Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

Một số vấn đề của gia đình việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (122.27 KB, 17 trang )

MỤC LỤC


CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN:

-

1. Lý do chọn đề tài
Việt Nam là nước đang trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội và đang
thực hiện quá trình công nghiệp hoá- hiện đại hoá mà thực chất là sự chuyển đổi
căn bản toàn diện các hoạt động sản xuất kinh doanh, nghiệp vụ và quản lý Kinh
tế - xã hội từ lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao
động cùng với công nghệ hiện đại và tiến bộ khoa học công nghệ, tạo nên năng
suất lao động xã hội cao.
Cùng với sự phát triển của xã hội, nhiều vấn đề mới nảy sinh, trong đó có
vấn đề gia đình cũng có nhiều biến đổi phức tạp. Trong năm quốc tế gia đình
1994(IYE) với chủ đề “Gia đình - các nguồn lực và thế giới đang đổi thay” là ý
tưởng tốt đẹp của cộng đồng thế giới nhằm động viên các quốc gia cần chú ý
hơn nữa đến việc xây dựng và củng cố gia đình. Qua dó cho thấy gia đình trở
thành một vấn đề thời sự được nhân loại quan tâm.
Đảng ta rất coi trọng gia đình, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của
Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhấn mạnh: “Nêu cao trách nhiệm của gia đình
trong việc xây dựng và bồi dưỡng các thành viên của mình có lối sống văn hoá,
làm cho gia đình thực sự là tổ ấm của mọi người và là tế bào lành mạnh của xã
hội”.
Trong tình hình chung của đất nước, khi chúng ta đẩy mạnh công nghiệp
hoá, hiện đại hoá vấn đề gia đình cũng có những biến đổi sâu sắc về mọi mặt.
Gia đình là tế bào xã hội, vậy khi tiến theo nhịp độ phát triển mới lại càng phải
chú ý tới việc phát huy những giá trị của các yếu tố truyền thống trong gia đình,
chọn lọc để phát triển mô hình hiện đại trong quá trình xây dựng Chủ nghĩa xã
hội, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Xuất phát từ suy nghĩ đó,


tôi chọn đề tài “Một số vấn đề của gia đình Việt Nam hiện nay”
2. Lý thuyết và khái niệm sử dụng trong đề tài.
Khái niệm gia đình: Gia đình được hình thành từ hôn nhân và hôn nhân là kết
quả của tình yêu thương giữa con người với con người. Chúng ta mỗi người đều
sinh ra trong một gia đình và ít nhất cũng sống một phần đời với gia đình ấy. Có
rất nhiều khái niệm về gia đình nhưng theo Đặng Cảnh Khanh và Lê Thị Quý
(2007) cho rằng: “ Gia đình là một thiết chế xã hội đặc biệt liên kết con người
lại với nhau, nhằm thực hiện việc duy trì nòi giống và chăm sóc con cái. Các
mối quan hệ gia đình còn được gọi là mối quan hệ họ hàng. Đó là những sự liên
kết ít nhất cũng là của 2 người dựa trên cơ sở huyết thống, hôn nhân và việc
2

2


-

-

nhận con nuôi. Những ngươig này có thể sống cùng hoặc khác mái nhà.
Xã hội học gia đình là một chuyên ngành của xã hôi học nên khoa học này vừa
đáp ứng những tiêu chuẩn chung nhất của xã hội học, vừa thể hiện những quy
chiếu này trong đối tượng nghiên cứu là gia đình- một hiện tượng xã hội.. Xã
hội học gia đình là một chuyên ngành của xã hội học nghiên cứu quy luật của
sự hình thành, phát triển và biến đổi của gia đình. Nghiên cứu mối quan hệ gia
đình với các lĩnh vực khac trong xã hội, đồng thời nghiên cứu tương tác của
chính gia đình với toàn bộ hệ thống xã hội. Xã hội học gia đình phân tích gia
đình như một hạt nhân đầu tiên của xã hội chịu những tác động của các điều
kiện văn hoá , kinh tế xã hội cụ thể, qua đó xã hội học gia đình hướng các
nghiên cứu của mình đến cơ cấu và chức năng của gia đình trong xã hội.

Ở nước ta, trong hơn 15 năm đổi mới vừa qua, gia đình Việt Nam có sự chuyển
biến hết sức mạnh mẽ. Nhưng về căn bản, nó vẫn được xây dựng trên cơ sở hôn
nhân. Hôn nhân hiện tại vẫn mang ý nghĩa hết sức thiêng liêng đối với thế hệ trẻ.
Hôn nhân được hình thành trên cơ sở tình yêu của đôi nam nữ, được gia đình hai
bên đồng tình và được chính quyền xãc nhận. Sự đề cao tình yêu và tôn trọng ý
kiến cha mẹ và pháp luật, chứng tỏ lớp trẻ hiện nay đang xây dựng một mô hình
gia đình hạnh phúc, hài hoà giữa truyền thống và hiện tại (đương nhiên bay giờ
không còn có những gia đình không có con cái hoặc không sinh con, chỉ có hai
vợ chồng khác dòng máu sinh sống có gia đình nhiều chủng loại con cái: con
anh, con tôi, con chúng ta; gia đình chỉ có cha mẹ và con nuôi; có gia đình chỉ
có anh em chăm nuôi lẫn nhau....)

3

3


CHƯƠNG II: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CỦA GIA ĐÌNH VIỆT NAM
HIỆN NAY.
1. Thực trạng một số vấn đề của gia đình Việt Nam.
Ở nước ta, trong hơn 15 năm đổi mới vừa qua, gia đình Việt Nam có sự
chuyển biến hết sức mạnh mẽ. Nhưng về căn bản, nó vẫn được xây dựng trên cơ
sở hôn nhân. Hôn nhân hiện tại vẫn mang ý nghĩa hết sức thiêng liêng đối với
thế hệ trẻ. Hôn nhân được hình thành trên cơ sở tình yêu của đôi nam nữ, được
gia đình hai bên đồng tình và được chính quyền xãc nhận. Sự đề cao tình yêu và
tôn trọng ý kiến cha mẹ và pháp luật, chứng tỏ lớp trẻ hiện nay đang xây dựng
một mô hình gia đình hạnh phúc, hài hoà giữa truyền thống và hiện tại (đương
nhiên bay giờ không còn có những gia đình không có con cái hoặc không sinh
con, chỉ có hai vợ chồng khác dòng máu sinh sống; có gia đình nhiều chủng loại
con cái: con anh, con tôi, con chúng ta; gia đình chỉ có cha mẹ và con nuôi; có

