Tải bản đầy đủ (.pdf) (76 trang)

Tái cấu trúc viện khoa học và kỹ thuật hạt nhân để thực hiện tự chủ, tự chịu trách nhiệm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (796.75 KB, 76 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
--------------------------------------

NGUYỄN ANH TUẤN

TÁI CẤU TRÚC VIỆN KHOA HỌC VÀ KỸ THUẬT
HẠT NHÂN ĐỂ THỰC HIỆN TỰ CHỦ,
TỰ CHỊU TRÁCH NHIỆM

LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH: QUẢN LÝ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ

Hà Nội, 2017


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

NGUYỄN ANH TUẤN

TÁI CẤU TRÚC VIỆN KHOA HỌC VÀ KỸ THUẬT
HẠT NHÂN ĐỂ THỰC HIỆN TỰ CHỦ,
TỰ CHỊU TRÁCH NHIỆM

LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH: QUẢN LÝ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
Mã số: 60340412

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Trịnh Ngọc Thạch


Hà Nội, 2017


LỜI CẢM ƠN
Được sự phân công của Khoa Khoa học quản lý, Trường Đại học Khoa
học Xã hội và Nhân văn, được sự đồng ý của Thầy giáo hướng dẫn TS. Trịnh
Ngọc Thạch, tôi đã thực hiện đề tài “Tái cấu trúc Viện Khoa học và kỹ thuật
hạt nhân để thực hiện tự chủ, tự chịu trách nhiệm”.
Để hoàn thành luận văn này, tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo
đã tận tình hướng dẫn, giảng dạy trong suốt quá trình tôi học tập, nghiên cứu
và rèn luyện ở Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn. Xin chân thành
cảm ơn Thầy giáo hướng dẫn TS. Trịnh Ngọc Thạch đã tận tình, chu đáo
hướng dẫn tôi thực hiện luận văn này.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng để thực hiện luận văn một cách nghiêm túc
nhất, nhưng do trình độ lý luận cũng như kiến thức và kinh nghiệm thực tiễn
còn hạn hẹp nên luận văn không thể tránh khỏi những thiếu sót mà bản thân
chưa thấy được. Tôi rất mong nhận được những ý kiến đóng góp của các
Thầy, Cô giáo và các bạn học viên để luận văn được hoàn chỉnh hơn.
Tôi xin chân thành cám ơn!


MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU ................................................................................................. 4
Chƣơng 1. Cơ sở lý luận về tổ chức khoa học và công nghệ và quyền tự
chủ, tự chịu trách nhiệm của tổ chức khoa học và công nghệ ...................... 10
1.1. Một số khái niệm cơ bản của Luận văn ................................................. 10
1.1.1. Tổ chức khoa học và công nghệ ........................................................... 10
1.1.2. Tự chủ, tự chịu trách nhiệm của tổ chức KH&CN ............................. 14
1.1.3. Tái cấu trúc ............................................................................................ 18

1.2. Tự chủ về tổ chức và nhân sự của các tổ chức khoa học và công nghệ20
1.3. Các điều kiện để tái cấu trúc một tổ chức khoa học và công nghệ
công lập nhằm thực hiện yêu cầu tự chủ, tự chịu trách nhiệm .................... 24
Chƣơng 2. Thực trạng về cấu trúc của Viện Khoa học và kỹ thuật hạt
nhân trong thực hiện tự chủ, tự chịu trách nhiệm ......................................... 27
2.1. Giới thiệu Viện Khoa học và kỹ thuật hạt nhân ................................... 27
2.2. Thực trạng tổ chức của Viện Khoa học và kỹ thuật hạt nhân ............ 34
2.2.1. Cơ cấu tổ chức của Viện Khoa học và Kỹ thuật hạt nhân .................. 34
2.2.2. Cơ cấu cán bộ, viên chức và người lao động khác .............................. 38
2.2.3. Số lượng cán bộ tham gia công tác đào tạo sau đại học, số lượng
thạc sỹ, tiến sỹ được đào tạo tại đơn vị .............................................................. 41
2.3. Năng lực tài chính và công tác nghiên cứu khoa học của Viện Khoa
học và kỹ thuật hạt nhân .................................................................................. 41
2.3.1. Năng lực tài chính ................................................................................. 41
2.3.2. Công tác nghiên cứu khoa học của Viện Khoa học và kỹ thuật hạt
nhân

................................................................................................................ 42

a. Nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu xây dựng tiềm lực ..................................... 42
b. Hỗ trợ kỹ thuật cho cơ quan quản lý nhà nước ........................................... 42
c. Nghiên cứu ứng dụng .................................................................................... 43
d. Mối liên kết hoạt động KH&CN giữa các đơn vị với nhau và giữa Viện với
các cơ quan trong và ngoài nước ...................................................................... 44
1


2.3.3. Sự cần thiết của việc đẩy mạnh công tác đào tạo tại Viện Khoa học
và kỹ thuật hạt nhân........................................................................................... 45
2.4. Đánh giá cơ cấu tổ chức và nguồn nhân lực của Viện Khoa học và kỹ

thuật hạt nhân trong tình hình hiện nay ......................................................... 46
Chƣơng 3. Giải pháp tái cấu trúc Viện Khoa học và kỹ thuật hạt nhân để
thực hiện tự chủ, tự chịu trách nhiệm ............................................................. 49
3.1. Căn cứ đề xuất giải pháp......................................................................... 49
3.2. Định hƣớng tái cấu trúc Viện Khoa học và kỹ thuật hạt nhân ........... 53
3.2.1. Định hướng phát triển, chức năng, nhiệm vụ của Viện Khoa học và
kỹ thuật hạt nhân trong giai đoạn tới ............................................................... 53
3.2.2. Sắp xếp bộ máy tổ chức của Viện Khoa học và kỹ thuật hạt nhân phù
hợp với chức năng, nhiệm vụ ............................................................................ 57
3.2.2.1. Sơ đồ tổ chức ...................................................................................... 59
3.2.2.2. Chức năng, nhiệm vụ của các đơn vị trực thuộc .............................. 60
3.3. Các giải pháp tái cấu trúc Viện Khoa học và kỹ thuật hạt nhân để
thực hiện tự chủ, tự chịu trách nhiệm ............................................................. 64
3.3.1. Đa dạng hóa chức năng, hoạt động của các đơn vị trực thuộc Viện
Khoa học và kỹ thuật hạt nhân.......................................................................... 64
3.3.2. Giải pháp về nguồn nhân lực của Viện Khoa học và kỹ thuật hạt
nhân giai đoạn 2017-2020 ................................................................................. 65
KẾT LUẬN ........................................................................................................ 70
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................ 72

