Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

chuyên đề: ÔN TẬP THỂ KÍ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (119.49 KB, 12 trang )

Ôn tập Ngữ Văn

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO VĨNH PHÚC
TRƯỜNG THPT …………..
…………..***********…………….

BÁO CÁO CHUYÊN ĐỀ
BỒI DƯỠNG ÔN THI THPT QUỐC GIA
Tên chuyên đề:
ÔN TẬP THỂ KÍ

GIÁO VIÊN: ……….
Tổ Văn - Sử - Địa ……

1


Ôn tập Ngữ Văn
A. MỤC ĐÍCH - YÊU CẦU
1. Nội dung
- Nắm chắc kiến thức cơ bản về hai tác giả Nguyễn Tuân và Hoàng Phủ Ngọc Tường.
- Nắm chắc và phân tích được giá trị nội dung và nghệ thuật của hai tác phẩm “Người lái đò sông
Đà” và “Ai đã đặt tên cho dòng sông” trên cái nhìn nhiều chiều.
2. Kĩ năng
Ôn luyện và hình thành cho học sinh các dạng đề:
- Tái hiện kiến thức về tác giả, tác phẩm.
- Phân tích phong cách nghệ thuật của tác giả thông qua tác phẩm
- Phân tích hình tượng nhân vật.
- Kiểu bài so sánh
3. Phương pháp
- Giáo viên thuyết trình.


- Học sinh làm đề cương theo các đề cụ thể.
- Tổ chức ôn luyện.
4. Đối tượng và thời gian thực hiện
- Đối tượng: Học sinh lớp 12A2, 12A3
- Thời gian: 12 tiết
B. NỘI DUNG CHUYÊN ĐỀ
I. Kiến thức cơ bản:
1. Về tác giả:
- Nguyễn Tuân: Là định nghĩa chân xác nhất về người nghệ sĩ: “Văn học là lĩnh vực sáng tạo độc
đáo và không bao giờ lặp lại. Nhà văn không được phép dẫm lên bước chân của chính mình và dẫm
lên dấu chân của người khác...”. Là nhà văn có phong cách nghệ thuật độc đáo: phóng túng, tài hoa
và uyên bác, Nguyễn Tuân được mệnh danh là: “Thầy phù thủy của nghệ thuật ngôn từ”,“Người thợ
kim hoàn của ngôn ngữ tiếng Việt”.
- Hoàng Phủ Ngọc Tường là người con của xứ Huế thơ mộng. Tâm hồn ông thấm đẫm chất trầm tư,
diễm ảo của xứ sở “lắm mưa nhiều nắng” này với phong cách hướng nội, xúc tích, mê đắm và tài
hoa.
2. Về hoàn cảnh sáng tác.
- Tùy bút “Người lái đò sông Đà” là kết quả của nhiều dịp Nguyễn Tuân đến với Tây Bắc đặc biệt là
chuyến đi thực tế năm 1958 của ông, được in trong tập tùy bút Sông Đà (1960).

2


Ôn tập Ngữ Văn
- Bút kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông” được Hoàng Phủ Ngọc Tường viết tại Huế năm 1981 và
được in trong tập sách cùng tên.
3. Chủ đề:
- Người lái đò sông Đà (Nguyễn Tuân): Ngợi ca vẻ đẹp của thiên nhiên và con người Tây Bắc; thể
hiện tình yêu mến, sự gắn bó thiết tha của nhà văn đối với đất nước.
- Ai đã đặt tên cho dòng sông? (Hoàng Phủ Ngọc Tường). Qua những khám phá sâu sắc và độc đáo

về sông Hương Hoàng Phủ Ngọc Tường bộc lộ tình yêu tha thiết, sâu lắng và niềm tự hào lớn lao
của mình đối với dòng sông của xứ Huế thân thương mà cũng là tấm lòng dành cho quê hương, đất
nước.
4. Nghệ thuật viết kí:
- Người lái đò sông Đà (Nguyễn Tuân):
+ Sử dụng ví von, so sánh, liên tưởng, tưởng tượng độc đáo, bất ngờ, thú vị
+ Từ ngữ phong phú, sống động, giàu hình ảnh và có sức gợi cảm cao
+ Câu văn đa dạng, nhiều tầng, giàu nhịp điệu, co duỗi nhịp nhàng
- Ai đã đặt tên cho dòng sông? (Hoàng Phủ Ngọc Tường):
+ Văn phong tao nhã, hướng nội, tinh tế và tài hoa
+ Ngôn từ phong phú, gợi hình, gợi cảm; câu văn giàu nhạc điệu
+ Sử dụng hiệu quả các biện pháp nghệ thuật ẩn dụ, so sánh, nhân hóa...
II. Một số dạng đề tiêu biểu:
1. Cho dạng đọc - hiểu:
1.1 “Người lái đò sông Đà”:
Đọc đoạn văn sau và trả lời các câu hỏi:
“... Con Sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây
trời Tây Bắc bung nở hoa ban gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân.... Bờ
sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa. (Ngữ văn
12, tập một, NXBGD 2013, trang 37)
(1) Biện pháp tu từ nào được sử dụng nhiều nhất trong đoạn văn trên là gì?
→So sánh
(2) Nội dung chính của đoạn văn trên là gì?
→Tái hiện vẻ trữ tình, thơ mộng của Sông Đà.
(3) Cảm nhận của anh/chị về nét độc đáo, tài hoa của Nguyễn Tuân trong phép so sánh: “Con Sông
Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc
bung nở hoa ban gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân”.
Gợi ý trả lời

