Tải bản đầy đủ (.doc) (167 trang)

Hoàn thiện hệ thống chỉ tiêu phân tích tài chính của các ngân hàng thương mại trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.3 MB, 167 trang )

1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngân hàng thương mại (NHTM) là tổ chức tài chính trung gian đặc
biệt trong nền kinh tế, hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng. Hệ
thống NHTM với mạng lưới chi nhánh rộng khắp có khả năng tác động tới sự
phát triển của tất cả mọi lĩnh vực và toàn bộ nền kinh tế. Hoạt động của NHTM
luôn tiềm ẩn những rủi ro có khả năng ảnh hưởng dây chuyền tới nhiều đối
tượng trong nền kinh tế. Để tồn tại và phát triển ổn định thì bản thân các
NHTM nói chung và tại các NHTM trên các địa bàn nói riêng cần phải nâng
cao hiệu quả hoạt động, cải thiện tình hình tài chính. Chính vì vậy, phân tích
tài chính (PTTC) với hệ thống các chỉ tiêu phân tích là công cụ quản lý không
thể thiếu đối với công tác quản trị tài chính NHTM.
Theo số liệu của Ngân hàng nhà nước (NHNN), tính đến cuối năm
2017 tại Bắc Ninh có 36 ngân hàng, trong đó có 1 Chi nhánh NHNN, 10
NHTM Nhà nước, 21 NHTM cổ phần, 1 ngân hàng chính sách xã hội, 1 ngân
hàng hợp tác xã, 1 ngân hàng 100% vốn nước ngoài, 1 Ngân hàng phát triển,
với hơn 1.000 điểm giao dịch, gồm cả các điểm giao dịch tự động ATM, POS.
Trong những năm gần đây nhiều ngân hàng trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh quy
mô hoạt động nhìn chung vẫn còn nhỏ bé, hiệu quả hoạt động của ngân hàng
chưa cao, hình thức khai thác sản phẩm vẫn còn đơn điệu, trình độ thẩm định
kinh tế - kỹ thuật đối với từng dự án và từng doanh nghiệp còn thấp, đáng chú
ý hơn còn có một số tổ chức tín dụng ngoài quốc doanh chạy theo thành tích,
chạy theo lợi nhuận đơn thuần nên thường va vấp trong hoạt động kinh doanh,
đã hoặc đang rơi vào nguy cơ mất vốn, phá sản mất khả năng thanh toán. Hoạt
động kinh doanh của ngân hàng chứa đựng nhiều rủi ro, cần thiết phải sử dụng
công cụ phân tích để đánh giá tài chính của NHTM tại các chi nhánh nói riêng,
tại các NHTM nói chung trong quá khứ, hiện tại, từ đó dự báo được tài chính của



2

NHTM trong tương lai để giúp cho chủ thể quản lý nâng cao hiệu quả hoạt động
của NHTM.
Mặc dù công tác PTTC của NHTM nói chung và tại các chi nhánh
hiện nay đã và đang được rất nhiều đối tượng quan tâm tuy nhiên tai các chi
nhánh NHTM hiện nay việc sử dụng công cụ PTTC phục vụ quản trị tài chính
của các NHTM vẫn còn đơn giản, chưa thường xuyên, đặc biệt hệ thống chỉ
tiêu phân tích chưa xây dựng và sử dụng một cách phù hợp. Xuất phát từ lý
do đó, tác giả lựa chọn đề tài: "Hoàn thiện hệ thống chỉ tiêu phân tích tài
chính của các ngân hàng thương mại trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh" làm luận
án tiến sĩ kinh tế.
2. Tổng quan về các công trình nghiên cứu
Hệ thống chỉ tiêu PTTC là công cụ quan trọng để thực hiện phân tích
và quản trị tài chính trong các đơn vị. Hiện nay đã có rất nhiều công trình
nghiên cứu về PTTC công ty cổ phần và hệ thống chỉ tiêu PTTC trong các
đơn vị. Luận án tiến hành khái quát một số công trình nghiên cứu ở trong và
ngoài nước liên quan đến đề tài nghiên cứu theo các khía cạnh: Các công trình
nghiên cứu về hệ thống chỉ tiêu PTTC và các công trình nghiên cứu khác liên
quan đến ngân hàng thương mại
Thứ nhất, các công trình nghiên cứu liên quan đến hệ thống chỉ
tiêu phân tích tài chính
- Trong cuốn Giáo trình Phân tích tài chính doanh nghiệp của Học
viện Tài chính do GS,TS Ngô Thế Chi và PGS,TS Nguyễn Trọng Cơ làm chủ
biên (tái bản năm 2015) [1]; trong cuốn "Đọc và phân tích báo cáo tài chính"
do PGS,TS Nguyễn Trọng Cơ và PGS,TS Nghiêm Thị Thà làm chủ biên (tái
bản năm 2017) [5] cho thấy để diễn đạt được nội dung PTTC doanh nghiệp,
theo quan điểm của tập thể tác giả đến từ Học viện Tài chính đã sử dụng hệ
thống các chỉ tiêu như: Hệ thống chỉ tiêu phân tích khái quát tình hình tài
chính doanh nghiệp thông qua các chỉ tiêu về quy mô tài chính, cấu trúc tài



