Tải bản đầy đủ (.doc) (89 trang)

Hoàn thiện Luật thuế xuất nhập khẩu nhằm thực hiện các hiệp định tự do thương mại thế hệ mới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (463.72 KB, 89 trang )

I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT

NGUYN TH NGA

HOàN THIệN LUậT THUế XUấT NHậP KHẩU
NHằM THựC HIệN CáC HIệP ĐịNH Tự DO THƯƠNG MạI
THế Hệ MớI

LUN VN THC S LUT HC

H NI - 2018


I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT

NGUYN TH NGA

HOàN THIệN LUậT THUế XUấT NHậP KHẩU
NHằM THựC HIệN CáC HIệP ĐịNH Tự DO THƯƠNG MạI
THế Hệ MớI
Chuyờn ngnh: Lut Kinh t
Mó s: 8380101.05

LUN VN THC S LUT HC

Cỏn b hng dn khoa hc: TS. NGUYN AM HIU

H NI - 2018



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng
tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ
công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm
bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các
môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định
của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi
có thể bảo vệ Luận văn.

Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

Nguyễn Thị Nga


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt

MỞ ĐẦU...........................................................................................................1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ LUẬT THUẾ XUẤT
KHẨU, THUẾ NHẬP KHẨU VÀ HIỆP ĐỊNH THƯƠNG
MẠI TỰ DO THẾ HỆ MỚI...............................................................6
1.1.


Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu.......................................................6

1.1.1. Khái niệm thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu...........................................6
1.1.2. Đặc điểm của thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu......................................9
1.2.

Khái quát Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu...........................10

1.2.1. Khái niệm Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu.................................10
1.2.2. Vai trò của Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu trong điều kiện
hội nhập kinh tế quốc tế.......................................................................13
1.2.3. Nội dung của Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu............................14
1.3.

Sơ lược về các Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới và Hiệp
định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương..............22

1.3.1. Khái quát về các FTA thế hệ mới và những cơ hội, thách thức
trong thực hiện các FTA thế hệ mới....................................................22
1.3.2. Sơ lược về Hiệp định đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái
Bình Dương.........................................................................................26
Kết luận Chương 1........................................................................................36


Chương 2: YÊU CẦU ĐIỀU CHỈNH VÀ THỰC TRẠNG LUẬT
THUẾ XUẤT KHẨU, THUẾ NHẬP KHẨU HIỆN HÀNH
DƯỚI GÓC NHÌN THAM CHIẾU VỚI CÁC HIỆP ĐỊNH
THƯƠNG MẠI TỰ DO THẾ HỆ MỚI..........................................37
2.1.


Yêu cầu của CPTPP liên quan đến việc điều chỉnh Luật Thuế
xuất khẩu, thuế nhập khẩu...............................................................37

2.1.1. Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu phải đảm bảo tính minh
bạch và đơn giản..................................................................................37
2.1.2. Yêu cầu bảo hộ sản xuất trong nước và khuyến khích xuất khẩu
.............................................................................................................40
2.2.

Những kết quả đã đạt được của Luật thuế xuất khẩu, thuế
nhập khẩu trong bối cảnh Việt Nam tham gia vào các Hiệp
định thương mại tự do thê hệ mới....................................................44

2.2.1. Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu đã có các quy định phù hợp
với các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới...................................44
2.2.2. Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu đã tạo cơ sở pháp lý để
khuyến khích phát triển sản xuất và xuất khẩu....................................46
2.2.3. Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu đã khuyến khích phát triển
và bảo hộ hợp lý sản xuất kinh doanh trong nước...............................48
2.2.4. Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu đã đơn giản hóa nhiều thủ
tục hành chính, tạo thuận lợi cho người nộp thuế...............................50
2.3.

Những nội dung còn tồn tại của Luật thuế xuất khẩu, thuế
nhập khẩu dưới góc nhìn tham chiếu với CPTPP..........................52

2.3.1. Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu còn thiếu tính minh bạch và
tính đơn giản........................................................................................52
2.3.2. Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu còn thiếu tính ổn định, tính rõ
ràng và còn những quy định chưa phù hợp với yêu cầu của CPTPP

.............................................................................................................56
2.3.3. Nhiều quy định trong Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu còn


chịu sự tác động và ảnh hưởng để giải quyết các chính sách xã hội
.............................................................................................................58
Kết luận Chương 2........................................................................................60
Chương 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN LUẬT THUẾ
XUẤT KHẨU, THUẾ NHẬP KHẨU NHẰM ĐẢM BẢO
THỰC THI CAM KẾT VỀ THUẾ TẠI CÁC HIỆP ĐỊNH
THƯƠNG MẠI TỰ DO THẾ HỆ MỚI..........................................61
3.1.

Định hướng hoàn thiện Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu
.............................................................................................................61

3.1.1. Duy trì và tăng cường vai trò bảo hộ nền sản xuất trong nước và
khuyến khích xuất khẩu của Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu
.............................................................................................................61
3.1.2. Tăng cường tính minh bạch, đơn giản, ổn định và rõ ràng của
Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu..................................................67
3.2.

Một số kiến nghị sửa đổi, bổ sung quy định
của Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu
nhằm đảm bảo thực thi cam kết về thuế của
Việt Nam trong các Hiệp định thương mại tự
do thế hệ mới..............................................................................69

3.2.1. Hoàn thiện các quy định của Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu

.............................................................................................................69
3.2.2. Ban hành Nghị định của Chính phủ quy định Biểu thuế nhập
khẩu ưu đãi đặc biệt để thực hiện CPTPP...........................................73
Kết luận Chương 3........................................................................................75
KẾT LUẬN....................................................................................................76
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................78


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

CPTPP:

Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình
Dương

FTA:

Hiệp định thương mại tự do

Luật Thuế XNK
2005:

Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu số 45/2005/QH11
do Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
thông qua ngày 14 tháng 6 năm 2005

Luật Thuế XNK
2016:

Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu số 107/2016/QH13

do Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
thông qua ngày 06 tháng 4 năm 2016

