Tải bản đầy đủ (.doc) (111 trang)

Luan van Thang (nop thu vien)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (737.17 KB, 111 trang )

PHẦN 1. MỞ ĐẦU
1.1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Văn kiện đại hội lần thứ XI của Đảng tiếp tục khẳng định “phát triển giáo
dục là quốc sách hàng đầu. Trong đó thực hiện đổi mới căn bản, toàn diện nền
giáo dục Việt Nam theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ hóa,
hội nhập quốc tế và thực hiện đổi mới cơ chế tài chính giáo dục”. Như vậy, chủ
trương đổi mới nền giáo dục Việt Nam trong đó có đổi mới quản lý và nâng cao
chất lượng giáo dục đại học là một yêu cầu cấp thiết để đảm bảo nguồn nhân lực
chất lượng cao phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Thực hiện đổi mới cơ chế tài chính giáo dục, việc nhà nước trao quyền tự
chủ, tự chịu trách nhiệm cho các đơn vị sự nghiệp có thu hoạt động trong lĩnh
vực giáo dục đào tạo đặc biệt là giáo dục đại học đã giúp các trường đại học
Công lập chủ động hơn trong việc tổ chức công việc, sắp xếp lại bộ máy, sử
dụng lao động và nguồn lực tài chính để hoàn thành nhiệm vụ được giao, phát
huy mọi khả năng của đơn vị để cung cấp dịch vụ đào tạo với chất lượng cao
cho xã hội, tăng nguồn thu nhằm từng bước nâng cao thu nhập cho cán bộ viên
chức. Mặc khác qua trao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong lĩnh vực giáo
dục nhằm thực hiện chủ trương xã hội hóa giáo dục, huy động sự đóng góp
của cộng đồng để phát triển sự nghiệp giáo dục, từng bước giảm dần bao cấp
từ ngân sách nhà nước.
Trong những năm gần đây giáo dục đại học ở Việt Nam có rất nhiều thay
đổi, ngày càng có nhiều trường đại học ngoài Công lập, đại học nước ngoài, các
chương trình liên kết quốc tế và nhiều chương trình du học tại chỗ của nước
ngoài tham gia vào thị trường cung cấp dịch vụ giáo dục đại học ở Việt Nam.
Điều này, đã đặt các trường đại học Công lập nói chung và trường Đại học Kinh
tế Nghệ An nói riêng vào một vị thế cạnh tranh lẫn nhau ngày càng tăng và cạnh
tranh với những tổ chức cung cấp dịch vụ giáo dục đại học của nước ngoài ngày
càng cao hơn. Mặt khác, thực hiện đổi mới cơ chế tài chính giáo dục, trao quyền
tự chủ cho các trường đại học Công lập, nhà nước sẽ từng bước giảm dần tỷ lệ
chi thường xuyên ngân sách nhà nước (NSNN) cho giáo dục đại học với mục tiêu
tăng tính tự chủ cho các trường nhằm giúp các trường nâng cao khả năng cạnh


tranh và giảm gánh nặng ngân sách chi cho giáo dục đại học. Như vậy, về mặt tài

1


chính trường Đại học Kinh tế Nghệ An phải chủ động chuyển đổi nguồn thu theo
hướng từ một cơ cấu nguồn thu chủ yếu dựa vào sự tài trợ của nhà nước sang một
cơ chế nguồn thu đa dạng hơn, dựa nhiều hơn vào học phí cũng như những hoạt
động dịch vụ khác của nhà trường.
Trước tình hình thực tiễn đó, trường Đại học Kinh tế Nghệ An nhận thức
được tầm quan trọng của công tác quản lý và sử dụng hiệu quả các nguồn lực
tài chính để đảm bảo nhu cầu chi tiêu và phát triển bền vững. Vì vậy, chúng
tôi tiến hành thực hiện đề tài này “Quản lý tài chính tại trường Đại học Kinh
tế Nghệ An”.
1.2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
1.2.1. Mục tiêu chung
Trên cơ sở đánh giá thực trạng quản lý tài chính tại trường Đại học Kinh
tế Nghệ An; từ đó đề xuất các giải pháp nhằm tăng cường quản lý tài chính tại
trường Đại học Kinh tế Nghệ An.
1.2.2. Mục tiêu cụ thể
(1) Góp phần hệ thống hóa cơ sở lý luận và thực tiễn về quản lý tài chính
trong hệ thống các trường đại học công lập;
(2) Đánh giá thực trạng quản lý tài chính tại trường Đại học Kinh tế Nghệ
An và phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến quản lý tài chính tại Trường Đại học
kinh tế Nghệ An;
(3) Đề xuất các giải pháp tăng cường quản lý tài chính tại trường Đại học
Kinh tế Nghệ An trong thời gian tới.
1.3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
1.3.1. Đối tượng nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Các vấn đề lý luận và thực tiễn về quản lý tài

chính tại trường Đại học Kinh tế Nghệ An.
- Đối tượng khảo sát: Các đối tượng có liên quan đến đề tài về quản lý tài
chính tại trường Đại học Kinh tế Nghệ An .
1.3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi không gian: Trường Đại học Kinh tế Nghệ An
- Phạm vi thời gian: Nghiên cứu thực hiện để đánh giá thực trạng quản lý
tài chính tại trường Đại học Kinh tế Nghệ An từ năm 2014 đến năm 2018; Các số

2


liệu liên quan đến hiện tượng sử dụng để nghiên cứu chuyên đề trong năm 2018;
Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý và sử dụng các nguồn lực
tài chính tại trường Đại học Kinh tế Nghệ An đến 2025.
- Phạm vi nội dung: Quản lý tài chính tại trường Đại học Kinh tế Nghệ An
1.4. ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN VĂN
- Ý nghĩa về lý luận:
+ Xây dựng được khung lý thuyết về về quản lý tài chính tại các trường
đại học Công lập; theo đó, luận văn đã làm rõ được nội hàm của các khái niệm
như khái niệm về tài chính, quản lý tài chính. Nghiên cứu đã đúng rút được một
số bài học kinh nghiệm từ thực tiễn để làm cơ sở cho đề xuất giải pháp đối với
trường đại học Kinh tế Nghệ An trong thời gian tới.
- Ý nghĩa thực tiễn:
Nghiên cứu đã chỉ ra những hạn chế, bất cập của quản lý tài chính của
trường đại học Kinh tế Nghệ An, từ đó đề xuất được hệ thống các giải pháp đồng
bộ góp phần hoàn thiện quản lý trường đại học Kinh tế Nghệ An.
Luận văn có thể là tài liệu tham khảo hữu ích cho học sinh, sinh viên, các
nhà quản lý ở địa phương, và những ai quan tâm đến đề tài này.

3



PHẦN 2. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ QUẢN LÝ TÀI
CHÍNH TRONG CÁC TRƯỜNG CÔNG LẬP
2.1. KHÁI NIỆM VỀ TÀI CHÍNH VÀ QUẢN LÝ TÀI CHÍNH TẠI CÁC
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG LẬP
2.1.1. Khái niệm về tài chính và quản lý tài chính
2.1.1.1. Khái niệm về tài chính
Tài chính là hệ thống các quan hệ kinh tế phát sinh trong quá trình phân
phối các nguồn tài chính bằng việc tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ nhằm đáp
ứng yêu cầu tích lũy và tiêu dùng của các chủ thể trong xã hội (Dương Đăng
Chinh, 2009).
Tài chính trong các trường đại học là phản ánh các khoản thu, chi bằng
tiền của các quỹ tiền tệ trong các trường đại học. Xét về hình thức nó phản ánh
sự vận động và chuyển hóa của các nguồn lực tài chính trong quá trình sử dụng
các quỹ bằng tiền. Xét về bản chất nó là những mối quan hệ tài chính biểu hiện
dưới hình thức giá trị phát sinh trong quá trình hình thành và sử dụng các quỹ
bằng tiền nhằm phục vụ cho sự nghiệp đào tạo nguồn nhân lực cho đất nước
(Nguyễn Anh Thái, 2008).
2.1.1.2. Khái niệm quản lý tài chính
Quản lý tài chính là quản lý các hoạt động huy động, phân bổ và sử
dụng các nguồn lực tài chính bằng những phương pháp tổng hợp gồm nhiều
biện pháp khác nhau được thực hiện trên cơ sở vận dụng các quy luật khách
quan về kinh tế-tài chính một cách phù hợp với điều kiện đổi mới, hội nhập
quốc tế của đất nước (Dương Đăng Chinh, 2009).
Quản lý tài chính là việc sử dụng các công cụ quản lý tài chính nhằm
phản ánh chính xác tình trạng tài chính của một đơn vị, thông qua đó lập kế
hoạch quản lý và sử dụng các nguồn tài chính nhằm nâng cao hiệu quả hoạt
động của đơn vị (Dương Đăng Chinh, 2009).
Quản lý tài chính trong các trường đại học hướng vào quản lý thu, chi của

các quỹ tài chính trong đơn vị, quản lý thu chi của các chương trình, dự án đào
tạo, quản lý thực hiện dự toán ngân sách của trường (Nguyễn Anh Thái, 2008).
Quản lý tài chính đòi hỏi các chủ thể quản lý phải lựa chọn, đưa ra các
quyết định tài chính và tổ chức thực hiện các quyết định đó nhằm đạt được mục