2


DANH MỤC CÁC HÌNH, BẢNG BIỂU
Bảng 2.1. Bảng phân bố nhân lực của Viện Khoa học và kỹ thuật hạt
nhân ................................................................................................................ 38
Bảng 2.2. Trình độ học vấn của các cán bộ thuộc Viện Khoa học và
kỹ thuật hạt nhân .......................................................................................... 39
Biểu đồ 2.1. Cơ cấu cán bộ theo chức danh của Viện Khoa học và
kỹ thuật hạt nhân .......................................................................................... 40

Hình 1.Sơ đồ tổ chức của Viện Khoa học và kỹ thuật hạt nhân giai đoạn
2017 – 2020 ..................................................................................................... 60
Bảng 3.1. Chức năng, nhiệm vụ của các đơn vị trực thuộc Viện Khoa học
và kỹ thuật hạt nhân giai đoạn 2017-2020 .................................................. 60
Bảng 3.2. Nhu cầu nhân lực (theo trình độ) của Viện Khoa học và kỹ
thuật hạt nhân trong giai đoạn 2017-2020 .................................................. 67
Bảng 3.3. Nhu cầu nhân lực phân bổ theo các đơn vị trực thuộc của Viện
Khoa học và kỹ thuật hạt nhân giai đoạn 2017-2020................................. 67

3


PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do lựa chọn đề tài
Trong thời gian qua, có nhiều văn bản, chính sách liên quan đến quyền
tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho các tổ chức khoa học và công nghệ (KH&CN)
đã được ban hành, cụ thể như sau:
- Nghị định 115/2005/NĐ-CP (Nghị định 115) ngày 05/9/2005 của
Chính phủ quy định cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm của tổ chức
khoa học và công nghệ công lập;
- Nghị định 43/2006/NĐ-CP (Nghị định 43) ngày 25/4/2006 của
Chính phủ quy định quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực
hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính đối với sự
nghiệp công lập;
- Nghị định 80/2007/NĐ-CP (Nghị định 80) ngày 19/5/2007 của
Chính phủ về doanh nghiệp khoa học và công nghệ;
- Nghị định 96/2010/NĐ-CP (Nghị định 96) ngày 20/9/2010 của
Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 115 và
Nghị định 80;

- Nghị định 16/2015/NĐ-CP (Nghị định 16) ngày 14/02/2015 của
Chính phủ quy định cơ chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp công lập;
- Nghị định 54/2016/NĐ-CP (Nghị định 54) ngày 14/6/2016 của
Chính phủ quy định cơ chế tự chủ của tổ chức khoa học và công
lập, cụ thể hóa Nghị định 16 đối với các tổ chức sự nghiệp
KH&CN công lập;
Đây là các văn bản đánh dấu những cột mốc rất quan trọng đối với các
đơn vị sự nghiệp công lập. Các tổ chức này được quyền tự chủ và tự chịu
trách nhiệm trong việc tổ chức mọi hoạt động KH&CN của mình.
Viện Khoa học và kỹ thuật hạt nhân (Viện KH&KT hạt nhân) là một tổ
chức sự nghiệp khoa học trực thuộc Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam,
4


thực hiện chức năng nghiên cứu, triển khai ứng dụng khoa học và kỹ thuật hạt
nhân (theo Quyết định số: 737/QĐ-NLNT ngày 28/7/2005 của Viện trưởng
Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam). Viện vừa có vai trò của một đơn vị
nghiên cứu cơ bản, vừa thực hiện triển khai ứng dụng, đồng thời hoạt động
như một cơ quan hỗ trợ kỹ thuật trong lĩnh vực kiểm soát an toàn bức xạ và
hạt nhân. Để thực hiện tốt các nhiệm vụ do Nhà nước giao về nghiên cứu cơ
bản, nghiên cứu xây dựng tiềm lực và hỗ trợ kỹ thuật cho chương trình ứng
dụng năng lượng nguyên tử ở Việt Nam, yêu cầu phải có kế hoạch và lộ trình
phù hợp, từng bước hoàn thiện bộ máy tổ chức trên cơ sở tiềm lực ban đầu có
sẵn hiện nay, đảm bảo có sự chuyên môn hóa cao, với đội ngũ cán bộ và trang
thiết bị hiện đại. Việc thực hiện tự chủ, tự chịu trách nhiệm của Viện KH&KT
hạt nhân còn gặp nhiều khó khăn và chưa đạt hiệu quả như mong muốn.
Do đó đề tài này rất cần thiết nhằm đưa ra các giải pháp tái cấu trúc Viện
Khoa học và kỹ thuật hạt nhân để thực hiện tự chủ, tự chịu trách nhiệm phù
hợp với chức năng, nhiệm vụ.
a. Ý nghĩa lý luận của đề tài

Đề tài mang ý nghĩa to lớn, góp phần hoàn thiện cơ sở lý luận trong việc
thực hiện chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các tổ chức khoa học và công
nghệ công lập.
b. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài
- Đề tài đưa ra các giải pháp cho Viện khoa học và kỹ thuật hạt nhân nói
riêng và các tổ chức khoa học và công nghệ công lập khác nói chung
trong việc tái cấu trúc nhằm thực hiện tự chủ, tự chịu trách nhiệm;
- Xu thế tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các tổ chức KH&CN công lập
nói riêng và các tổ chức KH&CN trong toàn xã hội nói chung là tất yếu
trong bối cảnh nền kinh tế nước ta hiện nay.

5


2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Ngày 20/9/2013, Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ đã ký Quyết
định số 2910/QĐ-BKHCN phê duyệt “Đề án kiện toàn tổ chức và hoạt động
của Viện Khoa học và kỹ thuật hạt nhân”, cho phép Viện Khoa học và kỹ
thuật hạt nhân hoạt động theo cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm. Từ đó, chưa
có tài liệu nào nghiên cứu, đánh giá hiệu quả hoạt động của Viện, đặc biệt
trong giai đoạn Nhà nước ta đang tập trung vào các chương trình ứng dụng
năng lượng nguyên tử ở Việt Nam.
Trên phạm vi cả nước đã có rất nhiều tác giả nghiên cứu về vấn đề này,
ví dụ như:
Nghiên cứu về hoạt động tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các tổ chức
khoa học và công nghệ công lập, Vụ Tổ chức cán bộ, Bộ Khoa học và Công
nghệ đã có một số Đề tài cấp Bộ như “Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn
để đề xuất các nội dung hướng dẫn tổ chức KH&CN công lập thực hiện cơ
chế tự chủ trong thời gian tới” của ThS. Đinh Việt Bách tập trung nghiên cứu,
đề xuất các giải pháp để thực hiện tự chủ của các tổ chức KH&CN công lập.