gia đình chỉ có anh em chăm nuôi lẫn nhau....).
Về quy mô và loại hình gia đình cũng đang có nhiều chuyển biến mạnh
mẽ. Hiện nay, số người trung bình trong một gia đình chỉ ơn bốn người chiếm tỷ
lệ đa số. Nhìn chung, gia đình ở thị có số người ít hơn gia đình nông thôn, gia
đình ở miền đồng bằng ít hơn gia đình ở miền núi và gia đình trẻ có số người ít
hơn gia đình tuổi cao. Đặc biệt là gia đình hạt nhân có tỷ lệ khá cao, chiếm
68,46% tổng gia đình trong cả nước. Rõ ràng, gia đình hai thế hệ đang chiếm ưu
thế trong các loại gia đình hiện nay. Điều đáng chú ý là nhóm gia đình trẻ chiếm
hầu như đa số các gia đình hạt nhân, qua điều tra cho thấy họ vừa mong muốn
loại gia đình hai thế hệ, lại vừa muốn được gần gũi bố mẹ. Nghĩa là lớp trẻ vừa
muốn có gia đình độc lập, lại vừa mốn gần gũi, gắn bó chặt chẽ với bố mẹ và
anh em. Một chuyển biến khá rõ nét trong các gia đình trẻ ở nước ta hiện nay là
sự bình đẳng giữa vợ chồng trong cuộc sống gia đình. người ta vẫn nghĩ rằng gia
đình Việt Nam là gia đình gia trưởng (đành rằng trong gia đình người đàn ông
vẫn được đề cao). Nhưng thực tế, sự phân công lao động và phân công vai trò
trong gia đình đã có sự đổi mới mau lẹ. Đó là, những vấn đề lớn trong gia đình
thì cả hai vợ chồng cùng bàn bạc chiếm 60 - 90%. Đặc biệt cao nhất là cùng bà
bạc, quyết định hôn nhân, nghề nghiệp của con và số con trong gia đình chiếm
từ 85 - 95%. Sự bình đẳng giới ở đô thị tốt hơn ở nông thôn, ở những người có
trình độ văn hoá tốt hơn nhiều người có học vấn thấp. Nhờ vậy, nếu muốn định
nghĩa về gia đình Việt nam hiện đại thì phải mở rộng ra nhiều lần để có thể thu
thập được những kiểu, loại về gia đình phong phú hiện nay. Vì vậy trong thông
4

4


điệp nhân quốc tế gia đình năm 1994, Liên hợp quốc đã nhấn mạnh rằng: Trên
thực tế đặc điểm của các thể chế gia đình hiện nay là tính đa dạng của nó. Gia
đình là một thể chế có tính toàn cầu, thể chế đó lại có hình thái khác nhau và

thực hiện các chức năng của nó một cách khác nhau. Do đó, không thể có một
quan niệm duy nhất về gia đình và không thể đưa ra một định nghĩa có thể áp
dụng cho toàn cầu.
2. Một số vấn đề của gia đình Việt nam:
2.1. Vấn đề kết hôn, ly hôn
2.1.1. Thực trạng:
Nước ta đang ở chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa
xã hội. Gia đình Việt Nam cũng đang có những bước chuyển biến theo những
định hướng của gia đình Xã hội Chủ nghĩa. Gia đình ở nước ta đã có những thay
đổi đáng kể trong thời kỳ công nghiệp hoá - hiện đại hoá.
Ở nước ta vấn đề kết hôn được coi trong, nó là việc thiêng liêng của hai
người, gia đình, họ mạc, láng giếng. Kết hôn là một trong ba vấn đề lớn nhất của
đời người “tậu trâu, cưới vợ, làm nhà”. Vấn đề kết hôn là vấn đề trăm năm đang
đi vào lòng người cả nước, 99% là tổ chức kết hôn. Thành phố là 94%, đồng
bằng 91%, miền núi trung du 91,3%. Để đi đến kết hôn, việc tìm hiểu giữa nam
và nữ kỹ càng hơn thể hiện tính tự do, tiến bộ theo tiêu chí tự nguyện một vợ một chồng bình đẳng có tính pháp lý, nữ 18 tuổi, nam 20 tuổi nay vận động nữ
22 tuổi, nam 25 tuổi. Việc hôn nhân do nam nữ quyết định không bên nào ép
buộc bên nào, không được kết hôn trong những trường hợp: người đang có cợ,
đang có chồng, người mất chức năng hành vi dân sự, người có dòng máu trực
hệ, những người có họ trong phạm vi ba đời, giữa cha mẹ nuôi với con nuôi, bố
với con dâu.... Ở nước ta việc kết hôn phải đăng ký và do cơ quan nhà nước thực
hiện, hiện nay ở nước ta có 92,3% các cuộc hôn nhân nào được đăng ký, thành
phố là 93,5%, đồng bằng là 92,2%, miền núi 91,7%. Hiện tượng tảo hôn ở địa
phương vẫn còn, nữ là 2,41%, năm 2,15%. Cưỡng ép kết hôn là 10%, tình trạng
không đăng ký kết hôn là 6,8%. Về việc cưới xin tuy có định hướng và dư luận
chấp nhận nhưng vẫn diễn ra phức tạp, tốn kém đặc biệt tình trạng ly hôn ngày
càng tăng; năm 1991 có 22.632 vụ, năm 1992 có 29.252 vụ, năm 1993 có 30.000
vụ. Thành phố Hồ Chí Minh từ năm 1996 - 2000 có 45.044 vụ. Trong đó, tỷ lệ ly
thân trong dân cư từ 13 tuổi trở lên là 0,7%, ngày nay là 1%.
2.1.2. Nguyên nhân của thực trạng:

Gia đình nước ta cũng đã thay đổi đáng kể theo hướng gia đình Xã hội
Chủ nghĩa. Nhưng thành tựu chưa nhiều, chưa thực sự sâu rộng và vững chắc,
5