4


tiêu hoạt động quản lý tài chính của đơn vị. Mục tiêu tài chính có thể thay đổi
theo từng thời kỳ và chính sách chiến lược của từng đơn vị. Tuy nhiên, khác với
quản lý doanh nghiệp chủ yếu nhằm mục tiêu tối ưu hóa lợi nhuận, mục tiêu của
quản lý tài chính trong các trường Đại học Công lập (ĐHCL) không vì mục đích
lợi nhuận, phục vụ cho cộng đồng xã hội là chủ yếu cho nên quản lý tài chính tại
các trường ĐHCL là quản lý sử dụng có hiệu quả, đúng định hướng các nguồn
kinh phí NSNN cấp và các nguồn thu khác theo quy định của pháp luật (Nguyễn
Anh Thái, 2008).
2.1.2. Các mối quan hệ của quản lý tài chính trong trường đại học
2.1.2.1. Quan hệ tài chính giữa trường đại học với ngân sách Nhà nước
Ngân sách nhà nước (NSNN) cấp kinh phí bao gồm : Chi thường xuyên,
chi sự nghiệp khoa học công nghệ, chi chương trình mục tiêu quốc gia về giáo
dục đào tạo, chi đầu tư phát triển, chi nhiệm vụ đột xuất do nhà nước giao cho
các trường. Các trường phải thực hiện nghĩa vụ tài chính đối với nhà nước như :
Nộp thuế theo quy định của nhà nước (Nguyễn Anh Thái, 2008).
2.1.2.2. Quan hệ tài chính giữa nhà trường với xã hội
Quan hệ tài chính giữa nhà trường với xã hội, mà cụ thể là người học được
thể hiện thông qua các khoản thu sau : Học phí, lệ phí và một số loại phí khác để
góp phần đảm bảo cho các hoạt động giáo dục. Chính phủ quy định khung học
phí, cơ chế thu và sử dụng học phí đối với các loại hình trường. Tuy nhiên, các
đối tượng thuộc diện chính sách xã hội và người nghèo thì được miễn giảm, học
sinh khá, giỏi thì được học bổng, khen thưởng… (Nguyễn Anh Thái, 2008).

2.1.2.3. Quan hệ tài chính trong nội bộ nhà trường
Quan hệ tài chính trong nội bộ nhà trường gồm các quan hệ tài chính giữa
các phòng, khoa, ban, trung tâm và giữa các cán bộ viên chức trong trường thông
qua quan hệ tạm ứng, thanh toán, phân phối thu nhập như : thù lao giảng dạy,
nghiên cứu khoa học, tiền lương, thưởng, thu nhập tăng thêm…. (Nguyễn Anh
Thái, 2008).
2.1.2.4. Quan hệ tài chính giữa trường với nước ngoài
Quan hệ tài chính giữa trường với nước ngoài gồm các quan hệ tài chính
với các trường, các tổ chức nước ngoài về các hoạt động như : liên kết đào tạo,
nghiên cứu khoa học và hợp tác quốc tế nhằm phát triển các nguồn lực tài chính,
tìm kiếm các nguồn tài trợ (Nguyễn Anh Thái, 2008).

5


Nhìn chung, các quan hệ tài chính phản ánh các trường đại học hoạt động
gắn liền với hệ thống kinh tế - chính trị - xã hội của đất nước. Việc quản lý hiệu
quả các hoạt động của các trường, đặc biệt về mặt tài chính là hết sức quan trọng
và cần thiết để sự nghiệp giáo dục đào tạo của nhà trường được tiến hành thường
xuyên và hiệu quả, đi đúng định hướng chiến lược phát triển giáo dục đào tạo của
đất nước (Nguyễn Anh Thái, 2008).
2.1.3. Mô hình hoạt động tài chính các trường đại học Công lập
Theo Hauptman (2006) thì có ba nguồn tài chính nhằm duy trì các hoạt động
nghiên cứu và giảng dạy của các trường ĐHCL, đó là nguồn ngân sách chính phủ,
học phí và đóng góp từ xã hội. Trong đó đóng góp từ ngân sách chính phủ là quan
trọng và nên kết hợp linh hoạt các nguồn tài chính trên. Điều này có nghĩa không thể
giảm sự hỗ trợ 100% từ NSNN và để các trường ĐHCL tự tìm nguồn kinh phí hoạt
động. Mô hình hoạt động tài chính của các trường ĐHCL theo mô hình sau:

Đầu vào

Nguồn lực tài chính

Ngân sách nhà nước

Đầu ra

TRƯỜNG ĐẠI HỌC
CÔNG LẬP

Đào tạo
(chính quy
tại chức,
hợp đồng... )

(mục tiêu kế hoạch đào tạo)

Học sinh tốt nghiệp
các hệ

Học phí
Đóng góp cộng đồng
Hoạt động
Ngoài đào tạo:
(nghiên cứu,
Sản xuất,

Tài trợ nước ngoài

dịch vụ)


Công trình khoa học
Sản phẩm dịch vụ

Sơ đồ 2.1. Mô hình hoạt động tài chính các trường ĐHCL ở Việt Nam
Nguồn: Hauptman (2007)

Theo Hauptman (2007) đã tổng hợp bốn mô hình về tài chính cho GDĐH,
trong đó có 3 mô hình tài chính liên quan trực tiếp đến các trường ĐHCL.

6


a. Mô hình 1 - Miễn học phí hoặc áp dụng học phí thấp
Theo mô hình này thì nguồn tài chính chủ yếu của các trường ĐHCL là từ
NSNN, học phí chỉ là tượng trưng và thu khá thấp, nguồn NSNN chiếm khoảng
90% còn 10% học phí. Để theo mô hình này thì các trường ĐHCL phải hoàn toàn
phụ thuộc vào nguồn tài trợ của chính phủ, học phí hoàn toàn bị kiểm soát. Mô
hình được Mỹ áp dụng vào thập niên 50 và 60, sau đó một số quốc gia của khu
vực Bắc Âu như Na Uy, Thụy Điển, Phần Lan cũng đã áp dụng hơn một nữa thế
kỷ. Để có thể áp dụng thành công mô hình này, các quốc gia cần phải có đủ năng
lực tài chính để đầu tư cho giáo dục Công lập. Đây là điều khiến nhiều quốc gia
không thể áp dụng mô hình này (Hauptman, 2007).
b. Mô hình 2 - Học phí được hoàn trả sau khi tốt nghiệp
Theo mô hình này thì NSNN sẽ đóng vai trò là nguồn đầu tư ban đầu cho
các trường ĐHCL, những đối tượng thụ hưởng dịch vụ GDĐH phải trả tương
xứng với chất lượng của dịch vụ cung cấp theo phương thức vay tín dụng và trả
sau khi tốt nghiệp thông qua hệ thống thuế thu nhập cá nhân và hệ thống ngân
hàng. Quốc gia Úc đã áp dụng mô hình này cuối những năm 1980 thông qua
chương trình hỗ trợ đại học. Sau đó Anh và Thái Lan cũng đã bắt đầu áp dụng
các mô hình tương tự như của Úc từ năm 2006 (Hauptman, 2007).

Hai điều kiện then chốt của mô hình này là:
Mức độ đầu tư ban đầu của NSNN và các thành phần khác đủ hình thành
một ĐHCL có chất lượng
Nhà nước cần thiết lập được một cơ chế hữu hiệu nhằm thu hồi nợ vay của
sinh viên sau khi tốt nghiệp
Theo Phạm Phụ (2010) thì tỷ lệ hoàn vốn từ nguồn nợ vay của sinh viên
Trung Quốc là 55% của Hàn Quốc là 64%, còn đối với các nước phát triển thì
cao hơn nhiều. Nhằm giảm bớt áp lực cho bộ máy quản lý, nhiều quốc gia đã
giao trách nhiệm cho vay và thu hồi nợ vay cho hệ thống ngân hàng
c. Mô hình 3 - Tăng học phí kết hợp với các chính sách hỗ trợ
Mô hình này yêu cầu học phí phải được tính toán sao cho có thể bù đắp một
phần đáng kể các chi phí hoạt động của ĐHCL, đồng thời mô hình này sẽ hướng
đến các chính sách hỗ trợ học phí đối với các sinh viên có hoàn cảnh khó khăn.
Các nước áp dụng thành công mô hình này hơn nửa thế kỷ qua là Mỹ, New
Zealand và Canada (Hauptman, 2007).