Hay Đề tài “Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn để xây dựng hướng dẫn về
danh mục vị trí việc làm và định mức số lượng người làm việc trong tổ chức
KH&CN công lập” của ThS. Lê Thị Minh Hương tập trung phân tích nhân
lực trong các tổ chức KH&CN công lập nhằm đạt hiệu quả cao nhất. Hai đề
tài trên đã đề xuất các nội dung để hướng dẫn tổ chức KH&CN công lập thực
hiện cơ chế tự chủ. Tuy nhiên, với một đơn vị đặc thù hoạt động trong lĩnh
vực hạt nhân như Viện KH&KT hạt nhân, các đề xuất trên chưa được nghiên
cứu cụ thể hơn để phù hợp với thực tiễn của Viện.
Tác giả Hoàng Xuân Long với đề tài cấp Bộ năm 2006 về "quyền tự chủ
và năng lực tự chủ của tổ chức nghiên cứu triển khai" đã làm rõ bản chất của
tự chủ, tự chịu trách nhiệm. Trong đó, tác giả đã đề đến vấn đề năng lực tự
chủ, tự chịu trách nhiệm của các tổ chức nghiên cứu. Tuy nhiên, đối với các
6


Viện nghiên cứu cụ thể như Viện KH&KT hạt nhân, các vấn đề lý thuyết này
chưa được ứng dụng và giải quyết được các vấn đề cơ bản liên quan đến việc
thực hiện tự chủ, tự chịu trách nhiệm.
Ngoài ra còn có một số luận văn nghiên cứu vấn đề tự chủ tự chịu trách
nhiệm của các tổ chức khoa học và công nghệ như Luận văn thạc sỹ “Đề xuất
một số điều kiện để các tổ chức nghiên cứu và triển khai của Nhà nước có
năng lực tự chủ trong hoạt động KH&CN” của tác giả Đinh Việt Bách tập
trung nêu lên những điều kiện để các viện thực hiện chuyển đổi theo Nghị
định 115. Hay Luận văn “Những khó khăn trong việc chuyển đổi các đơn vị
nghiên cứu và triển khai của ngành Năng lượng nguyên tử Việt Nam theo cơ
chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm và giải pháp khắc phục” của tác giả Nguyễn
Thanh Bình. Luận văn tập trung phân tích các khó khăn của các viện thuộc
ngành Năng lượng nguyên tử Việt Nam trong việc thực hiện tự chủ, tự chịu
trách nhiệm và đề xuất một số biện pháp giải quyết.
Tác giả Phan Lệ Nga, đề tài luận văn thạc sĩ năm 2014 “Tái cơ cấu hệ

thống tổ chức của Viện Nghiên cứu và Phát triển Vùng trong quá trình thực
hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm theo Nghị định 115/2005/NĐ-CP".
Trong đề tài này, tác giả đã làm rõ bản chất của tự chủ, tự chịu trách nhiệm.
Trong đó tác giả đã đề cập đến vấn đề năng lực tự chủ, tự chịu trách nhiệm
của Viện Nghiên cứu và Phát triển Vùng. Tuy nhiên, các vấn đề lý thuyết này
chưa giải quyết được các vấn đề cơ bản liên quan đến việc áp dụng cơ chế tự
chủ, tự chịu trách nhiệm vào Viện KH&KT hạt nhân.
Bên cạnh đó, còn có nhiều tác giả nghiên cứu vấn đề này. Các đề tài
cũng đã làm rõ được bản chất của việc thự hiện tự chủ, tự chịu trách nhiệm.
Tuy nhiên, đối với Viện KH&KT hạt nhân thì các cách tiếp cận này chưa giải
quyết được vấn đề thực tiễn của Viện. Vì vậy, Luận văn mong muốn sẽ giải
quyết được các khó khăn đó.

7


3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
a. Mục tiêu
Đề xuất các giải pháp tái cấu trúc Viện Khoa học và kỹ thuật hạt nhân để
thực hiện tự chủ, tự chịu trách nhiệm, phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của Viện.
b. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ cơ sở lý luận về tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các tổ chức
khoa học và công nghệ công lập;
- Khảo sát, đánh giá thực trạng hoạt động của Viện Khoa học và kỹ thuật
hạt nhân. Từ đó đưa ra các giải pháp tái cấu trúc Viện Khoa học và kỹ
thuật hạt nhân nhằm đẩy mạnh hiệu quả hoạt động của Viện.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
a. Đối tƣợng nghiên cứu
Tổ chức và quản lý Viện Khoa học và kỹ thuật hạt nhân nhằm thực
hiện quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm.

b. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi về nội dung: các giải pháp tái cấu trúc Viện Khoa học và
kỹ thuật hạt nhân để thực hiện tự chủ, tự chịu trách nhiệm.
- Phạm vi về thời gian: từ năm 2012 đến nay.
5. Câu hỏi nghiên cứu
- Câu hỏi chính: Tái cấu trúc Viện Khoa học và kỹ thuật hạt nhân
như thế nào để thực hiện tự chủ, tự chịu trách nhiệm, phù hợp với chức
năng, nhiệm vụ của Viện?
- Câu hỏi phụ:
+ Tại sao phải tái cấu trúc Viện Khoa học và kỹ thuật hạt nhân?
+ Làm thế nào để tái cấu trúc Viện Khoa học và kỹ thuật hạt nhân?

