng
Tà Mường Vát như những cái giếng bê
tông thả xuống sông để làm móng cầu.
Hình 5: Sông Đà tuôn dài tuôn dài như
một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn
hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa
ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù
khói núi Mèo đốt nương xuân.
Hình 6: Sông Đà nhìn từ trên cao ngoằn
GV: Khi miêu tả con Sông Đà hung
ngoèo như dây thừng

bạo, dữ dội tác giả đã tập trung miêu Kết luận chung: Dòng sông Đà có hai
đặc điểm: Hung bạo, dữ dội và trữ tình,
tả những hình ảnh nào?
thơ mộng
I.1.Con Sông Đà hung bạo, dữ dội.

- Tác giả tập trung miêu tả sự hung bạo
của con sông qua cảnh đá bờ sông,
ghềnh sông, hút nước, thác nước và trận
địa đá trên Sông Đà.
- “Mặt sông quãng ấy lúc đúng ngọ mới
thấy mặt trời” diễn tả độ cao hun hút
13


Hỏi: Từ những hình ảnh đó em hình
dung con Sông Đà như thế nào?

sừng sững hẹp đến nỗi không có ánh
nắng. Nó không chỉ tối mà còn lạnh.
Khiến cho người đọc liên tưởng đến câu
thơ của Đỗ Phủ: “Vu sơn, vu giáp khí
tiêu sâm”
- Ấn tượng về thị giác. ấn tượng độ cao
hun hút, thăm thẳm của vách đá tạo ra
cái chới với của thị giác
Đây là cách nhà văn miêu tả sự vật
thông qua cảm giác, khiến cho người đọc
liên tưởng, tưởng tượng đối tượng miêu
tả rõ nét hơn.

Sử dụng nghệ thuật nhân hóa, so sánh:
dùng lửa để tả nước, lấy rừng để tả sông,
nhà văn cho thấy Sông Đà như một sinh
thể có tiếng nói với nhiều cung bậc, sắc
thái tâm trạng, cảm xúc… Thác Sông Đà
hung dữ như loài thủy quái, hung thần
thách thức, đe dọa con người với những
âm thanh cuồng loạn man dại và hoang
dã.
Ở trên, khi miêu tả hút nước bằng những
hình ảnh nghiêng về thị giác.Thì khi
miêu tả thác nước lại bằng những hình
ảnh nghiêng về thính giác.
Dưới góc nhìn đa ngành (bóng đá, võ
thuật, quân sự…) nghệ thuật nhân hóa,
ngôn ngữ giàu chất tạo hình, trí tưởng
tượng phong phú tài năng quan sát tỉ mỉ,
kỹ lưỡng, thạch trận Sông Đà hiện lên
như một trận đồ bát quái, một kẻ thù tâm
địa hiểm ác, gợi liên tưởng tới câu đồng

GV: Sông Đà không chỉ hung bạo,
dữ dội mà còn là dòng sông thơ

dao về thần sông, thần núi trong truyện
cổ tích:

mộng, trữ tình.
Hỏi: Đoạn văn miêu tả con Sông Đà


“ Núi cao sông hãy còn dài
Năm năm báo oán, đời đời đánh ghen”
14


thơ mộng, trữ tình gợi cho em những
cảm nhận gì?

GV: Miêu tả vẻ đẹp thơ mộng trữ

I. 2. Con Sông Đà trữ tình, thơ mộng.
- Con Sông Đà mềm mại, duyên dáng:
Sông Đà mang dáng hình của một người
thiếu nữ kiều diễm: “ Sông Đà tuôn dài
tuôn dài như một áng tóc trữ tình…”
- Đoạn văn vừa như một khúc nhạc nhẹ
êm ái, vừa như một bức tranh thủy mặc
mang đến cho tâm hồn người đọc những
rung động tinh vi, những xúc cảm nhẹ
nhàng.
- Nước Sông Đà: thay đổi theo mùa. “
Mùa xuân dòng xanh ngọc bích; mùa thu
lừ lừ chin đỏ như da mặt một người bần
đi vì rượu bữa”
- Nguyễn Tuân đã mở ra chuỗi liên
tưởng mới lạ dòng sông có vẻ đẹp riêng
ở mỗi mùa.
Sông Đà gợi cảm: với mỗi người, Sông
Đà gợi theo một cách riêng.
+ Sông Đà như một cố nhân.