7


Gia tăng học phí được xem như một giải pháp chủ yếu nhằm chia sẽ chi
phí giáo dục. Nhiều quốc gia ở Châu Âu và Châu Phi thiết lập cơ chế học phí
song song : những sinh viên không hội đủ những điều kiện nào đó về kết quả
học tập thì không được theo học miễn phí mà phải đóng học phí ở mức cao
(Hauptman, 2007).
Một cách làm khác có thể giúp vừa gia tăng sự chia sẽ chi phí giáo dục, vừa
đáp ứng được yêu cầu công bằng là: những sinh viên theo học những ngành được
nhà nước quan tâm phát triển thì sẽ đóng mức học phí thấp, còn những sinh viên
theo học các ngành mà xã hội đang có nhu cầu cao như kinh tế, tài chính hay luật
thì sẽ phải đóng học phí ở mức cao. Các mức học phí khác nhau còn được áp
dụng đối với các cấp độ đào tạo và đối tượng người học : học phí chương trình

sau đại học thì cao hơn so với chương trình đại học, sinh viên nước ngoài phải
đóng học phí cao hơn so với sinh viên chính qui bản xứ. Úc là một ví dụ, những
sinh viên khó khăn thỏa mãn các điều kiện tham gia chương trình hỗ trợ được
tính mức học phí theo qui định của chính phủ, còn các sinh viên khác và sinh
viên nước ngoài phải đóng mức học phí cao hơn nhiều (Hauptman, 2007).
Như vậy, tùy vào điều kiện, hoàn cảnh và khả năng nguồn NSNN đầu tư cho
GDĐH mà có thể lựa chọn mô hình tài chính thích hợp áp dụng cho các trường
ĐHCL. Việc thực hiện chính sách thu học phí hợp lí cùng với việc kết hợp linh
hoạt các nguồn tài chính trong đó tranh thủ nguồn thu từ NSNN cấp, mở rộng
nguồn thu từ hoạt động sự nghiệp và kêu gọi sự đóng góp của cộng đồng đó là
biện pháp nhằm đảm bảo nguồn tài chính các trường ĐHCL ở Việt Nam phát
triển theo hướng bền vững
2.1.4. Tiêu chí quản lý tài chính tốt
+ Tiêu

chuẩn có các nguồn tài chính để thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ
của các trường đại học công lập.
- Có các nguồn thu từ học phí, lệ phí, liên kết đào tạo, sản xuất, kinh
doanh, dịch vụ và các nguồn thu hợp pháp khác đáp ứng nhu cầu để thực hiện
mục tiêu, nhiệm vụ dạy và học của các trường đại học công lập;
- Các nguồn thu được quản lý, sử dụng đúng mục đích, chế độ theo quy
định của pháp luật
- Có kế hoạch thực hiện việc huy động, phát triển các nguồn tài chính để
thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ dạy học của các trường đại học công lập.

8


+ Tiêu chuẩn kế hoạch tài chính, quản lý tài chính đúng theo quy định của
nhà nước, công khai, minh bạch.

- Kế hoạch tài chính hàng năm được xây dựng theo quy định và được công
bố công khai, minh bạch. Có quy chế chi tiêu nội bộ của trường đại học;
- Thực hiện thu, chi, quyết toán, hạch toán kế toán, lập báo cáo tài chính,
lưu trữ hồ sơ, sổ sách chứng từ kế toán và nghĩa vụ tài chính với ngân sách nhà
nước theo đúng quy định của pháp luật;
- Thực hiện đúng chế độ tự kiểm tra tài chính và công khai tài chính theo
quy định của nhà nước.
+ Tiêu chuẩn của các trường đại học có đánh giá hiệu quả sử dụng các
nguồn tài chính và chấp hành chế độ thanh tra, kiểm tra, kiểm toán tài chính.
- Hàng năm có đánh giá về hiệu quả sử dụng các nguồn tài chính của các
trường đại học;
- Trường đại học công lập chấp hành nghiêm chế độ thanh, kiểm tra, kiểm
toán tài chính của cơ quan có thẩm quyền; không vi phạm tài chính trong 3 năm
gần nhất.
2.1.5. Nội dung quản lý tài chính tại các trường đại học Công lập
2.1.5.1. Công tác kế hoạch, lập dự toán
Theo Trần Đức Cẩn (2012), cũng giống như các đơn vị khác, tại các
trường Đại học công tác lập kế hoạch luôn được chú trọng và thực hiện nghiêm
túc. Với một bản kế hoạch tốt và hoàn chỉnh có vài trò rất lớn trong công tác
quản lý tài chính tại trường:
Thứ nhất: bảo đảm cho các khoản thu, chi tài chính của các đơn vị sự
nghiệp có thu, đồng thời giúp các đơn vị này sử dụng hiệu quả NSNN, đem lại
lợi ích cho cộng đồng và xã hội.
Thứ hai: Việc lập kế hoạch được căn cứ vào quy mô đào tạo, cơ sở vật
chất, hoạt động sự nghiệp và hoạt động khác trong năm báo cáo để có cơ sở dự
kiến năm kế hoạch của nhà trường. Dựa vào số liệu chi cho con người, chi quản
lý hành chính, chi nghiệp vụ chuyên môn và chi mua sắm, sửa chữa xây dựng cơ
bản của năm báo cáo làm cơ sở dự kiến cho năm kế hoạch.
Thứ ba: Dựa trên những kế hoạch được giao cũng như dựa toán các khoản
thu của, trường sẽ xây dựng đuợc kế hoạch tốt, chủ động thực hiện kế hoạch đã

được phê duyệt, khắc phục tình trạng thiếu vốn, thiếu kinh phí thực hiện.

9


Thứ tư: Đảo bảo được nguồn tài chính của trường, đảm bảo sự phát triển
chung của nhà trường cũng như nâng cao chất lượng đời sống của cán bộ công nhân
viên, tạo dựng được lòng tin vào thực hiện các kế hoạch của nhà trường đã đề ra.
2.1.5.2. Quy chế chi tiêu nội bộ
Theo Trần Đức Cẩn (2012), với việc xây dựng quy chế chi tiêu nội bộ
hoàn chỉnh và đầy đủ, tạo điều kiện giúp nhà trường có một cơ chế quản lý tài
chính hiệu quả và chuyên nghiệp hơn bởi vì:
Đảo bảo hành thành các nhiệm vụ được giao, đây là điều quan trọng đới với
các cơ quan nói chung và đối với trường đại học nói riêng trong việc xây dựng và
thực hiện các kế hoạch, đảm bảo về tài chính, tiến độ và chất lượng của kế hoạch.
Tạo quyền chủ động trong việc quản lý và chi tiêu tài chính của Hiệu
trưởng nhà trường. Hiệu trưởng dựa vào các quy định này để chi tiêu những
khoản cần thiết trong sự phát triển của nhà trường không cần phải họp bàn cũng
như xem xét ý kiến của các bên liên quan, nhanh chóng đưa ra những quyết định
kịp thời và chính xác. Tạo quyền chủ động cho cán bộ, viên chức trong trường
hoàn thành nhiệm vụ được giao. Cán bộ công nhân viên trong trường dựa vào các
quy định chi tiêu đã được phê duyệt để có kế hoạch tài chính cho mình trong việc
thực hiện các nhiệm vụ được nhà trường giao cho.
Với quy chế chi tiêu nội bộ này, đây là căn cứ thanh toán cũng như kiểm
soát của Kho bạc Nhà nước, của cơ quan cấp trên, cơ quan tài chính…xem xét
việc thực hiện các khoản chi của nhà trường.
Quy định chi tiêu nội bộ càng rõ ràng thì việc quả lý và sử dụng tài sản càng
đúng mục đích và có hiệu quả hơn, góp phần vào công cuộc tiết kiệm chống lãng phí.
Ngoài ra, thông qua chi tiêu nội bộ tạo được sự công bằng giữa các thành
viên trong nhà trường, nâng cao hiệu suất lao động…

2.1.5.3. Hạch toán, kế toán, kiểm toán
Kế toán, kiểm toán là một phần không thể thiếu của quản lý tài chính. Để
ghi nhận, xử lý và cung cấp thông tin đáp ứng nhu cầu sử dụng thông tin của các
nhà quản lý, đòi hỏi công tác ghi chép, tính toán, phản ánh số hiện có, tình hình
luân chuyển và sử dụng tài sản, quá trình và kết quả hoạt động sử dụng kinh phí
của đơn vị sự nghiệp phải kịp thời, chính xác (Trần Đức Cẩn, 2012). Do đó, công
tác hoạch toán kế toán cần thực hiện các nhiệm vụ sau:
Ghi chép và phản ánh một cách chính xác, kịp thời, đầy đủ và có hệ thống
tình hình luân chuyển và sử dụng tài sản, vật tư, tiền vốn, quá trình hình thành