Nghị định
08/2015/NĐ-CP

Nghị định số 08/2015/NĐ-CP quy định chi tiết và biện
pháp thi hành luật hải quan về thủ tục hải quan, kiểm tra,
giám sát, kiểm soát hải quan do Chính phủ ban hành
ngày 21 tháng 01 năm 2015

Nghị định
122/2016/NĐ-CP

Nghị định số 122/2016/NĐ-CP quy định về biểu thuế
xuất khẩu, biểu thuế nhập khẩu ưu đãi, danh mục hàng
hóa và mức thuế tuyệt đối, thuế hỗn hợp, thuế nhập khẩu
ngoài hạn ngạch thuế quan do Chính phủ ban hành ngày
01 tháng 09 năm 2016

Nghị định
125/2016/NĐ-CP

Nghị định số 125/2017/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số
điều của nghị định số 122/2016/NĐ-CP ngày 01 tháng 9
năm 2016 của Chính phủ về biểu thuế xuất khẩu, biểu thuế
nhập khẩu ưu đãi, danh mục hàng hóa và mức thuế tuyệt
đối, thuế hỗn hợp, thuế nhập khẩu ngoài hạn ngạch thuế
quan do Chính phủ ban hành ngày 16 tháng 11 năm 2017


Nghị định
134/2016/NĐ-CP

Nghị định số 134/2016/NĐ-CP quy định chi tiết một số
điều và biện pháp thi hành luật thuế xuất khẩu, thuế nhập
khẩu do Chính phủ ban hành ngày 01 tháng 09 năm 2016

Thông tư
39/2015/TT-BTC

Thông tư số 39/2015/TT-BTC quy định về trị giá hải
quan đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu do Chính
phủ ban hành ngày 25 tháng 3 năm 2015

TPP

Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương

WTO

Tổ chức Thương mại thế giới


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Xu thế hội nhập kinh tế toàn cầu bằng việc tích cực tham gia các hiệp
định thương mại tự do khu vực và song phương đang không ngừng lan rộng
khắp khu vực Châu Á – Thái Bình Dương và Việt Nam cũng không nằm
ngoài xu thế đó. Hiện nay, Việt Nam là một trong những nước tham gia nhiều
Hiệp định thương mại tự do nhất thế giới khi có tới 17 FTA. Trong đó, 10

FTA đã ký kết, có hiệu lực; 2 FTA đã ký kết, chưa có hiệu lực; 2 FTA đã kết
thúc đàm phán và 3 FTA đang trong quá trình đàm phán. Trước năm 2007,
Việt Nam chỉ có hai FTA là ASEAN-Trung Quốc và ASEAN-Hàn Quốc. Khi
đó, Việt Nam ký kết FTA với tư cách thành viên của ASEAN. Sau năm 2007,
số lượng FTA Việt Nam ký kết tăng lên nhiều như FTA với Nhật Bản, Chile,
v.v Đặc biệt, năm 2015 được coi là năm “bội thu” về FTA khi Việt Nam cùng
lúc kết thúc đàm phán với Hoa Kỳ trong Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình
Dương (TPP), kết thúc đàm phán với EU ở FTA Việt Nam - EU và kết thúc
đàm phán với Nga trong khuôn khổ FTA Việt Nam-Liên minh kinh tế Á - Âu.
Cũng trong năm 2015, Việt Nam kết thúc đàm phán FTA với Hàn Quốc [36].
Gần đây nhất, ngày 8/3/2018, Việt Nam đã cùng với 10 quốc gia còn lại của
TPP (không bao gồm Hoa Kỳ) đã ký kết Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến
bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP).
Trong hầu hết các FTA đã ký kết, theo lộ trình đến năm 2018 sẽ có trên
95% dòng thuế với các đối tác có thuế suất bằng 0% (ngoại trừ một số mặt
hàng có lộ trình sau năm 2028 như thuốc lá, đường, trứng, muối...). Cam kết
về thuế nhập khẩu trong 2 khuôn khổ FTA thế hệ mới là CPTPP và EVFTA có
tỷ lệ tự do hóa cao hơn với lộ trình ngắn hơn, hướng tới cam kết xóa bỏ thuế
quan đối với 100% số dòng thuế.

1


Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, bên cạnh vai trò là cơ sở pháp lý
cho tạo lập ngân sách nhà nước, còn có vai trò quan trọng là bảo hộ sản xuất
trong nước và khuyến khích hoạt động xuất khẩu. Tuy nhiên, trong điều kiện
hội nhập kinh tế sâu rộng, việc tham gia các FTA thế hệ mới, với mức độ cam
kết giảm thuế nhập khẩu sâu sẽ ảnh hưởng sâu sắc tới nền sản xuất trong
nước. Vì vậy, để góp phần bảo vệ sản xuất trong nước, Việt Nam cần thiết
phải bổ sung, hoàn thiện các quy định trong Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập

khẩu nhằm hỗ trợ các ngành sản xuất trong nước, để đảm bảo phù hợp với
phù hợp với xu hướng cải cách chính sách thuế trên thế giới hiện nay cũng
như với lộ trình tự do hóa thương mại mà Việt Nam đã cam kết thực hiện.
Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài “Hoàn thiện Luật thuế xuất nhập khẩu
nhằm thực hiện các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới” hiện nay mang
tính cấp thiết, không những về mặt lý luận, mà còn là đòi hỏi của thực tiễn,
nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện các cam kết về thuế tại các hiệp định
thương mại tự do đã được ký kết.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong thời gian qua, đã có một số tác giả có các công trình nghiên cứu
khoa học về chính sách thuế xuất nhập khẩu như: tác giả Lỗ Thị Nhụ - Tổng
cục Hải quan có bài viết “Chính sách thuế đối với hoạt động xuất, nhập khẩu
trong bối cảnh mới” đăng trên Tạp chí tài chính; bài viết “Thuế xuất nhập
khẩu của Việt Nam trong xu thế hội nhập và tự do hóa thương mại” của tác
giả Nguyễn Thị Thanh Hoài; tác giả Ngô Khánh Phượng có đề tài luận văn
thạc sĩ luật học năm 2010 “Pháp luật thuế xuất nhập khẩu trong điều kiện
Việt Nam thực thi cam kết WTO”; tác giả Nông Thị Phượng có đề tài luận văn
thạc sĩ luật học năm 2016 “Pháp luật về quản lý thuế xuất nhập khẩu và thực
tiễn áp dụng tại chi cục Hải quan cửa khẩu Hữu Nghị - tỉnh Lạng Sơn”,... Tuy