+ “ Trông con sông vui như thấy nắng hạ
giòn tan kì mưa dầm, vui như nối lai
chiêm bao đứt quãng”
Hình ảnh so sánh gần gủi mà gợi cảm,
nhờ đó người đọc hình dung được niềm
vui, tình yêu tha thiết của nhà văn đối
với Sông Đà.
+ Vẻ đẹp hồn nhiên: bờ sông, ven sông:
chuồn chuồn, bươm bướm bay trên Sông
Đà.
+ Vẻ đẹp tĩnh lặng: bờ sông hoang dại
như một bờ tiền sử, như một nỗi niềm cổ
tích tuổi xưa.

tình của dòng sông, tác giả đã liên
tưởng đến câu thơ của Tản Đà,
Đường thi. Sự liên tưởng đó có ý
nghĩa gì?
15


- Tác giả đã liên tưởng đến câu thơ
Đường: “ Yên ba tam nguyệt há Dương
Châu”, câu thơ của Tản Đà: “ Dải Sông
Đà bọt nước lênh bênh – Bao nhiêu cảnh
GV: Hãy nhận xét về tài nghệ của tác
bấy nhiêu tình của một người tình nhân
giả ở đoạn văn này?
chưa quen biết”,…Những liên tưởng đó
tạo nên thi vị cho dòng sông.


GV: Anh/ chị hãy nêu những nhận
xét chung về hình tượng con Sông
Đà?

- Nguyễn Tuân sử dụng đa dạng các
biện pháp tu từ: so sánh, nhân hóa trên
cơ sở liên tưởng, tưởng tượng phong phú
và tinh tế, vốn kiến thức sâu rộng, tâm
hồn rộng mở. Ở góc độ này ta thấy một
Nguyễn Tuân tài hoa uyên bác.
- Miêu tả tính cách của con Sông Đà,
Nguyễn Tuân đã tiếp cận dòng sông ở
phương diện văn hóa mĩ thuật, soi chiếu
ở nhiều góc độ, nhiều thời gian khác
nhau.
- Bằng tài năng nghệ thuât và tình yêu
của người nghệ sĩ, Nguyễn Tuân đã khắc
họa thành công một Đà giang hung bạo,
dữ dội, trữ tình thơ mộng. Đó là một
hình tượng nghệ thuật tiêu biểu cho
phong cách nghệ thuật của Nguyễn
Tuân.

II.3.3. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm:
Sau khi áp dụng phát huy năng lực liên tưởng, tưởng tượng vào dạy như đã
nêu trên tôi cảm thấy học sinh đã có sự chuyển biến rõ rệt. Cụ thể:
- Học sinh thấy hứng thú hơn trong mỗi tiết học và háo hức chờ đợi đến tiết học
sau, các băn khoăn của học sinh trong các tình huống liên quan đến bài học
được đưa ra thảo luận và giải đáp kịp thời.


16


- Nhiều học sinh được tham gia vào phần trình bày kết quả, nhất là nhóm học
sinh có mức độ nhận thức yếu hơn được khuyến khích và có sự tiến bộ rõ rệt.
- Học sinh cảm nhận nội dung bài học nhanh hơn, dễ hơn. Biết vận dụng xử lí
tình huống trong thực tiễn hợp lí hơn.
Kết quả làm bài khảo sát sau khi áp dụng:
Lớp



Giỏi

Khá

Trung bình

Yếu

Kém

số
12C

42

SL
3


3
12C

46

11

%
7,5

SL
25

%
60

SL
14

23,9

26

56,6

9

% SL
32,5

0

%
0

SL
0

%
0

19,5

0

0

0

0

5
Trên đây là những kinh nghiệm mà trong quá trình dạy học tôi đã rút ra và
vận dụng vào việc dạy trực tiếp cho học sinh THPT của mình thấy có hiệu quả,
chất lượng học và bài làm của học sinh tăng lên rõ rệt. Vì vậy tôi xin chia sẻ với
các thầy cô mong rằng sẽ góp được phần nào vào việc nâng cao chất lượng dạy
học môn Ngữ văn nói chung và thi THPT quốc gia nói riêng theo tinh thần đổi
mới sự nghiệp giáo dục.
III. Kết luận,kiến nghị.
III.1. Kết luận.