3



Ôn tập Ngữ Văn
- Phép so sánh này khiến Sông Đà chẳng khác gì một mĩ nhân kiều diễm với mái tóc dài tha thướt tô
điểm cho đất trời Tây Bắc.
- Để gợi tả vẻ đẹp của mái tóc ấy, ngòi bút giàu chất hội họa của Nguyễn Tuân đã điểm lên đấy bao
nhiêu màu sắc đẹp. Đó là màu trắng tinh khiết của những bông hoa ban rừng, hòa cùng màu đỏ tươi
của hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân”.
- Nhờ vậy, Nguyễn Tuân đã làm nổi bật vẻ đẹp trữ tình thơ mộng, như một nét đặc sắc riêng của Đà
giang và thiên nhiên Tây Bắc, thể hiện tài quan sát, cũng như cách nhìn ở phương diện hóa, mĩ thuật,
như một nét riêng, độc đáo trong phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân.
(4) Hình ảnh so sánh ở câu hỏi (3), gần gũi nhất với câu thơ, câu văn nào?
a. “Nhớ bản sương giăng, nhớ đèo mây phủ”
(Chế Lan Viên)
b. “Cầu cong như chiếc lược ngà
Sông dài mái tóc cung nga buông hờ”.
(Nguyễn Bính)
c. “Con sông Cầu bốn mùa trong và hiền lành như một cô con gái” (Đỗ Chu).
d. “Sông Hương đã sống nửa cuộc đời của mình như một cô gái Di – gan phóng khoáng và man dại”
(Hoàng Phủ Ngọc Tường).
→Đáp án b
(5) Cảm nhận của anh/chị về đoạn văn:“Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên
như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”.
Gợi ý trả lời
-Những câu văn nhiều thanh bằng tạo cảm giác du dương, đệm nhạc cho những liên tưởng, so sánh
độc đáo.
- Phép so sánh giản dị, tự nhiên, mà độc đáo, giàu sức gợi hình, gợi cảm: Nét “hoang dại” của bờ
sông được ví với “bờ tiền sử”; vẻ “hồn nhiên” của bờ sông được so sánh với “nỗi niềm cổ tích tuổi
xưa.
- Đoạn văn như đưa người đọc vào một không gian lãng mạn, đầy chất họa chất thơ vừa hoang sơ,

trong trắng, đườm sắc màu cổ tích, vừa trữ tình, thơ mộng đến lạ kỳ, thể hiện tình cảm mến yêu tha
thiết của nhà văn về chất “vàng mười” của thiên nhiên Tây Bắc.
1.2. “Ai đã đặt tên cho dòng sông”:
HPNT đã sử dụng một câu văn rất đẹp để tôn vinh vẻ đẹp của dòng sông xứ Huế:“Giống như
sông Xen của Pari, sông Đanuyp của Buđapét, sông Hương chảy giữa lòng thành phố yêu quý của
mình; Huế trong tổng thể vẫn giữ nguyên dạng là một đô thị cổ trải dọc hai bên bờ sông”. Nêu cảm
nhận?