10


kinh phí và sử dụng nguồn kinh phí, tình hình và kết quả hoạt động sản xuất kinh
doanh tại đơn vị.
- Thực hiện kiểm tra, kiểm soát tình hình chấp hành dự toán thu, chi; Tình
hình thực hiện các chỉ tiêu kinh tế tài chính và các tiêu chuẩn, định mức của Nhà
nước; Kiểm tra việc quản lý, sử dụng các loại vật tư tài sản ở đơn vị; Kiểm tra
việc chấp hành kỷ luật thu, nộp ngân sách, chấp hành kỷ luật thanh toán và chế
độ chính sách của Nhà nước.
- Theo dõi và kiểm soát tình hình phân phối kinh phí cho các đơn vị dự
toán cấp dưới, tình hình chấp hành dự toán thu, chi và quyết toán của các đơn
vị cấp dưới
Lập và nộp đúng hạn các báo cáo tài chính cho các cơ quan quản lý cấp
trên và cơ quan tài chính theo quy định, cung cấp thông tin và tài liệu cần thiết
phục vụ cho việc xây dựng dự toán, xây dựng các định mức chi tiêu; Phân tích và
đánh giá hiệu quả sử dụng các nguồn kinh phí ở đơn vị.
Công tác hoạch toán kế toán, kiểm toán các nội dung sau:
Thứ nhất: Hạch toán, kế toán, kiểm toán các khoản thu
Nguồn tài chính đầu tư giáo dục đại học công của các nước đang phát

triển nói chung và Việt Nam nói riêng được hình thành từ hai nguồn cơ bản:
Nguồn tài chính trong nước và nguồn tài chính ngoài nước. Nguồn tài chính
trong nước được hình thành từ các nguồn:
- Nguồn tài chính tích luỹ từ ngân sách (vốn NSNN).
- Nguồn tài chính tự tạo của nhà trường
- Nguồn tài chính của dân cư (Học phí, lệ phí)
Vốn ngoài nước được hình thành chủ yếu từ viện trợ phát triển chính thức.
Luật giáo dục của Việt Nam đã ghi rõ: Vốn đầu tư cho giáo dục ởnước ta được
hình thành từ các nguồn sau: NSNN; Học phí, tiền đóng góp xây dựng trường,
các khoản thu từ tư vấn, chuyển giao công nghệ, sản xuất kinh doanh của các cơ
sở giáo dục, các khoản tài trợ khác của các tổ chức, cá nhân trong nước và ngoài
nước theo quy định của pháp luật (Trần Đức Cẩn, 2012).
Thứ nhất, nguồn NSNN: Chủ yếu cấp cho các trường đại học, cao đẳng
công và trường dạy nghề do Chính phủ quyết định thành lập. Khoảng 2/3 ngân sách
trung ương được phân bổ cho Bộ Giáo dục - Đào tạo. Các Bộ ngành khác có quản

11


lý các trường đại học và cao đẳng cũng được cấp ngân sách. Ngoài ra, ngân sách
trung ương còn cấp cho các chương trình mục tiêu để tăng cường cơ sở vật chất
phục vụ đào tạo. NSNN được coi là một trong những quỹ tiền tệ lớn nhất của Nhà
nước. Sự vận động của NSNN được thể hiện ra bên ngoài thông qua hai mặt hoạt
động thu và chi.
Việc thực hiện quản lý các hoạt động xã hội, Nhà nước phải sử dụng quỹ
tiền tệ của mình để trang trải cho các nhu cầu chi của các hoạt động đó, trong đó
có chi NSNN cho giáo dục đại học công lập. Trong điều kiện hiện nay, do sự nhận
thức về tầm quan trọng đặc biệt của giáo dục - đào tạo nói chung và GD-ĐT
đại học công nói riêng nên việc phân phối, sử dụng nguồn vốn NSNN thông qua
chi thường xuyên được gọi là đầu tư của NSNN cho giáo dục đại học.

Hai là, nguồn ngoài NSNN: Nguồn ngoài NSNN cho giáo dục đại học bao
gồm học phí, tiền đóng góp xây dựng trường học, các khoản thu từ hoạt động tư
vấn, chuyển giao công nghệ, sản xuất kinh doanh của các cơ sở giáo dục, các
khoản tài trợ khác của các tổ chức, các nhân trong nước và ngoài nước theo quy
định của pháp luật. Trong điều kiện hiện nay nguồn tài chính ngoài NSNN dành
để đầu tư cho giáo dục đại học được hình thành từ các khoản thu sau:
- Học phí và các khoản lệ phí:Thu học phí là một trong những hình thức
để chuyển gánh nặng tài chính từ nhà nước sang cha mẹ sinh viên hoặc người sử
dụng nhân lực qua đào tạo để bù đắp một số chi phí trong việc cung cấp dịch vụ
giáo dục của Nhà nước. Từ trước tới nay, người ta quan niệm thu học phí cũng là
một cách thực hiện công bằng trong giáo dục. Tuy nhiên, đến thời điểm này,
chúng ta nên phân tích lại quan điểm này.
- Nguồn thu từ NCKH và tư vấn dịch vụ: Nguồn thu từ nghiên cứu khoa
học, lao động sản xuất và các dịch vụ được hình thành dựa trên việc triển khai
ứng dụng kết quả nghiên cứu vào sản xuất, đời sống hoặc tham gia vào phát triển
công nghệ, chuyển giao công nghệ, thực hiện các dịch vụ tư vấn và dịch vụ phục
vụ học sinh, sinh viên. Đặc biệt, hiện nay nhiều cơ sở giáo dục-đào tạo tiến hành
liên kết đào tạo, thông qua hình thức này có thể đem lại nguồn thu đáng kể cho
nhà trường.
- Nguồn thu tư khoản quà tặng, biếu, đóng góp từ thiện;
- Viện trợ, đầu tư của nước ngoài và các tổ chức quốc tế;
- Các khoản thu khác.

12


Sau khi hình thành nguồn tài chính, nguồn này sẽ được sử dụng cho mục
đích cụ thể, điều đó được thể hiện ở nội dung sau.
Quản lý các nguồn thu các trường Đại học bao hàm việc quy định nguồn
thu, hình thức và công cụ quản lý nguồn thu của đơn vị(như tổ chức khai thác các

nguồn thu - nội dung thu, mức thu, hình thức kiểm tra, kiểm soát) Kèm theo đó là
các quy định, chế độ về quản lý nguồn thu của đơn vị).
 Tổ chức khai thác nguồn thu
Theo Nguyễn Anh Thái (2008), để có thể tiến hành các hoạt động, trước
tiên, các trường Đại học phải có nguồn thu. Nguồn thu của các trường Đại học
gồm các nguồn từ NSNN cấp, nguồn thu sự nghiệp và nguồn thu khác.
+ Nguồn thu từ NSNN cấp bao gồm: Kinh phí thực hiện các nghiệp vụ
thường xuyên (lương, phụ cấp và các kinh phí nghiệp vụ thường xuyên khác);
Kinh phí thực hiện các đềtài nghiên cứu khoa học cấp nhà nước, cấp Bộ, ngành,
chương trình mục tiêu quốc gia và các nhiệm vụ đột xuất khác được cấp có thẩm
quyền giao; Kinh phí thanh toán cho các đơn vị theo chế độ đặt hàng để thực hiện
các nhiệm vụ của nhà nước đặt hàng (điều tra, quy hoạch, khảo sát…) theo giá
hoặc khung giá do nhà nước quy định; Kinh phí cấp để thực hiện tinh giản biên
chế theo chế độ do nhà nước quy định đối với số lao động trong biên chế dôi ra;
Vốn đầu tư xây dựng cơ sởvật chất, mua sắm trang thiết bị phục vụ hoạt động sự
nghiệp theo dự án và kế hoạch hàng năm, vốn đối ứng cho các dựán được cấp có
thẩm quyền phê duyệt.
+ Nguồn thu sự nghiệp của đơn vị bao gồm: Tiền thu phí, lệ phí thuộc
NSNN (phần được đểlại cho đơn vị sử dụng theo quy định của nhà nước). Mức
thu phí, lệ phí và tỷ lệ nguồn thu được để lại đơn vị sử dụng và nội dung chi thực
hiện theo quy định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với từng loại phí.
Thu từ hoạt động sản xuất, cung ứng dịch vụ. Mức thu các hoạt động này do thủ
trưởng đơn vị quyết định, theo nguyên tắc bảo đảm bù đắp chi phí và có tích lũy.
Các khoản thu khác theo quy định của pháp luật.
+ Nguồn thu khác theo quy định của pháp luật bao gồm: Các dự án viện
trợ, liên kết đào tạo, quà biếu, quà tặng, đặc biệt là vốn vay ngân hàng được các
đơn vị sự nghiệp vay theo cơ chế để bổ sung cho việc chi tiêu và đầu tư khi cần
thiết. Bên cạnh đó, các đơn vị còn được phép mở tài khoản tại ngân hàng hoặc tại
kho bạc nhà nước để phản ánh các khoản thu, chi của các hoạt động.