5


điều đó có nguyên nhân trực tiếp từ những tác hại của cuộc khủng hoảng kinh tế
xã hội kéo dài, do hậu qủa của chiến tranh, của những ảnh hưởng xấu từ bên
ngoài.... về phía chủ quan, nguyên nhân sâu xa là việc xây dựng gia đình mới
chưa thật đầy đủ, chưa thật quan tâm giữ gìn tinh hoa của gia đình truyền thống,
chưa quan tâm đúng mức tình cảm của cá nhân, tiềm lực kinh tế của gia đình
chưa được khai thác, trách nhiệm đối với gia đình và văn hoá gia đình chưa có vị
trí xứng đáng trong nội dung của giáo dục ở nhà trường và trong xã hội.Do mâu
thuẫn trong quan điểm lối sống với sự tính toán làm ăn hiện nay khi lấy nhau
không cân nhắc, tìm hiểu sơ sài, phụ bạc nhau lúc hàn vi, thương yêu nhau lúc
có bổng lộc, hắt hủi phụ bạc nhau khi đi nước ngoài về giàu sang học đòi lối
sống. Do mâu thuẫn trong tư tưởng cũng để lại, mê tín dị đoan theo tướng số, đó
là sự ép duyên chạy theo đồng tiền sùng bái những lực lượng bệnh hoạn. Thời
đại công nghiệp hoá nên mọi người đi nhanh hơn, nói nhanh hơn, làm việc cũng
nhanh hơn. Còn tình yêu và hôn nhân của nhiều thanh niên cũng không ra khỏi
quỹ đạo đó. Nếu hình dung một mối tình từ khi bắt đầu cho đến khi kết thúc
giống như một quyển sách thì tình yêu của các thế hệ trước đây như cuốn tiểu
thuyết dài với nhiều chương hồi còn tình yêu bây giờ giống như một truyện
ngắn. Họ làm quen nhanh hơn, trao nhau nụ hôn nhanh hơn, quyết định đi đến
hôn nhân nhanh hơn và đi đến ly dị cũng nhanh hơn. Ngoài ra có các nguyên
nhân khác như tâm lý muốn có con trai lối dõi, di dân tự do.... Từ những vấn đề
này cho thấy trong thực tế gia đình mới ở nước ta đang ở mức báo động. Do vậy
yếu tố gia đình mới và cũ còn tồn tại xen kẽ vào nhau. Xã hội với cơ cấu giai
cấp không thuần nhất và cơ cấu kinh tế nhiều thành phần nên gia đình cũng có

nhiều dạng khác nhau bị chi phối bởi tư tưởng và tâm lý các giai tầng khác nhau
đối với sự phát triển đất nước trong giai đoạn hiện nay.
2.1.3. Giải pháp:
Qua các phần đã trình bày ở trên, chúng ta thấy rõ gia đình có tầm quyết
định quan trọng đối với sự phát triển của mỗi quốc gia nói chung và sự nghiệp
công nghiệp hoá - hiện đại hoá ở nước ta nói riêng. Song như phần trên đã trình
bày thực trạng gia đình Việt Nam còn nhiều bất cập, hạn chế, nhìn chung chưa
đáp ứng được nhiệm vụ phát triển của nước ta hiện nay và cả trong tương lai.
Trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội, các điều kiện để hình thành gia đình
mới không xuất hiện và có tác dụng đầy đủ lập tức mà chỉ có thể hoàn chỉnh dần
từng bước. Đòi hỏi phải có những giải pháp thích hợp để phát triển gia đình Việt
Nam hiện đại trong quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước.

6

6


-

-

Giải pháp về kinh tế, việc làm.
Cần phải có những chính sách nhằm tạo nhiều công ăn việc làm cho
người lao động mà trước hết phải thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều
thành phần nhằm phát huy mặt mạnh của các thành phần kinh tế góp phần giải
quyết công ăn việc làm, giải quyết số lao động dưa thừa và tạo điều kiện cho
người lao động có cơ hội lựa chọn ngành nghề. Đặc biệt quan tâm tạo việc làm
trong lĩnh vực nông nghiệp nông thôn, vì ở lĩnh vực này số lao động chiếm tỷ lệ
cao nhưng chỉ số sử dụng lại thấp, vẫn còn một lực lượng lớn lao động chưa có

việc làm hoặc bán việc làm. Để làm được điều này cần có công tác quy hoạch
hoặc kế hoạch hoá dài hạn về lao động, chuyển đổi mạnh mẽ cơ cấu nông
nghiệp, chú trọng đầu tư xây dựng và phát triển hạ tầng cơ sở kỹ thuật và xã hội
ở nông thôn. Chú trọng tạo việc làm cho người lao động đã qua đào tạo, không
để tình trạng làm hợp đồng, làm ca, làm tạm thời.... cần tăng vốn đầu tư, tạo việc
làm để người lao động đảm bảo cuộc sống gia đình của mình. Trước mắt no ấm,
bình đẳng, tiến bộ và hạnh phúc chính là chuẩn mực cần vươn tới của gia đình
mới của nước ta. Sự no ấm phải là kết quả của lao động cần cù, sáng tạo việc
làm ổn định. Gia đình hạnh phúc không phải là cái gì trừu tượng mà là tổng hoà
những nét đẹp thường ngày của cuộc sống gia đình.
Giải pháp về các chính sách xã hội.
Bên cạnh giải pháp về kinh tế, việc làm thì giải pháp về các chính sách
xã hội cũng góp phần không nhỏ vào việc xây dựng gia đình Việt Nam hiện đại
trong quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Các chính sách xã hội
bao gồm nhiều lĩnh vực khác nhau như vấn đề chăm sóc sức khoẻ về dân số, kế
hoạch hoá gia đình. Nói về sức khoẻ thì sự cường tráng về thể chất, sự thoải mái
về tâm hồn, vừa là nhu cầu của bản thân của mỗi con người, vừa là vốn quý đề
tạo ra cái tài sản trí tuệ và vật chất cho toàn xã hội. Trong văn kiện Hội nghị lần
thứ IV Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VII đã viết: “Trí tuệ là tài sản quý
nhất trong mọi tài sản, nhưng chính sức khoẻ là tiền đề cần thiết để làm ra tài
sản đó”[7;40] Muốn gia đình phát triển tốt cần phải chăm lo sức khoẻ cho mọi
thành viên trong gia đình, phải quan tâm xây dựng và củng cố cơ sở y tế, và làm
tốt công tác y tế dự phòng, phòng các bệnh dịch, chăm sóc sức khoẻ bà mẹ và
trẻ em, và phát động mạnh mẽ phong trào thể dục thể thao trong quần chúng....
bên cạnh vấn đề sức khoẻ thì nâng cao chất lượng dân số cũng cần được quan
tâm và phát triển.Quan tâm một cách thiết thực và toàn diện hơn nữa đến phụ
nữ, phụ nữ vừa là mục tiêu vừa là điều kiện quan trọng để xây dựng và củng cố
gia đình Việt Nam hiện đại. Những quan điểm lớn về giải phóng phụ nữ đã được
7