2


nhiên, những công trình này chưa có công trình nào nghiên cứu một cách có
hệ thống về việc hoàn thiện luật thuế xuất nhập khẩu nhằm thực hiện các hiệp
định thương mại tự do thế hệ mới của Việt Nam trong thời gian gần đây.
Do vậy, việc tiến hành nghiên cứu các để đánh giá các quy định và đưa
ra được kiến nghị góp phần hoàn thiện Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu
cho tương thích với cam kết về thuế quan trong các hiệp định thương mại tự
do thế hệ mới được xem là một công việc có ý nghĩa quan trọng trong bối

cảnh hiện nay.
3. Phạm vi nghiên cứu đề tài
Trong số các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới mà Việt Nam đã ký
kết, CPTPP là hiệp định thương mại tự do thế hệ mới mà Việt Nam ký kết gần
đây nhất (08/3/2018) và được đánh giá là một hiệp định thương mại tự do
kiểu mẫu của thế kỷ 21 với phạm vi cam kết rộng, bao phủ toàn diện, cam kết
mở cửa trên 20 lĩnh vực khác nhau với phạm vi và mức độ cam kết sâu rộng
hơn các FTA thông thường mà Việt Nam đã tham gia trước đây. Trong
CPTPP, Việt Nam cam kết xóa bỏ gần 100% số dòng thuế. Với yêu cầu cao về
tính minh bạch, trong đó có các cam kết về thuế quan, mà liên quan trực tiếp
là Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu. Vì vậy, trong phạm vi đề tài này, bên
cạnh việc nghiên cứu về các FTA thế hệ mới, tác giả lựa chọn CPTPP là một
trong các FTA thế hệ mới vừa mới được Quốc Hội Việt Nam phê chuẩn để tập
trung nghiên cứu chuyên sâu nhằm hoàn thiện luật thuế xuất khẩu, thuế nhập
khẩu, đảm bảo thực thi cam kết về thuế quan của Việt Nam trong CPTPP.
Luận văn tập trung vào việc rà soát các nội dung cam kết về thuế
quan của Việt Nam tại các FTA thế hệ mới, đặc biệt là trong CPTPP và các
quy định của Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu hiện hành để đánh giá sự
tương thích của Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu với các FTA thế hệ

3


mới, trong đó có CPTPP, từ đó, đưa ra phương hướng và giải pháp hoàn
thiện, nội luật hóa các cam kết của Việt Nam tại Luật thuế xuất khẩu, thuế
nhập khẩu trong bối cảnh Việt Nam tham gia và ký kết CPTPP.
4. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề cơ bản về luật thuế xuất khẩu,
thuế nhập khẩu và các cam kết về thuế quan của Việt Nam các FTA thế hệ
mới, việc nghiên cứu đề tài nhằm mục đích tìm ra những yêu cầu của các FTA

thế hệ mới nói chung và CPTPP nói riêng liên quan đến Luật thuế xuất khẩu,
thuế nhập khẩu hiện hành; đánh giá thực trạng Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập
khẩu dưới góc nhìn tham chiếu với CPTPP; để từ đó đưa ra những kiến nghị
hoàn thiện Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu nhằm đảm bảo thực thi các
cam kết về thuế quan tại các FTA thế hệ mới, trong đó có CPTPP.
5. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Trên nền tảng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử.
luận văn còn sử dụng kết hợp nhiều phương pháp nghiên cứu cụ thể như:
- Phương pháp tổng hợp, lịch sử và diễn giải được sử dụng trong
Chương 1 khi nghiên cứu để đưa những vấn đề cơ bản về Luật thuế xuất
khẩu, thuế nhập khẩu và khái quát các vấn đề cơ bản về các FTA thế hệ mới.
- Phương pháp phân tích, đối chiếu, quy nạp, diễn giải được sử dụng ở
Chương 2 để nghiên cứu thực trạng Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu dưới
góc nhìn tham chiếu với CPTPP và các FTA thế hệ mới khác từ đó rút ra được
những yêu cầu điều chỉnh và nội dung pháp luật cần điều chỉnh.
- Phương pháp bình luận, tổng hợp, quy nạp được sử dụng ở Chương 3
khi đề cập đến một số giải pháp hoàn thiện hoàn thiện Luật thuế xuất khẩu,
thuế nhập khẩu nhằm đảm bảo thực thi các cam kết về thuế tại các FTA thế hệ
mới, trong đó có CPTPP.

4


6. Kết quả mới đạt được của luận văn
Luận văn có những đóng góp mới sau đây:
- Nghiên cứu các vấn đề cơ bản về Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập
khẩu và khái quát các vấn đề cơ bản của các Hiệp định thương mại tự do thế
hệ mới;
- Trình bày yêu cầu điều chỉnh Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu và
những kết quả đã đạt được, những nội dung còn tồn tại của Luật thuế xuất

khẩu, thuế nhập khẩu hiện hành trong bối cảnh Việt Nam tham gia và ký kết
các FTA thế hệ mới nói chung và CPTPP nói riêng;
- Đưa ra phương hướng, kiến nghị sửa đổi, bổ sung quy định của Luật
thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu hiện hành đảm bảo thực thi cam kết về thuế
trong các FTA thế hệ mới, đặc biệt là CPTPP của Việt Nam
7. Bố cục và nội dung cơ bản của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục các tài liệu tham khảo, Luận
văn được kết cấu thành ba chương với nội dung cơ bản như sau:
Chương 1: Một số vấn đề cơ bản về Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập
khẩu và các Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới
Chương 2: Yêu cầu điều chỉnh và thực trạng Luật thuế xuất khẩu, thuế
nhập khẩu hiện hành dưới góc nhìn tham chiếu với các Hiệp định thương mại
tự do thế hệ mới
Chương 3: Một số kiến nghị hoàn thiện Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập
khẩu hiện hành nhằm đảm bảo thực thi cam kết về thuế quan trong các Hiệp
định thương mại tự do thế hệ mới

