Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

RÈN kĩ NĂNG làm văn NGHỊ LUẬN văn học DẠNG đề SO SÁNH CHO học SINH lớp 12 ôn THI THPT QUỐC GIA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (218.51 KB, 29 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ

TRƯỜNG THPT HẬU LỘC 3

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

RÈN KĨ NĂNG LÀM VĂN NGHỊ LUẬN VĂN HỌC DẠNG ĐỀ
SO SÁNH CHO HỌC SINH LỚP 12 ÔN THI THPT QUỐC GIA

Người thực hiện: Nguyễn Thị Duyên
Chức vụ: Giáo viên
Trình độ: Thạc sĩ
Đơn vị công tác: Trường THPT Hậu Lộc 3
SKKN thuộc lĩnh mực (môn): Ngữ Văn

THANH HÓA NĂM 2019


1

1. MỞ ĐẬU
1.1. Lí do chọn đề tài...........................................................................

1

1.2. Mục đích ngiên cứu………………...................................................

1

1.3. Đối tượng nghiên cứu………………………....................................


2

1.4. Phạm vi nghiên cứu………………………………………………… 2
1.5. Phương pháp nghiên cứu.................................................................... 3
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

3

2.1.Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm...........................................

3

2.2. Thực trạng vấn đề..............................................................................

4

2.3. Giải pháp và cách thức tổ chức thực hiện..........................................

5

2.3.1. Khái quát các dạng đề so sánh thường gặp..................................... 5
2.3.2. Hướng dẫn cách làm dạng đề so sánh………………...................

5

1. 2.3.3. Hướng dẫn học sinh cách làm cụ thể............................................

6

2. 2.3.4. Hướng dẫn học sinh luyện tập.........................................................


1

2.3.5. Kiểm tra kết quả của quá trình ôn tập ……………………………

3

2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm……………………………….

1

3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ................................................................ 9
1
9
2
0
MỤC LỤC

A. ĐẶT VẤN ĐỀ


1.Mở đầu
1. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài:
So sánh là một thao tác tư duy rất cơ bản. Trong cuộc sống, khi ta tư duy,
ta đã dùng đến thao tác này rất thườngxuyên như một phần tất yếu. Văn học
cũng là một lĩnh vực của tư duy, của nhậnthức, mang tính đặc thù, cho nên việc
sử dụng thao tác so sánh trong sáng tác và nghiên cứu văn học là một điều hết
sức tự nhiên. Từ khi có văn học, nhất làvăn học viết đến nay, các nhà nghiên
cứu đã có ý thức so sánh khi tìm hiểu vănchương, đặc biệt là khi có những hiện

tượng song hành trong văn học.
Khái niệm so sánh văn học cần phải được hiểu theo ba lớp nghĩa khác
nhau. Thứ nhất, so sánh văn học là “một biện pháp tu từ để tạo hình ảnh cho câu
văn” .Thứ hai, nó được xem như một thao tác lập luận cạnh các thao tác lập luận
như:phân tích, bác bỏ, bình luận đã được đưa vào sách giáo khoa Ngữ văn 11.
Thứ ba,nó được xem như “một phương pháp, một cách thức trình bày khi viết
bài nghị luận”, tức là như một kiểu bài nghị luận bên cạnh các kiểu bài nghị
luận về mộtđoạn trích, tác phẩm thơ; nghị luận về một đoạn trích, tác phẩm văn
xuôi… ở sách giáo khoa Ngữ văn 12. Ở đề sáng kiến này chúng ta nghiên cứu
vấn đề ở góc nhìn thứ ba.
So sánh là phương pháp nhận thức trong đó đặt sự vật này bên cạnh
một hay nhiều sự vật khác để đối chiếu, xem xét nhằm hiểu sự vật một cách
toàn diện,kỹ lưỡng, rõ nét và sâu sắc hơn. Tuy nhiên, so sánh văn học như một
kiểu bài nghị luận văn học lại chưa được cụ thể bằng một bài học độc lập, chưa
xuất hiện trong chương trình sách giáo khoa. Vì vậy, từ việc xác lập nội hàm
khái niệm kiểu bài, mục đích, yêu cầu, đến cách thức làm bài cho kiểu bài này
thực sự rất cần thiết song lại gặp không ít khó khăn.
Nhằm đáp ứng được yêu cầu của xu hướng đề thi hiện nay, gần đây trong
các đề thi trung học phổ thông quốc gia minh họa của Bộ Giáo dục và đào tạo ,
ở câu nghị luận văn học 5 điểm xuất hiện dạng đề so sánh. Vì vậy: “Rèn kỹ
năng làm văn nghị luận văn học dạng đề so sánh cho học sinh lớp 12 ôn thi
THPT Quốc gia” chính là giúp thầy cô và các em đáp ứng tốt yêu cầu của xu
hướng ra đề thi hiện nay trong việc ôn luyện và làm bài kiểm tra, bài thi.
Thấy rõ xu hướng, tính thiết thực và ý nghĩa của vấn đề cho nên trong
quá trình dạy và đặc biệt là ôn tập tôi luôn chú trọng tới dạng đề so sánh . Bằng
cách sau mỗi phần học về: thơ, văn xuôi, kí, kịch… trong chương trình Ngữ văn
Trung học phổ thông tôi chỉ cho học sinh có những dạng đề so sánh nào, cách
làm dạng đề đó và hướng dẫn cụ thể một số đề tiêu biểu, sau đó yêu cầu học
sinh tự làm một số đề và kiểm tra đánh giá bằng bài kiểm tra cụ thể. Tuy nhiên,
trong khuôn khổ SKKN, tôi chỉ xin nêu một số kinh nghiệm trong việc hướng

dẫn học sinh lớp 12 ôn tập dạng đề so sánh ở một số tác phẩm văn xuôi trong
chương trình ôn thi THPT Quốc gia.


2.2. Mục đích nghiên cứu:
2.2.1. Giúp giáo viên dễ dàng phân loại được học sinh
So sánh trong văn học là một trong những dạng đề khó nhưng rất hay
và phù hợp với mục đích tuyển chọn và phân loại học sinh, nhất là học sinh
giỏi. Nên “Rèn kỹ năng làm văn nghị luận dạng đề so sánh cho học sinh THPT”
còn giúp cho giáo viên đánh giá đúng năng lực học sinh, nhất là những học sinh
có năng lực cảm thụ tốt, tư duy khái quát cao. Bởi vì để làm được dạng bài liên
hệ trong văn học đòi hỏi học sinh không những chỉ tái hiện kiến thức, hiểu được
nội dung và nghệ thuật mà còn phải biết phát hiện ra cái mới của mỗi nhà văn,
tức là chỉ ra điểm độc đáo của nhà văn ấy cũng như vai trò của nhà văn đó trong
tiến trình phát triển văn học Việt Nam
Nếu học sinh trung bình chỉ biết phân tích đơn thuần hết tác phẩm này
đến tác phẩm khác hay hết hình tượng này đế hình tượng khác, nhưng học sinh
khá sẽ biết chỉ ra điểm tương đồng và khác biệt của hai tác phẩm hay hai hình
tượng đó. Còn học sinh giỏi sẽ biết lí giải vì sao có sự giống và khác nhau giữa
hai tác phẩm hay hai hình tượng ấy.Từ đó giáo viên có thể chọn được những học
sinh xuất sắc cho đội tuyển học sinh giỏi và lên kế hoạch ôn luyện bồi dưỡng
cho tất cả các đối tượng học sinh
2.2.2. Nâng cao năng lực cảm thụ của học sinh
“Rèn kĩ năng làm văn nghị luận dạng đề so sánh cho học sinh lớp 12 ôn
thi THPT Quốc gia” cũng là một bước đổi mới trong kiểm tra thi cử, tránh được
sự nhàm chán của lối văn theo mẫu (bởi không hề có sẵn) và kiểm tra được một
cách khá toàn diện những kĩ năng và kiến thức cần có của học sinh như: kiến
thức tác phẩm, kiến thức về tác giả, giai đoạn, kiến thức lí luận văn học…
kĩ năng phân tích bình giá, so sánh, lí giải… Với dạng đề này, học sinh có điều
kiện bộc lộ sự tinh tế trong cảm nhận (có thể nhận ra được những nét khác biệt

dù rất nhỏ, rất mơ hồ) sự sắc sảo trong đối chiếu (khả năng tách đối tượng thành
những bình diện nhỏ để so sánh) sự chắc chắn trong kiến thức (trong việc
huy động kiến thức văn học sử, lí luận văn học…để đánh giá, lí giải). Nghĩa là,
đòi hỏi ở người học sinh giỏi văn không chỉ cần phẩm chất nghệ sĩ (sự tinh tế
trong cảm nhận và thẩm định) mà còn chú trọng phẩm chất khoa học (thể hiện ở
sự chính xác, chặt chẽ, khúc triết và tính hệ thống trong tư duy và trình bày bài
viết). Vì thế kiểu bài này sẽ góp phần nâng cao năng lực cảm thụ đáng kể cho
học sinh. Nó đòi hỏi học sinh vừa phải có năng lực cảm thụ vừa có năng lực
khái quát tổng hợp. Cảm thụ văn học trong thế đối sánh là một biên pháp hữu
hiệu để vừa nâng cao năng lực cảm thụ văn chương, vừa nâng cao tri thức và
bồi dưỡng tâm hồn cho học sinh, giúp các em có khả năng cảm thụ sâu sắc tác
phẩm văn chương, góp phần đảm bảo tính nghệ thụât đặc thù của môn ngữ văn
trong trường phổ thông.
2.2.3. Khơi gợi lòng yêu thích và say mê tìm tòi, khám phá môn Ngữ văn
của các em học sinh.