7


-

ghi nhận trong nhiều văn kiện của Đảng và Nhà nước. Cần tích cực hơn để đạt
được trong những thực tế mục tiêu là có kế hoạch này đưa ra. Qua đó, phụ nữ
Việt Nam có điều kiện làm tốt công việc gia đình và làm tròn trách nhiệm xã
hội.
Giải pháp về giáo dục.
Giáo dục trẻ em là điều kiện tất yếu để xã hội tồn tại và phát triển. Muốn
xã hội ngày càng một tiến lên, người lớn đồng thời phải làm hai công việc có
quan hệ khăng khít hỗ trợ lẫn nhau: đẩy mạnh lao động sản xuất để nâng cao đời
sống vật chất, tinh thần và chăm lo nuôi dạy con cái để đào tạo kế tục sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ đất nước. Giáo dục con em ta thành lớp người lao động mới
là trách nhiệm của toàn Đảng toàn dân trong đó có các bậc cha mẹ có vai trò và
trách nhiệm hết sức nặng nề, vẻ vang. Gia đình là một trong những lực lượng
giáo dục quan trọng “gia đình - nhà trường - xã hội” tạo nên một vòng tròn khép
kín của quá trình giáo dục có những chỗ mạnh, những khả năng khác nhau đối
với việc hình thành nhân cách trẻ em. Hồ Chủ Tịch đã dạy: “Giáo dục trong nhà
trường dù tốt mấy nhưng thiếu giáo dục trong gia đìnhvà ngoài xã hội thì kết quả
cũng không hoàn toàn”. Thật vậy, gia đình có vai trò và trách nhiệm rất to lớn
trong cả hai quá trình có quan hệ khăng khít: nuôi - dạy. Gia đình là đơn vị giáo
huấn đầu tiên của đứa trẻ, là nơi hun đúc tâm hồn con người Việt Nam mới cho
đứa trẻ. Giáo dục gia đình góp phần đặt nền móng đầu tiên cho nhân cách từng
người trong gia đình. Gia đình còn là nơi chăm sóc giáo dục trẻ em thường
xuyên lâu dài và trực tiếp nhất.Chỗ mạnh nhất của giáo dục gia đình là quan hệ
tình cảm ruột thịt, của cha mẹ và con cái. Tình thương đặc biệt sâu sắc cha mẹ
luôn dành cho con cái mình những tình cảm sâu nặng thiết tha nhất, tạo điều
kiện chăm lo cho con cái về nhiều mặt. Nhờ vậy gia đình đã góp phần cùng nhà

trường và xã hội đào tạo một thế hệ trẻ có ích cho xã hội.Bên cạnh đó, cha mẹ
giáo dục con cái về giá trị thẩm mỹ như: dạy con cách ăn mặc sạch sẽ, chỉnh tề
là yếu tố sơ đẳng của cái đẹp trong ăn mặc. Cha mẹ cần giúp các em hiểu rằng
yếu tố quan trọng đầu tiên của cái đẹp chính là sự giản dị. Mặt khác, cũng đừng
hiểu sự giản dị là thô sơ, gặp chăng hay chớ, tự nhiên chủ nghĩa. Cái đẹp chân
chính xa lạ với sự cầu kỳ đối lập với sự phô trương, ga lăng giả tạo. Sự giản dị
chính là những đường nét, hình khối đơn giản, nhẹ nhàng, tránh những chi tiết
rườm rà, nếp gắp nặng nề che lấp vẻ đẹp tự nhiên của con người. Ngoài ra, gia
đình còn phải dạy con cách cư xử ngoài xã hội, cư xử với những người xung
quanh mình. Dạy con cách cư xử nơi công cộng, dạy con về phép xã giao mới....
Như vậy, Việt Nam đang đứng vào thời điểm đẩy mạnh công nghiệp hoá - hiện
8

8


đại hoá, cho nên việc xây dựng và củng cố gia đình mới ở nước ta cần quán triệt
những giải pháp trên.
2.2. Vấn đề bạo lực gia đình
2.2.1. Thực trạng bạo lực gia đình ở Việt Nam
Bạo hành trong gia đình là một vấn đề bức xúc của xã hội và đây là một
đề tài rất được nhiều người quan tâm. Đây không còn là đề tài nóng hổi nhưng
nó lại là đề tài mang nhiều ý nghĩa. Giúp chúng ta nhận thức rõ hơn về tình trạng
bạo hành, hiểu biết về bạo hành của người dân và có những cách giải quyết bền
vững cho tình trạng này… Ở VN, mặc dù đã có nhiều văn bản pháp luật được
ban hành (Bộ Luật hình sự, Luật Hôn nhân và Gia đình, Công ước CEDAW...),
cũng như có nhiều cơ quan pháp luật, tổ chức xã hội có chức năng chống bạo
hành gia đình (BHGĐ), những tổ chức bảo vệ quyền lợi phụ nữ như Hội liên
hiệp phụ nữ Việt Nam các cấp, các tổ chức phi chính phủ như Ford Foundation,
mạng lưới DOVIPNET, CSAGA, thế nhưng việc tổ chức thực thi pháp luật