4


Ôn tập Ngữ Văn
Gợi ý trả lời
- Làm nổi bật sự tương đồng và khác biệt của sông Hương với các dòng sông nổi tiếng trên thế giới.
+ Tương đồng: Cũng giống như sông Xen của Pari, sông Đanuýp của Puđapét, sông Hương là dòng
sông chỉ thuộc về một thành phố duy nhất, dâng tặng cho Huế vẻ đẹp nó vốn có, là nét vẽ cuối cùng
hoàn thiện bức tranh “sơn thủy hữu tình” cho mảnh đất cố đô.
+ Khác biệt: Đặt sông Hương song hành cùng sông Xen của Pari và sông Đanuýp của Puđapét là
cách để Hoàng Phủ tìm thấy vẻ đẹp riêng của dòng sông xứ sở khi ngang qua cố đô mà không một
thành phố hiện đại nào có được. Có sông Hương “Huế vẫn giữ nguyên dạng là một đô thị cổ trải
dọc hai bên bờ sông với những ánh lửa thuyền chài lập lòe của một linh hồn mô tê xưa cũ…”. Và
khi ấy dòng chảy Hương giang “Trôi đi chậm, thực chậm, cơ hồ chỉ còn là một mặt hồ yên tĩnh”.
- So sánh sông Hương với sông Xen của Pari và sông Đanuýp của Puđapét, Hoàng Phủ Ngọc Tường
đã thể hiện tình cảm yêu mến và biết ơn dòng sông quê hương, xứ sở.
- Bằng lối so sánh tài hoa, nhà văn đã đánh thức trong lòng người đọc niềm tự hào về dòng sông đất
nước khi sánh ngang với những dòng sông nổi tiếng trên thế giới. Lối so sánh đó xuất phát từ một
năng lực liên tưởng phong phú góp phần tạo nên sức hấp dẫn của sông Hương và bài tùy bút.
2. Cho dạng vận dụng KT – KN để tạo lập văn bản:
Đề 1: Cảm nhận của anh/chị qua hai đoạn văn sau:
“Thuyền tôi trôi trên sông Đà … con đò đuôi én thắt mình dây cổ điển trên dòng trên”(Trích

“Người lái đò sông Đà”- Nguyễn Tuân )
Và:
“Từ đây như đã tìm đúng đường về, sông Hương vui tươi hẳn lên…như vấn vương một nỗi lòng”
(Trích “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” - Hoàng Phủ Ngọc Tường).
Gợi ý
1. Đoạn trích trong tùy bút “Người lái đò sông Đà”
- “Người lái đò sông Đà” là thành quả nghệ thuật đẹp đẽ mà Nguyễn Tuân đã thu hoạch được trong
chuyến đi gian khổ và hào hứng tới vùng đất Tây Bắc xa xôi của Tổ quốc. Chuyến đi ấy đâu chỉ để
thỏa mãn cái thú tìm đến miền đất lạ cho thỏa niềm khát khao “xê dịch” mà chủ yếu để tìm kiếm
“chất vàng của thiên nhiên” - miền núi sông hùng vĩ và thơ mộng, cùng “chất vàng mười đã qua thử
lửa” ở tâm hồn con người lao động.
- Đoạn văn: “thuyền tôi ... trên dòng trên” là cảm nhận vô cùng tinh tế của Nguyễn Tuân về dòng Đà
giang trữ tình, thơ mộng. Với độc giả, có lẽ đây là đoạn tùy bút đẹp nhất, thanh thoát như một nét vẽ
trữ tình bằng văn xuôi.
a. Vẻ đẹp của một dòng sông tĩnh lặng, hồn nhiên đẫm sắc màu cổ tích:

5


Ôn tập Ngữ Văn
- Bút pháp của Nguyễn Tuân biến ảo lạ kì. Có lúc ta bắt gặp một con sông Đà hung dữ, nham hiểm
như loài thủy quái nhưng có lúc nó lại bất ngờ mềm mại, trữ tình như bóng dáng của giai nhân. Nếu
trong cảnh vượt thác sông Đà được ví như “thứ kẻ thù số một” của con người thì đến đây người đọc
như ngẩn ngơ trước vẻ đẹp của một dòng sông hồn nhiên, êm đềm, đẫm sắc màu cổ tích.
- Câu văn mở đoạn toàn thanh bằng “thuyền tôi trôi trên sông Đà” mang đến cảm giác êm ái, nhẹ
nhàng của con thuyền xuôi theo dòng nước. Chữ “lặng tờ” nhắc lại đến hai lần như ru hồn người lữ
khách trong giấc mộng phiêu du. Đà giang bỗng hiền hòa, dịu êm, chan chứa chất thơ đến như vậy.
- Dòng sông như chảy về từ quá khứ “đời Lý, đời Trần, đời Lê” quãng sông này cũng êm đềm đến
thế mà thôi!. Thời gian như đang quay ngược lại để “ông khách sông Đà” được trở về với những
năm tháng vàng son, cảm nhận cái yên bình, lặng tờ của “mấy trăm năm thấp thoáng mộng bình