Trong xu hướngdạy học theo hướng tích cực hiện nay, một trong những nhân
tố góp phần nâng cao chất lượng dạy học chính là ở khả năng sử dụng các
phương pháp dạy học của giáo viên. Bản thân tôi từ khi áp dụng kinh
nghiệmphát huy năng lực liên tưởng, tưởng tượngvào công việc dạy học của
mình thì khả năng sử dụng phương pháp nói chung và việc sử dụng phương
pháp nhằm rèn luyện “ Phát huy năng lực liên tưởng, tưởng tượng tìm hiểu hình
tượng con Sông Đà trong tùy bút “ Người lái đò Sông Đà” của Nguyễn Tuân”
nói riêng đã không ngừng tiến bộ đáng kể. Trong mỗi tiết học có áp dụng năng
lực liên tưởng, tưởng tượng đều phát huy được tính tích cực, chủ động của học
17


sinh. Sau tiết học tỉ lệ học sinh hiểu bài cũng cao hơn trước. Và từ đó, kĩ năng
làm bài cũng như khả năng vận dụng của các em được nâng lên rất rõ rệt.
- Hướng phát triển của đề tài.
Phát huy năng lực liên tưởng, tưởng tượng của đề tài này, có thể áp dụng
cho các bài khác trong chương trình Ngữ văn THPT và thực hiện cho việc ôn tập
thi THPT quốc gia.
III.2. Kiến nghị.
Để góp phần tạo niềm say mê, hứng thú cho học sinh đối với môn văn, thuận
lợi cho việc dạy học đạt hiệu quả cao đề nghị các cấp lãnh đạo quan tâm, tạo
điều kiện hơn nữa trong việc trang bị sách tham khảo, thành lập câu lạc bộ đọc
sách để tạo thói quen đọc sách và giúp các em tiếp cận với những tác phẩm bổ
ích, vào những ngày lễ lớn có thể ra những chủ đề cho học sinh tham ra sáng tác
thơ văn nhằm hướng về cội nguồn, bồi dưỡng tư tưởng tình cảm cho các em.
Trên đây là sáng kiến “ Vận dụng phát huy năng lực liên tưởng, tưởng tượng
tìm hiểu hình tượng con Sông Đà trong tùy bút “ Người lái đò Sông Đà” của
Nguyễn Tuân”,vì điều kiện thời gian nghiên cứu có hạn nên không tránh khỏi
những thiếu sót. Rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các đồng chí đồng
nghiệp và cán bộ phụ trách chuyên môn cấp trên để đề tài của tôi được hoàn

thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

18


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Sách giáo khoa Ngữ văn lớp 12, Nxb Giáo dục.

2. Tài liệu chuẩn kiến thức kĩ năng Ngữ văn lớp 12
3. Giáo trình lý luận văn học, tập 1-2 – NXB Giáo dục 1986-1987
4. Phương pháp tiếp cận tác phẩm văn học ở trường THPT – Nguyễn Thị
Thanh Hương – NXB Giáo dục 1998
5. Dạy học văn ở trường THPT – Nguyễn Thị Thanh Hương – NXB Giáo dục
1998
6. Cẩm nang ôn luyện môn văn – NXB Đại học Quốc gia Hà Nội 2001
7. Một số vấn đề về cách dạy và cách học – NXB Đại học Quốc gia Hà Nội
2002
8. Từ điển tiếng Việt

XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG Nông cống, ngày
ĐƠN VỊ

15 tháng 5 năm

2018
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung
của người khác.


Lê Thị Điệp

19



×