5


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ LUẬT THUẾ XUẤT KHẨU,
THUẾ NHẬP KHẨU VÀ HIỆP ĐỊNH THƯƠNG MẠI TỰ DO
THẾ HỆ MỚI
1.1. Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu
1.1.1. Khái niệm thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu
Thuế ra đời gắn liền với sự hình thành và phát triển của Nhà nước. Sự
xuất hiện của Nhà nước đòi hỏi phải có của cải vật chất để duy trì hoạt động
của bộ máy Nhà nước và thực hiện chức năng quản lý xã hội của mình. Để có
được của cải vật chất cần thiết, Nhà nước đã sử dụng quyền lực của mình để

ban hành pháp luật, bắt buộc các cá nhân và pháp nhân phải đóng góp một
phần của cải vật chất vào ngân sách nhà nước. Quan hệ thu, nộp của cải vật
chất này chính là thuế.
Ở nước ta, thuế trước hết là công cụ tạo lập nguồn tài chính cho ngân
sách nhà nước để thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước. Ngoài ra,
trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thuế
trở thành công cụ quan trọng để Nhà nước điều tiết nền kinh tế và bảo đảm
công bằng xã hội.
Từ thời nhà Lý vào thế kỷ thứ X đã ban hành các loại thuế đánh vào
sản phẩm nông, lâm, ngư nghiệp. Trải qua các triều đại phong kiến, nhiều
sắc thuế được đặt ra đánh vào hoạt động khai mỏ, giao thương với nước
ngoài. Với sự phát triển của các ngành công nghiệp trong thời kỳ Pháp
thuộc, một số loại thuế hiện đại đã được áp dụng nhằm tạo nguồn thu cho
chính quyền bảo hộ [18, tr.10].
Cùng với sự phát triển của hoạt động sản xuất, các quan hệ mua bán
trao đổi hàng hóa giữa các quốc gia ngày càng phát triển. Mỗi một quốc gia
6


đều sử dụng một loại thuế đánh vào hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu qua cửa
khẩu, biên giới nước mình. Thuế xuất khẩu xuất hiện cùng với nhu cầu bảo vệ
hàng hóa nội địa, thuế nhập khẩu ở nhiều nước còn được gọi là “thuế quan”.
Trong lịch sử, thuế quan được áp dụng trong quan hệ thương mại giữa các
nước, chế độ thuế quan ưu đãi được áp dụng trong quan hệ giữa nước bản
quốc và thuộc địa.
Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu lần đầu tiên được Nhà nước ban hành
vào năm 1951, thời điểm này, thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu là công cụ để
nhà nước thực hiện chức năng quản lý việc xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa
giữa vùng tự do và vùng bị tạm chiếm để bảo vệ và phát triển kinh tế các
vùng tự do, xúc tiến việc giao lưu các loại hàng hóa là nhu yếu phẩm cần thiết

cho quân đội và nhân dân. Tuy nhiên, cho đến nay, khái niệm về thuế xuất
khẩu, thuế nhập khẩu vẫn chưa được quy định tại bất kỳ văn bản pháp luật
nào của Việt Nam.
Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu hàng mậu dịch 1987 không đưa ra
định nghĩa về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu mà trực tiếp quy định đối tượng
chịu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu tại Điều 1: “Tất cả hàng hoá mua bán,
trao đổi với nước ngoài, khi xuất khẩu hoặc nhập khẩu qua biên giới Việt
Nam đều là đối tượng chịu thuế xuất khẩu hoặc thuế nhập khẩu.”
Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu năm 1993; Luật thuế xuất khẩu,
thuế nhập khẩu sửa đổi 1993; Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu sửa đổi
1998 mặc dù có sửa đổi, bổ sung làm rõ khái niệm về xuất khẩu, nhập khẩu
hàng hóa nhưng cũng chưa đưa ra định nghĩa về thuế xuất khẩu, thuế nhập
khẩu: “Hàng hóa được phép xuất khẩu, nhập khẩu qua cửa khẩu, biên giới
Việt Nam, kể cả hàng hóa từ thị trường trong nước đưa ra khu chế xuất và từ
khu chế xuất đưa ra thị trường trong nước, đều thuộc đối tượng chịu thuế

7


xuất khẩu, thuế nhập khẩu” (Điều 1).
Có nhiều cách hiểu khác nhau về khái niệm thuế xuất khẩu, thuế nhập
khẩu tùy thuộc vào từng góc độ tiếp cận.
Trên góc độ kinh tế, thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu là khoản đóng góp
bằng tiền của tổ chức, cá nhân vào ngân sách nhà nước theo quy định của
pháp luật, khi họ có hành vi xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa qua biên giới một
nước. Với cách tiếp cận này, thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu là một quan hệ
phân phối các nguồn lực tài chính, phát sinh giữa các chủ thể là tổ chức, cá
nhân nộp thuế với người thu thuế là Nhà nước. Mặt khác, thuế xuất khẩu, thuế
nhập khẩu còn có thể được hiểu như đòn bẩy kinh tế hay biện pháp kinh tế để
Nhà nước điều tiết trực tiếp đối với quá trình sản xuất, tiêu dùng trong phạm

vi mỗi quốc gia và chi phối một cách gián tiếp đối vợi hoạt động kinh tế trên
phạm vi khu vực và toàn cầu [29, tr.126].
Dưới góc độ pháp lý, thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu là quan hệ pháp
luật phát sinh giữa Nhà nước (người thu thuế) với tổ chức, cá nhân (người nộp
thuế), về việc tạo lập và thực hiện các quyền và nghĩa vụ pháp lý cho các bên
trong quá trình hành thu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu. Quan hệ này phát
sinh từ cơ sở pháp lý là Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu do Quốc hội ban
hành làm phát sinh quyền thu thuế cho Nhà nước và nghĩa vụ đóng thuế cho
các tổ chức, cá nhân là người nộp thuế [29, tr.127].
Theo TS. Nguyễn Thị Lan Hương – Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà
Nội, thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu là khoản thu thuế đối với hoạt động xuất
khẩu và nhập khẩu của tổ chức và cá nhân vào ngân sách nhà nước khi thực
hiện hành vi xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa theo quy định của pháp luật.
Dưới góc độ kinh tế, thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu là công cụ để Nhà nước
kiểm soát đối với hoạt động xuất nhập khẩu, công cụ điều tiết đối với quá