yên” thuở trước.
- Sông Đà đẫm sắc màu của cổ tích, bình yên như trong huyền thoại, giữ nguyên cái vẻ hoang dại,
nguyên sơ, cổ kính: “ bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử, bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ
tích cổ xưa”.
b. Vẻ đẹp của dòng sông thơ mộng, tràn đầy sức sống:
- Chất thơ của tùy bút như hương hoa bay lên ngào ngạt tô điểm cho vẻ đẹp thơ mộng, tràn đầy sức
sống của Đà giang.
- Bức tranh thiên nhiên tươi mát, non tơ tràn đầy màu xanh của lá ngô và cỏ gianh, thơ mộng với
“đàn hươu thơ ngộ cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương đêm”.
→ Đó là bức tranh thiên nhiên căng tràn sức sống làm hồi sinh vùng đất vừa bước ra khỏi chiến
tranh. Những câu văn đẹp, tài hoa đã tạo nên chất thơ, chất mộng ảo dạt dào cho thiên tùy bút. Câu
chữ tài tình, hình ảnh độc đáo “con hươu thơ ngộ”, “ ngẩng đầu nhung”, “ áng cỏ sương” ... đã thổi
hồn cho cảnh vật.
- Trong không gian tĩnh lặng yên bình ấy đâu đó thấp thoáng nỗi niềm riêng: “chao ôi! Thấy thèm ...
Lai Châu” phải chăng đấy là ước mơ tha thiết của nhà văn về một viễn cảnh đẹp tươi cho vùng Tây
Bắc xa xôi nơi địa đầu Tổ quốc. Mơ ước về một tiếng còi “xúp - lê” vang vọng trong “chuyến xe lửa
đầu tiên” sẽ đến trong một tương lai không quá xa xôi mở ra một cuộc sống bình yên, phồn thịnh.
Đó là ước mơ của một con người nặng lòng với quê hương đất nước.
- Tiếng động nhỏ của đàn cá dầm xanh “quẫy vọt lên mặt nước, bụng trắng như bạc rơi thoi” đem
đến sức sống cho cảnh sắc thiên nhiên. Chỉ Nguyễn Tuân mới chưng cất được thứ ngôn ngữ có âm
thanh, sắc màu, hình khối và cũng chỉ Nguyễn Tuân mới có những so sánh, liên tưởng thú vị đến thế.
- Những con đò xuôi ngược êm ái trên dòng sông phẳng lặng tờ đã đem lại góc nhìn khác cho
Nguyễn Tuân. Sức sống của sông Đà không chỉ là sức sống của thiên nhiên mà sức sống ấy trở nên
phong phú hơn nhờ con người. Nhà văn chợt nhớ tới thi sĩ Tản Đà trên dòng sông Đà “lênh bênh”

6


Ôn tập Ngữ Văn
sóng nước như lời đồng vọng tri kỉ, tri âm: “thuyền tôi trôi ... thư gửi người tình nhân chưa quen

biết” .
- Và con sông thấm đẫm tình cảm nhớ thương, gắn bó với con người “dòng sông quãng này như nhớ
thương ... mình dây cổ điển trên dòng trên” .
→ Những so sánh, ẩn dụ, nhân hóa càng làm tha thiết hơn cái nhìn đằm thắm, nồng nàn... với con
sông đất nước. Nguyễn Tuân như đang đồng vọng tâm hồn với dòng sông Đà Tây Bắc để “lắng
nghe” những âm vang, nhịp sống của đời.
2. Đoạn trích trong bút kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông?”
- Giới thiệu khái quát về vị trí của đoạn văn trong bài tùy bút.
a. Vẻ đẹp duyên dáng, đa tình.
- Từ giã đại ngàn Trường Sơn hùng vĩ, Sông Hương bừng lên sức trẻ và niềm khao khát của tuổi
thanh xuân. Dòng sông đã vượt qua một hành trình đầy gian truân và thử thách để tìm đến với Huế.
Vốn là người nghệ sĩ rất say mê những trang Kiều Hoàng Phủ Ngọc Tường nhìn mối quan hệ giữa
sông Hương và thành phố của nó là quan hệ của cặp tình nhân lý tưởng Kim – Kiều. Cuộc gặp gỡ
giữa sông Hương và Huế là cuộc hội ngộ của tình yêu với nhiều cung bậc cảm xúc.
- Để đến với Huế sông Hương có lúc trầm mặc, lúc dịu dàng, lúc mãnh liệt… nhưng nó chỉ thực sự
“vui tươi hẳn lên” khi đến ngoại ô thành phố. Chỉ thực sự yên tâm khi nhìn thấy “chiếc cầu trắng của
thành phố in ngần trên nền trời nhỏ nhắn như những vầng trăng non”.
- Gặp được thành phố của mình rồi, sông Hương trở nên e lệ và duyên dáng “uốn một cánh cung rất
nhẹ sang cồn Hến. Đường cong ấy làm sông Hương mềm hẳn đi như một tiếng “vâng” không nói ra
của tình yêu”.
→Hoàng Phủ Ngọc Tường đã phát huy cao độ sức mạnh của những phép tu từ gợi cảm khiến sông
Hương vừa toát lên vẻ mềm mại, trẻ trung lại vừa có nét tình tứ, e lệ.
- Sông Hương khi gặp Huế diện mạo trở nên vô cùng lộng lẫy và xinh đẹp với “Trăm nghìn ánh hoa
đăng bồng bềnh vào những đêm hội rằm tháng Bảy từ điện Hòn Chén trôi về” .
- Với cái nhìn của một “cái tôi” mê đắm, tài hoa và dạt dào cảm xúc Hoàng Phủ Ngọc Tường đã nhìn
“điệu chảy lặng tờ” của sông Hương là một điệu “slow” tình cảm mà nó dành riêng cho Huế vậy.
Khúc nhạc lòng của nhà văn đã ngân lên bắt vần với nhịp nước Hương Giang để người đọc được
chiêm ngưỡng những câu văn giàu chất thơ như thế.
b. Vẻ đẹp đằm thắm dịu dàng.
- Bằng trình độ uyên bác, HPNT đã so sánh vẻ đẹp của sông Hương với nhiều dòng sông nổi tiếng