3

chính và chỉ tiêu phân tích khái quát khả năng sinh lời; Hệ thống chỉ tiêu phân
tích chính sách tài chính bao gồm: Các chỉ tiêu về chính sách huy động vốn,
các chỉ tiêu phân tích chính sách đầu tư; các chỉ tiêu phân tích chính sách
phân phối lợi nhuận; Hệ thống chỉ tiêu phân tích tiềm lực tài chính của doanh
nghiệp bao gồm: Các chỉ tiêu phân tích tình hình và kết quả kinh doanh, các
chỉ tiêu về dòng tiền, các chỉ tiêu về tình hình công nợ, khả năng thanh toán
và các chỉ tiêu phân tích hiệu suất sử dụng vốn; Hệ thống chỉ tiêu phân tích
tình hình tăng trưởng và giá trị doanh nghiệp; Hệ thống chỉ tiêu phân tích và
dự báo rủi ro; Hệ thống chỉ tiêu dự báo báo cáo tài chính doanh nghiệp.
Trong cuốn "Phân tích báo cáo tài chính" của PGS,TS Nguyễn Năng Phúc
(tái bản 2011) [35] và cuốn "Phân tích báo cáo tài chính" của PGS,TS Nguyễn
Ngọc Quang (tái bản 2013) của Trường Đại học Kinh tế Quốc dân cho thấy, để
diễn đạt được nội dung phân tích báo cáo tài chính doanh nghiệp thì cần sử dụng
hệ thống các chỉ tiêu phân tích như: Hệ thống chỉ tiêu đánh giá khái quát tình hình
tài chính của doanh nghiệp bao gồm: các chỉ tiêu đánh giá khái quát tình hình
huy động vốn, mức độ độc lập tài chính của doanh nghiệp, các chỉ tiêu đánh giá
khả năng thanh toán và khả năng sinh lời của doanh nghiệp; Hệ thống chỉ tiêu
phân tích cấu trúc tài chính và cân bằng tài chính bao gồm: các chỉ tiêu phân tích
cơ cấu tài sản và nguồn vốn; các chỉ tiêu phân tích luân chuyển vốn và ổn định
nguồn tài trợ; Hệ thống chỉ tiêu phân tích tình hình công nợ và khả năng thanh
toán; hệ thống chỉ tiêu phân tích hiệu quả kinh doanh; Hệ thống chỉ tiêu phân tích
dấu hiệu khủng hoảng và rủi ro tài chính; Dự báo chỉ tiêu trên báo cáo tài chính.
- Luận án tiến sĩ của Nguyễn Trọng Cơ (1999) với đề tài "Hoàn thiện

hệ thống chỉ tiêu phân tích tài chính trong doanh nghiệp cổ phần phi tài chính ở
Việt Nam" [3], luận án đã đi vào xây dựng và hoàn thiện hệ thống chỉ tiêu PTTC

cho các công ty cổ phần phi tài chính tại Việt Nam. Luận án đã đưa ra các giải
pháp hoàn thiện hệ thống chỉ tiêu PTTC, tuy nhiên hệ thống chỉ tiêu này được
tác giả xây dựng cho các công ty cổ phần phi tài chính nói chung ở Việt Nam.