trong lĩnh vực này còn gặp rất nhiều khó khăn trở ngại và hầu như không hiệu
quả, bởi chưa có những biện pháp chế tài cụ thể.
Do vậy, đề tài “Bạo hành trong gia đình” hoàn toàn không phải là một
“phát kiến” một chủ đề mới trong hoạt động cũng như nghiên cứu. Thế nhưng
cái hay của đề tài này đó là giải quyết được phần nào vấn đề bạo hành gia đình,
từ thực trạng đến hậu quả của nó. Biết được tình hình, diễn biến, nguyên nhân và
có những hướng giải quyết tình trạng đó.
- Bạo hành gia đình: Luật Gia Đình (Family Law Act) định nghĩa “bạo
hành trong gia đinh” bao gồm những hành vi hay các mối đe doạ của một người
nhắm vào một thành viên khác trong gia đình hoặc tài sản của họ. Bạo hành
trong gia đình cũng bao gồm việc chứng kiến những hành vi hay mối đe doạ như
vừa kể (chẳng hạn như trẻ em chứng kiến cảnh bạo hành). Trong những trường
hợp có sự đe doạ bạo hành hoặc chứng kiến cảnh bạo hành trong gia đình, một
người phải có lý do lo sợ chính đáng hoặc lo sợ trong tình trạng an sinh hoặc an
toàn cá nhân của mình.
- Các dạng bạo hành gia đình: Bạo hành không chỉ là hành động bạo lực
về thể chất mà còn diễn ra dưới nhiều hình thức.
+ Bạo hành về thể chất: Là kiểu hành hạ, đánh đập, ngược đãi phụ nữ. Dù
người phụ nữ được pháp luật bảo vệ khỏi các vụ ngược đãi nhưng hiện tượng
đánh đập, ngược đãi ít khi bị khởi tố trừ khi nạn nhân bị đánh trọng thương hoăc
gây thương tích dẫn đến tử vong. Thực tế cho thấy, bạo lực thể chất đối với phụ
nữ trong gia đình là một căn bệnh truyền nhiễm mà không được mọi người trong
9

9


xã hội chú ý ngăn chặn. Bạo lực thể chất ở Việt Nam chiếm 15% tổng số các
hình thức bạo hành gia đình. Bạo hành thể chất được biểu hiện qua các hành vi
thô bạo, như hành hung, thượng cẳng chân hạ cẳng tay. Không vừa ý là cứ nện

cho một trận là cạch đến già. Hành động có mục đích gây thương tích cho nạn
nhân như đánh, đạp, xô, đẩy, tát, nắm tóc kéo lê, vặn cổ tay, đâm bằng dao. Giới
hạn sử dụng phương tiện duy trì sức khoẻ như dấu dược phẩm, thực phẩm, nước
uống; phá rối không cho ngủ hoặc ép dùng rượu, cần sa, ma tuý, bỏ rơi nơi
đường vắng vẻ nguy hiểm.
+ Bạo hành tinh thần: Ở Việt Nam, bạo hành tinh thần chiếm tỷ lệ cao
nhất (đến 80% trong số nạn nhân bạo hành về giới). Bạo hành tinh thần không
gây hậu quả nghiêm trọng đến cơ thể người phụ nữ, nhưng có nhiều trường hợp
người phụ nữ cùng đường phải tìm đến cái chết để thoát khỏi hiện thực. Bạo
hành tinh thần phổ biến, âm ỉ và dai dẳng hành hạ người phụ nữ. Nạn nhân phải
chịu các kiểu hành hạ như chửi mắng, hạ nhục với lời lẽ thô thiển, nặng nề xâm
phạm đến nhân phẩm và danh dự. Không những thế, bạo hành tinh thần nhiều
khi còn tồn tại dưới nhiều dạng, đe doạ tinh thần, khủng bố tâm lý gây nên sự
phẫn uất, khủng hoảng ý thức và tâm sinh lý phụ nữ. Khác với kiêu hành hạ
bằng lời là kiểu hành hạ bằng tình cảm, nghĩa là người chồng tỏ ra thờ ơ, lạnh
nhạt, vô trách nhiệm đối với người vợ, thậm chí đem so sánh người phụ nữ khác,
kể lại một cách diễu cợt những vụ tình ái riêng.
+ Bạo hành tình duc: Trong các hình thức bạo hành, bạo hành tình dục ít
bị phát hiện và nạn nhân không được bảo vệ, vì ở nước ta tình dục là vấn đề hết
sức tế nhị khó tìm hiểu. Bạo hành tình dục là hành vi ép buộc bằng bạo lực, gạ
gẫm, đe doạ, gạ gẫm, lừa gạt hoặc dùng kinh tế để có quan hệ tình dục với người
khác trái với ý muốn của họ. Dùng các thủ đoạn khiến nạn nhân lệ thuộc hay
trong tình trạng quẫn bách phải miễn cưỡng giao cấu. Theo Tổ chức Y tế thế giới
WHO, trên thế giới cứ 4 người phụ nữ, thì có 1 người bị bạo hành tình dục ít
nhất một lần. Ở Việt Nam, bạo hành tình dục chiếm khoảng 20%, nghĩa là cứ 5
người phụ nữ thì có ít nhất 1 người bị bạo hành tình dục. Trong lĩnh vực tình
dục, nạn nhân nữ chịu ảnh hưởng nặng nề của các chuẩn mực đạo đức, các giá
trị văn hoá truyền thống chi phối. Họ không có quyền đòi hỏi, phải thụ động
trong quan hệ tình dục và với người chồng, họ phải có nghĩa vụ phục tùng thậm
chí còn phải bị ép buộc phải sinh thêm con, không dùng các biện pháp tránh thai

và bị cưỡng ép quan hệ tình dục khi họ không muốn. Tạp chí Gia đình và Trẻ em
kỳ 1 tháng 4 năm 2004 cho biết, tại Trung tâm Linh Tâm - tổng đài 1080, từ năm
1997 đến 2003 có 250.361 trường hợp gọi tư vấn trên các lĩnh vực thì có 33.107
10

10


trường hợp liên quan đến bạo hành gia đình, trong đó có1.870 trường hợp là bạo
hành tình dục.
+ Bạo hành kinh tế: Ở Việt Nam loại bạo lực này chưa có thống kê đầy đủ,
tuy nhiên thực tế cho thấy đây là hình thức phổ biến rộng rãi. Bởi Việt Nam là
một nước thuần nông, người dân phần lớn sống ở môi trường thiếu kiến thức về
bình đẳng giới; Quan hệ hôn nhân gia đình, vai trò vợ chồng chỉ được nhìn nhận
dưới góc độ các quan niệm phong kiến, đặc biệt là tư tưởng Nho giáo như các
quan niệm “tam tòng”, “tứ đức”, “trọng nam khinh nữ” . Từ lâu, người phụ nữ
chỉ biết đến vai trò ở chốn “phòng the, bếp núc”. Mỗi ông chồng là một ông vua
trong gia đình, có quyền quyết định mọi việc mà ít khi quan tâm đến ý kiến của
người vợ. Đối với kinh tế, người đàn ông có nghĩa vụ làm ra tiền cùng người vợ
đảm bảo cuộc sống gia đình. Nhưng có những người làm ra tiền mà không đưa
cho vợ, hay người chồng bỏ bê việc nhà, không lao động sản xuất mà chỉ lo
hưởng thụ trên sức lao động của người vợ, hay kiểm soát tiền bạc, bắt bạn đời
phụ thuộc vào tiền nong, nhục mạ khi người bạn đời không có kinh tế, làm cho
gánh nặng kinh tế đè lên vai người phụ nữ.
+ Bạo hành xã hội: Đối với xã hội, người phụ nữ sống trong tình trạng bị
cô lập, tách biệt với xã hội bên ngoài. Cắt đứt mối quan hệ với những người thân
trong họ hàng nhà vợ, bạn bè thân hữu. Cô lập người bạn đời trong nhà không
cho giao tiếp với bất cứ ai. Họ bị ngăn cản không được tham gia bất kỳ hoạt
động nào của xã hội như đi học, đi làm hoặc phải sống phụ thuộc một cách miễn
cưỡng vào người đàn ông, không tham gia các tổ chức xã hội, không được