13


 Quy định mức thu và kiểm tra kiểm soát thu
Đối với các nguồn thu kể trên, nguồn thu từ NSNN cấp được căn cứ vào
các quy định mỗi quốc gia, mỗi thời kỳ. Ví dụ: ởViệt Nam hiện nay, cấp kinh phi
chi thường xuyên cho các trường là cấp bình quân, ít có phân biệt ngành đào tạo,
không phân biệt quy mô trường,… Do nguồn thu này phụthuộc ngân khố mỗi
quốc gia và phụ thuộc vào mục tiêu mỗi quốc gia theo đuổi trong từng thời kỳ,
nên cần xem xét mức chi cho các trường đại học Công lập đã hợp lý hay chưa?
Định mức cấp NSNN cần phải gắn với chất lượng đào tạo, đểqua đó thay đổi
mức cấp cho phù hợp (Nguyễn Anh Thái, 2008).
Bên cạnh nguồn thu từ NSNN, các nguồn thu khác cũng được xác định
mức thu cho hợp lý, có căn cứ khoa học. Vì, nếu NSNN hạn hẹp, cần tạo chính
sách rõ ràng cho các trường trong việc tăng thu các nguồn ngoài NSNN. Mức học
phí phải được xây dựng căn cứ vào chất lượng đào tạo, gắn với thang đo chất
lượng cụ thể, có kiểm soát. Ở Việt Nam, mức thu học phí các trường đại học
Công lập được xác định theo công thức:
Học phí = Chi phí thường xuyên tối thiểu - Hỗ trợ của nhà nước
Chi phí thường xuyên tối thiểu được xác định dựa trên yêu cầu đảm bảo số
giảng viên tối thiểu để giảng dạy cho một sinh viên nhất định và các điều kiện về
cơ sở vật chất khác cho giảng dạy. Yêu cầu này thể hiện ở định mức sinh
viên/giảng viên và tỷ trọng chi thanh toán cá nhân trong tổng chi thường xuyên.
Mức thu các nguồn khác: thu từ NCKH, thu từ tư vấn, thu dịch vụ khác,…
phải xác định được mục tiêu cuối cùng là thu bù chi và có tích lũy. Kiểm soát thu
là khâu quan trọng. Điều này ảnh hưởng đến sự bền vững tài chính của mỗi đơn
vị đào tạo. Công việc này cần thực hiện thường xuyên, công khai và kịp thời.
Thứ hai: Hạch toán, kế toán, kiểm toán các khoản chi
Nguồn tài chính các trường đại học chủyếu được sửdụng để đầu tưcho các
chương trình nhằm phát triển hệ thống GD đại học như: đầu tư xây dựng mới, sửa

chữa, nâng cấp hệ thống cơ sở hạ tầng; đào tạo và đào tạo lại đội ngũ giảng viên và
cán bộ quản lý; trang bị các thiết bị, phương tiện thí nghiệm thực hành; trang bị
các phương tiện nhằm phát triển tin học và ứng dụng nó vào hoạt động giảng dạy,
nghiên cứu khoa học; hỗ trợ đời sống giáo viên, mua sắm bổ sung và sửa chữa kịp
thời các tài sản đang trong quá trình sử dụng; chi tinh giản biên chế; chi thực hiện
các nhiệm vụ đột xuất và chi khác (nếu có) (Nguyễn Anh Thái, 2008).
Việc sử dụng nguồn tài chính phải đảm bảo được mục tiêu vừa nâng cao ý

14


thức trách nhiệm của những người được hưởng hàng hoá công cộng và những
người cung ứng hàng hoá đó; vừa san sẻ gánh nặng ngân sách cho Chính phủ,
đồng thời thể hiện sự quán triệt quan điểm xã hội hoá trong giáo dục đại học xét
trên giác độ huy động nguồn tài chính đầu tư cho hoạt động này. Xu hướng vận
động của các nguồn tài chính đầu tư cho GD-ĐT đại học cho thấy : khi trình độ
phát triển kinh tế càng cao thì tỷ trọng chi cho giáo dục đại học càng lớn. Cụ thể
cho việc sử dụng nguồn tài chính thông qua những nội dung chi sau:
 Chi hoạt động thường xuyên
Kinh phí cho chi hoạt động thường xuyên của các trường đại học được lấy
từ nguồn NSNN cấp và nguồn ngoài Ngân sách Nhà nước đối với các khoản chi
theo chức năng, nhiệm vụ được cấp có thẩm quyền giao và một phần được lấy từ
nguồn thu sự nghiệp khác đối với các khoản chi cho các hoạt động sự nghiệp có
thu. Bao gồm: các khoản chi cho người lao động, chi hành chính, chi hoạt động
nghiệp vụ, chi hoạt động tổ chức thu phí, lệ phí, chi hoạt động sản xuất, cung ứng
dịch vụ, chi mua sắm tài sản, chi khác (Nguyễn Anh Thái, 2008).
- Chi cho người lao động: đó là các khoản chi tiền lương, tiền công; các
khoản phụ cấp lương, các khoản trích bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội, kinh phí
công đoàn theo qui định…
- Chi hành chính: chi mua vật tư văn phòng, cước phí dịch vụcông cộng,

thông tin liên lạc, công tác phí, hội nghịphí…
- Chi các hoạt động nghiệp vụ, chi hoạt động tổ chức thu phí, lệphí, chi hoạt
động sản xuất, cung ứng dịch vụ(kể cả chi nộp thuế, trích khấu hao tài sản cố định).
- Chi mua sắm tài sản, sửa chữa thường xuyên cơ sở vật chất: nhà cửa,
máy móc thiết bị…
- Chi khác.
 Chi thực hiện các đề tài nghiên cứu khoa học
Tuỳ kế hoạch nghiên cứu khoa học của từng trường mà có nguồn tài chính
cấp ứng với mỗi loại cấp độ đề tài đó, gồm các đề tài khoa học cấp Nhà nước,
cấp Bộ, cấp Trường. Với các đề tài nghiên cứu khoa học cấp Nhà nước và cấp Bộ
đòi hỏi tính ứng dụng vào thực tiễn cao, các đề tài nghiên cứu khoa học cấp
trường nhằm nghiên cứu phục vụ giảng dạy và học tập (Nguyễn Anh Thái, 2008).
Ngoài ra, nguồn tài chính còn sử dụng trong các trường để thực hiện các

15


chương trình mục tiêu quốc gia; chi thực hiện nhiệm vụ đặt hàng của Nhà nước,
như: điều tra, quy hoạch, khảo sát;… ; chi vốn đối ứng thực hiện các dự án có
vốn nước ngoài theo qui định.
 Chi thực hiện tinh giản biên chế theo chế độ do Nhà nước qui định
 Chi đầu tư phát triển
Chi đầu tư phát triển gồm các mảng chính sau: chi đầu tưxây dựng cơ
sởvật chất; mua sắm trang thiết bị, sửa chữa lớn tài sản và chi thực hiện các dựán
đầu tưtheo qui định.
 Chi thực hiện các nhiệm vụ đột xuất được cấp có thẩm quyền giao.
 Các khoản chi khác (nếu có)
Quản lý chi các trường Đại học công bao hàm các phương pháp, hình thức
và các công cụ quản lý việc chi tiêu của đơn vị như quy định nội dung chi, lập
kếhoạch chi, xác định mức chi, bộ máy quản lý thu chi, kiểm soát chi,… Kèm

theo và chi phối các hoạt động đó là các chế độ, quy định, quy chếcó liên quan
đến quản lý chi của đơn vị sự nghiệp.
- Các khoản chi của các trường Đại học công
+ Chi hoạt động thường xuyên
Trường Đại học phải thực hiện các hoạt động thường xuyên căn cứ theo
chức năng, nhiệm vụ được cấp có thẩm quyền giao. Để thực hiện các hoạt động
này, các trường phải chi theo nội dung các khoản chi trong mục sửdụng nguồn tài
chính trình bày trên đây.
+ Quy định mức chi và kiểm soát chi
Việc quy định mức chi cần gắn với mục tiêu cuối cùng là hiệu quảchi, điều
này được đánh giá thông qua những kết quả của việc chi. Tùy vào mục tiêu của
mỗi trường đại học Công lập, mức chi cho các nội dung kểtrên là khác nhau.
Trường đại học hoạt động theo mô hình cổ điển thường tập trung nhiều cho hoạt
động đào tạo, song hiện nay các trường đại học đi theo xu hướng: tập trung đầu
tưcho ra những sản phẩm liên quan đến NCKH và tư vấn dịch vụ đào tạo. Vì vậy,
cần xác định trường đại học đó thuộc mô hình trường đại học chuẩn khu vực
hay chuẩn quốc tế.
Đối với các trường đại học hàng đầu nằm trong top 200 trường đại học

16


được công bố bởi trang báo Times Higher Education thì chi cho NCKH và hoạt
động tư vấn khoảng trên 50%. Để xác định mức chi hợp lý, có thể tham khảo hệ
thống tiêu chí đánh giá hiệu quả quản lý tài chính trong nội dung dưới đây.
Giống như mục tiêu quản lý thu, kiểm soát chi là khâu đóng vai trò rất
quan trọng trong quản lý chi, nó liên quan trực tiếp đến mức thu và nguồn thu.
Kiểm soát chi cũng cần phải thực hiện thường xuyên, liên tục và kịp thời để đưa
ra những biện pháp hiệu chỉnh đạt được mục đích cuối cùng của việc chi.
 Phân phối chênh lệch thu- chi

Phân phối chênh lệch thu- chi bao hàm các nội dung như phương pháp,
cách thức trích lập của các trường Đại học từ phần chênh lệch thu chi (nếu có),
cách thức sử dụng các quỹ, bộ máy quản lý quá trình phân phối này… và các quy
chế tài chính áp dụng trong phân phối. Hiện nay, các trường Đại học công hàng
năm được trích lập các quỹ từ khoản chênh lệch thu lớn hơn chi (nếu có), sau khi
đã trang trải toàn bộ chi phí hoạt động và thực hiện đầy đủ nghĩa vụvới NSNN
theo quy định của pháp luật (Nguyễn Anh Thái, 2008).
Trường được trích lập 4 quỹ: Quỹ dự phòng ổn định thu nhập, Quỹ khen
thưởng, Quỹ phúc lợi và Quỹ phát triển hoạt động sự nghiệp. Chênh lệch thu lớn
hơn chi trong năm được xác định như sau:
Chênh lệch
thu chi