trên thế giới “giống như sông Xen của Pari, sông Đanuyp của Buđapet, sông Hương chảy giữa lòng
thành phố yêu quý của mình”. Cách so sánh tinh tế tôn vinh vẻ đẹp riêng của con sông xứ sở. Đưa

7


Ôn tập Ngữ Văn
sông Hương sánh ngang cùng với những dòng sông nổi tiếng trên thế giới cũng là cách nhà văn thể
hiện niềm tự hào về vẻ đep của dòng sông quê hương, của thiên nhiên, đất nước.
- Gắn với cái đẹp êm đềm, dịu dàng của sông Hương là kỉ niệm của nhà văn về những con sông xứ
người khi xa con sông quê hương. Đó là khi Hoàng Phủ đứng ngắm con sông Nêva “cuốn theo
những tảng băng lô xô.......ra bể Ban – tích”. Chính khoảnh khắc ấy đã đánh thức trong lòng nhà văn
“giấc mơ lộng lẫy của tuổi dại” để thấy yêu quý hơn “điệu chảy lặng tờ” của Hương giang khi chảy
trong lòng Huế.
3. So sánh:
- Điểm chung:
+ “Người lái đò sông Đà” của Nguyễn Tuân và “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” của Hoàng Phủ
Ngọc Tường đều là những trang văn đẹp giàu chất thơ về hai dòng sông nổi tiếng, đều được khám
phá trong sự đa dạng phong phú ở nhiều khoảng thời gian khác nhau. Cả hai nhà văn đều tìm đến đề
tài sông nước trong cảm xúc say đắm, tự hào trước vẻ đẹp của một vùng thiên nhiên, đất nước.
+ Hai đoạn văn xuôi đều đậm chất trữ tình, giàu hình ảnh, âm thanh kết hợp với ngôn từ mượt mà,
giàu chất thi họa khiến ta như được đắm mình trước vẻ đẹp diễm lệ của dòng sông và sự kiêu sa của
ngôn từ.
- Khác nhau:
+ Đoạn văn trong tùy bút “Người lái đò sông Đà” của Nguyễn Tuân được viết bằng cảm xúc nồng
nàn, say đắm trước vẻ đẹp thơ mộng và tràn đầy sức sống của hương núi ngàn hoa. Nguyễn Tuân đã
kiến tạo từng con chữ, dòng văn kết hợp tài tình với so sánh, ẩn dụ, liên tưởng... rất gợi cùng với sự
am hiểu sâu sắc về Tây Bắc và sông Đà tạo nên phong cách nghệ thuật uyên bác, tài hoa – phong
cách của một “ông hoàng tùy bút”.
+ Đoạn văn trong bút kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông” của Hoàng Phủ Ngọc Tường được viết bằng

cảm xúc sâu lắng, suy tư của một người con nặng lòng với Huế. Cùng với những liên tưởng, so sánh
phong phú, HPNT đã nhân hóa sông Hương trong dáng vẻ của một thiếu nữ đa tình mà lại rất chung
tình với Huế, nhìn sông Hương trong mối quan hệ thống nhất với con người Huế. Cái nhìn đầy phát
hiện và độc đáo của HPNT về Huế và sông Hương đã tạo nên phong cách bút ký riêng của HPNT mê
đắm, hướng nội, xúc tích và tài hoa.
Đề 2: Vẻ đẹp của những dòng sông quê hương qua tùy bút “Người lái đò sông Đà” của Nguyễn
Tuân và bút kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” của HP Ngọc Tường?
Gợi ý
- Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm.
* Điểm chung:
1. Đều là hình tượng trung tâm làm nên không gian nghệ thuật riêng của tác phẩm.