8


trình sản xuất, tiêu dùng trong phạm vi mỗi quốc gia nhằm thực hiện các
chính sách kinh tế bảo hộ hàng nội địa hoặc đa phương hóa các quan hệ trong
nước với các nước trong khu vực hoặc phạm vi toàn cầu. Dưới góc độ pháp
lý, thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu là khoản thu được ghi nhận trong Luật thuế
xuất khẩu, thuế nhập khẩu do Quốc hội ban hành, được tổ chức thu bởi cơ
quan Hải quan và được đảm bảo cưỡng chế thực hiện [18, tr.179].
Theo quan điểm của tác giả, thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu là một
khoản thu bắt buộc đánh vào hàng hóa xuất khẩu, hàng hóa nhập khẩu do các
tổ chức, cá nhân đóng góp vào ngân sách nhà nước theo quy định của pháp
luật khi họ có hành vi xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa qua biên giới một nước.
1.1.2. Đặc điểm của thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu

Là một trong các loại thuế theo pháp luật Việt Nam, bên cạnh những
đặc điểm chung của thuế như là khoản nộp bắt buộc của tổ chức, cá nhân vào
ngân sách nhà nước, không mang tính đối giá, được thu bằng tiền hoặc hiện
vật, được bảo đảm thu bằng biện pháp cưỡng chế, thuế xuất khẩu, thuế nhập
khẩu có sự khác biệt với các loại thuế khác ở các điểm sau:
Thứ nhất, thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu là khoản thu đánh vào hàng
hóa được phép vận chuyển qua biên giới. Cụ thể là thuế xuất khẩu đánh vào
hàng hóa sản xuất trong nước đưa ra nước ngoài, thuế nhập khẩu đánh vào
hàng hóa được phép vận chuyển từ biên giới nước ngoài vào nội địa hoặc từ
khu phi thuế quan nằm trong lãnh thổ quốc gia vào thị trường nội địa. Đối
tượng xuất khẩu, nhập khẩu là hàng hóa tiêu dùng hoặc tư liệu sản xuất.
Thứ hai, chủ thể xuất khẩu và nhập khẩu hàng hóa có thể nhằm mục
đích tiêu dùng hoặc kinh doanh. Tùy thuộc vào mục đích xuất khẩu, nhập
khẩu mà có sự phân biệt chủ thể nộp thuế và chủ thể chịu thuế. Đối với cá
nhân trực tiếp nhập khẩu cho tiêu dùng thì cá nhân vừa là người chịu thuế vừa

9


là người nộp thuế; đối với cá nhân, doanh nghiệp nhập khẩu nhằm mục đích
kinh doanh thì cá nhân, doanh nghiệp đó là người nộp thuế, còn người chịu
thuế là người tiêu dùng.
Thứ ba, thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu chịu ảnh hưởng trực tiếp của
các yếu tố quốc tế như: sự biến động kinh tế thế giới, xu hướng thương mại
quốc tế, v.v. Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu điều chỉnh vào hoạt động xuất,
nhập khẩu hàng hóa của một quốc gia. Sự biến động của kinh tế thế giới, xu
hướng thương mại quốc tế trong từng thời kỳ sẽ tác động trực tiếp tới hàng
hóa nhập khẩu của các quốc gia, nhất là xu thế tự do hóa thương mại, mở cửa
và hội nhập kinh tế như hiện nay. Để đạt được những mục tiêu đặt ra, đòi hỏi
chính sách thuế xuất khẩu, nhập khẩu phải có tính linh hoạt cao, có sự thay

đổi phù hợp với sự biến động của kinh tế thế giới và thương mại quốc tế.
Ngoài ra,chính sách thuế xuất khẩu, nhập khẩu còn phải đảm bảo phù hợp với
các hiệp định, cam kết quốc tế mà mỗi quốc gia ký kết hoặc tham gia.
Thứ tư, thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu được tổ chức thu bởi cơ quan
Hải quan, cơ quan này cũng đồng thời là cơ quan tổ chức cưỡng chế thực hiện
nghĩa vụ nộp thuế cùng với các cơ quan có thẩm quyền khác.
1.2. Khái quát Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu
1.2.1. Khái niệm Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu
Các nước ban hành Luật thuế quan (Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập
khẩu) làm cơ sở pháp lý bảo vệ chủ quyền quốc gia đối với hàng hóa xuất
khẩu, hàng hóa nhập khẩu nhằm tạo nguồn thu cho ngân sách nhà nước. Do
hàng hóa xuất khẩu của một quốc gia bị đánh thuế nhập khẩu ở quốc gia khác,
nên để duy trì quan hệ thương mại ổn định hai bên cùng có lợi, các nước ban
hành các biện pháp đánh thuế nhằm bảo hộ hàng nội địa, đồng thời, duy trì
quan hệ thương mại thông qua chính sách thuế quan có đi có lại.
10