hưởng các quyền lợi chính đáng của mình. Hiện nay, mặc dù người phụ nữ được
tham gia vào nhiều các hoạt động xã hội nhưng phần lớn họ không được chồng
chia sẻ các việc gia đình. Con số điều tra 150 gia đình ở Hà Nội mà cả hai vợ
chồng đều đi làm, thì phụ nữ phải làm thêm việc nhà trung bình 2 giờ 28 phút,
trong khi nam giới chỉ mất 32 phút, nghĩa là người chồng làm ít hơn người vợ 4
lần. Đó là chưa kể co khoảng 8% đàn ông hầu như không tham gia vào việc gia
đình (Tạp chí Gia đình và Trẻ em, tháng 11 – 2006)
2.2.2. Nguyên nhân và hậu quả của vấn đề bạo lực gia đình:
* Nguyên nhân thuộc về nhận thức
- Do xã hội chúng ta vẫn tồn tại những quan niệm về định kiến giới, tư
tưởng trọng nam khinh nữ, cho rằng nam giới có quyền lực và có quyền “dạy”
vợ. Cộng đồng và xã hội vẫn coi bạo lực gia đình là chuyện riêng của gia đình
mà không can thiệp kịp thời, chưa tạo ra dư luận rộng rãi.

11

11


- Trẻ em chứng kiến bạo lực gia đình tạo thành tâm lý cam chịu khi trở
thành phụ nữ và hình thành thói quen của nam giới cho rằng bạo lực gia đình
như một biện pháp cần thiết để giải quyết mâu thuẫn gia đình.
- Chính quyền và các tổ chức đoàn thể chưa hoàn thành chức năng,
nhiệm vụ của mình trong PCBLGĐ. Một bộ phận lãnh đạo chính quyền và các
tổ chức đoàn thể vẫn coi bạo lực gia đình là vấn đề của gia đình.
- Chưa xử lý triệt để các vụ việc bạo lực gia đình xẩy ra tại địa phương.
Chính quyền chỉ vào cuộc với những vụ bạo lực gia đình có hậu quả nghiêm
trọng khi nạn nhân hoặc người nhà nạn nhân có đơn kêu cứu.
- Trong công tác hòa giải, thường khuyên phụ nữ nín nhịn mà không
triệt để xử lý theo pháp luật người gây bạo lực gia đình.

- Trong tất cả các nguyên nhân trên, nguyên nhân thuộc về nhận thức
trong đó định kiến giới, tư “tưởng trọng nam khinh nữ” được xem là nguyên
nhân gốc rễ của bạo lực gia đình.
*Các yếu tố dẫn đến bạo lực gia đình
- Nguyên nhân kinh tế và các tệ nạn xã hội như nghiện rượu, cờ bạc, ma
túy, mại dâm được coi là những nguyên nhân cơ bản. Khi sử dụng các chất kích
thích như rượu, ma túy, nam giới có nguy cơ giải quyết những khó khăn bằng
hành vi bạo lực mà trước hết là bạo lực với các thành viên gia đình.
- Các tệ nạn như mại dâm và ngoại tình cũng làm cho người nam giới có
thể lạnh nhạt, bỏ mặc, thậm chí đánh đập vợ, con.
- Những cặp vợ chồng phải bươn chải vất vả để kiếm sống thường có
nhiều sự căng thẳng tinh thần hơn dẫn đến việc nam giới thường sử dụng sức
mạnh của mình để gây ra bạo lực với vợ.
- Đối với một số nam giới, việc thiếu việc làm và nghèo đói làm cho nam
giới cảm thấy tự ti khi không làm đúng vai trò được xã hội xác định là người trụ
cột trong gia đình cũng dễ dẫn đến bạo lực gia đình.
- Tuy nhiên, bạo lực gia đình cũng xẩy ra ở các trong các gia đình có điều
kiện kinh tế tốt, vợ chồng có trình độ học vấn cao, công việc ổn định.
*Hậu quả của bạo lực gia đình
- Hậu quả đối với nạn nhân về sức khỏe thể chất: Sức khỏe bị hủy hoại,
thương tích đau đớn, có thể bị khuyết tật suốt đời, thậm chí dẫn đến tử vong.
- Về sức khỏe tinh thần: Luôn ám ảnh bị bạo lực; chán nản, buồn rầu, lo
lắng, sợ hãi, mất tự tin, hoang mang, trầm cảm; cảm thấy cuộc sống nặng nề,
căng thẳng và tuyệt vọng.
- Về sức khỏe sinh sản: Mang thai ngoài ý muốn, thai nhi suy dinh
12