8


6. Giả thuyết nghiên cứu
- Giả thuyết chính: Sắp xếp, kiện toàn lại các bộ phận và tổ chức trực
thuộc phù hợp với các nhiệm vụ nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu xây
dựng tiềm lực, hỗ trợ kỹ thuật và nghiên cứu ứng dụng, triển khai
một số dịch vụ kỹ thuật có thu nhằm tạo nguồn tài chính ổn định
cho Viện.
- Giả thuyết phụ:
+ Nhà máy điện hạt nhân tại Ninh Thuận bị dừng triển khai đã ảnh
hưởng nhiều đến hoạt động của Viện;
+ Đẩy mạnh công tác đào tạo, thu hút nguồn nhân lực chất lượng
cao cho Viện. Đa dạng hóa hoạt động và chức năng của các đơn
vị trực thuộc Viện, gắn với sản xuất và đào tạo.
7. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu: nghiên cứu tài liệu về việc thực
hiện cơ chế tự chủ tự chịu trách nhiệm của các tổ chức khoa học và

công nghệ công lập; nghiên cứu các chính sách về năng lượng của
Chính phủ trong giai đoạn mới. Phân tích các nguồn tư liệu, số liệu
có sẵn về thực trạng hoạt động của Viện Khoa học và kỹ thuật hạt
nhân;
- Phương pháp điều tra chọn mẫu: Luận văn lựa chọn cơ cấu tổ chức
và nhân lực của Viện Khoa học và kỹ thuật hạt nhân để nghiên cứu.
8. Kết cấu của Luận văn
Mở đầu
Chƣơng 1. Cơ sở lý luận về tổ chức khoa học và công nghệ và quyền tự
chủ, tự chịu trách nhiệm của tổ chức khoa học và công nghệ
Chƣơng 2. Thực trạng về cấu trúc của Viện Khoa học và kỹ thuật hạt
nhân trong thực hiện tự chủ tự chịu trách nhiệm
Chƣơng 3. Giải pháp tái cấu trúc Viện Khoa học và kỹ thuật hạt nhân để
thực hiện tự chủ và tự chịu trách nhiệm
Kết luận và khuyến nghị

9


Chƣơng 1. Cơ sở lý luận về tổ chức khoa học và công nghệ và quyền tự
chủ, tự chịu trách nhiệm của tổ chức khoa học và công nghệ
Chương này làm rõ những khái niệm cơ bản liên quan đến chế độ "Tự
chủ, tự chịu trách nhiệm" của tổ chức KH&CN và tác động của chế độ "Tự
chủ, tự chịu trách nhiệm" đến hoạt động của tổ chức KH&CN.
1.1. Một số khái niệm cơ bản của Luận văn
1.1.1. Tổ chức khoa học và công nghệ
Theo TS. Trịnh Ngọc Thạch tại Bài giảng Tổ chức Khoa học và Công
nghệ, "Tổ chức" là một nhóm người tập hợp nhau lại để cùng thực hiện mục
tiêu chung, có sự phân công lao động theo vị trí công việc, hình thành một hệ
thống cấu trúc; là tập hợp hành động của chủ thể quản lý vào đối tượng thông

qua các quyết định nhằm thực hiện mục tiêu của tổ chức; là một công cụ để
thực hiện mục tiêu của nó. Tổ chức có mục tiêu chung và mục tiêu cụ thể; có
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn; có sự phân công rõ ràng về vị trí, nhiệm vụ
của từng thành viên, có bộ máy lãnh đạo quản lý và có các nguồn lực để duy
trì và vận hành.
Hoạt động khoa học và công nghệ là cơ sở thiết kế tổ chức. Theo Luật
khoa học và công nghệ số 29/2013/QH13 ngày 18/06/2013,"Hoạt động khoa
học và công nghệ" là hoạt động nghiên cứu khoa học, nghiên cứu và triển
khai thực nghiệm, phát triển công nghệ, ứng dụng công nghệ, dịch vụ khoa
học và công nghệ, phát huy sáng kiến và hoạt động sáng tạo khác nhằm phát
triển khoa học và công nghệ. Mục tiêu của hoạt động KH&CN là xây dựng
nền KH&CN tiên tiến, hiện đại để phát triển lực lượng sản xuất, nâng cao
trình độ quản lý; sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường;
đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá; xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm
đà bản sắc dân tộc; xây dựng con người mới Việt Nam; góp phần phát triển
nhanh, bền vững kinh tế xã hội. Trong hoạt động KH&CN, phải bảo đảm các
nguyên tắc sau: hoạt động KH&CN phải phục vụ nhiệm vụ phát triển kinh tế
10


- xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh; xây dựng và phát huy năng lực
KH&CN, kết hợp với việc tiếp thu có chọn lọc các thành tựu KH&CN của thế
giới, phù hợp với thực tiễn Việt Nam; kết hợp chặt chẽ khoa học tự nhiên,
khoa học kỹ thuật và công nghệ với khoa học xã hội và nhân văn; gắn nghiên
cứu khoa học và phát triển công nghệ với giáo dục và đào tạo, với hoạt động
sản xuất, kinh doanh và phát triển thị trường công nghệ; phát huy khả năng
lao động sáng tạo của mọi tổ chức, cá nhân; trung thực, khách quan, đề cao
đạo đức nghề nghiệp, tự do sáng tạo, dân chủ, tự chủ, tự chịu trách nhiệm.
Hoạt động khoa học là lĩnh vực hoạt động nghề nghiệp vì nó khám phá ra các
tri thức về thế giới tự nhiên, xã hội và tư duy. Nó sáng tạo ra các nguyên lý

giải pháp mới hay sáng tạo ra các mô hình kỹ thuật quản lý xã hội mới phục
vụ cho con người cải tạo thế giới, phát triển kinh tế xã hội, văn hóa. Hoạt
động khoa học tạo nên tính sáng tạo, tính mới, mang tính rủi ro cao và đặc
biệt vai trò cá nhân trong hoạt động khoa học rất lớn. Thực tiễn sản xuất, hoạt
động xã hội đặt ra nhiều vấn đề cho khoa học giải quyết và đòi hỏi khoa học
đưa ra những căn cứ, những nguyên lý giải pháp hay mô hình để phát triển tri
thức, tìm hiểu thế giới tự nhiên, xã hội phục vụ cho xã hội.
Hoạt động công nghệ là tất cả những hoạt động liên quan đến các quá
trình nghiên cứu triển khai sản xuất và thị trường áp dụng công nghệ. Nội
dung chính của hoạt động công nghệ là biến các tri thức tiến bộ khoa học kỹ
thuật và công nghệ tiên tiến thành những yếu tố của sản xuất nhằm nâng cao
sức sản xuất của xã hội và con người. Hoạt động công nghệ là hoạt động tạo
ra và hoàn thiện công nghệ mới, sản phẩm mới gồm các bước triển khai thực
nghiệm và sản xuất thử nghiệm. Các hoạt động nghiên cứu trong quá trình sản
xuất (tìm ra các giải pháp mang tính sáng tạo cao, tăng năng suất lao động, nâng
cao hiệu quả, giảm chi phí,…); các hoạt động nghiên cứu trong quá trình giáo
dục, đào tạo (xây dựng, phát triển chương trình, quy trình, kiểm tra, đánh giá;
tìm tòi tri thức, phát minh, phát hiện khoa học, chuyển giao tri thức, công nghệ
trong quá trình giáo dục, đào tạo) và các hoạt động nghiên cứu trong hoạt động
11