Để làm tốt dạng bài so sánh trong văn học, học sinh cần phải trang bị
rất nhiều kiến thức. Vì vậy, đòi hỏi học sinh phải có một quá trình tích luỹ cộng
với lòng yêu thích và say mê tìm tòi, khám phá môn Ngữ văn. Chính điều đó đã
thắp lên ngọn lửa của sự đam mê khiến các em ngày càng thích thú và gắn bó
với môn học Ngữ văn hơn. Có thể nói so sánh là một thao tác lập luận hết sức
cần thiết trong văn nghị luận: một mặt nó làm sáng tỏ vấn đề nghị luận, mặt
khác nó chứng tỏ người viết có kiến thức rộng rãi, phong phú, có được khả năng
tư duy và cảm thụ văn học tốt. Điều này rất cần thiết đối với một học sinh giỏi
văn.
1.3. Đối tượng nghiên cứu:
Học sinh các lớp khối C và D mà tôi đã được phân công giảng dạy từ năm học
2017-2018 đến 2018- 2019
-Lớp 12B2

-Lớp 12B4
- Lớp 12B7
1.4. Phạm vi nghiên cứu:
Do dung lượng SKKN có hạn nên đề tài chỉ xin đề cập đến dạng đề so sanh
trong phần văn xuôi thuộc phần ôn thi THPT Quốc Gia. Phần văn xuôi có các
tác phẩm trong chương trình Ngữ văn 12.
* Chương trình Ngữ văn 12
Vợ chồng A Phủ (Tô Hoài)
Vợ nhặt (Kim Lân)
Rừng xà nu (Nguyễn Trung Thành)
Những đứa con trong gia đình (Nguyễn Thi)
Chiếc thuyền ngoài xa (Nguyễn Minh Châu)
Người lái đò Sông Đà( Nguyễn Tuân)
Ai đã đặt tên cho dòng sông ( Hoàng Phủ Ngọc Tường)
1.5. Phương pháp nghiên cứu:
Trên cơ sở nghiên cứu tài liệu, phân tích đối chiếu với thực trạng đua ra những
giải pháp có tính khoa học để giáo viên vận dụng
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm.
Dạng đề so sanh là một dạng đề khó . Thực chất dạng này học sinh chỉ
cần chỉ ra vài nét tương đồng, khác biệt là được (Tuy nhiên với học sinh khá
giỏi thì có thể làm lồng vào nhau như so sánh đã nói ở trên)
Dạng đề so sánh văn học rất phong phú có thể liên hệ trên nhiều bình diện
khác nhau: đề tài, nhân vật, tình huống, cốt truyện, cái tôi trữ tình, chi tiết nghệ
thuật, nghệ thuật trần thuật…Quá trình so sanh có thể chỉ diễn ra ở các tác phẩm
ở cùng một tác giả nhưng cũng có thể diễn ra ở nhiều tác phẩm của các tác giả
cùng hoặc không cùng một thời đại, giữa các tác phẩm của những trào lưu,
trường phái khác nhau của một nền văn học.



Mục đích cuối cùng của dạng đề này là yêu cầu học sinh chỉ ra chỗ giống
và khác nhau giữa hai tác phẩm, hai tác giả từ đó thấy được những mặt kế thừa,
những điểm cách tân của từng tác giả, từng tác phẩm, thấy được vẻ đẹp riêng
của từng tác phẩm, sự đa dạng muôn màu của phong cách nhà văn. Dạng đề này
còn góp phần hình thành kĩ năng tổng hợp, khái quát, so sánh, lí giải nguyên
nhân của sự khác nhau giữa các hiện tượng văn học- một năng lực rất cần thiết
góp phần tránh đi khuynh hướng bình tán, khuôn sáo trong các bài văn của học
sinh hiện nay.
Tuy nhiên, đây là dạng đề khó, giáo viên chỉ có thể đưa ra các tiêu chí
liên hệ so sánh có mức độ khó vừa phải, khả năng lí giải giống và khác nhau
cũng cần thiết phải tính toán hợp lí với năng lực của học sinh THPT.
Phần văn xuôi thuộc chương trình thi THPT Quốc gia gồm nhiều tác
phẩm, kiến thức của từng tác phẩm lại nhiều, học sinh nhớ được kiến thức của
từng tác phẩm đã là khó nên kiến thức liên hệ ở nhiều tác phẩm lại càng khó
hơn. Đặc biệt trong các đề minh họa của Bộ gần đây luôn xuất hiện dạng đề so
sánh dựa trên những nét tương đồng hoặc khác biệt về nội dung, tư tưởng, cảm
hứng… Ví dụ như: Cảm nhận của anh/chị về hình tượng người lái đò trong cảnh
vượt thác (Người lái đò Sông Đà - Nguyễn Tuân, Ngữ văn 12, Tập một, NXB
Giáo duc Viêt Nam, 2016). Từ đó so sánh với nhân vật Huấn Cao trong cảnh
cho chữ (Chữ người tử tù - Nguyễn Tuân, Ngữ văn 11, Tập một, NXB Giáo dục,
2016) để nhận xét quan niệm của nhà văn về vẻ đẹp con người Việt Nam.
Ngoài ra, ở dạng đề so sánh giáo viên phải hướng dẫn học sinh thấy được được
nét riêng, độc đáo trong từng tác phẩm về nội dung, nghệ thuật, nhân vật, chi
tiết…để thấy được giá trị của từng tác phẩm đóng góp vào nền văn học và
phong cách nhà văn.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.
Hiện nay trên thị trường có rất nhiều các tài liệu hướng dẫn ôn thi THPT
Quốc gia : Tuyển tập các dạng đề văn nghị luận văn học, Chiến thuật ôn thi
THPT Quốc gia – Trịnh Quỳnh, Bộ đề tinh túy ôn thi THPT Quốc gia…các em ở
những lớp tôi dạy có nhiều em có những quyển sách như vậy để tham khảo

thêm nhưng trong các tài liệu đó chỉ đưa ra các đề và giải, thậm chí làm sẵn các
đề đó mà không đưa ra cách làm và hướng dẫn học sinh ôn tập. Vì vậy, nếu
giáo viên chỉ trang bị kiến thức mà không hướng dẫn các em ôn tập để các em
tự ôn tập dựa vào tài liệu thì sẽ dẫn đến tình trạng thụ động trong học tập cũng
như trong thi cử.
Hơn nữa, trong chương trình SGK Ngữ văn 12 có các bài học riêng về
các kiểu bài nghị luận: Nghị luận về một đoạn trích, một tác phẩm thơ; Nghị
luận về một đoạn trích, một tác phẩm văn xuôi. Còn dạng đề liên thì chưa được
cụ thể bằng một bài học độc lập. Vì vậy, từ việc xác lập nội hàm khái niệm kiểu
bài, mục đích, yêu cầu đến cách thức làm bài cho kiểu bài này thực sự rất cần
thiết.
Về phía giáo viên và học sinh – những nhân tố quyết định thì hầu như chỉ
chú trọng đến học bài mới, học nội dung chính chứ chưa chú trọng đến ôn tập.


Hoặc ôn tập một cách đại khái, sơ sài hay chỉ dừng lại ở khái quát nội dung
chính, ở những vấn đề cụ thể trong từng tác phẩm. Ví dụ: ôn tập đến “Vợ nhặt”
của Kim Lân giáo viên chỉ hướng học sinh nhớ lại hoàn cảnh ra đời, nội dung
chính, nghệ thuật, phân tích các nhân vật mà không hướng dẫn cho học sinh có
thể so sánh thấy được giữa tác phẩm “Vợ nhặt” của Kim Lân và “Vợ chồng A
Phủ” của Tô Hoài đều nói về tình cảnh của người nông dân, giữa nhân vật
người vợ nhặt và người đàn bà hàng chài (Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn
Minh Châu) đều ẩn chưa những vẻ đẹp khuất lấp hay người vợ nhặt và Mị (Vợ
chồng A Phủ - Tô Hoài) đều toát lên khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc hoặc
ở nhân vật bà cụ Tứ . Giáo viên có thể khái quát lên những phẩm chất của người
phụ nữ Việt Nam: nhân hậu, giàu lòng vị tha, đức hi sinh. Nếu giáo viên ôn tập
có nói những vấn đề đó và đưa ra những đề văn có sự liên hệ các tác phẩm,
nhân vật như vậy thì học sinh sẽ được cung cấp những kiến thức sâu hơn, rộng
hơn. Và các em sẽ hứng khởi hơn khi ôn tập văn học, tránh được tình trạng chủ
quan, đơn giản, xem nhẹ khi nghĩ đến ôn tập văn trong quan niệm của học sinh

lâu nay.
Mặt khác nhiều giáo viên khi ôn tập chỉ đưa ra các đề trong mỗi tác phẩm
và yêu cầu học sinh làm (hoặc lập dàn ý) các đề đó. Tức là giáo viên chỉ chú
trọng các đề và làm đề. Giáo viên không khái quát thành các dạng đề và khái
quát thành các cách làm. Như vậy, sẽ không phát huy được sự chủ động, sáng
tạo của học sinh. Điều này dẫn đến tình trạng học sinh lúng túng khi gặp các đề
khác và sẽ không biết phải làm như thế nào.
Ngoài ra, dạng đề so sánh là một dạng đề khó và mới nên nhiều giáo viên
chủ quan, ít chú trọng đến dạng đề này. Do vậy, trong quá trình ôn tập không đề
cập tới hoặc có đề cập thì chỉ mang tính chất giới thiệu một cách qua loa. Vì
vậy, nhiều học sinh rất ngại khi phải tiếp xúc với dạng đề này. Các em mơ hồ
với kiểu bài, cách làm và làm bài thì rối rắm, sơ sài.
Bản thân tôi là giáo viên trường THPT Hậu Lộc 3, trường chủ yếu là các
em theo ban KHTN, chỉ có vài lớp theo ban KHXH. Hầu hết các em chỉ dừng
lại ở học lực yếu, trung bình, có rất ít học sinh khá mà học sinh khá lại học ở
những lớp khối A, B.Vì vậy, dạng đề liên hệ đối với học sinh của tôi là một
dạng đề khó. Cho nên, trong quá trình dạy và ôn tập nếu giáo viên không hướng
dẫn mà để học sinh tự phát hiện thì các em không thể liên hệ, so sánh các tác
phẩm, nhân vật, chi tiết với nhau. Do đó, bên cạnh việc trang bị kiến thức thì
khâu ôn tập, tôi rất chú trọng tới dạng đề so sanh, hướng dẫn cho các em cách
làm để các em biết cách tự làm khi gặp các đề tương tự. Điều đó giúp các em
chủ động, tự tin khi đứng trước dạng đề này.
2.3. Giải pháp thực hiện.
2.3.1. Khái quát các dạng đề so sánh thường gặp:
Các đề so sánh trong phần văn xuôi rất phong phú và đa dạng từ nội
dung, nghệ thuật cho đến hình ảnh, chi tiết, nhân vật…Nhưng trong quá trình
dạy học , đặc biệt là theo dõi các đề thi minh họa THPT Quốc gia năm nay, tôi
chỉ khái quát những đề chính có tính chất chung, tổng hợp để học sinh nắm