Ở nước ta, Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu là luật nội dung bao gồm
các quy phạm pháp luật do Quốc hội ban hành nhằm xác định số thuế xuất
khẩu, thuế nhập khẩu phải nộp, căn cứ đánh thuế và các quy định về hoàn thuế,
làm cơ sở bảo vệ quyền và lợi ích của Nhà nước và người nộp thuế.
Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu được ban hành với các ý nghĩa sau:
Thứ nhất, Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu là cơ sở pháp lý để tạo
nguồn thu cho ngân sách nhà nước. Khoản thu từ thuế xuất khẩu, thuế nhập
khẩu là khoản thu của ngân sách trung ương được hưởng 100%. Đối với thuế
nhập khẩu, người nộp thuế là tổ chức và cá nhân phải nộp thuế ngay từ thời
điểm nhập khẩu hàng hóa, khoản thuế này được chuyển hóa thành nghĩa vụ
chịu thuế của người tiêu dùng trong trường hợp hàng hóa được nhập khẩu để
sản xuất hàng hóa bán ra hoặc nhập khẩu để kinh doanh thương mại. Đối với

thuế xuất khẩu, tổ chức hoặc cá nhân phải nộp thuế trước khi chuyển qua biên
giới hoặc qua cửa khẩu. Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu 2016 quy định
tổ chức hoặc cá nhân nhập khẩu có nghĩa vụ nộp thuế xuất khẩu, thuế nhập
khẩu vào ngân sách nhà nước trừ trường hợp được hoàn thuế.
Thứ hai, Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu là cơ sở pháp lý cụ thể
hóa chính sách thuế và chính sách kinh tế đối ngoại nhằm điều tiết nền kinh
tế. Đối tượng của chính sách thuế nhập khẩu là nhằm bảo hộ nền sản xuất
trong nước, điều tiết hành vi tiêu dùng trong nước. Các quy định về hàng
hóa thuộc diện đánh thuế, thuế suất được sửa đổi, bổ sung phù hợp với việc
ban hành các chính sách kinh tế trong từng thời kỳ. Quy định thuế suất là
căn cứ bảo vệ quyền thu thuế của Nhà nước, đồng thời xác định trách
nhiệm của tổ chức, cá nhân nhập khẩu thực hiện nghĩa vụ nộp thuế trước
khi đưa hàng hóa vào lưu thông.

11


Thứ ba, Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu là cơ sở pháp lý ghi nhận
nghĩa vụ và quyền lợi của tổ chức, cá nhân xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa.
Người xuất khẩu, nhập khẩu có thể được hưởng lợi ích miễn thuế và hoàn
thuế khi có đủ căn cứ theo quy định.
Ngày 29-12-1987, Quốc hội khóa VIII kỳ họp lần thứ 2 đã thông qua
Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu hàng mậu dịch. Luật này chỉ điều chỉnh
quan hệ thu nộp thuế phát sinh từ hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu hàng mậu
dịch. Do đó có sự phân biệt trong áp dụng chế độ thu thuế giữa hàng hoá mậu
dịch với các loại hàng hoá phi mậu dịch khác.
Khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, Luật Thuế xuất khẩu, thuế
nhập khẩu hàng mậu dịch 1987 đã bộc lộ nhiều nhược điểm và chưa bảo vệ
nền sản xuất hàng hóa nội địa, hướng dẫn tiêu dùng, tăng thu cho ngân
sách... Vì vậy, Chính phủ đã trình Quốc hội thông qua Luật Thuế xuất

khẩu, thuế nhập khẩu ngày 26-11-1991. Mục đích của thuế xuất khẩu, thuế
nhập khẩu là bảo vệ nền kinh tế trong nước, tăng thu ngân sách cho Nhà
nước và hướng dẫn bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng. Năm 1993, 1998
Quốc hội ban hành Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Thuế xuất
khẩu, thuế nhập khẩu 1991 cho phù hợp với tình hình kinh tế chính trị của
từng giai đoạn lịch sử.
Sau 20 năm đổi mới, nước ta đã hội nhập sâu với nền kinh tế thế giới,
tham gia và ký kết nhiều cam kết, hiệp định quốc tế. Do đó, chính sách pháp
luật cũng phải thay đổi để phù hợp với thông lệ quốc tế. Ngày 14-6-2005, tại
kỳ họp thứ 7 Quốc hội khóa XI đã thông qua Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập
khẩu 2005. Luật này cùng với các luật khác đã hoàn thiện các quy định của
pháp luật Việt Nam theo yêu cầu của WTO khi gia nhập WTO.

12


Cùng với sự hội nhập nền kinh tế thế giới sâu rộng, Việt Nam đã tham
gia nhiều hiệp định song phương và đa phương với các quốc gia trên thế giới,
trong đó có nhiều hiệp định thương mại tự do thế hệ mới với phạm vi cam
kết sâu rộng, Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu 2005 bộc lộ nhiều quy
định chưa phù hợp với thực tiễn của nền kinh tế. Vì vậy, để cụ thể hóa và
phù hợp với các cam kết về thuế quan theo các hiệp định đã ký kết, đồng
thời, bảo hộ nền sản xuất trong nước, Quốc hội khóa XIII đã ban hành Luật
thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu 2016 thay thế cho Luật thuế xuất khẩu, thuế
nhập khẩu 2005.
1.2.2. Vai trò của Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu trong điều
kiện hội nhập kinh tế quốc tế
Trong cấu trúc hệ thống thuế ở mỗi quốc gia, thuế xuất khẩu, thuế nhập
khẩu không chỉ có ý nghĩa trong việc tạo nguồn thu cho ngân sách nhà nước,
mà còn là công cụ hữu hiệu để Nhà nước bảo hộ nền sản xuất trong nước,

kiểm soát hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa và thực hiện các mục tiêu đối
ngoại trong từng thời kỳ, đối với từng quốc gia hoặc nhóm quốc gia cụ thể.
Mặc dù ra đời sau một số sắc thuế nội địa, nhưng thuế xuất khẩu, thuế nhập
khẩu đã nhanh chóng khẳng định được vai trò, tác dụng to lớn của mình đối
với nền kinh tế quốc gia, đặc biệt là vai trò kiểm soát hoạt động xuất khẩu,
nhập khẩu hàng hóa và bảo hộ nền sản xuất trong nước.
Đặc biệt, trong điều kiện hội nhập kinh tế thị trường sâu rộng, thông
qua việc tham gia đàm phán và ký kết nhiều FTA, trong đó có những FTA
thế hệ mới với mức độ tự do hóa sâu, thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu có vai
trò quan trọng trong việc bảo hộ nền sản xuất trong nước, thúc đẩy hoạt
động xuất khẩu, chống lại xu hướng cạnh tranh không cân bằng giữa hàng
hóa trong nước với hàng hóa nhập khẩu. Điều này được thể hiện ở khía
cạnh sau đây:
13