kinh doanh, dịch vụ, chuyển giao công nghệ đòi hỏi nhu cầu phải thành lập tổ
chức KH&CN.
Theo Luật Khoa học và công nghệ năm 2013, "Tổ chức khoa học và
công nghệ" được định nghĩa là tổ chức có chức năng chủ yếu là nghiên cứu
khoa học, nghiên cứu triển khai và phát triển công nghệ, hoạt động dịch vụ
khoa học và công nghệ, được thành lập và đăng ký hoạt động theo quy định
của pháp luật. Các hình thức tổ chức KH&CN bao gồm: tổ chức nghiên cứu
khoa học, tổ chức nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ theo hình thức

viện nghiên cứu và phát triển, trung tâm nghiên cứu và phát triển, phòng thí
nghiệm, trạm nghiên cứu, trạm quan trắc, trạm thử nghiệm và cơ sở nghiên
cứu và phát triển khác; cơ sở giáo dục đại học theo quy định tại Khoản 1 Điều
7 Luật Giáo dục đại học năm 2012; tổ chức dịch vụ KH&CN.
Tổ chức khoa học và công nghệ được hình thành trong các cơ sở sản
xuất, cơ sở đào tạo đại học, các cơ sở kinh tế. Cơ sở hạ tầng của các tổ chức
KH&CN bao gồm: nhân lực, vật lực, tài lực và tin lực.
- Nguồn nhân lực của các tổ chức khoa học và công nghệ là tất cả
những người tham gia vào công tác nghiên cứu khoa học, công
nghệm, dịch vụ khoa học và công nghệ, được đào tạo và bồi dưỡng
ở các trình độ, mức độ khác nhau, có thể được tuyển dụng, biên chế
vào các vị trí khác nhau trong hệ thống tổ chức KH&CN;
- Nguồn tài chính của các tổ chức KH&CN rất đa dạng. Đối với các
nước có nền kinh tế đang chuyển đổi như nước ta thường có các
nguồn sau: ngân sách nhà nước, thực hiện các nhiệm vụ khoa học
và công nghệ, các hợp đồng khoa học, tài trợ của các tổ chức kinh
tế - xã hội trong và ngoài nước. Tỉ lệ các nguồn thu của các tổ chức
khoa học và công nghệ là khác nhau đối với các loại hình tổ chức
khác nhau, cũng thể hiện chính sách của quốc gia đó về khoa học và
công nghệ;
12


- Cơ sở hạ tầng của các tổ chức KH&CN còn bao gồm cơ sở vật chất:
nhà, xưởng, máy móc trang thiết bị, phòng thí nghiệm,mạng truyền
thông,…;
- Hệ thống thông tin: sách, báo, tạp chí khoa học, băng, đĩa ghi hình,
tài liệu online.
Tổ chức nghiên cứu và triển khai là tổ chức dưới các hình thức: Viện
nghiên cứu và triển khai, trung tâm nghiên cứu và triển khai, phòng thí

nghiệm, trạm nghiên cứu, trạm quan trắc, trạm thử nghiệm và các cơ sở
nghiên cứu và triển khai khác. Nhiệm vụ của các tổ chức nghiên cứu và triển
khai theo quy mô tổ chức và phạm vi hoạt động. Tùy phân cấp quản lý hành
chính, các tổ chức nghiên cứu triển khai được chia thành:
- Các tổ chức nghiên cứu và triển khai cấp quốc gia, được thành lập
chủ yếu thực hiện các nhiệm vụ khoa học và công nghệ ưu tiên,
trọng điểm của nhà nước, nhằm cung cấp các luận cứ khoa học cho
việc định ra đường lối, chính sách, pháp luật, tạo ra các kết quả
khoa học và công nghệ mới có ý nghĩa quan trọng đối với phát triển
kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh;
- Các tổ chức nghiên cứu và triển khai cấp Bộ, cơ quan ngang Bộ,
tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương được thành lập nhằm thực
hiện các nhiệm vụ khoa học và công nghệ phục vụ mục tiêu phát
triển kinh tế - xã hội của ngành, địa phương đó;
- Các tổ chức nghiên cứu và triển khai cấp cơ sở thực hiện nhiệm vụ
khoa học và công nghệ theo mục tiêu và nhiệm vụ do tổ chức, cá
nhân thành lập xác định.
Các loại hình tổ chức nghiên cứu và triển khai gồm có:
- Viện Hàn lâm khoa học và một tổ chức khoa học và công nghệ,
trong đó bao gồm một tập hợp các viện nghiên cứu khoa học với

13


nhiều lĩnh vực khác nhau. Mỗi lĩnh vực được tổ chức thành một số
viện nghiên cứu chuyên ngành;
- Khu công nghệ cao là nơi tổ chức các hoạt động phục vụ cho phát
triển công nghệ cao và công nghiệp công nghệ cao gồm các tổ chức
nghiên cứu và triển khai, cơ sở đào tạo, huấn luyện, các doanh
nghiệp công nghiệp và dịch vụ trong lĩnh vực công nghệ cao nhằm

tiếp thu, cải tiến các công nghệ cao và sản xuất các sản phẩm công
nghệ cao;
- Các tổ chức nghiên cứu và triển khai cấp quốc gia, cấp Bộ, cơ quan
ngang Bộ, tỉnh, thành phố trực thuộc trung ươnggồm có các viện
nghiên cứu cơ bản, viện nghiên cứu chính sách, viện nghiên cứu
công nghệ;
- Các tổ chức nghiên cứu và triển khai cấp cơ sở được các doanh
nghiệp thành lập để nghiên cứu những vấn đề kỹ thuật – công nghệ
phục vụ đổi mới công nghệ, tăng sự cạnh tranh giữa các doanh
nghiệp.
1.1.2. Tự chủ, tự chịu trách nhiệm của tổ chức KH&CN
Tự chủ, tự chịu trách nhiệm của tổ chức KH&CN được hiểu là sự "Tự
chủ, tự chịu trách nhiệm" của tổ chức KH&CN công lập được quy định trong
các văn bản quy phạm pháp luật. Thuật ngữ này được sử dụng không chỉ đối
với các tổ chức KH&CN công lập mà còn đối với tất cả các đơn vị sự nghiệp
công lập khác.
Tuy nhiên, nó không được định nghĩa chặt chẽ trong các văn bản quy
phạm pháp luật hiện hành. Căn cứ vào các điều khoản trong văn bản, ta có thể
tách "tự chủ, tự chịu trách nhiệm" ra làm hai phần và được hiểu như sau
- "Tự chủ" (Autonomy) là quyền của tổ chức KH&CN được chủ
động đặt ra kế hoạch và thực hiện các hoạt động KH&CN thông
qua các phương tiện sẵn có. Về mặt từ vựng, "Tự chủ" được hiểu là
14