được kiến thức cơ bản tránh bị lúng túng khi đứng trước quá nhiều đề vụn vặt.
Tôi khái quát lại các dạng đề so sánh thường gặp như sau:
- So sánh hai chi tiết trong hai tác phẩm văn học:
- So sánh hai đoạn văn
- So sánh hai nhân vật
- So sánh cách kết thúc hai tác phẩm:
2.3.2. Hướng dẫn cách làm dạng đề so sánh văn học
Đứng trước một đề văn thường có rất nhiều cách triển khai, giải quyết
vấn đề, song đối với kiểu đề so sánh văn học dù là ở dạng so sánh hai chi tiết,
hai đoạn văn, hay hai nhân vật .... phương pháp làm bài văn dạng này thông
thường có hai cách:
- Nối tiếp: Lần lượt phân tích hai văn bản rồi chỉ ra điểm giống và khác nhau
- Song song: Tìm ra các luận điểm giống và khác nhau rồi lần lượt phân tích
từng luận điểm kết hợp với việc lấy song song dẫn chứng của cả hai văn bản
minh họa.
a. Cách 1: Phân tích theo kiểu nối tiếp.
Đây là cách làm bài phổ biến của học sinh khi tiếp cận với dạng đề này,
cũng là cách mà Bộ giáo dục và đào tạo định hướng trong đáp án đề thi. Ưu
điểm cách làm này là dễ dàng triển khai các luận điểm trong bài viết, bài viết rõ
ràng, không rối kiến thức. Nhược điểm: phần nhận xét điểm giống và khác nhau
nếu bạn không thành thạo kĩ năng, nắm chắc kiến thức sẽ viết lặp lại những gì
đã phân tích ở trên hoặc suy diễn một cách tùy tiện. Mô hình khái quát của kiểu
bài này như sau:
Mở bài:
- Dẫn dắt (mở bài trực tiếp không cần bước này)
- Giới thiệu khái quát về các đối tượng so sánh
Thân bài
- Làm rõ đối tượng so sánh thứ 1
- Làm rõ đối tượng so sánh thứ 2
- So sánh:




Nhận xét nét tương đồng và khác biệt giữa hai đối tượng trên cả các bình
diện như chủ đề, nội dung hình thức nghệ thuật
Lý giải sự khác biệt: Thực hiện thao tác này cần dựa vào các bình diện:
bối cảnh xã hội, văn hóa mà từng đối tượng tồn tại; phong cách nhà văn; đặc
trưng thi pháp của thời kì văn học
Kết bài:
- Khái quát những nét giống nhau và khác nhau tiêu biểu


- Có thể nêu những cảm nghĩ của bản thân.
b. Cách 2: Phân tích song song được hiểu song hành so sánh trên mọi bình
diện của hai đối tượng.Cách này hay nhưng khó, đòi hỏi khả năng tư duy chặt
chẽ, lôgic,sự tinh nhạy trong phát hiện vấn đề học sinh mới tìm được luận diểm
của bài viết và lựa chọn những dẫn chứng tiêu biểu phù hợp của cả hai văn bản
để chứng minh cho luận điểm đó.
Mở bài:
- Dẫn dắt (mở bài trực tiếp không cần bước này)
- Giới thiệu khái quát về các đối tượng so sánh
Thân bài:
- Điểm giống nhau









Luận điểm 1 (lấy dẫn chứng cả hai văn bản)
Luận điểm 1 (lấy dẫn chứng cả hai văn bản)
Luận điểm .....
- Điểm khác nhau
Luận điểm 1 (lấy dẫn chứng cả hai văn bản)
Luận điểm 1 (lấy dẫn chứng cả hai văn bản)
Luận điểm.....
Kết bài
- Khái quát những nét giống nhau và khác nhau tiêu biểu
- Có thể nêu những cảm nghĩ của bản thân.
==> Kết luận:
Hai cách làm bài của kiểu đề so sánh văn học là vậy, mỗi cách làm đều có mặt
mạnh, mặt yếu khác nhau. Trong thực tế không phải đề nào chúng ta cũng có
thể áp dụng theo đúng khuôn mẫu cách làm như đã trình bày ở trên. Phải tùy
thuộc vào cách hỏi trong mỗi đề cụ thể mà ta áp dụng theo cách nào và áp dụng
sao cho linh hoạt, phù hợp. Cũng có khi vận dụng đầy đủ các ý của phần thân
bài,cũng có khi phải cắt bỏ một phần cho hợp với yêu cầu trọng tâm của đề, hay
dụng ý của người viết.
2.3.3. Một số dạng đề cụ thể: ở phần này GV hướng dẫn học sinh một số dạng
đề cụ thể, nhưng vì đối tượng chủ yếu là học sinh ôn thi THPT Quốc gia nên


GV sẽ hướng dẫn theo cách 1. Đây là cách làm phổ biến và đem lại hiệu quả
cao.
Đề 1: So sánh hai chi tiết nghệ thuật
Kết thúc đoạn trích “Vợ chồng A Phủ” của Tô Hoài là hành động Mị cắt dây cởi
trói cho A Phủ và “hai người lẳng lặng đỡ nhau lao chạy xuống dốc núi”.
Kết thúc truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân trong óc Tràng vẫn thấy “đám
người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới”.

Cảm nhận của anh (chị) về hai chi tiết nghệ thuật trên.
Hướng dẫn cụ thể
1. Giới thiệu về tác giả, tác phẩm và chi tiết cần cảm nhận.
- Tô Hoài là cây đại thụ lớn của nền văn học hiện đại Việt Nam. Ông đã để lại
cho đời một sự nghiệp văn chương đạt kỉ lục về số lượng tác phẩm; phong phú,
hấp dẫn về nội dung; đặc sắc về nghệ thuật. "Vợ chồng A Phủ" là một truyện
ngắn xuất sắc trong đời văn Tô Hoài nói riêng và văn học hiện đại của ta nói
chung.
- Kim Lân là một trong những nhà văn tiêu biểu của văn xuôi hiện đại Việt
Nam. Ông là một cây bút viết truyện ngắn tài hoa. Thế giới nghệ thuật của Kim
Lân chủ yếu tập trung ở khung cảnh nông thôn và hình tượng người nông
dân. “Vợ nhặt” là một trong những tác phẩm xuất sắc của Kim Lân, in trong
tập “Con chó xấu xí”.
- Kết thúc hai tác phẩm là hai chi tiết nghệ thuật đặc sắc.
2. Cảm nhận về giá trị nội dung và nghệ thuật của hai chi tiết:
a. Chi tiết cuối trong đoạn trích “Vợ chồng A Phủ’’ của Tô Hoài:
Học sinh có thể trình bày theo những cách khác nhau, nhưng cần làm nổi bật
các ý chính sau:
- Thuật dựng lại chi tiết: Nằm ở phần cuối đoạn trích; trước tình huống A Phủ bị
trói đứng, đang giữa ranh giới mỏng manh của sự sống và cái chết, Mị đã rút
con dao nhỏ vẫn dùng để cắt lúa, cắt sợi dây mây, cởi trói cho A Phủ, rồi “hai
người lẳng lặng đỡ nhau lao chạy xuống dốc núi”.
- Ý nghĩa nội dung của chi tiết: Thể hiện sức sống tiềm tàng, tinh thần phản
kháng âm ỉ, quyết liệt của Mị mà lần phản kháng sau bao giờ cũng cũng quyết
liệt, mạnh mẽ hơn so với lần trước; phản ánh chân thực quy luật cuộc sống “tức
nước vỡ bờ", “có áp bức có đấu tranh ” và con đường đấu tranh đến với cách
mạng đi từ tự phát đến tự giác của Mị, cũng là con đường mà người dân Tây
Băc đã đi; bộc lộ thái độ trân trọng, ngợi ca của nhà văn với khát vọng sống
mãnh liệt của Mị, tạo bước ngoặt quan trọng trong cuộc đời nhân vật, đem lại
giá trị nhân văn, nhân đạo sâu sắc, mới mẻ cho tác phẩm.

Ý nghĩa về nghệ thuật của chi tiết: Góp phần khác hoạ rõ nét nhân vật, hợp quy
luật vận động và phát triển của tâm lí, tính cách; tạo sự vận động cùa côt truyện
theo lôi kết thúc “có hậu” thường thấy cùa văn học cách mạng sáng tác theo
cảm hứng lãng mạn đương thời.
b. Chi tiết cuối truyện ngẳn “Vợ nhặt ” của Kim Lân:


Học sinh có thể trình bày theo những cách khác nhau, nhưng cần làm nổi bật
được các ý chính sau:
- Thuật dựng lại chi tiết: Xuất hiện ở phần cuối tác phẩm “Vợ nhặt” của Kim
Lân, trong tình huống sau bữa cơm đón “nàng dâu mới” của bà cụ Tứ, nghe
tiếng trống thúc thuế ở đình làng, người vợ nhặt hết sức ngạc nhiên nói với mẹ
con bà cụ Tứ: “Trên mạn Thái Nguyên, Bắc Giang người ta không chịu đóng
thuế nữa dâu. Người ta còn phá cả kho thóc Nhật, chia cho người đói nữa đấy”,
trong óc Tràng hơn một lần thấy “đám người đói và lá cờ đó bay phấp phới”.
- Ý nghĩa nội dung của chi tiết: Gợi tả không khí sục sôi của cách mạng Việt
Nam thời kì tiền khởi nghĩa (phong trào phá kho thóc Nhật chia cho dân
nghèo); hé mở với người đọc con đường mà mẹ con bà cụ Tứ sẽ đi theo, thể
hiện khát vọng sống mãnh liệt và niềm tin tươi sáng vào tương lai của người
nông dân; gửi tới người đọc bức thông điệp: chỉ có cách mạng mới có thể giúp
người nông dân thoát khỏi cái đói, cái nghèo, thể hiện khát vọng muốn đổi đời
cho họ của Kim Lân, đem lại giá trị nhân văn, nhân đạo sâu sắc, mới mẻ cho Vợ
nhặt.
- Ý nghĩa về nghệ thuật của chi tiết: Góp khắc hoạ tính cách, tâm lí nhân vật, tạo
ra lối kết thúc “có hậu”, thể hiện cảm hứng lãng mạn, niềm tin vào tương lai
tươi sáng của nhà văn.
c. Chỉ ra sự tương đồng và khác biệt của hai chi tiết để thấy được vẻ đẹp
riêng của mỗi chi tiết.
Học sinh có thể có những cảm nhận và diễn đạt khác nhưng phải hợp lí, có sức
thuyết phục, làm nổi bật được:

- Nét tương đồng: Cả hai chi tiết đều góp phần khắc họa tính cách nhân vật, biểu
hiện tình cảm yêu thương, trân trọng của nhà văn với những giá trị phẩm chất,
những khát vọng chính đáng cùa con người, tạo nên những lối kết thúc “có
hậu”, và giá trị nhân văn, nhân đạo sâu sắc, mới mẻ của các tác phẩm và thể
hiện kì công tìm tòi, sáng tạo của người nghệ sĩ trong việc xây dựng những “chi
tiết nhỏ làm nên nhà văn lớn ” (Goor-ki).
- Sự khác biệt: Kết thúc truyện ngắn Vợ nhặt, Kim Lân mới chỉ hé mở tương lai
tươi sáng cho mẹ con bà cụ Tứ. Còn kết thúc đoạn trích Vợ chồng A Phủ, sau
khi và “hai người lẳng lặng đỡ nhau lao chạy xuống dốc núi”cuộc đời Mị và A
Phủ đã sang trang. Họ đã hoàn toàn được giải phóng khỏi kiếp dâu gạt nợ nhà
thống lí, xây dựng cuộc sống mới ở Phiềng Sa và tham gia phong trào cách
mạng chung của dân tộc.
3. Đánh giá:
- Hai chi tiết kết thúc hai tác phẩm là những chi tiết đặc sắc, không chỉ thể hiện
tài năng mà còn cả tấm lòng của hai tác giả. Tô Hoài và Kim Lân xứng đáng là
những cây bút tài hoa của nền văn học Việt Nam
Đề 2: Cảm nhận của anh/chị về 2 đoạn văn sau:
(1) Đã từ nãy, Mị thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui sướng như


những đêm Tết ngày trước. Mị trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi. Bao
người có chồng cũng đi chơi ngày Tết. Huống chi A Sử với Mị, không có lòng
với nhau mà vẫn phải ở với nhau! Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ
ăn cho chết ngay, chứ không buồn nhớ lại nữa. Nhớ lại, chỉ thấy nước mắt ứa
ra. Mà tiếng sáo gọi bạn yêu vẫn lửng lơ bay ngoài đường.
Anh ném pao, em không biết
Em không yêu, quả pao rơi rồi…
Lúc ấy, A Sử vừa ở đâu về, lại đang sửa soạn đi chơi. A Sử thay áo mới, khoác
thêm hai vòng bạc vào cổ rồi bịt cái khăn trắng lên đầu. Có khi nó đi mấy ngày
mấy đêm. Nó còn muốn rình bắt mấy người con gái nữa về làm vợ. Cũng chẳng

bao giờ Mị nói gì.
Bây giờ Mị cũng không nói. Mị đến góc nhà, lấy ống mỡ, xắn một miếng bỏ
thêm vào đĩa đèn cho sáng. Trong đầu Mị đang rập rờn tiếng sáo.Mị muốn đi
chơi, Mị cũng sắp đi chơi. Mị lại quấn tóc. Mị lấy cái váy hoa vắt ở trong vách.
(Vợ chồng A Phủ - Tô Hoài, Ngữ văn 12, tập hai, NXB Giáo dục Việt Nam,
2012)
(2) Ngoài vườn người mẹ đang lúi húi giẫy những bụi cỏ mọc nham nhở. Vợ
hắn quét lại cái sân, tiếng chổi từng nhát kêu sàn sạt trên mặt đất. Cảnh tượng
thật đơn giản, bình thường nhưng đối với hắn lại rất thấm thía cảm động. Bỗng
nhiên hắn thấy hắn thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng. Hắn đã có
một gia đình. Hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đấy. Cái nhà như cái tổ ấm che
mưa che nắng. Một nguồn vui sướng, phấn chấn đột ngột tràn ngập trong lòng.
Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người, hắn thấy hắn có bổn phận phải lo lắng
cho vợ con sau này. Hắn xăm xăm chạy ra giữa sân, hắn cũng muốn làm một
việc gì để dư phần tu sửa lại căn nhà.
(Vợ nhặt – Kim Lân, Ngữ văn 12, tập hai, NXB Giáo dục Việt Nam, 2012)
Hướng dẫn cụ thể
1. Giới về tác giả, tác phẩm và chi tiết cần cảm nhận :
- Tô Hoài là cây đại thụ lớn của nền văn học hiện đại Việt Nam. Ông đã để lại
cho đời một sự nghiệp văn chương đạt kỉ lục về số lượng tác phẩm; phong phú,
hấp dẫn về nội dung; đặc sắc về nghệ thuật. "Vợ chồng A Phủ" là một truyện
ngắn xuất sắc trong đời văn Tô Hoài nói riêng và văn học hiện đại của ta nói
chung.
- Kim Lân là một trong những nhà văn tiêu biểu của văn xuôi hiện đại Việt
Nam. Ông là một cây bút viết truyện ngắn tài hoa. Thế giới nghệ thuật của Kim
Lân chủ yếu tập trung ở khung cảnh nông thôn và hình tượng người nông dân.
“Vợ nhặt” là một trong những tác phẩm xuất sắc của Kim Lân, in trong tập
“Con chó xấu xí”.
- Hai đoạn văn trên miêu tả những thay đổi trong tâm hồn của các nhân vật.
2. Cảm nhận về hai đoạn văn trên hai phương diện nội dung và nghệ thuật

a. Đoạn văn trong “Vợ chồng A Phủ” – Tô Hoài:
* Nội dung:


- Tình huống: Trong đêm tình mùa xuân, người người nô nức đi chơi, còn Mị
phải ở nhà. Tiếng sáo, hơi rượu và không khí ngày Tết ở Hồng Ngài khiến lòng
Mị trẻ lại, bồi hồi, xúc động...
- Tâm trạng, hành động của Mị:
+ “Mị ngồi xuống giường. Đã từ nãy, Mị thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột
nhiên vui sướng như những đêm Tết ngày trước” -> Mị không còn giống tảng
đá như trước, tâm hồn Mị đã có những cảm xúc.
+ Mị nhớ về quá khứ tươi đẹp và cảm thấy vui .
+ Mị ý thức mình còn trẻ cũng là cô hiểu rõ mình có quyền được hưởng hạnh
phúc lứa đôi.
+ Nhưng hiện thực đen tối đối lập với quá khứ tươi đẹp, mơ ước về hạnh phúc
khó trở thành sự thật. Mị lại muốn chết. “Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc
này,Mị sẽ ăn cho chết ngay,chứ không buồn nhớ lại nữa”. Mị ý thức được quyền
sống, quyền được hưởng hạnh phúc của mình đã bị tước đoạt. Mị đang sống
trong hoàn cảnh bi thảm mà cô khó có thể thoát ra được. Ý nghĩ về cái chết lúc
này có thể được coi như một hành động phản kháng để lên tiếng đòi quyền được
sống, được hạnh phúc.
+ “Mị đến góc nhà,lấy ống mỡ,xắn một miếng bỏ thêm vào đĩa đèn cho sáng”
-> Hành động của sự thức tỉnh. Mị thắp đèn là thắp lên ánh sáng để xua tan
bóng tối đang bao phủ căn buồng mình, cuộc đời mình, là làm cho khát vọng về
hạnh phúc của mình sớm trở thành hiện thực. Có thể nói hành động Mị thắp đèn
là một bước chuyển quan trọng đánh dấu sự thức tỉnh trong tâm hồn Mị. Cô
đang thắp lên ánh sáng của niềm tin, hi vọng.
+ “Mị lại quấn tóc. Mị lấy cái váy hoa vắt ở trong vách” -> thiên tính nữ trở về
khi con người ta khao khát tình yêu, khao khát hạnh phúc.
=> Dù tuyệt vọng, dù hành động và khao khát của Mị bị chặn đứng bởi bàn tay

độc ác, thô bạo của A Sử nhưng những tâm trạng, hành động đó đã cho thấy sự
hồi sinh, sự thức tỉnh mạnh mẽ của Mị.
* Nghệ thuật:
- Diễn tả thành công diễn biến tâm lí phức tạp của nhân vật.
- Nghệ thuật trần thuật hấp dẫn.
- Sáng tạo được chi tiết đặc sắc: tiếng sáo.
b. Đoạn văn trong “Vợ nhặt” – Kim Lân:
* Nội dung:
- Tình huống: Tràng có vợ theo không về nhà sau mấy câu bông đùa ngoài chợ.
Sáng sớm hôm sau, tỉnh dậy, hắn thấy mình đã có 1 gia đình đầm ấm.
- Tâm trạng của Tràng trong buổi sáng đầu tiên khi có vợ:
+ Tràng trông thấy những thay đổi khác lạ ở ngôi nhà của mình, thay đổi ở
người mẹ và cả người vợ. Nạn đói khủng khiếp khiến Tràng quên mất những
viêc anh ta phải làm và khiến cuộc sống của anh trở nên tạm bợ, ngôi nhà trở
nên trống trải. Nay Tràng đã có một gia đình và tổ ấm. Mẹ và vợ Tràng đang
dọn dẹp, sửa sang lại ngôi nhà.