4

- Luận án tiến sĩ của Nguyễn Ngọc Quang (năm 2002) với đề tài

"Hoàn thiện hệ thống chỉ tiêu phân tích tài chính trong các doanh nghiệp xây
dựng ở Việt Nam" [36], luận án đã chú trọng vào hoàn thiện và xây dựng hệ
thống chỉ tiêu PTTC trong các doanh nghiệp xây dựng ở Việt Nam. Trong
công trình này, tác giả đã nghiên cứu thực trạng hệ thống chỉ tiêu PTTC trong
doanh nghiệp xây dựng nói chung và đề xuất hoàn thiện hệ thống chỉ tiêu
PTTC cho các doanh nghiệp này. Tuy nhiên, khía cạnh nghiên cứu của luận
án tập trung vào PTTC và hệ thống chỉ tiêu PTTC không đặc thù riêng cho
các doanh nghiệp xây dựng đã niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam.
- Luận án tiến sĩ của Nguyễn Thị Xuân (năm 2002) với đề tài "Hoàn

thiện hệ thống chỉ tiêu đánh giá hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương
mại Việt Nam" [44], luận án đã hệ thống hóa lý luận cơ bản về phân tích hoạt
động kinh doanh của các NHTM ở Việt Nam giai đoạn 1996 - 2000, từ đó đề
xuất giải pháp hoàn thiện chỉ tiêu đánh giá hoạt động kinh doanh của NHTM
ở Việt Nam hiện nay. Luận án đưa ra hệ thống chỉ tiêu phân tích hoạt động
kinh doanh của NHTM theo các khía cạnh như đánh giá khái quát tình hình tài
sản - nguồn vốn; Đánh giá tình hình vốn tự có; đánh giá tình hình huy động
vốn; Đánh giá tình hình dự trữ và khả năng thanh toán; đánh giá tình hình
hoạt động tín dụng; Đánh giá tình hình thu nhập và chi phí; đánh giá tình hình
thực hiện chỉ tiêu lợi nhuận và khả năng sinh lời. Tuy nhiên, tác giả chưa đi
sâu đến khía cạnh quan trọng của hoạt động NHTM là rủi ro trong kinh doanh

của NHTM, chưa quan tâm đến phân tích dòng tiền, mà trọng tâm viết về hệ
thống chỉ tiêu PTTC trong các doanh nghiệp thương mại và nhằm mục đích
phục vụ quản trị trong nội bộ doanh nghiệp.
- Luận án tiến sĩ của Nguyễn Thị Quyên (2010) với đề tài "Hoàn thiện
hệ thống chỉ tiêu phân tích tài chính cho các công ty cổ phần niêm yết trên thị
trường chứng khoán Việt Nam" [38], luận án đã đề cập đến hệ thống chỉ tiêu
PTTC chung cho các công ty cổ phần niêm yết trên thị trường chứng khoán


5

Việt Nam. Đây cũng là công trình nghiên cứu có nội dung gần với đề tài của
luận án. Tuy nhiên, trong công trình nghiên cứu của mình, tác giả Nguyễn Thị
Quyên đã đi vào hoàn thiện hệ thống chỉ tiêu PTTC chung cho tất cả các
doanh nghiệp niêm yết thuộc nhiều ngành nghề khác nhau như bất động sản,
dược phẩm, chế biến thực phẩm,… mà không xây dựng hệ thống chỉ tiêu theo
đặc thù riêng của từng ngành.
- Luận án tiến sĩ của Hồ Thị Thu Hương (2012) với đề tài "Hoàn thiện hệ
thống chỉ tiêu phân tích tài chính trong các công ty tài chính ở Việt Nam" [11],
Trên cơ sở mô hình tổ chức quản lý và đặc thù hoạt động kinh doanh của công
ty tài chính, tác giả luận án đã hệ thống hóa các chỉ tiêu PTTC trong công ty
tài chính theo 8 nhóm chỉ tiêu như: Các chỉ tiêu phản ánh quy mô tài chính;
các chỉ tiêu phản ánh chính sách huy động vốn; các chỉ tiêu đánh giá độ an
toàn vốn; các chỉ tiêu phản ánh chính sách tín dụng; các chỉ tiêu phản ánh chất
lượng tài sản; các chỉ tiêu phản ánh khả năng thanh toán; các chỉ tiêu phản
ánh khả năng sinh lời và các chỉ tiêu phản ánh rủi ro tài chính. Công ty tài
chính có hoạt động tương tự như ngân hàng nên nghiên cứu sinh (NCS) kế
thừa một số nghiên cứu của đề tài và đi sâu vào hệ thống chỉ tiêu phân tích tài
chính của các NHTM nói chung và của chi nhánh NHTM nói riêng.
- Luận án tiến sĩ của Nguyễn Thị Minh Hải (2013) về đề tài "Hoàn