quyền được tự mình đưa ra các phương hướng hoạt động cho mình
và quyền tự mình tìm kiếm, sử dụng các nguồn nhân lực và phương
tiện để thực hiện các hoạt động đó. Ngoài ra, "Tự chủ" còn được
hiểu là quyền tự quyết định mà không bị chi phối bởi các yếu tố bên
ngoài như hệ thống quản lý,… Nguyên tắc tự chủ là cho phép tự do

cần thiết, không có sự can thiệp của bên ngoài, trong việc sắp xếp tổ
chức và điều hành nội bộ cũng như phân bổ các nguồn tài chính tự
do trong việc tuyển dụng nhân lực và bố trí cơ sở vật chất và tự do
trong việc điều hành giảng dạy và nghiên cứu. Khi một tổ chức
được tự chủ thì tổ chức đó sẽ được tự mình quyết định các mục tiêu,
các ưu tiên và thực hiện các mục tiêu, ưu tiên này nếu các tổ chức
đó phục vụ xã hội tốt. Tự chủ về bản chất là loại tự chủ mà ở đây,
các tổ chức KH&CN được toàn quyền, từ khâu tự định đoạt các
hướng nghiên cứu, phát triển, các dịch vụ, và đến khâu điều hành,
không có sự can thiệp của các cấp quản lý trong việc phân bổ, bố trí
nguồn lực. Hoạt động của các tổ chức này chịu sự điều chỉnh của
pháp luật có liên quan. Tự chủ về bản chất thường gắn với các tổ
chức tư nhân, nơi mà quyền sở hữu thuộc về một hoặc một nhóm
người, thì nhóm người này quyết định phương thức hoạt động và
điều hành của tổ chức. Tuy nhiên, tự chủ về bản chất cũng không
phải là tuyệt đối đối với các tổ chức KH&CN. Có rất nhiều tác động
khác lôi cuốn các hướng hoạt động của họ dựa trên định hướng
chung về phát triển khoa học và công nghệ quốc gia cũng như định
hướng phát triển kinh tế - xã hội. Tự chủ về quy trình là việc tự điều
hành, từ điều hành kế hoạch hoạt động, đến điều hành tài chính,
nhân lực và đánh giá tổ chức. Tự chủ hay tự điều hành này thường
gắn với các tổ chức KH&CN công lập. Tính tự chủ là một phạm trù
khách quan, phản ánh thuộc tính tự do, bình đẳng của các thực thể
hoạt động trong nền kinh tế thị trường. Các nghiên cứu chỉ ra rằng,
15


tự chủ của các tổ chức khác nhau giữa các nước và các địa phương
nhưng bất kỳ tổ chức tự chủ nào cũng đều chịu sự điều chỉnh của
Nhà nước, Chính phủ.

- "Tự chịu trách nhiệm" (Accountability) được hiểu là những ràng
buộc và cam kết của tổ chức KH&CN trước các hoạt động KH&CN
mà tổ chức đã "tự chủ" thực hiện.“Tự chịu trách nhiệm” thực chất
là trách nhiệm giải trình trước nhóm lợi ích liên quan về hoạt động
thuộc lĩnh vực được cấp phép, phải chứng minh các hoạt động đem
lại những kết quả nhất định bằng việc sử dụng hiệu qủa các phương
tiện. Quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm là hai mặt đi đôi với nhau
trong một cơ chế thống nhất. Cơ chế tự chịu trách nhiệm đòi hỏi
người đại diện cho quyền lực, cho cơ quan có quyền lực phải chịu
trách nhiệm về các mặt liên quan đến phạm vi được giao quyền
quản lý, như tự chịu trách nhiệm về tài chính nói riêng và các nguồn
lực được giao cho nói chung; tự chịu trách nhiệm về kết quả đầu ra,
về mức độ hoàn thành các nhiệm vụ đã đề ra hoặc được cấp trên
giao; tự chịu trách nhiệm về các quyết định ứng xử trong nội bộ tổ
chức. Trách nhiệm có thể là bên trong hoặc bên ngoài. Trường hợp
chịu trách nhiệm bên trong, người có trọng trách có thể là cấp trên
trực tiếp, người đứng đầu của cả tổ chức, nghiên cứu viên cao cấp,
nhóm chuyên gia,… hay toàn bộ những người nêu trên với tư cách
là chịu trách nhiệm tập thể. Trách nhiệm bên ngoài, người có trọng
trách mà phía tổ chức phải chịu trách nhiệm có thể là khách hàng.
"Tự chịu trách nhiệm" gắn với "Tự chủ" là một lẽ tất yếu, quyền tự quyết
định luôn đi kèm với sự chịu trách nhiệm trước hành động tự quyết định đó.
Nghị định 115 và Nghị định 80 đã khẳng định nhu cầu tất yếu “tự chủ, tự chịu
trách nhiệm” của hoạt động KH&CN, thừa nhận quyền tự chủ, tự chịu trách
nhiệm của các tổ chức KH&CN. Hai Nghị định trên đã tạo ra chỗ dựa pháp lý cho