Thu sự nghiệp và NSNN cấp
=chi thường xuyên và chi Nhà nước
đặt hàng

Chi hoạt động thường
-

xuyên và chi Nhà nước
đặt hàng

Trong đó: Thu sự nghiệp, NSNN cấp chi thường xuyên, chi nhà nước đặt
hàng và chi hoạt động thường xuyên được xác định theo nội dung chi và nguồn
tài chính của đơn vị sự nghiệp có thu đã nêu.
Thủ trưởng đơn vị chủ động quyết định việc trích lập quỹ, sau khi thống
nhất với tổ chức công đoàn của đơn vị và được thực hiện theo trình tự với các
mục đích sử dụng như sau:
- Trích lập Quỹ dự phòng ổn định thu nhập để đảm bảo thu nhập cho

người lao động trong trường hợp nguồn thu bị giảm sút.
- Trích lập Quỹ khen thưởng được dùng để khen thưởng định kỳ, đột xuất
cho cá nhân, tập thể theo kết quả công tác và thành tích đóng góp. Thủ trưởng
đơn vị quyết định việc chi Quỹ khen thưởng sau khi thống nhất với tổ chức công

17


đoàn đơn vị.
- Trích lập quỹ phúc lợi đểxây dựng, sửa chữa các công trình phúc lợi,
chi cho các hoạt động phúc lợi tập thể của người lao động trong đơn vị, trợ cấp
khó khăn đột xuất cho người lao động kể cả những trường hợp nghỉ hưu, nghỉ
mất sức. Chi thêm cho người lao động trong biên chế khi thực hiện tinh giản biên
chế. Thủ trưởng đơn vị quyết định việc sử dụng Quỹ phúc lợi sau khi thống nhất
với tổ chức công đoàn đơn vị.
- Trích lập quỹ phát triển hoạt động sự nghiệp dùng để đầu tư, phát
triển nâng cao hoạt động sự nghiệp, bổ sung vốn đầu tư xây dựng cơ sở vật
chất, mua sắm máy móc thiết bị nghiên cứu, áp dụng tiến bộ khoa học kỹthuật,
công nghệ, trợ giúp thêm đào tạo, huấn luyện, nâng cao tay nghề năng lực
công tác cho cán bộ, viên chức trong đơn vị. Việc sử dụng Quỹ phát triển hoạt
động sự nghiệp vào các mục đích trên do Thủ trưởng đơn vị sự nghiệp quyết
định theo quy định của pháp luật.
Thứ ba: Hạch toán, kế toán, kiểm toán quản lý tài sản
Quản lý tài sản bao hàm nội dung và các phương pháp quản lý tài sản. Trường
Đại học công có trách nhiệm quản lý các tài sản theo các quy định hiện hành của nhà
nước nhằm đạt được hiệu quả mong muốn. Những nội dung quan trọng trong quản lý
tài sản mà đơn vịcần thực hiện là: phân bổtài sản, quản lý tài sản cố định và tài sản lưu
động, đầu tư, khai thác, đổi mới tài sản, trích khấu hao tài sản cố định, quản lý
quỹkhấu hao, quản lý tiền thanh lý tài sản, kiểm kê, đánh giá lại, phương thức tích lũy
đầu tư mới, xác định nguồn để đầu tư (Nguyễn Anh Thái, 2008).

Nội dung quản lý tài chính không thể không đề cập là kiểm soát tài chính.
Kiểm soát tài chính là tổng thể các hình thức, phương pháp, công cụ được
sử dụng trong quá trình kiểm tra, giám sát tài chính của một trường Đại học.
Kiểm soát tài chính là một nội dung quan trọng, là khâu thiết yếu trong đó là
kiểm soát nội bộ và thông tin tài chính của đơn vị. Kiểm soát tài chính được thực
hiện từcơquan quản lý cấp trên và từ bộ phận quản lý trong đơn vị.
Kiểm soát tài chính trong các đơn vị sự nghiệp thuộc lĩnh vực giáo dục và
đào tạo có vai trò rất quan trọng. Hoạt động này có tác dụng tăng cường
hiệu quả công tác quản lý tài chính, thúc đẩy việc thực hiện kế hoạch của đơn vị,
đảm bảo tính chính xác, hợp lý trong quản lý thu chi từ đó tăng tính hiệu quảcủa
vốn đầu tư cho hoạt động sự nghiệp cũng như góp phần thực hành tiết kiệm.

18


Kiểm soát tài chính thúc đẩy đơn vị thực hiện nghiêm chính sách, chế độvà
kỷluật tài chính của nhà nước. Kiểm soát tài chính bao gồm:
- Kiểm soát trước khi thực hiện kế hoạch tài chính. Hoạt động này được
tiến hành trước khi xây dựng, xét duyệt và quyết định dự toán kinh phí (kiểm
soát quá trình lập dự toán thu, chi của các trường Đại học).
- Kiểm soát trong quá trình thực hiện. Kiểm soát trong quá trình thực hiện
được tiến hành ngay trongcác ngành, các cơ quan, đơn vị thực hiện kế hoạch tài
chính đã được quyết định. Giai đoạn này là kiểm soát trong các hoạt động tài
chính, kiểm soát quá trình thực hiện thu chi tại các trường Đại học.
- Kiểm soát thường xuyên là một trong những nhân tố có ảnh hưởng quan
trọng đến công tác quản lý tài chính của các trường Đại học. Kiểm soát thường
xuyên nhằm thực hiện việc giám sát, kiểm tra liên tục hàng ngày đối với các hoạt
động tài chính, nghiệp vụ tài chính phát sinh để từ đó phát hiện kịp thời những
sai sót, vi phạm chính sách, kỷ luật tài chính. Hoạt động này có tác dụng phòng
ngừa những sai sót một cách hữu hiệu, trên cơ sở đó thúc đẩy hoàn thành các kế

hoạch tài chính, tổ chức và sử dụng tiết kiệm, có hiệu quả các nguồn thu, đảm
bảo chi đúng, chi đủ, chi có hiệu quả đáp ứng yêu cầu của quản lý nhà nước và
phát triển kinh tế xã hội.
- Kiểm soát sau khi thực hiện kế hoạch tài chính. Kiểm soát sau khi thực
hiện kế hoạch tài chính được tiến hành sau khi đã kết thúc các giai đoạn thực
hiện kế hoạch tài chính (kiểm tra, duyệt các khoản đã thu, chi của đơn vị sự
nghiệp thuộc lĩnh vực giáo dục đào tạo). Mục đích kiểm soát tài chính giai đoạn
này là xem xét lại tính đúng đắn, hợp lý, xác thực của các hoạt động tài chính
cũng như các số liệu, tài liệu tổng hợp được đưa ra trong các sổ sách, báo cáo để
từ đó có thể tổng kết, phát hiện sai phạm cũng như rút ra bài học kinh nghiệm
cho việc xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch tài chính trong kỳ sau..
2.1.5.4. Trích lập các Quỹ và quản lý tài sản
- Các quỹ trong đơn vị công lập bao gồm quỹ đầu tư phát triển, quỹ dự
phòng tài chính, các quỹ thuộc vốn chủ sở hữu, quỹ khen thưởng, quỹ phúc lợi.
Các quỹ được hình thành bằng cách trích một tỷ lệ nhất định từ phần lợi nhuận
sau thuế để lại doanh nghiệp theo quy định của chế độ tài chính và từ một số
nguồn khác (viện trợ, tặng thưởng, cấp duới nộp, cấp trên cấp bổ sung…). Các