8


Ôn tập Ngữ Văn
2. Đều là những con sông của mỗi miền quê đất nước mang vẻ đẹp đa dạng gắn liền với mảnh đất
mà nó được sinh ra.
3. Đều là những con sông của lịch sử gắn liền với chặng đường dựng nước và giữ nước của dân tộc.
Nếu sông Đà gắn liền với mảnh đất Trung du miền núi Bắc Bộ sau khi hòa bình lập lại đang sôi nổi
đi lên Tây Bắc khai phá cuộc sống mới thì Sông Hương là con sông của Duyên hải Nam Trung Bộ
gắn liền với những chiến công oanh liệt của thành phố Huế.
4. Cả hai con sông đều từ hiện thực đời thường bước vào trang văn uyên bác, tài hoa của những nhà
văn dạt dào cảm xúc, nghiêm túc, cẩn trọng trong tìm kiếm và phát hiện. Và để khám phá vẻ đẹp của
dòng sông xứ sở cả hai tác giả cùng quyết định chọn thể tùy bút – bút kí để châm ngòi sáng tạo.
Những con sông soi chiếu vào tâm hồn tài hoa của người nghệ sĩ đã nói lên được tấm lòng gắn bó
với quê hương đất nước của mỗi nhà văn.
5. Dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân và Hoàng Phủ Ngọc Tường cả sông Đà và sông Hương đều trở
thành những sinh thể sống với tính cách độc đáo:
a. Sông Đà: Hiện lên như một nhân vật với hai tính cách:

- Hung bạo: Giữa lòng Tây Bắc, ngọn thác sông Đà gió thốc đã cuốn hút bút lực của nhà văn. Tính
cách hung bạo của sông Đà được thể hiện ở diện mạo, tâm địa như loài thủy quái khôn ngoan mà
hiểm ác...Tất cả những gì thuộc về sông Đà đều dữ dội và nguy hiểm như từ những quãng sông hẹp,
những mặt ghềnh, những hút nước...
- Trữ tình: Nhà văn tập trung miêu tả vẻ đẹp thơ mộng, huyền ảo của Đà giang từ dáng vẻ, sắc nước,
cảnh sắc hai bên bờ, sự gợi cảm và chất thơ của dòng sông...
b. Sông Hương:
- Hoàng Phủ Ngọc Tường không định danh như Nguyễn Tuân định danh cho sông Đà nhưng đọc bài
kí ta thấy sông Hương hiện lên như một nhân vật với tính cách riêng của nó:
+ Sôi nổi, mãnh liệt (thực chất cũng gợi lên vẻ đẹp hùng vĩ của dòng sông) khi nó đi qua đại ngàn
Trường Sơn hùng vĩ. Giữa lòng Trường Sơn sông Hương toát lên vẻ đẹp của một sức sống mãnh liệt,
hoang dại và đầy cá tính. “Là bản trường ca của rừng già rầm rộ giữa những bóng cây đại ngàn,
mãnh liệt qua những ghềnh thác, cuộn xoáy như cơn lốc vào những đáy vực bí ẩn...”
+ Dịu dàng, sâu lắng (thực chất là nói về vẻ đẹp thơ mộng, huyền ảo của dòng sông):
- Khi ra khỏi rừng “sông Hương nhanh chóng mang một vẻ đẹp dịu dàng và trí tuệ” khi trở thành
người mẹ phù sa của một vùng văn hóa đế đô.
- Vẻ đẹp bình yên như cổ tích khi ngang qua cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại “chờ người tình
mong đợi đến đánh thức”.
- Vẻ đẹp huyền ảo bởi màu sắc phong phú của nó “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím” như người Huế
miêu tả.

9


Ôn tập Ngữ Văn
- Vẻ đẹp trầm mặc khi chảy qua những rừng thông u tịch với những lăng tẩm đồ sộ và niềm kiêu
hãnh âm u.
- Vẻ đẹp vui tươi khi ngang qua những biền bãi xanh biếc của vùng ngoại ô Kim Long.
- Vẻ đẹp mơ màng trong sương khói khi chảy qua vùng ngoại ô Vĩ Dạ.
* Điểm khác:

1. Vẻ đẹp đặc trưng khác nhau:
a. Sông Đà: Tác giả tập trung thể hiện tính chất độc đáo, khác lạ của dòng sông: “Chúng thủy giai
đông tẩu, Đà giang độc bắc lưu”.
→Là sự kết hợp giữa hai vẻ đẹp hùng vĩ (đến mức dữ dội), huyền ảo, thơ mộng đến mức tuyệt mĩ.
Ở phương diện nào nhà văn cũng đẩy lên đến mức đỉnh điểm.
b. Sông Hương
- Nếu sông Đà cá tính và lưỡng tính ở vẻ đẹp hung bạo và trữ tình thì sông Hương lại mang vẻ đẹp
của một “thiên nữ tính” rất đậm đà như chính sự đa tình và thủy chung của nó với cố đô vậy.
- Đặc biệt nhà văn còn khám phá ra vẻ đẹp phong phú đa dạng và thống nhất của sông Hương trên
nhiều phương diện: địa lý, lịch sử, văn hóa.
2. Lí do có sự khác nhau:
a. Cảm hứng sáng tác.
- Nguyễn Tuân khám phá vẻ đẹp của một vùng thiên nhiên Tây Bắc trong không khí tưng bừng của
những ngày đầu xây dựng CNXH miền Bắc khi đất nước vừa bước ra khỏi cuộc binh đao để “tìm
chất vàng của thiên nhiên” và “chất vàng mười đã qua thử lửa” của tâm hồn Tây Bắc. Từ vẻ đẹp
của dòng sông nhà văn nhìn thấy thiên nhiên ấy đang hồi sinh là “chất vàng quý giá” đem lại lợi ích
cho cuộc sống con người.
- Hoàng Phủ Ngọc Tường viết tùy bút “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” tại Huế năm 1981 khi non
sông vui phơi phới niềm vui thống nhất. Nếu sông Đà là “chất vàng” của thiên nhiên Tây Bắc thì
sông Hương là dòng chảy phù vân âm vang văn hóa, lịch sử của cố đô Huế.
b. Phong cách nghệ thuật.
- Nguyễn Tuân luôn nhìn sự vật dưới góc độ mĩ thuật với quan niệm cái Đẹp phải toàn bích, hoàn
hảo nên nhà văn đã vận dụng kiến thức của nhiều ngành nghệ thuật như điêu khắc, vũ đạo, kiến trúc,
hội họa...để khắc họa hình tượng sông Đà. Là nhà văn của cảm giác mạnh “của thác ghềnh dữ dội”,
Nguyễn Tuân luôn có xu hướng tô đậm cái tuyệt mĩ, phi thường khiến cho người đọc hiểu biết hết
tính cách độc đáo, khác lạ hết sức phong phú và đa dạng của sông Đà.
- Với Hoàng Phủ Ngọc Tường – một người con nặng lòng với mảnh đất cố đô lại đắm say với mảnh
đất cố đô để tìm về với văn hóa lịch sử của Huế bằng cái nhìn của một cái “tôi” lịch lãm, hướng nội

10



Ôn tập Ngữ Văn
mê đắm và tài hoa. Qua trang văn của Hoàng Phủ Ngọc Tường “sông Hương là báu vật trời ban, là
báu vật của Huế, là một phần di sản của nhân loại”
- Nếu Nguyễn Tuân sử dụng ngôn ngữ giàu tính tạo hình mới lạ, sáng tạo thì hình ảnh và lời văn của
Hoàng Phủ Ngọc Tường lại giàu chất thơ. Chất thơ tỏa ra từ những so sánh gợi cảm, ngôn ngữ giàu
hình ảnh, nhạc điệu, từ những đoạn văn lấp lánh huyền thoại...Nhất là khi viết về chất “sử thi” của
Hương giang mà vẫn đậm chất trữ tình: “sông Hương là vậy, là dòng sông của thời gian ngân vang,
của sử thi viết giữa màu cỏ lá xanh biếc”. Nhà văn giúp người đọc hiểu được dòng Hương giang có
sử thi mà cũng có trữ tình, là bản hùng ca nhưng đồng thời cũng là bản tình ca của Huế.
Đề 3: “Chất thơ” trong tùy bút “Ai đã đặt tên cho dòng sông” của Hoàng Phủ Ngọc Tường?
Gợi ý:
* Thế nào là chất thơ?
- “Chất thơ” là thiên hướng biểu lộ trực tiếp cảm xúc của “cái tôi” nghệ sĩ, là một phẩm chất nghệ
thuật được tạo nên bởi yếu tố của cái đẹp, trí tưởng tượng, tinh chất của cuộc sống và nhạc điệu của
ngôn từ. "Ai đã đặt tên cho dòng sông” là bài bút kí đậm chất thơ như thế.
* Phân tích, chứng minh
- Giới thiệu về thể ký: Để hiểu hết được vẻ đẹp của tác phẩm thì trước hết ta phải có một vốn hiểu
biết nhất định về thể loại này. “Ký” là một thuật ngữ văn học để gọi tên một thể loại có sự đan xen
khá đặc biệt của yếu tố tự sự và trữ tình, là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa vốn tri thức phong phú và
nguồn cảm xúc dạt dào, là kết quả của tư duy nghệ thuật và tư duy khoa học. "Ai đã đặt tên cho
dòng sông” có đầy đủ phẩm chất cuả một tác phẩm ký văn học – một thể loại không chỉ đòi hỏi
người viết phải có “ngòi bút sang trọng” mà người đọc cũng phải biết thưởng thức “một cách sang
trọng”.
- Biểu hiện.
+ Chất thơ toát ra từ “cái tôi” lịch lãm, uyên bác, mê đắm và tài hoa đằm sâu văn hóa đậm chất Huế
của Hoàng Phủ Ngọc Tường khi khám phá sông Hương trên các phương diện địa lý, lịch sử, văn
hóa.
+ Chất thơ toát ra từ những hình ảnh đẹp, giàu chất thơ. Nhà văn đã sử dụng các biện pháp tu từ gợi