thiện hệ thống chỉ tiêu phân tích hiệu quả kinh doanh trong các doanh nghiệp
xây dựng công trình giao thông thuộc Bộ Giao thông Vận tải" [8], đề tài đề
cập đến các chỉ tiêu PTTC nhưng trên góc độ là nhóm các chỉ tiêu phân tích
hiệu quả kinh doanh. Phạm vi nghiên cứu của đề tài là những công ty xây dựng
nhưng lĩnh vực xây dựng chính là xây dựng các công trình giao thông và thuộc
Bộ Giao thông Vận tải. Hơn nữa, hệ thống chỉ tiêu mà luận án trọng tâm hoàn
thiện chỉ là một phần trong toàn bộ hệ thống chỉ tiêu PTTC của doanh nghiệp.
- Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Học viện năm 2014 của PGS.TS Nghiêm
Thị Thà và tập thể tác giả về: "Hoàn thiện hệ thống chỉ tiêu phân tích tài chính


6

cho các ngân hàng thương mại" [39], đề tài đã đề cập đến hệ thống chỉ tiêu
PTTC cho riêng ngành ngân hàng, mà cụ thể là các NHTM cổ phần ở Việt Nam.
- Bài báo "Hoàn thiện hệ thống chỉ tiêu phân tích tài chính nhằm tăng
cường công tác kiểm toán" của TS. Trần Quý Liên, đăng trên Tạp chí Nghiên
cứu khoa học kiểm toán (số 43, năm 2011) [14], Bài báo đề cập đến việc hoàn
thiện hệ thống chỉ tiêu PTTC trong các doanh nghiệp để phục vụ công tác
kiểm toán mà chưa đề cập đến các chỉ tiêu tài chính của NHTM.
- Năm 2006: Cuốn sách "Key Management Ratios: The clearest guide
to the critical numbers that drive your business", của tác giả Ciaran Walsh
viết về các chỉ tiêu quan trọng sử dụng cho quản trị tài chính doanh nghiệp.
Trong cuốn sách này, tác giả nhấn mạnh đến các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả
kinh doanh như: Tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu, tỷ suất lợi nhuận tổng tài
sản, tỷ suất lợi nhuận trên vốn đầu tư. Tác giả cũng đưa ra tiêu chuẩn để đánh
giá hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp trên các chỉ tiêu trên.
- Năm 2007: Tại Thái Lan, các nhà nghiên cứu của Trường Đại học
Chulalongkorn (J.Thomas Connelly và Piman Limpaphayom) đã đưa ra mô
hình nghiên cứu về hệ thống chỉ tiêu phân tích trong các doanh nghiệp tại Thái

Lan. Hệ thống này gồm 9 chỉ tiêu PTTC và phi tài chính: 5 chỉ tiêu phản ánh
tình hình tài chính và 4 chỉ tiêu phản ánh tình hình quản trị doanh nghiệp. Các chỉ
tiêu này được trình bày cụ thể trong cuốn sách "Determinants of Corporate
Disclosure and Transparency: Evidence from Hong Kong and Thailand".
- Cuốn sách "Performance measurement and management control:
superior organizational performance", do NXB Elsevier Ltd phát hành năm
2004 tập hợp một số bài viết của các tác giả liên quan đến vai trò của hệ thống
chỉ tiêu PTTC, ảnh hưởng của hệ thống chỉ tiêu PTTC và mô hình xây dựng
hệ thống chỉ tiêu PTTC trong doanh nghiệp.
- Bài báo "Performance efficiency evaluation of the Taiwan’s shipping
industry: an application of data envelopment analysis", của các tác giả Wen -


7

Cheng Lin, Chin - Feng Liu (Prof.), Ching - Wu Chu (Prof.) đăng trên tạp chí
Proceedings of the Eastern Asia Society for Transportation Studies, số 5 năm
2005 (các trang 467-476) [52]. Bài báo giới thiệu về hệ thống chỉ tiêu đánh
giá hiệu quả gồm các chỉ tiêu tài chính và chỉ tiêu phi tài chính áp dụng trong
ngành công nghiệp vận tải biển của Đài Loan
- Bài báo "Performance Measurement: Questions for Tomorrow", của
các tác giả Umit Bititci, Viktor Dörfler, Sai Nudurupati1 (Đại học Tổng hợp
Strathclyde, Glasgow, UK), Patrizia Garengo (Đại học Tổng hợp Padova,
Italy) đăng trên tạp chí Nghiên cứu SIOM Research Paper Series số 05 tháng
10/2009 của Đại học Glasgow [51], bài báo giới thiệu về xu hướng phát triển
hệ thống chỉ tiêu PTTC trên thế giới trong điều kiện toàn cầu hóa.
Thứ hai, các công trình nghiên cứu liên quan đến ngân hàng
thương mại
- Luận án tiến sĩ của Lê Thị Thanh Mỹ (năm 2017) về đề tài: "Hoàn
thiện phân tích chất lượng tín dụng tại các ngân hàng thương mại trên địa