Đối với hàng hóa nhập khẩu, việc đánh thuế nhập khẩu thực chất là một
biện pháp để bảo hộ nền sản xuất trong nước. Về lý thuyết, khi bị đánh thuế
nhập khẩu, giá cả của hàng hóa nhập khẩu sẽ tăng lên, trong khi đó hàng hóa
được sản xuất trong nước, do không bị đánh thuế nhập khẩu, nên sẽ có giá
thành thấp hơn hàng hóa nhập khẩu, và do đó, sức cạnh tranh của hàng hóa
nhập khẩu so với hàng hóa trong nước là thấp hơn. Tuy nhiên, hiện nay, Việt
Nam đã hội nhập sâu rộng với nền kinh tế quốc tế, dự kiến trong vòng 10 năm
tới mức độ tự do hóa thương mại sẽ đạt 97 – 98% dòng thuế, trong bối cảnh
đó, hàng hóa sản xuất trong nước đã không còn lợi thế về giá cả so với hàng
hóa nhập khẩu nữa. Khi đó, để bảo hộ sản xuất trong nước, những quy định
pháp luật để khuyến khích xuất khẩu, tăng khả năng cạnh tranh của hàng hóa
trong nước và công cụ về thuế để bảo vệ hàng hóa trong nước là cần thiết.
Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu chính là cơ sở pháp lý cho những quy
định và công cụ đó.

Ngày nay, mặc dù xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế đang dần dần
ảnh hưởng không nhỏ tới thuế xuất khẩu, nhập khẩu theo hướng hạn chế
vai trò của các loại thuế này ở mỗi quốc gia, nhưng về cơ bản, thuế xuất
khẩu, thuế nhập khẩu vẫn sẽ là giải pháp quản lý vĩ mô có hiệu quả đối với
nền kinh tế trong nước, đặc biệt là các quốc gia đang trong quá trình
chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế kinh tế thị trường
như Việt Nam [29, tr.126].
1.2.3. Nội dung của Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu
1.2.3.1. Đối tượng chịu thuế
Đối tượng chịu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu là hàng hóa xuất khẩu,
nhập khẩu qua cửa khẩu, biên giới Việt Nam; hàng hóa xuất khẩu từ thị
trường trong nước vào khu phi thuế quan, hàng hóa nhập khẩu từ khu phi thuế
quan vào thị trường trong nước và hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu tại chỗ và

14


hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu của doanh nghiệp thực hiện quyền xuất khẩu,
quyền nhập khẩu, quyền phân phối (Điều 2 Luật Thuế XNK 2016). Quy định
này ghi nhận dấu hiệu xác định hàng hóa thuộc đối tượng chịu thuế xuất khẩu,
thuế nhập khẩu để phân biệt với các hàng hóa giao dịch trong nội địa.
Về nguyên tắc, hàng hóa có xuất xứ từ một quốc gia khác nhập khẩu
vào Việt Nam hoặc hàng hóa đưa vào thị trường trong nước từ khu vực phi
thuế quan, hàng hóa nhập khẩu tại chỗ và hàng hóa nhập khẩu của doanh
nghiệp thực hiện quyền nhập khẩu bị đánh thuế nhập khẩu; còn hàng hóa
sản xuất trong nội địa xuất khẩu ra nước ngoài hoặc đưa vào khu vực phi
thuế quan trong lãnh thổ quốc gia và hàng hóa xuất khẩu tại chỗ, hàng hóa
xuất khẩu của doanh nghiệp thực hiện quyền xuất khẩu bị đánh thuế xuất
khẩu. Hàng hóa được phép vận chuyển qua biên giới bao gồm hàng hóa
dùng cho sản xuất như máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu, hàng hóa tiêu

dùng hoặc hàng hóa là phần mềm nằm trong danh mục đánh thuế. Đối với
xuất nhập khẩu phần mềm, việc xuất khẩu hoặc nhập khẩu có thể thực hiện
bằng chuyển qua biên giới hoặc qua mạng nhưng vẫn thược đối tượng đánh
thuế theo quy định.
Hàng hóa có thể được đưa từ thị trường trong nước vào khu vực phi
thuế quan và từ khu phi thuế quan vào thị trường trong nước và từ khu vực
phi thuế quan vào thị trường trong nước. Khu vực phi thuế quan là khu vực
độc lập với chủ quyền kinh tế nội địa, được thành lập theo quyết định của Thủ
tướng Chính phủ, nhằm bảo đảm sự thuận lợi cho các chủ thể kinh doanh
trong khu vực này trong quan hệ xuất khẩu ra nước ngoài. Khu vực phi thuế
quan bao gồm doanh nghiệp chế xuất, khu chế xuất, kho bảo thuế, kho ngoại
quan và các khu phi thuế quan khác. Quan hệ mua bán, trao đổi hàng hóa giữa
khu này với bên ngoài (bao gồm cả thị trường trong nước) là quan hệ xuất
khẩu, nhập khẩu (theo định nghĩa tại Điều 4 Luật Thuế XNK 2016).
15


1.2.3.2. Chủ thể nộp thuế
Chủ thể nộp thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu là người có nghĩa vụ nộp
khoản thuế vào ngân sách nhà nước theo quy định. Luật Thuế XNK 2016 quy
định chi tiết các loại chủ thể có nghĩa vụ nộp thuế tại Điều 3. Căn cứ vào hành
vi thực hiện thủ tục nộp thuế của các chủ thể, có thể phân chia chủ thể nộp
thuế thành 2 dạng chủ thể. Thứ nhất là tổ chức, cá nhân trực tiếp thực hiện
nghĩa vụ nhân danh mình như chủ hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu; Tổ chức
nhận ủy thác xuất khẩu, nhập khẩu; Người xuất cảnh, nhập cảnh có hàng hóa
xuất khẩu, nhập khẩu, gửi hoặc nhận hàng hóa qua cửa khẩu, biên giới Việt
Nam, v.v. Thứ hai là các tổ chức, cá nhân được ủy quyền nộp thuế trong phạm
vi ủy quyền như Đại lý làm thủ tục hải quan; Doanh nghiệp cung cấp dịch vụ
bưu chính, dịch vụ chuyển phát nhanh quốc tế trong trường hợp nộp thuế thay
cho người nộp thuế; Người được chủ hàng hóa ủy quyền, v.v.