19


quỹ được sử dụng cho từng mục đích chi tiêu riêng.
- Quỹ đầu tư phát triển: Quỹ này được dùng để bổ sung vốn điều lệ của
đơn vị; sử dụng cho các mục đích mở rộng, phát triển sản xuất kinh doanh, đầu tư
theo chiều sâu, mua sắm, xây dựng tài sản cố định, cải tiến và đổi mới dây
chuyền sản xuất, đổi mới công nghệ, mua cổ phiếu, góp cổ phần, nghiên cứu
khoa học, trích nộp lên cấp trên để hình thành quỹ phát triển …
- Quỹ dự phòng tài chính được dùng để: Bù đắp những tổn thất, thiệt hại
về tài sản, công nợ không đòi được xảy ra trong quá trình kinh doanh; Bù đắp
khoản lỗ của đơn vị theo quyết định của Hội đồng quản trị hoặc đại diện chủ sở

hữu; Ngoài ra một phần sẽ trích nộp lên đơn vị cấp trên theo tỷ lệ quy định.
- Các quỹ khác thuộc vốn chủ sở hữu được sử dụng để thưởng cho Hội
đồng quản trị, Ban Giám đốc đơn vị. Mức thưởng do đại diện chủ sở hữu quyết
định gắn với hiệu quả hoạt động kinh doanh của đơn vị, trên cơ sở đề nghị của
Chủ định Hội đồng quản trị hoặc Hiệu trưởng (đối với đơn vị hành chính sự
nghiệp không có Hội đồng quản trị).
- Quỹ khen thưởng được dùng để: Thưởng cuối năm hoặc thường kỳ trên
cơ sở năng suất lao động và thành tích công tác của mỗi cán bộ, công nhân viên
trong đơn vị nhà nước; Thưởng đột xuất cho những cá nhân, tập thể trong đơn vị;
- Quỹ phúc lợi được dùng để: Đầu tư xây dựng hoặc sửa chữa các công
trình phúc lợi của đơn vị; Chi cho các hoạt động phúc lợi công cộng của tập thể
công nhân viênđơn vị, phúc lợi xã hội; Góp một phần vốn để đầu tư xây dựng các
công trình phúc lợi chung trong ngành, hoặc với các đơn vị khác theo hợp đồng;
Ngoài ra có thể sử dụng một phần quỹ phúc lợi để trợ cấp khó khăn đột xuất cho
những người lao động kể cả những trường hợp về hưu, về mất sức, lâm vào hoàn
cảhh khó khăn, không nơi nương tựa, hoặc làm công tác từ thiện xã hội.
- Việc sử dụng các quỹ nói trên phải thực hiện công khai theo quy chế
công khai tài chính, quy chế dân chủ ở cơ sở và quy định của Nhà nước. Đơn vị
chỉ được chi các quỹ khen thưởng, phúc lợi, quỹ thưởng Ban quản lý điều hành
đơn vị sau khi thanh toán đủ các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản khác đến hạn
phải trả.
2.1.5.5 Hệ thống thanh tra, kiểm tra và Tổ chức bộ máy quản lý tài chính
Theo Vũ Thị Thanh Thủy (2012), để quản lý tài chính của trường hiệu quả

20


và tiết kiệm, thì công tác thanh kiểm tra giúp cho các tổ chức và cá nhân chấp
hành một cách chính xác, đánh giá, nhận xét tình hình và kết quả thực hiện quyết
định quản lý; để kiểm nghiệm lại chính nội dung và chất lượng quản lý; khi cần

thiết phải bổ sung, sửa đổi, thậm chí phải huỷ bỏ một phần hay toàn bộ quyết
định quản lý.
Hệ thống thanh tra, kiểm tra giữ vai trò quan trọng trong việc thực hiện mục
tiêu chung của trường đã đề ra. Hoạt động thanh tra kiểm tra nhằm kịp thời phát
hiện và xử lý các sai phạm trong quản lý tài chính, vốn ngân sách; đề xuất hoàn
thiện hệ thống cơ chế, chính sách quản lý; giải quyết các khiếu nại, tố cáo trong
lĩnh vực tài chính ở tất cả các đơn vị trong trường và nó là cơ sở trong việc đóng
góp tích cực vào viêc tăng thu cho nhà trường, chống thất thoát, lãng phí, tiêu cực
trong quản lý sử dụng ngân sách nhà nước; tăng cường kỷ luật, kỷ cương và nâng
cao hiệu quả quản lý, sử dụng các nguồn lực tài chính của nhà trường. Do vậy, cần
thực hiện công tác thanh tra, kiểm tra một cách thường xuyên nhằm giúp cho các
đơn vị quản lý và sử dụng các nguồn tài chính một cách chặt chẽ và hiệu quả.
Việc tổ chức bộ máy quản lý tài chính ảnh hưởng rất nhiều đến thời gian
và hiệu quả của quá trình quản lý. Một cơ quan có bộ máy quản lý tài chính nhỏ
gọn, năng suất lao động sẽ tăng lên, tránh được việc gây thất thoát lãng phí trong
quá trình hoạt động. Bên cạnh đó, trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa
thì yếu tố con người ngày càng được quan tâm hơn vì: năng lực cán bộ là yếu tố
quyết định trong quản lý nói chung và trong quản lý tài chính nói riêng. Trình độ
quản lý của lãnh đạo tác động rất lớn tới cơ chế quản lý tài chính. Đội ngũ cán bộ
trực tiếp làm công tác kế hoạch tài chính, nghiệp vụ kế toán cũng đòi hỏi phải có
năng lực và trình độ chuyên môn nghiệp vụ, có kinh nghiệm công tác để đưa công
tác quản lý tài chính đi vào nề nếp, tuân thủ các chế độ quy định về tài chính kế
toán của Nhà nước góp phần vào hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp nói
chung và các đơn vị sự nghiệp có thu nói riêng (Vũ Thị Thanh Thủy, 2012).
2.1.5.6. Đánh giá kết quả thực hiện công tác quản lý tài chính
Quản lý tài chính là một bộ phận, một khâu của quản lý kinh tế xã hội và
là khâu quản lý mang tính tổng hợp. Quản lý tài chính được coi là hợp lý, có hiệu
quả nếu nó tạo ra được một cơ chế quản lý thích hợp, có tác động tích cực tới các
quá trình kinh tế xã hội theo các phương hướng phát triển đã được hoạch định.
Việc quản lý, sử dụng nguồn tài chính ở các đơn vị sự nghiệp có liên quan trực


21


tiếp đến hiệu quả kinh tế xã hội do đó phải có sự quản lý, giám sát, kiểm tra
nhằm hạn chế, ngăn ngừa các hiện tượng tiêu cực, tham nhũng trong khai thác và
sử dụng nguồn lực tài chính đồng thời nâng cao hiệu quả việc sử dụng các nguồn
tài chính.
Trong đơn vị sự nghiệp, Nhà nước là chủ thể quản lý, đối tượng quản lý là
tài chính đơn vị sự nghiệp. Tài chính đơn vị sự nghiệp bao gồm các hoạt động và
quan hệ tài chính liên quan đến quản lý, điều hành của Nhà nước trong lĩnh vực
sự nghiệp.
Là chủ thể quản lý, Nhà nước có thể sử dụng tổng thể các phương pháp,
các hình thức và công cụ để quản lý hoạt động tài chính của các đơn vị sự nghiệp
trong những điều kiện cụ thể nhằm đạt được những mục tiêu nhất định. Để đạt
được những mục tiêu đề ra, công tác quản lý tài chính đơn vị sự nghiệp bao gồm
ba khâu công việc: Thứ nhất, lập dự toán thu, chi ngân sách nhà nước trong phạm
vi được cấp có thẩm quyền giao hàng năm; Thứ hai, tổ chức chấp hành dự toán
thu, chi tài chính hàng năm theo chế độ, chính sách của Nhà nước; Thứ ba, quyết
toán thu, chi ngân sách Nhà nước.
2.1.6. Các yếu tố ảnh hưởng đến quản lý tài chính tại trường Đại học Công lập
2.1.6.1. Cơ chế quản lý tài chính của Nhà nước
Cơ chế quản lý tài chính của Nhà nước tạo ra môi trường pháp lý cho việc
tạo lập và sử dụng các nguồn lực tài chính nhằm đáp ứng các yêu cầu hoạt động
của đơn vị. Nó được xây dựng dựa trên quan điểm định hướng về chính sách
quản lý đơn vị sự nghiệp trong từng giai đoạn cụ thể của Nhà nước nhằm cụ thể
hoá các chính sách đó. Cơ chế này sẽ vạch ra các khung pháp lý về mô hình quản
lý tài chính của đơn vị sự nghiệp, từ việc xây dựng các tiêu chuẩn, định mức, các
quy định về lập dự toán, điều chỉnh dự toán, cấp phát kinh phí, kiểm tra, kiểm
soát,… nhằm phát huy tối đa hiệu quả quản lý vĩ mô gắn với tinh thần tự chủ, tự

chịu trách nhiệm của đơn vị. Do đó, nếu cơ chế tài chính phù hợp sẽ tạo điều kiện
tăng cường và tập trung nguồn lực tài chính, đảm bảo sự linh hoạt, năng động và
hữu hiệu của các nguồn lực tài chính, giúp cho đơn vị sự nghiệp thực hiện tốt
nhiệm vụ chuyên môn được giao (Vũ Thị Thanh Thủy, 2012).
Cơ chế quản lý tài chính của Nhà nước đối với đơn vị sự nghiệp có tác
động đến chương trình chi tiêu ngân sách quốc gia, ảnh hưởng lớn đến việc thực
hiện các chương trình, mục tiêu quốc gia về hoạt động sự nghiệp. Vì vậy, cơ chế