+ Với người khác, cảnh tượng ấy không có gì đặc biệt nhưng với Tràng đó là
hình ảnh của cuộc sống gia đình, là thứ mà anh ta tưởng chẳng bao giờ có được.
Bởi vậy nên tiếng chổi kêu sàn sạt trên mặt đất cũng đủ làm cho Tràng thấm thía
và cảm động.
+ Từ khi có gia đình là từ khi Tràng được sống trong những cảm xúc rất con
người, ý thức được trách nhiệm, bổn phận của mình. Hắn nghĩ đến tương lai
sáng sủa, không còn bế tắc.
* Nghệ thuật:
- Am hiểu sâu sắc đời sống tâm lí nhân vật và diễn tả nó một cách sâu sắc.
- Giọng kể đậm chất trữ tình nhưng không chua xót, cay đắng mà đôn hậu, thấp
thoáng đâu đó sau câu chữ là nụ cười hóm hỉnh.
c. Điểm tương đồng và khác biệt:

* Điểm tương đồng:
- Hai đoạn văn đều khắc họa những chuyển biến mới mẻ trong tâm trạng của hai
nhân vật mà ngọn nguồn xuất phát từ khao khát tình yêu, khao khát cuộc sống
lứa đôi hạnh phúc.
- Kết thúc hai đoạn văn là những dấu hiệu đáng mừng, có khả năng mở ra tương
lai tươi sáng cho nhân vật.
- Các đoạn văn đều bộc lộ tài năng miêu tả tâm lí nhân vật của các tác giả.
* Nét khác biệt:
- Nếu Mị là người phụ nữ miền núi chịu đau khổ, bất hạnh bởi thần quyền,
cường quyền thì Tràng là người đàn ông thô kệch, nghèo khổ, dân ngụ cư.
- Hạnh phúc đã đến với Tràng một cách đầy bất ngờ, Tràng đã được hưởng cuộc
sống vui vẻ, hạnh phúc bên mẹ và người vợ nhặt nhưng Mị thì không, tất cả đối
với Mị mới chỉ dừng lại ở mong muốn, khao khát.
3. Đánh giá:
- Hai đoạn văn đều cho thấy tài năng phân tích, miêu tả diễn biến tâm lí nhân
vật và tấm lòng nhân đạo sâu sắc của hai tác giả
Đề 3: Cảm nhận của anh/chị về những vẻ đẹp khuất lấp của nhân vật
người vợ nhặt (Vợ nhặt - Kim Lân) và nhân vật người đàn bà hàng chài
(Chiếc thuyền ngoài xa - Nguyễn Minh Châu).
Hướng dẫn cụ thể
1. Giới thiệu khái quát về các đối tượng so sánh
Giới thiệu khái quát về hai nhân vật trong hai tác phẩm
- Kim Lân là nhà văn chuyên viết về nông thôn và cuộc sống người dân quê, có
sở trường về truyện ngắn. Vợ nhặt là truyện ngắn xuất sắc, viết về tình huống
"nhặt vợ" độc đáo, qua đó thể hiện niềm tin mãnh liệt vào phẩm chất tốt đẹp của
những con người bình dị trong nạn đói thê thảm.
- Nguyễn Minh Châu là nhà văn tiêu biểu thời chống Mĩ, cũng là cây bút tiên
phong thời đổi mới. Chiếc thuyền ngoài xa là truyện ngắn xuất sắc ở thời kì sau,
viết về lần giáp mặt của một nghệ sĩ với cuộc sống đầy nghịch lí của một gia
đình hàng chài, qua đó thể hiện lòng xót thương, nỗi lo âu đối với con người và



những trăn trở về trách nhiệm của người nghệ sĩ.
2. Cảm nhận vẻ đẹp của từng nhân vật
a. Vẻ đẹp khuất lấp của người Vợ nhặt
+ Về cảnh ngộ, xuất hiện trong tác phẩm:
- Người vợ nhặt chỉ là một con số không tròn trĩnh: Không tên tuổi, không quê
hương, không gia đình cũng không nghề nghiệp… Từ đầu đến cuối tác phẩm
chị chỉ được gọi bằng “thị”- một cách gọi phiếm định giành cho chị và tất cả
những người phụ nữ có cảnh ngộ và số phận đáng thương và tội nghiệp như
chị.
- Không những vậy, chân dung của người phụ nữ ấyhiện ra ngay từ đầu là
những nét không mấy dễ nhìn thậm chí có phần nhà văn còn tả lạnh lung cái vẻ
xấu xí, thô kệch của thị. Thị hiện ra đó là hình ảnh của người đàn bà gầy vêu
vao,ngực gầy lép, khuôn mặt lưỡi cày xám xịt, quần áo thì rách như tổ đỉa.
+ Về tính cách:
- Trước khi trở thành vợ Tràng, thị là một người phụ nữ ăn nói chỏng lỏn, táo
bạo và liều lĩnh: Lần gặp đầu tiên, thị chủ động làm quen ra đẩy xe bò cho
Tràng và “liếc mắt cười tít” với Tràng.Lần gặp thứ hai, thị “sầm sập chạy tới”,
“sưng sỉa nói” và lại còn “đứng cong cớn” trước mặt Tràng. Đã vậy, thị còn chủ
động đòi ăn. Khi được Tràng mời ăn bánh đúc, thị đã cúi gằm ăn một mạch bốn
bát bánh đúc. Ăn xong còn lấy đũa quẹt ngang miệng và khen ngon…
- Khi thị đã trở thành vợ Tràng, thị đã trở về với chính con người thật của mình
là một người đàn bà vô cùng hiền thục, e lệ, lễ phép, đảm đang kính trên
nhường dưới: Điều đó được thể hiện qua dáng vẻ bẽn lẽn đến tội nghiệp của
thị khi bên Tràng vào lúc trời chạng vạng ( thị đi sau Tràng ba bốn bước, cái
nón rách che nghiêng, “rón rén, e thẹn”, ngượng nghịu,“chân nọ bước díu cả
vào chân kia”…)à thật tội nghiệp cho cảnh cô dâu mới theo chồng về nhà: một
cảnh đưa dâu không xe hoa, chẳng pháo cưới mà chỉ thấy những khuôn mặt hốc
hác u tối của những người trong xóm và âm thanh của tiếng quạ, tiếng khóc hờ

người chết tang thương… Sau một ngày làm vợ, chị dậy sớm, quét tước,
dọndẹp cho căn nhà khang trang, sạch sẽ. Đó là hình ảnh của một người vợ biết
lo toan, thu vén cho cuộc sống gia đình – hình ảnh của một người vợ hiền, một
cô dâu thảo.Trong bữa cơm cưới giữa ngày đói khi mà cái chết gần kề, chị lại tỏ
ra là một phụ nữ am hiểu về thời sự khi kể cho mẹ và chồng về câu chuyện ở
Bắc Giang người ta đi phá kho thóc của Nhật. Chính chị đã làm cho niềm hy
vọng của mẹ và chồng thêm niềm hy vọng vào sự đổi đời trong tương lai.
- Đánh giá một số vẻ đẹp khuất lấp tiêu biểu:
+ Phía sau tình cảnh trôi dạt, vất vưởng, là một lòng ham sống mãnh liệt.
+ Phía sau vẻ nhếch nhác, dơ dáng, lại là một người biết điều, ý tứ.
+ Bên trong vẻ chao chát, chỏng lỏn, lại là một người phụ nữ hiền hậu, đúng
mực, biết lo toan.
+ Nghệ thuật: : khắc họa nhân vật, xây dựng tình huống truyện, sử dụng ngôn
ngữ linh hoạt.


b. Vẻ đẹp khuất lấp của người đàn bà chài
+ Giới thiệu khái quát về nhân vật
- Ngoại hình xấu xí, “trạc ngoài 40 tuổi, thân hình cao lớn, thô kệch”, “gương
mặt với những nốt rỗ chằng chịt”, “cũng vì xấu, trong phố không ai lấy”.
- Nghèo túng, đông con, thuyền chật:
+ Khi biển động, không thể đi biển: cả gia đình ăn xương rồng chấm muối.
Đó là nỗi khổ vật chất và tinh thần.
+ Lưng áo bạc phếch, mặt mệt mỏi, tái ngắt, dường như đang buồn ngủ. Đó là
kết quả của chuỗi ngày dài đối diện với hiểm nguy, đói khát.
+ Trải qua nhiều lần sinh nở, “có một sắp con trên dưới 10 đứa”.
+ Không gian sống lại là con thuyền lưới vó chật hẹp.
- Bị hành hạ vũ phu, thường xuyên: gã chồng lấy việc lấy vợ làm phương thức
giải tỏa uất ức “trút cơn giận ... người đàn bà”, “”3 ngày một trận nhẹ, 5 ngày
một trận nặng”.

+ Người đàn bà chịu đau đớn về mặt thể xác nhưng chị ta không kêu van,
chạy trốn.
+ Chịu nhục nhã về tâm hồn: bị hành hạ bởi người mình yêu thương, làm tổn
thương tâm hồn những đứa con nhỏ của bà. Đau đớn khi thằng Phát nhìn thấy
cảnh tượng.
- Nhận xét: người đàn bà là hiện thân cho kiếp người bất hạnh bị cái đói khổ, cái
ác và số phận đen đủi dồn đến chân tường.
+ Vẻ đẹp tiềm tàng của người đàn bà làng chài
- Sự bao dung, độ lượng, vị tha: Có cái nhìn bao dung với người chồng mình:
+ Thấy người đàn ông đáng thương, đáng được cảm thông “lão chồng tôi khi
ấy ... hiền lành, không bao giờ đánh đập tôi”; trốn đi lính ngụy, chính cuộc sống
nghèo khổ đã biến anh ta thành kẻ ác. (có thể so sánh với cái nhìn của Phác,
Phùng, Đẩu).
+ Luôn coi chồng là người bạn đời thân thiết: cùng chèo chống con thuyền
trong lúc phong ba, cùng nuôi con, mưu sinh trong cõi đời cơ cực, ...
- Nhận mọi lỗi về mình: “cái lỗi chính là đám đàn bà chúng tôi ...”, “giá tôi đẻ ít
đi”,
- Chắt chiu, nâng niu, trân trọng hạnh phúc: “vả lại trên thuyền cũng có lúc vợ
chồng, con cái hòa thuận, vui vẻ, ...”
- Một người mẹ giàu đức hi sinh, lòng thương con vô hạn
- Coi việc mình bị hành hạ, chịu đói khổ là lẽ đương nhiên, là vì hạnh phúc con
cái: “đàn bà trên thuyền chúng tôi ... đất được”.
- Muốn nuôi con khôn lớn nên chịu đựng hành hạ để ở cùng các con. Niềm vui
nhỏ nhoi, tội nghiệp: “vui nhất là khi thấy chúng được ăn no”
- Thâm trầm, sâu sắc, thấu hiểu lẽ đời
- Nhận ra sự ngây thơ, đơn giản trong suy nghĩ của nghệ sĩ Phùng và chánh án
Đẩu: “Các chú không phải người làm ăn ... lam lũ”, theo người đàn bà, hai
người họ thiếu sự từng trải, quen nhìn đời qua sách vở.