1.2.3.3. Căn cứ tính thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu
Căn cứ tính thuế là quy định của pháp luật về thuế suất và dữ liệu liên
quan đến số lượng, giá trị hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu.
 Trị giá tính thuế
Theo Luật Thuế XNK 2016, trị giá tính thuế, bên cạnh thuế suất, sẽ
được sử dụng làm cơ sở để xác định số tiền thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu
đối với hàng hóa áp dụng phương pháp tính thuế theo tỷ lệ phần trăm (khoản
1 Điều 5) và hàng hóa áp dụng phương pháp tính thuế hỗn hợp (khoản 2 Điều
6). Trị giá tính thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu là trị giá hải quan theo quy
định của Luật Hải quan.
Đối với hàng hóa xuất khẩu, trị giá hải quan là giá bán của hàng hóa
tính đến cửa khẩu xuất, không bao gồm phí bảo hiểm quốc tế và phí vận tải

16


quốc tế. Giá bán của hàng hóa tính đến cửa khẩu xuất bao gồm giá bán ghi
trên hợp đồng mua bán hàng hóa hoặc hóa đơn thương mại và các khoản chi
phí liên quan đến hàng hóa xuất khẩu phù hợp với chứng từ có liên quan nếu
các khoản chi phí này chưa bao gồm trong giá bán của hàng hóa (Khoản 8,
Điều 1, Nghị định 59/2018/NĐ-CP).
Đối với hàng hóa nhập khẩu, trị giá hải quan là giá thực tế phải trả tính
đến cửa khẩu nhập đầu tiên trên cơ sở áp dụng Hiệp định chung về thuế quan
và thương mại hoặc theo các cam kết quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam đã ký kết. Bộ Tài chính quy định phương pháp xác định giá thực tế
phải trả tính đến cửa khẩu nhập đầu tiên được xác định bằng cách áp dụng
tuần tự sáu phương pháp xác định trị giá hải quan: (i) phương pháp trị giá
giao dịch, (ii) Phương pháp trị giá giao dịch của hàng hóa nhập khẩu giống
hệt; (iii) Phương pháp trị giá giao dịch của hàng hóa nhập khẩu tương tự; (iv)
Phương pháp trị giá khấu trừ, (v) Phương pháp trị giá tính toán và (vi)

Phương pháp suy luận. Trường hợp người khai hải quan đề nghị bằng văn bản
thì trình tự áp dụng phương pháp trị giá khấu trừ và phương pháp trị giá tính
toán có thể hoán đổi cho nhau. (khoản 2, Điều 5, Thông tư 39/2015/TT-BTC)
 Thuế suất
Thuế suất là mức phải thu được xác định theo tỷ lệ phần trăm của các
đối tượng tính thuế hoặc bằng số tuyệt đối theo các bậc của đối tượng chịu
thuế. Mức thuế theo tỷ lệ phần trăm gọi là thuế suất theo tỷ lệ phần trăm và
mức thu bằng số tuyệt đối gọi là thuế tuyệt đối. Thuế suất tỷ lệ có thể quy
định một mức hoặc nhiều mức và được quy định trong biểu thuế xuất khẩu,
thuế nhập khẩu.
Luật thuế XNK 2016 quy định cụ thể từng loại thuế suất gồm: thuế suất
theo tỷ lệ phần trăm (Điều 5), thuế tuyệt đối (Điều 6), thuế hỗn hợp (Điều 6),

17


thuế đối với hàng hóa áp dụng hạn ngạch thuế quan (Điều 7).
Thuế suất đối với hàng hóa nhập khẩu bao gồm thuế suất ưu đãi, thuế
suất ưu đãi đặc biệt và thuế suất thông thường (Điều 5).
Thuế suất ưu đãi áp dụng đối với hàng hóa nhập khẩu có xuất xứ từ
nước, nhóm nước hoặc vùng lãnh thổ thực hiện đối xử tối huệ quốc trong
quan hệ thương mại với Việt Nam; hàng hóa từ khu phi thuế quan nhập khẩu
vào thị trường trong nước đáp ứng Điều kiện xuất xứ từ nước, nhóm nước
hoặc vùng lãnh thổ thực hiện đối xử tối huệ quốc trong quan hệ thương mại
với Việt Nam (điểm a, khoản 3, Điều 5).
Thuế suất ưu đãi đặc biệt áp dụng đối với hàng hóa nhập khẩu có xuất
xứ từ nước, nhóm nước hoặc vùng lãnh thổ có thỏa thuận ưu đãi đặc biệt về
thuế nhập khẩu trong quan hệ thương mại với Việt Nam; hàng hóa từ khu phi
thuế quan nhập khẩu vào thị trường trong nước đáp ứng Điều kiện xuất xứ từ
nước, nhóm nước hoặc vùng lãnh thổ có thỏa thuận ưu đãi đặc biệt về thuế

nhập khẩu trong quan hệ thương mại với Việt Nam (điểm b, khoản 3, Điều 5).
Thuế suất thông thường áp dụng đối với hàng hóa nhập khẩu có xuất xứ
từ nước, nhóm nước hoặc vùng lãnh thổ không thực hiện đối xử tối huệ quốc
và không thực hiện ưu đãi đặc biệt về thuế nhập khẩu với Việt Nam. Thuế
suất thông thường được quy định bằng 150% thuế suất ưu đãi của từng mặt
hàng tương ứng (điểm c, khoản 3, Điều 5).
Thuế hỗn hợp bao gồm thuế suất theo tỷ lệ phần trăm và thuế tuyệt đối.
Số tiền thuế áp dụng phương pháp tính thuế hỗn hợp đối với hàng hóa xuất
khẩu, nhập khẩu được xác định là tổng số tiền thuế theo tỷ lệ phần trăm và số
tiền thuế tuyệt đối. Hiện nay, phương pháp tính thuế hỗn hợp đang được áp
dụng đối với mặt hàng ô tô chở người từ 15 chỗ ngồi trở xuống, đã qua sử
dụng (Phụ Lục III, Nghị định 125/2017/NĐ-CP).

18


×