22


tài chính đó nếu được thiết lập phù hợp, hiệu quả sẽ đảm bảo cung ứng đủ nguồn
kinh phí cho hoạt động chuyên môn, tránh được thất thoát, lãng phí các nguồn
lực tài chính, đảm bảo phát huy tối đa hiệu quả, tiền đề vật chất cho việc thực
hiện tốt các chương trình quốc gia về hoạt động sự nghiệp. Thêm vào đó, cơ chế
quản lý tài chính của Nhà nước còn có vai trò như một cán cân công lý, đảm bảo
sự công bằng, hợp lý trong việc tạo lập và phân phối sử dụng các nguồn lực tài
chính giữa các lĩnh vực hoạt động sự nghiệp khác nhau cũng như giữa các đơn vị
sự nghiệp trong cùng một lĩnh vực. Nhờ đó, các đơn vị sự nghiệp dù hoạt động ở
đâu, lĩnh vực nào cũng được quan tâm, tạo môi trường bình đẳng, tạo điều kiện
phát triển tương xứng với yêu cầu của xã hội đối với lĩnh vực đó và tiềm lực kinh
tế của quốc gia (Vũ Thị Thanh Thủy, 2012).
Bên cạnh đó, cơ chế quản lý tài chính cũng có những tác động tiêu cực đối
với hoạt động của các đơn vị sự nghiệp: Cơ chế quản lý tài chính của Nhà nước
vạch ra hành lang pháp lý cho đơn vị sự nghiệp nhưng nếu các cơ chế này không
phù hợp sẽ trở thành hàng rào trói buộc, cản trở đến quá trình tạo lập và sử dụng
các nguồn lực tài chính của các đơn vị sự nghiệp, ảnh hưởng xấu đến kết quả
hoạt động chuyên môn của đơn vị. Nếu cơ chế quản lý tài chính của Nhà nước sơ
hở, lỏng lẻo có thể làm hao tổn NSNN, gây ra thất thoát, lãng phí các nguồn lực
tài chính khác mà không đạt được các mục tiêu chính trị, xã hội đã định (Vũ Thị

Thanh Thủy, 2012).
Để có một cơ sở pháp lý hoàn chỉnh, khuyến khích các đơn vị sự nghiệp
giáo dục Công lập nâng cao tự chủ tài chính, hành lang pháp lý của Nhà nước cần
xác định rõ chu trình quản lý tài chính từ khâu lập dự toán, phê duyệt dự toán,
thực hiện, quyết toán; xác định các nguồn thu đơn vị có được và được phép tổ
chức thu; xác định cơ cấu chi, mức chi, trích lập và sử dụng các quỹ; cơ chế phân
phối, sử dụng chê nh lệch thu chi; cơ chế quản lý, sử dụng, khai thác tài sản,...
trên cơ sở đó các đơn vị sự nghiệp giáo dục Công lập thực hiện tăng cường công
tác quản lý tài chính (Vũ Thị Thanh Thủy, 2012).
2.1.6.2. Hệ thống kiểm soát nội bộ
Kiểm tra, kiểm soát là một hoạt động rất quan trọng, không thể thiếu trong
khoa học quản lý nhằm đảm bảo cho quá trình hoạt động theo kế hoạch vạch ra,
phát hiện kịp thời các sai sót, vướng mắc để có biện pháp xử lý kịp thời nhằm
tránh những tổn thất. Cơ sở khách quan cho công tác kiểm tra tài chính là chức

23


năng tài chính và nó được thể hiện thông qua công tác kiểm tra tài chính (Vũ Thị
Thanh Thủy, 2012).
Công tác kiểm tra tài chính tại các đơn vị sự nghiệp có thu có tác động tăng
cường quản lý tài chính, thúc đẩy việc thực hiện kế hoạch của đơn vị, đảm bảo
nguồn vốn được sử dụng đúng mục đích, thúc đẩy việc sử dụng hợp lý kinh phí
được cấp nhằm đảm bảo tăng hiệu quả kinh tế, hiệu quả của xã hội. Đồng thời, góp
phần thực hiện tiết kiệm, hiệu quả nguồn lực tài chính, tôn trọng chính sách, chế
độ kỷ luật tài chính của Nhà nước ban hành (Vũ Thị Thanh Thủy, 2012).
Kiểm tra tài chính bao gồm:
- Kiểm tra trước khi thực hiện kế hoạch tài chính: là loại kiểm tra được
tiến hành trước khi xây và dựng, xét duyệt quyết định dự toán kinh phí.
- Kiểm tra sau khi thực hiện kế hoạch tài chính: là loại kiểm tra được tiến

hành sau khi đã kết thúc giai đoạn thực hiện công tác kế hoạch tài chính. Mục tiêu
của kiểm tra tài chính ở giai đoạn này là xem xét lại tính đúng đắn, hợp lý, chính xác
của các hoạt động tài chính cũng như các số liệu, tài liệu tổng hợp được đưa ra trong
các sổ sách, báo biểu, từ đó có thể tổng kết rút ra các bài học kinh nghiệm cho việc
xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch hóa tài chính trong các kỳ sau đó.
Cùng với hoạt động kiểm tra thì kiểm soát thường xuyên là một nhân tố
có ảnh hưởng quan trọng đến quản lý tài chính tại đơn vị sự nghiệp có thu.
Kiểm soát thường xuyên là hoạt động nhằm thực hiện việc giám sát, kiểm tra
liên tục đối với hoạt động tài chính, nghiệp vụ tài chính phát sinh nên có thể
kịp thời phát hiện những sai sót, những vi phạm chính sách, chế độ, kỷ luật,
tài chính. Trên cơ sở đó, thúc đẩy việc hoàn thành các kế hoạch tài chính, tổ
chức và sử dụng tiết kiệm, có hiệu quả các nguồn kinh phí, đảm bảo chi đúng,
chi đủ, chi có hiệu quả phù hợp với mục tiêu của Nhà nước giao cho và mục
tiêu phát triển kinh tế - xã hội.
2.1.6.3. Trình độ cán bộ quản lý
Trong lĩnh vực quản lý, con người được coi là nhân tố trung tâm, là khâu
quan trọng nhất trong việc xử lý các thông tin để ra quyết định quản lý.. Đối với
mỗi cơ quan và doanh nghiệp khi có trình độ quản lý giỏi nó sẽ giúp quá trình
quản lý được thuận lợi, nhanh chóng khắc phục những sai lầm, tiết kiệm được
nhiều khoản chi tiêu gây lãng phí mà không hiệu quả, tập trung vào những danh

24


mục và hạm mục quan trọng, tư vấn cho các cấp lãnh đạo đưa ra được các quyết
định đúng đắn… Do đó nó ảnh hưởng đến chất lượng hoạt động của bộ máy quản
lý, quyết định sự thành bại của công tác quản lý nói chung cũng như việc quản lý
tài chính nói riêng (Vũ Thị Thanh Thủy, 2012).
2.1.6.4. Đặc điểm của ngành
Đặc điểm của ngành là một nhân tố quan trọng ảnh hưởng lớn đến việc

quản lý tài chính tại đơn vị sự nghiệp có thu. Các đơn vị sự nghiệp có thu hoạt
động sự nghiệp trong các lĩnh vực: giáo dục, đào tạo, y tế, khoa học công nghệ
và môi trường, văn hóa thông tin, thể dục thể thao, sự nghiệp kinh tế, dịch vụ
việc làm… Do đặc điểm của các lĩnh vực này là khác nhau nên đặc điểm hoạt
động của các đơn vị này khác nhau dẫn đến mô hình quản lý tài chính cũng sẽ
thay đổi cho phù hợp với đặc điểm hoạt động của từng đơn vị. Với đặc điểm là
ngành đào tạo con người, đào tạo những lao động phục vụ cho công cuộc xây
dựng đất nước. Chất lượng đạo tạo liên quan rất nhiều đến chất lượng của
nguồn lao động cung cấp cho xã hội, chính vì vậy việc đầu tư cho giáo dục
ngày càng cấp thiết và quan trọng. Ngành giáo dục nói chung và đối với trường
đại học nói riêng được nhà nước quan tâm và đầu tư ngày càng nhiều, nguồn
vốn đầu tư cho các trường đại học ngày càng mở rộng như: từ ngân sách, từ học
phí, từ liên kết dự án…Điều này ảnh hưởng rất nhiều đến quá trình quản lý tài
chính. Ngoài ra, do hoạt động của từng ngành khác nhau dẫn đến tính chất và
nội dung của các khoản thu, chi của các đơn vị cũng khác nhau mang tính đặ
thù của ngành. Điều này đòi hỏi trên cơ sở nguyên tắc quản lý chung, từng
ngành, từng đơn vị phải có các biện pháp quản lý cụ thể cho phù hợp với đặc
điểm hoạt động của ngành, đơn vị mình (Vũ Thị Thanh Thủy, 2012).
2.2. CƠ SỞ THỰC TIỄN VỀ QUẢN LÝ TÀI CHÍNH TẠI CÁC TRƯỜNG
ĐẠI HỌC CÔNG LẬP
2.2.1. Kinh nghiệm của nước ngoài
2.2.1.1. Kinh nghiệm của Mỹ
Theo Joanne (2004), nguồn kinh phí và tỷ lệ chi tiêu cho GDĐH ở Mỹ rất
lớn, bao gồm nguồn kinh phí của NSNN, nguồn thu học phí của sinh viên, đóng
góp của cộng đồng và bản thân trường đại học. Ngân sách của chính phủ dành
cho giáo dục luôn có xu hướng gia tăng. Năm 1989 ngân sách đầu tư cho giáo
dục khoảng 353 tỷ USD, đến năm 1999 đầu tư khoảng 635 tỷ USD, đến năm

25



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×