cảm như so sánh, ẩn dụ nhân hóa để làm nổi bật vẻ đẹp của sông Hương ở dáng vẻ và chiều sâu tâm
hồn. Khó có thể khám phá ra chất “thơ” trong “sử” nhưng Hoàng Phủ Ngọc Tường lại tìm ra được
chất “thơ” trong “sử” để trưng cất thành màu “sử thi” như một sắc màu đặc biệt của sông Hương.
+ Chất thơ còn lan tỏa từ những con chữ, câu từ, đoạn văn lấp lánh huyền thoại.
+ Chất thơ còn lấp lánh ở âm điệu nhạc điệu mang hơi hướng dân gian khi Hoàng Phủ điểm xuyết
ca dao, lời thơ của Tản Đà, Cao Bá Quát hay nét hoài cổ trong thơ bà Huyện Thanh Quan, sự hồi
sinh mạnh mẽ của tâm hồn trong thơ Tố Hữu.

11


Ôn tập Ngữ Văn
+ Chất thơ còn bảng lảng trong kết cấu huyền thoại của bài ký khi mở ra và kết lại đều bằng câu hỏi
bâng khuâng “Ai đã đặt tên cho dòng sông” ?
- Tác dụng của “chất thơ” trong bài ký:
+ Làm nên giá trị, vẻ đẹp đặc trưng cho tác phẩm. Đó cũng chính là điểm hấp dẫn người đọc ở cả
nội dung lẫn nghệ thuật của bài tùy bút.
+ Đem lại nét mới mẻ độc đáo trong cá tính sáng tạo của Hoàng Phủ Ngọc Tường so với các tác giả
cùng thời.
+ Tạo ra chỗ đứng, vị trí mới của tùy bút, bút ký trong dòng chảy văn học Việt Nam.
3. Luyện tập:
3.1. Dạng nhận biết, thông hiểu (Làm vào vở bài tập)
1. Nêu ý nghĩa lời đề từ của bài tùy bút “Người lái đò sông Đà”?
2. Trong bài tùy bút “Người lái đò sông Đà”?, từ trên máy bay nhìn xuống, nhà văn so sánh dáng
vẻ của sông Đà như thế nào? Nêu ý nghĩa?
3. Trong tâm thế của người đi rừng lâu ngày gặp lại sông Đà, niềm vui hội ngộ của nhà văn được
miêu tả như thế nào? Nêu ý nghĩa?
4. Nêu ý nghĩa nhan đề “Ai đã đặt tên cho dòng sông?”
5. Trong bài tùy bút “Ai đã đặt tên cho dòng sông?”, nhà văn đã miêu tả sông Hương với vẻ đẹp
của một “thiên nữ tính” rất đậm đà. Anh (chị) hãy chép 05 câu văn thể hiện “thiên nữ tính” ấy và

nêu ý nghĩa?
3.2. Dạng vận dụng (Làm dàn ý câu 1 & 3)
1. “ Nguyễn Tuân là người nghệ sĩ suốt đời đi săn tìm cái đẹp và cái thật”. Anh/chị hãy phân tích
hình tượng người lái đò sông Đà trong bài tùy bút “Người lái đò sông Đà” của Nguyễn Tuân để làm
sáng tỏ nhận định trên?
2. Phân tích những nét đặc sắc nghệ thuật trong bài tùy bút “Người lái đò sông Đà” của nhà văn
Nguyễn Tuân?
3. Vẻ đẹp của hình tượng sông Hương trong tùy bút “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” của Hoàng
Phủ Ngọc Tường?
4. Phân tích cái “Tôi” của Hoàng Phủ Ngọc Tường trong bài tùy bút “Ai đã đặt tên cho dòng
sông”?
5. Vẻ đẹp của những dòng sông quê hương qua tùy bút “Người lái đò sông Đà” của Nguyễn Tuân
và bút kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” của Hoàng Phủ Ngọc Tường?
-----------HẾT---------

12



×