bàn tỉnh Bình Định" [15]. Luận án đã nghiên cứu những vấn đề lý luận về tín
dụng và chất lượng tín dụng trong NHTM, đặc biệt luận án đã làm rõ nội
dung phân tích chất lượng tín dụng NHTM theo các vấn đề như các nhân tố
ảnh hưởng; tổ chức phân tích; công cụ và kỹ thuật phân tích; nội dung phân
tích. Trên cơ sở khảo sát việc phân tích chất lượng tín dụng tại các NHTM
trên địa bàn tỉnh Bình Định tác giả luận án đã đưa ra các giải pháp hoàn thiện
phân tích chất lượng tín dụng tại các NHTM trên địa bàn tỉnh Bình Định. Như
vậy tác giả luận án đã đi sâu vào hệ thống chỉ tiêu phân tích chất lượng tín dụng
của NHTM, mà chưa nghiên cứu tất cả các khía cạnh về tài chính của NHTM.
Luận án tiến sĩ kinh tế của tác giả Lã Thị Lâm (năm 2015) về đề tài:
"Một số các giải pháp nâng cao năng lực tài chính của các ngân hàng thương
mại cổ phần Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế" [13]. Luận án
đã đưa ra những vấn đề lý luận về năng lực tài chính của các NHTM và đánh


8

giá thực trạng năng lực tài chính của các NHTM cổ phần Việt Nam trong điều
kiện hội nhập quốc tế. Qua đó đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao năng lực
tài chính của các NHTM cổ phần trong điều kiện hội nhập.
- Luận án tiến sĩ của Trần Trung Dũng (năm 2018) về đề tài: "Quản lý

rủi ro đạo đức trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thương mại Việt
Nam" [6]. Luận án đã đi sâu nghiên cứu về NHTM, hoạt động kinh doanh của
NHTM, rủi ro trong hoạt động kinh doanh của NHTM và đặc biệt luận án đã
làm rõ hơn rủi ro đạo đức trong hoạt động kinh doanh của NHTM.
Tóm lại, qua nghiên cứu các công trình của các tác giả trong và ngoài
nước, cho thấy các công trình nghiên cứu liên quan đến hệ thống chỉ tiêu PTTC
NHTM chủ yếu tập trung trên các khía cạnh sau:
- Các công trình nghiên cứu liên quan đến hệ thống chỉ tiêu PTTC: Chủ


yếu tiếp cận đến hệ thống chỉ tiêu PTTC của các doanh nghiệp, tuy nhiên có một
số công trình cách tiếp cận và công thức xác định khác nhau, như vậy luận án sẽ
kế thừa cách tiếp cận về khái niệm hệ thống chỉ tiêu PTTC; phân loại hệ thống
chỉ tiêu PTTC. Bên cạnh đó có một số luận án, công trình nghiên cứu khoa học
liên quan đến hệ thống chỉ tiêu PTTC của công ty tài chính hoặc của NHTM
trong những giai đoạn lịch sử nhất định, như vậy tác giả luận án sẽ kế thừa một
số chỉ tiêu tài chính đặc thù của công ty tài chính và NHTM, bên cạnh đó luận án
làm rõ hơn những chỉ tiêu PTTC mà các chi nhánh NHTM cần thiết phải sử
dụng làm cơ sở cho nghiên cứu thực trạng và đề xuất giải pháp trong điều kiện
NHNN Việt Nam đang thực thi lộ trình quản trị rủi ro theo Hiệp ước Basel II.
- Các công trình nghiên cứu liên quan đến NHTM: Có nhiều công trình

nghiên cứu về chất lượng tín dụng, rủi ro đạo đức, năng lực cạnh tranh...của
NHTM. Tác giả luận án sẽ kế thừa những nội dung mà những công trình trước
đó đã nghiên cứu như khái niệm NHTM, hoạt động kinh doanh của NHTM, đặc
biệt tác giả luận án sẽ nghiên cứu chuyên sâu về từng lĩnh vực hoạt động kinh
doanh của các NHTM để làm cơ sở cho việc nghiên cứu những vấn đề lý luận về