16


các Viện nghiên cứu từng bước thực hiện các biện pháp về tự chủ, tự chịu trách

nhiệm trong hoạt động nghiên cứu, đào tạo và hoạt động KH&CN nói chung.
- "Tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong tổ chức KH&CN" là việc tổ
chức có quyền tự quyết định phương hướng hoạt động, nhân sự,
tài chính của tổ chức và chịu trách nhiệm về quyết định đó với
mục tiêu nâng cao hiệu quả hoạt động của tổ chức, giảm sự can
thiệp của Nhà nước vào các hoạt động của tổ chức. Việc này làm
cho tổ chức trở nên chủ động hơn trong cách thức điều hành, tạo
ra sự đổi mới và phát triển theo một hướng mới mà tổ chức đã tự
hoạch định. Khi thực hiện tự chủ, tự chịu trách nhiệm, các tổ chức
sẽ tăng cường được nhiều hoạt động mới và phát triển nghiên cứu
theo hướng ưu tiên của Nhà nước. Vì khi thực hiện tự chủ, tự chịu
trách nhiệm, các tổ chức phải lựa chọn phương hướng hoạt động
phù hợp để tổ chức ngày càng phát triển. Các hướng nghiên cứu
được đẩy mạnh nhằm nâng cao chất lượng hoạt động của tổ chức,
tạo ra nhiều kết quả nghiên cứu có tính ứng dụng thực tiễn, mang
lại hiệu quả cao, tạo ra lợi thế cạnh tranh cho tổ chức.
Tự chủ, tự chịu trách nhiệm của tổ chức khoa học và công nghệ đã
thu hẹp mâu thuẫn giữa quyền sở hữu và quyền sử dụng của các tổ
chức Kh&CN. Đây là vấn đề quan trọng quyết định sự tồn vong
của tổ chức. Quyền sở hữu bao gồm: quyền chiếm giữ, quyền sử
dụng, quyền định đoạt đối tượng sở hữu. Với sở hữu nhà nước thì
chủ thể chiếm giữ và định đoạt là Nhà nước, nhưng chủ thể sử
dụng lại là các tổ chức cụ thể. Ở đây, khi một tổ chức thực hiện tự
chủ, tự chịu trách nhiệm thì đã có quyền sử dụng và quyền chiếm
giữ. Khi đó, tổ chức mới có thể thực hiện được các mục tiêu phát
triển của mình.
- "Năng lực thực hiện tự chủ, tự chịu trách nhiệm của một tổ chức
KH&CN" là khả năng tự trang trải kinh phí cho hoạt động thường
17



xuyên của tổ chức và tiền công cho người lao động. Tự chủ được
chia ra làm hai loại chính là tự chủ một phần và tự chủ toàn bộ. Tự
chủ một phần là tổ chức tự đảm bảo một phần kinh phí cho hoạt
động thường xuyên của bộ máy, phần còn lại do Nhà nước đảm
bảo. Tự chủ toàn bộ là tổ chức KH&CN tự trang trải toàn bộ kinh
phí cho hoạt động thường xuyên của tổ chức. Nhà nước chỉ đóng
vai trò là cơ quan quản lý, hỗ trợ cơ sở vật chất ban đầu cho tổ
chức hoạt động.
Nói đến năng lực tự chủ, tự chịu trách nhiệm của tổ chức KH&CN
thường chủ yếu tập trung vào các Viện nghiên cứu, Trung tâm,
trường đại học. Đây là các tổ chức mạnh về hoạt động nghiên cứu
và triển khai các kết quả nghiên cứu, có thể đem lại nguồn thu cho
mình. Có nhiều tổ chức KH&CN đang trong quá trình chuyển
sang thực hiện tự chủ, tự chịu trách nhiệm nhưng gặp khó khăn về
cơ chế, chính sách, đặc biệt là chính sách về tài chính và tài sản
nên việc chuyển đổi còn nhiều khó khăn. Vì vậy, việc tái cấu trúc
Viện KH&KT hạt nhân sẽ giúp cho hoạt động nghiên cứu triển
khai của Viện ổn định, giúp ích cho công tác quản lý nhà nước
trong lĩnh vực hạt nhân.
1.1.3. Tái cấu trúc
- "Cấu trúc" là sự sắp xếp và tổ chức các yếu tố bên trong một vật
hay hệ thống nào đó. Có 4 yếu tổ ảnh hướng đến cấu trúc của một
tổ chức:
+ Môi trường: bao gồm các yếu tố con người, các tổ chức
khác và các yếu tổ kinh tế ảnh hưởng đến các hoạt động của
tổ chức. Môi trường của tổ chức có thể chia ra hai cấp độ:
môi trường chung và môi trường nhiệm vụ. Môi trường
chung bao gồm các yếu tố về văn hóa, chính trị, kinh tế và
luật pháp. Môi trường nhiệm vụ bao gồm những cá nhân,

18


nhóm tổ chức có ảnh hưởng đến tổ chức. Môi trường có
những ảnh hướng khác nhau tới những tổ chức khác nhau.
Trên thực tế, môi trường luôn thay đổi. Vì vậy, các nhà
quản lý cần luôn biết thay đổi cho phù hợp với môi trường,
giảm thiểu tối đa tác động của môi trường đến tổ chức. Một
trong những cách để giảm tác động xấu là tái cấu trúc của tổ
chức.
+ Phương hướng hoạt động của tổ chức: cấu trúc tổ chức cần
phải phù hợp với phương hướng hoạt động của tổ chức thì
mới mang lại hiệu quả, phù hợp với sự thay đổi của môi
trường.
+ Quy mô tổ chức: Khi lựa chọn cấu trúc tổ chức, quy mô tổ
chức cũng cần phải quan tâm. Nếu tổ chức có quy mô lớn
thường có xu hướng chuyên môn hóa, phân cấp quản lý.
+ Công nghệ: bao gồm quá trình sử dụng trí tuệ và máy móc
nhằm giúp tổ chức hoạt động hiệu quả, đáp ứng được mục
tiêu của tổ chức.
Có nhiều khái niệm về "tái cấu trúc":
- "Tái cấu trúc" (Restructuring) được hiểu là quá trình tổ chức (reorganize), sắp xếp lại đơn vị dựa trên kết cấu cũ, phù hợp với tình
hình thực tiễn, nhằm tăng hiệu quả hoạt động của đơn vị đó.Trước
hết cần đánh giá tình hình thực tế, xác định mục tiêu và phạm vi tái
cấu trúc. Sau đó, việc lập bản kế hoạch tái cấu trúc, thiết kế chi tiết
và xác định những lĩnh vực cần triển khai và theo thứ tự ưu tiên.
Sau khi đã có kế hoạch chi tiết để tái cấu trúc, tổ chức cần xác định
các phương thức thực hiện phù hợp theo từng giai đoạn. Đối với
mỗi giai đoạn khi kết thúc cần có đánh giá cụ thể hiệu quả đạt được