- Người đàn bà xấu xí thất học ấy giúp người có học thức như Đảu và Phùng
hiểu được nguyên nhân mình không bỏ chồng: muốn nuôi con khôn lớn “cần
phải có người đàn ông ... chục đứa”
- Lặng lẽ kín đáo: tất cả những vẻ đẹp của chị ta đều không được bộc lộ ra bên
ngoài.
- Nhận xét chung: người đàn bà không chỉ là hiện thân cho nỗi thống khổ mà là
hiện thân cho vẻ đẹp cao cả của người phụ nữ.
+ Nghệ thuật: khắc họa nhân vật, xây dựng tình huống truyện, sử dụng ngôn
ngữ linh hoạt,
c. So sánh: nét tương đồng và khác biệt giữa hai đối tượng trên cả hai bình
diện nội dung và hình thức nghệ thuật
- Tương đồng: Cả hai nhân vật đều là những thân phận bé nhỏ, nạn nhân của
hoàn cảnh. Những vẻ đẹp đáng trân trọng của họ đều bị đời sống cơ cực lam lũ
làm khuất lấp. Cả hai đều được khắc hoạ bằng những chi tiết chân thực...
- Khác biệt: Vẻ đẹp được thể hiện ở nhân vật người vợ nhặt chủ yếu là những
phẩm chất của một nàng dâu mới, hiện lên qua các chi tiết đầy dư vị hóm hỉnh,
trong nạn đói thê thảm. Vẻ đẹp được khắc sâu ở người đàn bà hàng chài là
những phẩm chất của một người mẹ nặng gánh mưu sinh, hiện lên qua các chi
tiết đầy kịch tính, trong tình trạng bạo lực gia đình...
d. Lý giải sự khác biệt:
+ Vẻ đẹp khuất lấp của người vợ nhặt được đặt trong quá trình phát triển, biến
đổi từ thấp đến cao(cảm hứng lãng mạn), trong khi đó người đàn bà chài lưới lại
tĩnh tại, bất biến như một hiện thực nhức nhối đang tồn tại(cảm hứng thế sự-đời
tư trong khuynh hướng nhận thức lại)
+ Sự khác biệt giữa quan niệm con người giai cấp (Vợ nhặt) với quan niệm con
người đa dạng, phức tạp( Chiếc thuyền ngoài xa) đã tạo ra sự khác biệt này
3. Đánh giá khái quát:
- Khái quát những nét giống nhau và khác nhau tiêu biểu.
- Có thể nêu những cảm nghĩ của bản thân
2.3.4. Hướng dẫn học sinh luyện tập

Giáo viên nếu chỉ khái quát, hướng dẫn mà không yêu cầu học sinh luyện
tập thì các em sẽ không bao giờ khắc sâu được kiến thức nên sau mỗi phần học
không chỉ là ôn tập dạng đề so sánh phần văn xuôi, tôi đều yêu cầu học sinh
luyện tập. Trong giảng dạy cũng như luyện tập, tôi luôn chú ý đến đổi mới
phương pháp, cách thức để tạo ra sự hứng khởi cho học sinh. Chẳng hạn như
sau khi học xong phần : thơ, kí, kịch, văn xuôi...tôi hướng dẫn học sinh luyện
tập bằng những cách khác nhau. Có phần tôi vận dụng phương pháp khăn phủ
bàn để ôn luyện, mỗi nhóm một tờ Ao, các thành viên lập dàn ý vào các ô bên
cạnh và sau khi thống nhất thì ghi dàn ý ra ô lớn ở giữa tờ giấy. Hoặc vận dụng
phương pháp sơ đồ tư duy, mỗi nhóm lập dàn ý bằng sơ đồ tư duy...sau đó giáo
viên nhận xét, bổ sung. Có phần tôi vận dụng phương pháp thảo luận nhóm, mỗi
nhóm một đề, thảo luận, đại diện trình bày, giáo viên nhận xét, đánh giá, bổ


sung. Với những cách làm như vậy học sinh sẽ không thấy nhàm chán trong các
phần ôn tập mà lại phát huy được sự sáng tạo của học sinh. Với việc luyện tập
dạng đề so sánh phần văn xuôi tôi sử dụng phương pháp thảo luận nhóm. Tôi
chia lớp thành 2 nhóm, mỗi nhóm một đề tiêu biểu, học sinh thảo luận, lập dàn
ý, sau đó đại diện trình bày. Cụ thể như sau :
Đề 1 : ( Nhóm 1) : Yêu cấu lập dàn ý cho đề văn sau :
Cái mới của văn học Việt Nam giai đoạn từ năm 1975 đến hết thế kỉ XX là“ tính
chất hướng nội, quan tâm nhiều hơn tới số phận cá nhân trong những hoàn
cảnh phức tạp, đời thường”
( Trích SGK Ngữ văn 12, trang 17,Tập I, NXBGD năm 2008)
Cảm nhận nhân vật người đàn bà hàng chài của truyện “Chiếc thuyền
ngoài xa” ( Nguyễn Minh Châu) và nhân vật Hồn Trương Ba thuộc đoạn
trích vở kịch “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” ( Lưu Quang Vũ), anh(chị)
hãy làm sáng tỏ nhận định trên.
Hướng dẫn cụ thể
1. Giới thiệu vấn đề cần nghị luận

-Vài nét về tác giả, tác phẩm
- Nêu ý kiến cần nghị luận.
2.Giải thích ý kiến
- Cái mới: là sự mới mẻ, tiến bộ, khác biệt với cái cũ đã qua, không còn phù hợp
với hoàn cảnh mới;
- Hướng nội: là hướng vào bên trong;
- Số phận cá nhân trong những hoàn cảnh phức tạp, đời thường: đi vào đời tư
của con người trong hoàn cảnh éo le, nghịch lí, đa dạng, muôn màu, muôn vẻ
của cuộc sống hằng ngày.
- Thực chất của nhận định là khẳng định sự đổi mới của văn học Việt Nam từ
sau năm 1975 so với văn học giai đoạn 1945-1975.
3.Cảm nhận số phận hai nhân vật để làm rõ nhận định
a.Cảm nhận số phận người đàn bà hàng chài
*Nội dung
-Là một người phụ nữ có ngoại hình xấu, lam lũ, vất vả và bất hạnh
+ Theo câu chuyện bà kể, từ nhỏ bà đã là “một đứa con gái xấu, lại rỗ mặt”
+ Từ khi có chồng, cuộc đời bà trở nên vất vả : thuyền chật, con đông, có khi cả
nhà “toàn ăn cây xương rồng luộc chấm muối”...
+ Nghệ sĩ Phùng chứng kiến tận mắt bà bị chồng đánh trên bờ biển. Còn chánh
án Đẩu thì nhận xét : “Ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng...”
- Cách ứng phó trước số phận:
+Mặc dù có một số phận bất hạnh nhưng người phụ nữ ấy lại là người sống kín
đáo, hiểu đời và giàu lòng vị tha: Sắc sảo, hiểu đời ( nhận xét về Đẩu, Phùng);
Giàu lòng vị tha ( lí giải, cảm thông về sự tàn bạo của chồng)
+ Phẩm chất tốt đẹp nhất của người đàn bà là lòng thương con vô hạn, giàu đức
hi sinh: Cam chịu, nhẫn nhục khi bị chồng đánh; Xin với toà án đừng bắt mình
phải bỏ chồng; Lí giải : tất cả là vì con.


* Nghệ thuật

- Tình huống truyện độc đáo. Ngôn ngữ nhân vật sinh động, phù hợp với tính
cách.
- Lời văn giản dị mà sâu sắc, đa nghĩa.
b.Cảm nhận số phận đầy bi kịch của nhân vật Hồn Trương Ba
* Nội dung
- Bi kịch tha hoá của nhân vật Trương Ba trong đoạn trích bắt đầu bằng lớp thứ
nhất của cảnh 7, đó là màn đối thoại giữa Hồn Trương ba và Xác hàng thịt.
+Hồn Trương Ba muốn thoát khỏi xác hàng thịt để sống độc lập.
+Xác hàng thịt khẳng định là không được, còn chế giễu, khiến Hồn Trương Ba
đau khổ, tuyệt vọng.
- Bi kịch Hồn Trương Ba được đẩy lên tới đỉnh điểm, cao trào ở màn đối thoại
giữa Hồn Trương Ba với những người thân. Đó là bi kịch bị từ chối.
- Nỗi đau khổ của vợ, của cháu Gái và của con dâu Trương Ba.
- Hồn Trương Ba đau đớn trước những đau khổ của người thân. Ông tìm được
giải pháp là phải gặp Đế Thích.
-Bi kịch của nhân vật Hồn Trương Ba được kết thúc trong màn đối thoại với Đế
Thích- Bi kịch "bên ngoài một đằng, bên trong một nẻo".
+Đề Thích muốn Trương Ba phải sống bằng bất cứ giá nào.
+Trương Ba cương quyết từ chối cuộc sống hồn này- xác nọ.
+ Không thuyết phục được Trương Ba, Đế Thích đành thuận theo yêu cầu và ý
muốn của Trương Ba.
- Ứng xử của Trương Ba trước tình trạng bi kịch đó :
+ Trương Ba không chấp nhận buông xuôi: khi không thể thay đổi được xác
hàng thịt để xác có thể hoà hợp với hồn, Trương Ba quyết định từ bỏ mối quan
hệ với cái xác ấy :"chẳng lẽ nào ta lại chịu thua mày...","không cần đến cái đời
sống do mày mang lại".
+ Khẳng định mạnh mẽ nhu cầu được sống là mình: "không thể bên ngoài một
đằng, bên trong một nẻo". Với Trương Ba, nhu cầu sống cuối cùng vẫn được
đánh giá cao hơn nhu cầu tồn tại. Đặt ra vấn đề "sống như thế nào"là biểu hiện
của ý thức cao về sự sống và cách sống để có một cuộc sống hạnh phúc và có ý

nghĩa.
+ Trong đoạn kết, Trương Ba được giải thoát khỏi bi kịch. Đoạn kết vở kịch
"Hồn Trương Ba, da hàng thịt" gợi cho độc giả, khán giả nhiều bâng khuâng.
Hồn Trương Ba không theo Đế Thích về trời để chơi cờ, mà lại hóa thành màu
xanh của cây vườn, vị thơm ngon của trái na, vẫn quấn quýt với người thân, gần
gũi nơi bậc cửa, trong ánh lửa, nơi cầu ao, trong cơi trầu, con dao... của vợ con
thương yêu. Cho dù thân cát bụi lại trở về cát bụi, nhưng hồn Trương Ba cao
khiết vẫn bất tử trong cõi đời. Cái kết đầy chất thơ ấy đã làm cho tư tưởng nhân
văn tỏa sáng tác phẩm.
* Nghệ thuật :
- Hành động của nhân vật phù hợp với hoàn cảnh, tính cách, thể hiện sự phát
triển của tình huống kịch;