12



dưỡng, sẩy thai, đẻ non, lây nhiễm các bệnh lây truyền qua đường tình dục,
nhiễm HIV.
- Hậu quả đối với người gây bạo lực gia đình: Phá hỏng mối quan hệ vợ
- chồng, cha mẹ - con cái, ông bà-cháu, cảm thấy cô đơn ngay trong gia đình.
Phải đóng tiền nộp phạt vi phạm hành chính khi gây ra bạo lực gia đình. Bị truy
cứu trách nhiệm hình sự nếu gây hậu quả nghiêm trọng với nạn nhân.
- Hậu quả với trẻ em: Với trẻ nhỏ dưới 5 tuổi: Khóc nhiều, suy dinh
dưỡng, chậm lớn, chậm phát triển trí tuệ, e ngại khi tiếp xúc với người lạ.
- Với trẻ trong độ tuổi trước vị thành niên: thiếu tập trung và không có
khả năng chơi tích cực; vụng về, lóng ngóng và hay gây rối; tránh va chạm và dễ
chiều theo ý người khác; mất hứng thú với các hoạt động xã hội và giảm năng
lực xã hội; lẩn tránh các mối quan hệ với các bạn cùng lứa tuổi.
- Với trẻ vị thành niên: học kém, bỏ học, phạm tội, uống rượu, hút thuốc
lá và nghiện ma túy; thiếu tin tưởng vào người lớn; bỏ đi khỏi nhà; có thể có các
hành vi bạo lực như người lớn; chán nản và có ý nghĩ tự tử; thậm chí tự tử.
- Hậu quả đối với gia đình: Li thân, li hôn. Tốn tiền chữa trị và phục hồi
sức khỏe thể chất và sức khỏe tinh thần cho nạn nhân và người chứng kiến bạo
lực gia đình.
- Giảm thời gian và năng suất lao động từ đó giảm thu nhập gia đình.
Không có khả năng làm tròn bổn phận với gia đình nội, ngoại.
- Hậu quả đối với xã hội: Giảm sự đóng góp của nạn nhân và người gây
bạo lực gia đình đối với xã hội tạo ra lực lượng lao động tương lai có sức khỏe
thể chất và tinh thần yếu, thiếu sáng tạo. Nếu không xử lý triệt để, xã hội sẽ chấp
nhận và dung túng cho bạo lực gia đình. Hạn chế hiệu quả công tác phòng chống
HIV/AIDS và kiểm soát mất cân bằng giới tính khi sinh.
2.2.3 Giải pháp phòng chống bạo lực gia đình:
- Hiện theo quy định tại khoản 2 Điều 1 Luật Phòng, chống bạo lực gia
đình năm 2007 đưa ra định nghĩa “Bạo lực gia đình là hành vi cố ý của thành
viên gia đình gây tổn hại hoặc có khả năng gây tổn hại về thể chất, tinh thần,
kinh tế đối với thành viên khác trong gia đình” và liệt kê các hành vi được coi là

bạo lực gia đình tại Khoản 1 Điều 2, chia thành 3 nhóm hành vi bạo lực: Bạo lực
về thể chất, bạo lực về tinh thần, bạo lực về kinh tế.
- Trong xã hội, quan niệm về bạo lực gia đình của người dân còn khá mơ
hồ, và dường như chỉ có hành vi bạo lực về mặt thể chất là được chú ý tới. Khi
trong tiềm thức của mỗi người dân còn cho rằng một cái tát, một câu chửi mắng
nhau lúc nóng giận là bình thường, con hư thì bố mẹ phải đánh để giáo dục, hay
13

13


việc đáp ứng nhu cầu tình dục của chồng là nghĩa vụ của người vợ…. đương
nhiên sẽ không bị coi là bạo lực gia đình, là vi phạm pháp luật. Vì vậy, cần phải
quy định rõ ràng hơn những hành vi bị coi là “bạo lực gia đình” và có sự tổng
hợp các quy định tại những văn bản pháp luật khác nhau về các hành vi để đảm
bảo tính thống nhất, hiệu quả của các quy phạm pháp luật.
- Theo quy định tại Khoản 1 Điều 3 Luật Phòng, chống bạo lực gia đình,
nguyên tắc phòng, chống bạo lực gia đình gồm: “Kết hợp và thực hiện đồng bộ
các biện pháp phòng, chống bạo lực gia đình, lấy phòng ngừa là chính, chú trọng
công tác tuyên truyền, giáo dục về gia đình, tư vấn, hoà giải phù hợp với truyền
thống văn hoá, phong tục, tập quán tốt đẹp của dân tộc Việt Nam”
- Đây là nguyên tắc chủ đạo trong phòng, chống bạo lực gia đình bởi
nhiều lý do. Xuất phát từ thực tế quan hệ trong gia đình mang tính khép kín, với
các thành viên gia đình cũng như những người xung quanh, việc trong gia đình
thì người ngoài ít có cơ hội xen vào. Vì thế những vụ bạo lực gia đình thường
khó phát hiện, khi bị phát hiện cũng khó xử lý bởi tâm lý e ngại của nạn nhân và
cả những người biết chuyện, và thậm chí nếu xử lý rồi thì khả năng tái diễn cũng
rất cao vì để tìm ra biện pháp ngăn chặn phù hợp là không dễ. Các quy định
pháp luật khó vươn tới từng gia đình, bởi nhận thức của người dân về vấn đề này
còn hạn chế, sự can thiệp thô bạo của pháp luật có thể dẫn tới phá hoại các mối

quan hệ các thành viên gia đình. Chính vì vậy, công tác tuyên truyền, giáo dục
về gia đình, tư vấn, hòa giải trong vấn đề này là rất quan trọng, góp phần định
hướng hành vi của mỗi người: nạn nhân được trang bị kiến thức để tự bảo vệ;
người có thể có hành vi bạo lực có thể nhận thức được tính chất, hậu quả của
hành vi để tự kiềm chế tốt hơn; những người xung quanh biết được trách nhiệm
tham gia phòng chống bạo lực gia đình và có ứng xử phù hợp.
- Cần tăng cường hơn nữa công tác thông tin, tuyên truyền Luật Phòng
chống bạo lực gia đình, Luật Bình đẳng giới, tuyên truyền chính sách pháp luật
của Đảng và nhà nước về an sinh xã hội qua tivi, đài, báo, tạp chí, các tờ rơi, tờ
gấp, loa truyền thanh, tuyên truyền của cán bộ Đảng, chính quyền, các ban
ngành, đoàn thể, các cộng tác viên dân số, qua các buổi hội họp cần tới được tất
cả các nhóm công dân, nhất là các gia đình nghèo.
- Truyền thông cũng cần chỉ ra nguyên nhân cơ bản của bạo lực gia đình là
sự bất bình đẳng giới, là tư tưởng “trọng nam khinh nữ”, phân biệt địa vị, vai trò
của phụ nữ và nam giới trong gia đình, vận động nam giới nói riêng và toàn xã
hội nói chung hiểu biết về quyền của phụ nữ, đồng thời phải nâng cao kiến thức,
nhận thức cho chị em để họ hiểu được quyền của mình để có ý thức tự bảo vệ,
14