19


so với kế hoạch đề ra. Cuối cùng, sau khi tái cấu trúc tổ chức, cần
có đánh giá tổng thể về hệ thống mới để có sự cải tiến nếu cần thiết;
- Tái cấu trúc là một sự thay đổi trong chiến lược, cơ cấu tổ chức hay
quy trình công việc;
- Tái cấu trúc là quá trình khảo sát, đánh giá lại cấu trúc hiện tại và
đề xuất giải pháp cho mô hình cấu trúc mới nhằm thực hiện những
mục tiêu đề ra.
Tái cấu trúc thường được áp dụng trong các trường hợp sau:
- Tái cấu trúc xuất phát từ các áp lực bên ngoài để thích nghi theo
môi trường luôn thay đổi;
- Tái cấu trúc xuất phát từ các áp lực bên trong để phù hợp với sự
phát triển của tổ chức
- Tái cấu trúc xuất phát từ cả áp lực bên trong và bên ngoài.
Tái cấu trúc một tổ chức thường bao gồm các hoạt động chính sau:
- Điều chỉnh cơ cấu các hoạt động;
- Điều chỉnh cơ cấu tổ chức bộ máy;
- Điều chỉnh các cơ chế, chính sách;
- Điều chỉnh cơ cấu các nguồn lực.
1.2. Tự chủ về tổ chức và nhân sự của các tổ chức khoa học và công
nghệ
Ngày 05/9/2005, Chính phủ ban hành Nghị định số 115/2005/NĐ-CP
quy định cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm của tổ chức khoa học và công
nghệ công lập. Đây được xem là một tất yếu lịch sử của tiến trình cải cách
kinh tế và xã hội.
Nghị định 115 quy định cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm về nhiệm vụ,
tài chính và tài sản, tổ chức của các tổ chức khoa học và công nghệ công lập
nhằm tăng cường trách nhiệm và nâng cao tính tích cực, chủ động, năng động,

20


sáng tạo của tổ chức khoa học và công nghệ; tạo điều kiện gắn nghiên cứu
khoa học và phát triển công nghệ với sản xuất, kinh doanh và đào tạo nhân
lực, đẩy nhanh quá trình xã hội hóa hoạt động khoa học và công nghệ; tạo
điều kiện tập trung đầu tư có trọng điểm cho các tổ chức khoa học và công
nghệ và nâng cao hiệu quả hoạt động của các tổ chức khoa học và công nghệ.
Các tổ chức khoa học và công nghệ thuộc đối tượng áp dụng của Nghị định
này là các tổ chức nghiên cứu khoa học, tổ chức nghiên cứu khoa học và phát
triển công nghệ, tổ chức dịch vụ khoa học và công nghệ có tư cách pháp nhân,
có con dấu và tài khoản riêng, do cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền
quyết định thành lâp. Theo Nghị định 115, thủ trưởng các tổ chức khoa học và
công nghệ được quyền quyết định, sắp xếp, điều chỉnh tổ chức bộ máy của
đơn vị; thành lập, sáp nhập, giải thể và quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn, quy chế hoạt động của các bộ phận, tổ chức trực thuộc; quyết định bổ
nhiệm, bổ nhiệm lại, cho từ chức và miễn nhiệm cấp trưởng, phó các bộ phận
trực thuộc; đề xuất nhân sự và trình lãnh đạo cơ quản cấp trên quyết định bổ
nhiệm, bổ nhiệm lại, miễn nhiệm cấp phó của đơn vị. Ngoài ra, thủ trưởng tổ
chức khoa học và công nghệ được quyền quyết định tổng số biên chế hàng
năng của đơn vị dựa trên nhu cầu công việc và khả năng tài chính của đơn vị;
chủ động tuyển dụng nhân sự và ký hợp đồng lao động với những người được
tuyển dụng. Nhân sự của các tổ chức khoa học và công nghệ do thủ trưởng tổ
chức quyết định: sắp xếp. bố trí sử dụng cán bộ, viên chức phù hợp với năng
lực và trình độ chuyên môn của từng cá nhân; quyết định cho nghỉ hưu, thôi
việc, chấm dứt hợp đồng lao động và sắp xếp lương cho các cán bộ, viên chức
tại tổ chức; xem xét, bổ nhiệm chức vụ lãnh đạo cua tổ chức và quyết định
khen thưởng, kỷ luật các cán bộ, viên chức thuộc quyền quản lý.
Như vậy, Nghị định 115 bắt đầu đưa các tổ chức khoa học và công nghệ
tự chủ tìm kiếm nguồn lực bao gồm nguồn nhân lực, tài lực, tin lực và các

nguồn vốn xã hội.

21


Trong Nghị định 16 ngày 14/02/2015 của Chính phủ quy định cơ chế tự
chủ của đơn vị sự nghiệp công lập, đơn vị sự nghiệp công được quyền quyết
định thành lập, tổ chức lại hay giải thể các đơn vị không thuộc cơ cấu tổ chức
các đơn vị cấu thành theo quyết định của cơ quan có thẩm quyền. Đơn vị sự
nghiệp công lập chủ động xây dựng vị trí việc làm và cơ cấu tổ chức theo
chức danh nghề nghiệp, trình cấp có thẩm quyền phê duyệt. Nghị định 16 đã
giao quyền tự chủ cho đơn vị sự nghiệp công, chủ động xây dựng phương án
tự chủ phù hợp với kế hoạch và điều kiện thực tế. Đối với các đơn vị sự nghiệp
công tự bảo đảm chi thường xuyên và chi dầu từ và đơn vị sự nghiệp công tự
đảm bảo một phần chi thường xuyên quyết định số lượng người làm việc.
Trong Nghị định 54 ngày 14/06/2016 quy định cơ chế tự chủ của tổ chức
khoa học và công nghệ công lập, các tổ chức khoa học và công nghệ công lập
được phân loại theo quyền tự chủ về tài chính bao gồm tổ chức khoa học và
công nghệ công lập tự bảo đảm chi thường xuyên và chi đầu tư, tổ chức khoa
học và công nghệ công lập bảo đảm chi thường xuyên, tổ chức khoa học và
công nghệ công lập bảo đảm một phần chi thường xuyên và tổ chức khoa học
và công nghệ công lập được Nhà nước bảo đảm chi thường xuyên. Theo Nghị
định 54, tổ chức khoa học và công nghệ công lập càng tự đảm bảo tài chính
bao nhiêu thì càng được quyền tự chủ bấy nhiêu. Tổ chức khoa học và công
nghệ công lập xây dựng phương án sắp xếp laị đơn vị cấu thành, trình cấp có
thẩm quyền phê duyệt; được quyết định vị trí việc làm, cơ cấu viên chức theo
chức danh nghề nghiệp và số lượng người làm việc phù hợp với chức năng,
nhiệm vụ được giao, trên cơ sở đảm bảo việc làm và thu nhập ổn định cho số
người làm việc tại tổ chức.
Như vậy, từ khi Nghị định 115 ra đời đã thống nhất về mặt nhận thức

trong việc cần thiết phải tái cấu trúc các tổ chức khoa học và công nghệ trong
tình hình nước ta đang chuyển đổi sang hệ thống kinh tế đa thành phần và sự
thừa nhận quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các tổ chức. Có thể khẳng
22


×