- Những đoạn đối thoại nội tâm của Hồn Trương Ba góp phần thể hiện rõ tính
cách nhân vật và quan niệm về kẽ sống đúng đắn.
- Đặc biệt, đoạn trích rất thành công trong việc xây dựng đối thoại. Những đối
thoại giàu kịch tính, đậm chất triết lí góp phần tạo nên chiều sâu cho vở kịch.
4.Nét tương đồng và khác biệt
+ Nét tương đồng: Cả hai tác giả đều đặt nhân vật trong tình huống éo le, bất
ngờ, ngang trái của cuộc sống, khai thác thế giới nội tâm vô cùng phong phú,
phức tạp. Dù nhân vật là con người bình thường hay mượn cốt truyện dân gian
để thể hiện, các nhân vật đều có số phận đầy bi kịch. Nhưng cuối cùng, họ đều
có cách ứng xử rất nhân văn, thể hiện vẻ đẹp tâm hồn cao cả, làm xúc động lòng
người.
+ Nét khác biệt:
-Số phận nhân vật người đàn bà hàng chài tiêu biểu cho hàng triệu người phụ nữ
miền biển nói riêng, phụ nữ Việt Nam nói chung thời hậu chiến. Đói nghèo, thất
học...là nguyên nhân chính gây ra bi kịch gia đình. Qua số phận của bà, Phùng,
Đẩu và chúng ta “ngộ” ra biết bao điều: cuộc sống không hoàn toàn như ta nhìn

thấy bên ngoài. Nếu chỉ nhìn bằng cái nhìn của người ngoài cuộc, ta chỉ thấy
biểu hiện bên ngoài sự việc mà cái bên ngoài không phải bao giờ cũng thống
nhất với cái bên trong. Chỉ có thể nhìn nhận một cách thấu đáo về con người
cũng như về cuộc sống khi tự biến mình thành người trong cuộc, khi nhìn nhận
không chỉ nên dùng lí trí để xét đoán mà phải dùng tấm lòng vị tha để mà cảm
thông.
- Số phận nhân vật Hồn Trương Ba được khai thác qua ba cuộc đối thoại giữa
Hồn và Xác, giữa Hồn với người thân, giữa Hồn với Đế Thích. Tha hoá, sống
trong dung tục...là nguyên nhân gây ra bi kịch cá nhân và ảnh hưởng đến gia
đình. Qua bi kịch của Hồn Trường Ba, nhà văn gửi gắm bức thông điệp đầy triết
lí nhân sinh và thấm đẫm nhân văn: Được sống làm người là rất quý giá song
được sống đúng là mình, sống trọn vẹn giá trị mà mình vốn có và theo đuổi còn
quý giá hơn. Sự sống chỉ có ý nghĩa khi con người được sống tự nhiên với sự
hài hoà giữa thể xác và tâm hồn. Con người phải luôn luôn biết đấu tranh với
những nghịch cảnh, với chính bản thân, chống lại sự dung tục để hoàn thiện
nhân cách và vươn tới những giá trị tinh thần cao quý.
Đề 2 : (Nhóm 2) : Lập dàn ý cho đề sau
Cảm nhận của anh/chị về hai đoạn văn sau:
(…) Con Sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc
ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn
cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân. Tôi đã nhìn say sưa làn mây mùa xuân
bay trên Sông Đà, tôi đã xuyên qua đám mây mùa thu mà nhìn xuống dòng
nước Sông Đà. Mùa xuân dòng xanh ngọc bích, chứ nước Sông Đà không xanh
màu xanh canh hến của Sông Gâm, Sông Lô. Mùa thu nước Sông Đà lừ lừ chín
đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một
người bất mãn bực bội gì mỗi độ thu về (…)


(Người lái đò Sông Đà – Nguyễn Tuân, Ngữ Văn 12, Tập 1)
(…) Từ Tuần về đây, sông Hương vẫn đi trong dư vang của Trường Sơn, vượt

qua một lòng vực sâu dưới chân núi Ngọc Trản để sắc nước trở nên xanh thẳm,
và từ đó nó trôi đi giữa hai dãy đồi sừng sững như thành quách, với những
điểm cao đột ngột như Vọng Cảnh, Tam Thai, Lựu Bảo mà từ đó, người ta luôn
luôn nhìn thấy dòng sông mềm như tấm lụa, với những chiếc thuyền xuôi ngược
chỉ bé vừa bằng con thoi. Những ngọn đồi này tạo nên những mảng phản quang
nhiều màu sắc trên nền trời tây nam thành phố, “sớm xanh, trưa vàng, chiều
tím” như người Huế thường miêu tả. Giữa đám quần sơn lô xô ấy, là giấc ngủ
nghìn năm của những vua chúa được phong kín trong lòng những rừng thông u
tịch và niềm kiêu hãnh âm u của những lăng tẩm đồ sộ tỏa lan khắp cả một
vùng thượng lưu “Bốn bề núi phủ mây phong – Mảnh trăng thiên cổ bóng tùng
Vạn Niên”. Đó là vẻ đẹp trầm mặc nhất của sông Hương, như triết lí, như cổ
thi, kéo dài mãi đến lúc mặt nước phẳng lặng của nó gặp tiếng chuông chùa
Thiên Mụ ngân nga tận bờ bên kia, giữa những xóm làng trung du bát ngát
tiếng gà (…)
(Ai đã đặt tên cho dòng sông?, Hoàng Phủ Ngọc Tường)
Lời giải chi tiết
1. Giới thiệu chung khái quát về tác giả và tác phẩm, giới thiệu vấn đề cần
nghị luận
2. Cảm nhận đoạn văn bản
a. Về đoạn văn trong tác phẩm Người lái đò sông Đà:
- Nội dung:
+ Đoạn văn tập trung miêu tả vẻ đẹp trữ tình của dòng sông Đà với dòng chảy
uốn lượn mền mại, ẩn hiện, thơ mộng trong mây trời Tây Bắc; đặc tả sắc nước
sông Đà biến đổi tương phản theo mùa, tạo ấn tượng mạnh.
+ Hiện diện một cái tôi Nguyễn Tuân đắm say, nồng nhiệt với cảnh sắc thiên
nhiên, tinh tế, độc đáo trong cách cảm nhận cái đẹp.
- Nghệ thuật:
+ Hình ảnh, ngôn từ mới lạ, câu văn trùng điệp, nhịp nhàng.
+ Cách so sánh, nhân hóa táo bạo, độc đáo, kì thú; lối tạo hình giàu tính mĩ
thuật, phối hợp nhiều góc nhìn theo kĩ xảo ảnh.

b. Về đoạn văn trong tác phẩm Ai đã đặt tên cho dòng sông?:
- Nội dung:
+ Đoạn văn miêu tả vẻ đẹp của sông Hương theo thủy trình, tập trung ở khúc
đoạn chảy quanh ngoại vi thành phố. Dòng sông hiện lên với sự uyển chuyển,
mền mại của dòng chảy; với sự biến ảo của sắc nước; với vẻ uy nghi, trầm mặc
của cảnh quan đôi bờ.
+ Hiện diện cái tôiHoàng Phủ Ngọc Tường: có tình yêu sâu nặng với quê
hương, xứ sở; có cảm nhận bình dị mà tinh tế về vẻ đẹp trữ tình của dòng sông
Hương.
- Nghệ thuật:


+ Hình ảnh chân thực mà gợi cảm; câu văn kéo dài mà khúc chiết, thanh điệu
hài hòa, tiết tấu nhịp nhàng.
+ Lối so sánh gần gũi và xác thực, sử dụng nhuần nhuyễn các địa danh và cách
nói của người Huế.
3. Sự tương đồng và khác biệt giữa hai đoạn văn:
- Tương đồng:
+ Miêu tả vẻ đẹp phong phú, biến ảo của sông nước trên nền cảnh không gian
khoáng đạt.
+ Bộc lộ tình yêu mãnh liệt của tác giả dành cho quê hương, xứ sở với một mĩ
cảm tinh tế, dồi dào
Đề 3 : Trong Tùy bút “ Người lái đò Sông Đà” nhà văn Nguyễn Tuân đã có
những lần miêu tả cảnh bờ sông Đà:
Ở thượng nguồn : “Hùng vĩ của Sông Đà không phải chỉ có thác đá. Mà nó
còn là những cảnh đá bờ sông, dựng vách thành, mặt sông chỗ ấy chỉ đúng lúc
ngọ mới có mặt trời. Có vách đá thành chẹt lòng Sông Đà như một cái yết hầu.
Đứng bên này bờ nhẹ tay ném hòn đá qua bên kia vách. Có quãng con nai con
hổ đã có lần vọt từ bờ này sang bờ kia. Ngồi trong khoang đò qua quãng ấy,
đang mùa hè mà cũng thấy lạnh, cảm thấy mình như đứng ở hè một cái ngõ mà

ngóng vọng lên một khung cửa sổ nào trên cái tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt
phụt đèn điện.
Lại như quãng mặt ghềnh Hát Loóng, dài hàng cây số nước xô đá, đá xô
sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi
nợ xuýt bất cứ người lái đò Sông Đà nào tóm được qua đấy. Quãng này mà
khinh suất tay lái thì cũng dễ lật ngửa bụng thuyền ra.”
Ở hạ nguồn: “ Thuyền tôi trôi trên sông Đà. Cảnh ven sông ở đây lặng tờ.
Hình như từ đời Lí đời Trần đời Lê, quãng sông này cũng lặng tờ đến thế mà
thôi. Thuyền tôi trôi qua một nương ngô, nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa. Mà
tịnh không một bóng người. Cỏ gianh đồi núi đang ra những nõn búp. Một đàn
hươu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương đêm. Bờ sông hoang dại như một
bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”
(Nguyễn Tuân – Người lái đò sông Đà,Ngữ văn 12, tập 1, NXB Giáo
dục Việt Nam, trang 186 và 191)
Cảm nhận của anh/chị về hai đoạn văn bản trên, từ đó làm nổi bật cái tôi tài hoa
uyên bác của nhà văn Nguyễn Tuân.
Hướng dẫn cụ thể
1. Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm và vấn đề nghị luận
2. Cảm nhận hai đoạn văn bản
(+) Đoạn thứ nhất:
- Cảnh bờ sông dựng vách thành:
+ Cảnh bờ sông dựng đứng như vách thành được miêu tả rất ấn tượng: “những
cảnh đá bờ sông dựng vách thành, mặt sông chỗ ấy chỉ đúng lúc ngọ mới có
mặt trời. Có vách đá thành chẹt lòng Sông Đà như một cái yết hầu, “Có quãng


con nai con hổ đã có lần vọt từ bờ này sang bờ kia” ⟶ Sông Đà chảy trôi giữa
những bờ vách đá dựng đứng. Nguyễn Tuân đã dùng những liên tưởng, so sánh
khác nhau để đặc tả một khúc sông hẹp với những bờ vách đá cao vút, vừa sâu
tối, vừa lạnh.