14


nâng cao địa vị, vai trò của mình trong gia đình và ngoài xã hội.
- Việc tuyên truyền giáo dục nếu kết hợp với truyền thống văn hóa, phong
tục, tập quán tốt đẹp của dân tộc thì sẽ càng được phát huy tốt hơn nữa, bởi vì
người Việt Nam nói chung chịu tác động khá lớn từ những tư tưởng này. Đặc
biệt, ở những quan niệm “phép vua thua lệ làng”, trình độ dân trí thấp thì việc
giáo dục người dân thông qua phát huy truyền thống tốt đẹp của gia đình; vai trò
của họ hàng, dòng họ sẽ giúp làm tốt công tác hòa giải mâu thuẫn, tranh chấp
giữa các thành viên gia đình. Cần đẩy mạnh thực hiện phong trào xây dựng gia

đình văn hóa, nếp sống văn minh; cần quan tâm xây dựng gia đình văn hoá, làng
văn hoá trong đó đưa tiêu chí không có bạo lực gia đình, không lạm dụng rượu
bia, không có tệ nạn cờ bạc, ma tuý để công nhận gia đình văn hóa.
- Phải xử lý nghiêm người có hành vi bạo lực gia đình theo đúng quy định
của Nghị định số 110/2009/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong
lĩnh vực phòng chống bạo lực gia đình.
- Để phòng chống bạo lực gia đình với trẻ em, Hội LHPN Việt Nam đề ra 6
giải pháp. Trong đó, nâng cao nhận thức của xã hội, tăng cường trách nhiệm của
gia đình, nhà trường, cộng đồng về hậu quả của bạo lực đối với trẻ em. Chú trọng
hỗ trợ cung cấp kiến thức nuôi dạy con cho cha mẹ, người chăm sóc và gia đình.
Đồng thời đẩy mạnh truyền thông cung cấp kiến thức về ảnh hưởng của bạo lực đối
với trẻ em, xác định trách nhiệm của gia đình, xã hội, cộng đồng trong chăm sóc,
bảo vệ trẻ em. Tăng cường sự kết hợp chặt chẽ giữa nhà trường - gia đình - xã hội
trong việc quản lý, giáo dục, bảo vệ trẻ em. Thực hiện tốt công tác tư vấn, tham vấn
học đường và phát huy vai trò của công tác Đoàn, Đội, Hội...
- Xây dựng các thiết chế gia đình bền vững được xem là giải pháp nội lực
để phòng tránh bạo lực gia đình. Yêu cầu này đòi hỏi vai trò của các tổ chức
đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể cùng bàn bạc; tùy theo đặc
điểm, truyền thống văn hóa của từng địa phương phải xây dựng được các quy
chế, quy ước nhằm hạn chế những khác biệt, mâu thuẫn có thể bùng nổ thành
xung đột, cùng với các gia đình có ý thức xây đắp các chuẩn mực: no ấm, bình
đẳng, tiến bộ, hạnh phúc và phát triển bền vững.
- Đối với mỗi hộ gia đình thì vợ chồng phải biết cách ứng xử tế nhị, tôn
trọng giúp đỡ nhau như kinh nghiệm ông cha ta đã đúc kết chồng giận thì vợ bớt
lời hay lời nói không mất tiền mua, lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau, tạo không
khí hoà thuận, cùng có trách nhiệm chăm sóc nuôi dạy con cái. Ngăn chặn các tệ
nạn xã hội là giải pháp phòng, chống bạo lực gia đình có hiệu quả nhất. Vì vậy
đấu tranh phòng, chống tệ nạn xã hội không chỉ tạo nên sự ổn định xã hội mà
còn góp phần vào việc phòng, chống bạo lực gia đình một cách có hiệu quả.
15


15


CHƯƠNG III: KẾT LUẬN:
Gia đình là tế bào của xã hội, điều này chứng tỏ gia đình và xã hội có sự
tương tác, thống nhất hữu cơ. Gia đình là sự sống của xã hội, là tế bào hạnh
phúc góp phần phát triển hài hoà xã hội. Xã hội tạo điều kiện cho gia đình phát
triển sự sống. Gia đình là sản phẩm của lịch sử nhưng với tư cách là tế bào của
xã hội. Xã hội được phát triển là do hai loại sản xuất quyết định, một mặt là do
trình độ phát triển của lao động, mặt khác là do trình độ phát triển của gia đình.
Gia đình là tổ chức cơ sở, là cơ cấu và thiết chế xã hội nhỏ nhất nhưng lại đa
dạng và phong phú trong quá trình vận động và phát triển của nó, vừa tuân thủ
quy luật và cơ chế chung của xã hội. Đó là cầu nối giữa con người thành viên
của gia đình với xã hội nhiều thông tin ở ngoài. Gia đình là tổ ấm tức là đem lại
hạnh phúc cho mỗi con người trong gia đình, các cá nhân được đùm bọc về mặt
vật chất, về tâm hồn, về giáo dục, trẻ thơ có điều kiện an toàn và khôn lớn,
người gia có chỗ nương tựa, người lao động được phục hồi về sức khoẻ và thoải
mái về tinh thần. Ở đó thường ngày diễn ra mối quan hệ thiêng liêng và sâu đậm
nghĩa vợ chồng, cha con, anh em, đó là những người đồng tâm, đồng cảm và
nâng đỡ nhau suốt cả cuộc đời. Hiện nay, có rất nhiều vấn đề mà ở ngoài xã hội
không giải quyết được, hoặc giải quyết không hiệu quả, nhưng nếu đưa vào gia
đình lại giải quyết có hiệu quả cho nên khi nào yên ấm gia đình hữu ái trong xã
hội thì cá nhân mới thực sự yên tâm và sáng tạo..Chính vì những lẽ ấy, việc xây
dựng gia đình mới là một trong những sự nghiệp quan trọng trong sự nghiệp
cách mạng Xã hội Chủ nghĩa ở nước ta, đặc biệt là trong quá trình công nghiệp
hoá - hiện đại hoá đất nước.

16


16


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.
-

Giáo Trình Xã hội học chuyên biệt NXB Đại học Lao động- Xã hội
Báo cáo của ban dân số,gia đình và trẻ em [3]
/>
-

/>luanvan.co/luan-van/tieu-luan-mot-so-van-de-cua-gia-dinh-viet-nam-hien-dai-thuctrang-va-giai-phap-7150/

-

17

17



×