+ Nhà văn còn miêu tả sông Đà bằng các giác quan cả bên ngoài và bên trong
làm cho người đọc thấy rõ cái hiểm của sông Đà.
- Cảnh ghềnh đá đáng sợ:
+ “…dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió
gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ xuýt bất cứ người lái đò Sông Đà
nào tóm được qua đấy” ⟶ kiểu cấu trúc câu trùng điệp đã mở ra cảnh mặt
ghềnh với đá, với sóng, với gió. Cách ngắt nhịp ngắn diễn tả sự vận động, sự va
đập và cả sự hoang sơ, dữ dội của thiên nhiên.
+ Nghệ thuật nhân hóa cùng với các từ láy: “cuồn cuộn”, “gùn ghè”…diễn tả
nhịp điệu gấp gáp, hối hả của đá xô sóng, sóng xô gió. Những câu văn này đã
gợi cảnh hãi hùng của nước, của đá, của sóng trước mắt người đọc.
+ Cách nói “đòi nợ xuýt” độc đáo, làm cho người đọc hình dung rõ những nguy
hiểm, những tai họa bất ngờ mà sông Đà có thể gây ra cho con người.
* Nghệ thuật:
Nghệ thuật độc đáo với ngôn từ mới lạ, phép trùng điệp, so sánh, nhân hóa, liên
tưởng tưởng tượng,...
⟶ Như vậy có thể thấy cảnh bờ đá sông Đà ở vùng thượng nguồn mang vẻ
đẹp hùng vĩ, hiểm trở và dữ dội
(+) Đoạn thứ hai:
- Câu đầu của đoạn văn được bắt đầu bằng hình ảnh “Thuyền tôi trôi trên sông
Đà” gợi lên sự nhẹ nhàng êm ái. Câu văn ngắn gồm 6 âm tiết đều là thanh bằng
tạo nên không gian nghệ thuật như ru khách sông Đà vào giấc mộng phiêu du.
- “Cảnh ven sông ở đây lặng tờ. Hình như từ đời Lí, đời Trần...thế mà thôi”
+ Hai chữ “lặng tờ” được nhắc đi nhắc lại tới hai lần theo kiểu trùng điệp rất
đặc thù của thơ, không gian vắn lặng nhưng không thể “lặng tờ” hơn được nữa
du khách đang đi thuyền trên quãng sông này nhưng lại có cảm giác mình đang
đi ngược về quá khứ xa xưa của những đời Lí, đời Trần, đời Lê.
- “Thuyền tôi trôi qua một nương ngô...nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”
+ Theo dòng trôi của con thuyền người đọc đi vào thế giới hoang sơ tĩnh mịch,
Nguyễn Tuân láy lại cái điệp ngữ “thuyền tôi trôi” để gợi một dòng sông êm

đềm, thơ mộng, ta tưởng như nhịp chảy của dòng sông đã hòa vào nhịp điệu của
câu văn để ru hồn người “lạc vào thời tiền sử” đẹp như “một nỗi niềm cổ tích
tuổi xưa”
+Bao trùm cảnh vật là một màu xanh hoang sơ cũng thấy nương ngô “nhú lên
mấy lá ngô non đầu mùa” dường như ở đó đã có dấu ấn của con người in trên
cái màu xanh non mỡ màng ấy nhưng thật ngạc nhiên “tịnh không một bóng
người”. Đoạn văn đẹp như một bức tranh lụa nhờ việc sử dụng rất nhiều định
ngữ: “cỏ gianh đẫm sương đêm”, “lá ngô non đầu mùa”...chính những hình ảnh
thi vị ấy đãkéo dòng sông hiện đại trở về gần với thực tại hơn.


+Đặc biệt hai câu văn “bờ sông hoang dại ...bờ sông hồn nhiên...” khiến ta
tưởng đây là hai vế của một câu song quan trong bài phú lưu thủy. Nghệ thuật
điệp cấu trúc đã kết dính hai câu thành một bè thơ gợi cảm, bồng bềnh, vấn
vương cảm xúc hoài cổ mà ta đã bắt gặp ở người nghệ sĩ một thời vang bóng
này. Nguyên Tuân đã tìm về vẻ đẹp xưa trong cái ngày hôm nay. => tình yêu
quê hương xứ sở.
+ Nghệ thuật: thủ pháp so sánh, liên tưởng bất ngờ, câu văn giàu hình ảnh, giàu
chất thơ
⟶ Như vậy có thể thấy cảnh bờ đá sông Đà ở vùng hạ nguồn mang vẻ đẹp
hoang sơ, thơ mộng và trữ tình
3.Nhận xét điểm tương đồng và khác biệt:
- Tương đồng: cả hai đoạn văn đều thể hiện cái tôi tài hoa uyên bác của Nguyễn
Tuân
- Khác biệt: mỗi đoạn văn miêu tả sông Đà ở một góc cạnh khác nhau, ở thượng
nguồn đó là vẻ đẹo hùng vĩ, dữ dội còn ở hạ nguồn là vẻ đẹp hoang sơ thơ mộng
trữ tình. Tất cả tạo nên vẻ đẹp đa dạng và phong phú của con sông Đà
4. Bình luận về cái tôi tài hoa và uyên bác của nhà văn Nguyễn Tuân
- Tài hoa: ở lối viết uyển chuyển linh hoạt,cánh so sánh, liên tưởng nhiều tầng
bậc ý nghĩa, bất ngờ và độc đáo

- Uyên bác:kiến thức sâu rộng, vận dụng đúng lúc đúng chỗ thể hiện được ý đồ
tư tưởng của nhà văn
2.3.5. Kiểm tra kết quả của quá trình ôn tập.
Sau mỗi phần dạy đi liền với nó là ôn tập và tiến hành kiểm tra. Ngoài
những phần luyện tập trên lớp, tôi ra đề cho học sinh bài tập về nhà. Và đặc biệt,
tôi còn kiểm tra kết quả ôn tập của học sinh bằng những bài kiểm tra cụ thể.
Chẳng hạn như trong chương trình Ngữ văn 12, sau khi dạy xong phần văn xuôi
kháng chiến chống Pháp tôi cho học sinh làm bài kiểm tra định kì số 5 so sanh
với một tác phẩm văn học cùng thời. Bài kiểm tra học kì II tôi cho học sinh liên
hệ một tác phẩm văn xuôi thời kì đổi mới với một tác phẩm văn xuôi trước cách
mạng tháng 8- 1945
Trong quá trình kiểm tra tôi yêu cầu học sinh làm bài nghiêm túc. Vì các
em đã được ôn tập những dạng đề này nên các em đều tự giác, làm bài hết mình.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm.
Hướng dẫn học sinh lớp 12 ôn thi THPT Quốc gia dạng đề liên hệ phần
văn xuôi là việc làm phù hợp với thực tiễn, phù hợp với xu hướng ra đề hiện
nay. Việc làm này không chỉ cung cấp kiến thức mà còn chỉ ra các dạng đề,
nhóm các đề, hướng dẫn học sinh cách làm bài và tự ôn tập giúp các em hiểu
sâu tác phẩm, có sự liên hệ các tác phẩm. Do đó, học sinh của tôi khi được hỏi
không còn xa lạ với dạng đề này. Các em không còn tâm lí sợ hãi khi đứng
trước những dạng đề khó. Các em đã được trang bị kiến thức cơ bản nên có thể
sẵn sàng, chủ động khi đứng trước các đề văn, linh hoạt, sáng tạo khi làm bài.


Vì vậy, trong năm học này khi tổ chức cho học sinh lớp 12 ôn tập dạng
liên hệ tôi thấy có hiệu quả rõ rệt.Và điều này được thể hiện trong kết quả học
tập của các em.
Tôi đã làm phép so sánh kết quả học tập của học sinh và thu được kết quả
như sau :
Đối tượng là học sinh lớp 12B2 khóa học 2018-2019

- Trước khi được hướng dẫn ôn tập dạng đề liên hệ phần văn xuôi
Tổng
Tốt
số HS
SL
40
0

Mức độ nắm kiến thức
Khá
Trung bình
Tỉ lệ
SL
Tỉ lệ SL
Tỉ lệ
0%
5
12.5% 28
70%

Không nắm được
SL
Tỉ lệ
7
17.5%

- Kết quả bài viết số 5 sau khi đã được hướng dẫn ôn tập
Tổng
Tốt
số HS

SL
40
18
-

Mức độ nắm kiến thức
Khá
Trung bình
Không nắm được
Tỉ lệ
SL
Tỉ lệ SL
Tỉ lệ SL
Tỉ lệ
45%
17
42.5% 5
12,5% 0
0%
Đặc biệt là kết quả bài kiểm tra khảo sát đề của Sở :

Tổng
Tốt
số HS
SL
40
20

Mức độ nắm kiến thức
Khá

Trung bình
Tỉ lệ
SL
Tỉ lệ SL
Tỉ lệ
50%
16
40 % 2
10 %

Không nắm được
SL
Tỉ lệ
0
0%

Đó là những kết quả mà tôi đã đạt được khi sử dụng phương pháp ôn tập
cho học sinh theo dạng đề. Ngoài ra, học sinh của tôi không còn xa văn, ngại
học văn. Các em không còn tâm lí xem thường trong những giờ ôn tập văn.
Điều đó thể hiện trong những giờ dạy văn và ôn tập các em soạn bài rất kĩ, học
tập sôi nổi, hăng hái phát biểu bài, chủ động tìm tòi, sáng tạo những cách làm
mới. Tâm lí các em trong những giờ văn rất thoải mái. Và một niềm an ủi rất
lớn của tôi là học sinh khi tôi đang giảng dạy cũng như một số em đã ra trường
luôn giành cho tôi những món quà quý đó là những truyện ngắn, những bài thơ
tự tác (những đứa con đầu lòng vụng về nhưng nhiều ý nghĩa) của các em.
Những giờ ra chơi các em còn tranh thủ nhờ tôi hướng dẫn một số đề văn mà
các em chưa hiểu, chỉnh sửa những bài văn của các em, thậm chí là xin thêm đề
để về nhà làm.
Tuy nhiên, sự chuyển biến của học sinh cần có quá trình lâu dài và không
chỉ một cách ôn tập mà còn nhiều cách ôn tập. Không chỉ ôn tập mà phải dạy

bài mới kết hợp với kiểm tra đánh giá. Nhưng qua những kết quả mà các em đạt


×