9

chỉ tiêu PTTC các NHTM trong giai đoạn hiện nay khi mà NHNN Việt Nam
đang thực thi lộ trình quản trị rủi ro theo Hiệp ước Basel II.
Vì vậy, đề tài "Hoàn thiện hệ thống chỉ tiêu phân tích tài chính của
các ngân hàng thương mại trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh" được phát triển nhằm
bổ sung phần nghiên cứu về cơ sở lý luận và vận dụng thực tiễn trong quản trị
ngân hàng thương mại tại các chi nhánh giai đoạn 2015-2017 và khuyến nghị
giải pháp đến năm 2020 theo lộ trình quản trị rủi ro theo Hiệp ước Basel II
của NHNN Việt Nam.

3. Mục đích nghiên cứu của luận án
3.1. Mục tiêu chung
Nghiên cứu hoàn thiện hệ thống chỉ tiêu PTTC của các NHTM trên
địa bàn tỉnh Bắc Ninh.
3.2. Mục tiêu cụ thể
- Nghiên cứu, hệ thống hóa cơ sở lý luận về hệ thống chỉ tiêu PTTC

của các NHTM.
- Phân tích, đánh giá thực trạng áp dụng hệ thống chỉ tiêu PTTC của

các NHTM trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh.
- Đề xuất các giải pháp hoàn thiện hệ thống chỉ tiêu PTTC của các

NHTM trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh nhằm phục vụ quản trị tài chính trong
Ngân hàng.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là hệ thống chỉ tiêu PTTC của
các NHTM.
4.2. Phạm vi nghiên cứu của luận án
- Về nội dung: Hệ thống chỉ tiêu PTTC phục vụ quản trị trong ngân hàng
- Về không gian: Nghiên cứu tại 28 NHTM trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh
(phụ lục 2.1)


10

- Về thời gian: Số liệu khảo sát tại các NHTM trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh
giai đoạn từ năm 2015 đến 2017. Các đề xuất và khuyến nghị tầm nhìn đến
năm 2025.

5. Phương pháp nghiên cứu của đề tài
5.1. Phương pháp luận được sử dụng trong nghiên cứu
Trên nền tảng phương pháp luận duy vật biện chứng, duy vật lịch sử,
luận án sử dụng các phương pháp tư duy khoa học như quy nạp, diễn dịch,
phân tích, tổng hợp, đối chiếu, so sánh, hệ thống hóa, khái quát hóa các dữ
liệu NCS đã thu thập được để làm sáng tỏ những vấn đề lý luận cơ bản về hệ
thống chỉ tiêu PTTC của các NHTM và thực trạng hệ thống chỉ tiêu PTTC của
các NHTM trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh.
5.2. Phương thức nghiên cứu
5.2.1. Quá trình thu thập số liệu
Tác giả tiến hành thu thập các dữ liệu sơ cấp và thứ cấp.
Dữ liệu sơ cấp là những dữ liệu mà tác giả tự thu thập được, chưa qua
xử lý. Dữ liệu sơ cấp được thu thập thông qua Phiếu khảo sát dành cho các
nhà quản lý hoặc chuyên viên phụ trách tài chính tại các NHTM trên địa bàn
tỉnh Bắc Ninh.
Theo NHNN Việt Nam, tính đến cuối năm 2017 tại Bắc Ninh có 36
ngân hàng, trong đó có Chi nhánh NHNN, 10 NHTM Nhà nước, 21 NHTM
cổ phần, 1 ngân hàng chính sách xã hội, 1 ngân hàng hợp tác xã, 1 ngân hàng
100% vốn nước ngoài, 1 Ngân hàng phát triển. Trong đó 31 NHTM là các chi
nhánh trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh. Do trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh có nhiều
NHTM nhưng NCS chỉ lựa chọn 28 NHTM được đặt trên các địa bàn thành
phố Bắc Ninh và huyện Từ Sơn và huyện Tiên Sơn là nơi tập trung cơ quan
đầu não của tỉnh, tập trung nhiều doanh nghiệp, nhiều khu công nghiệp, nhiều
làng nghề (Phụ lục 2.1) làm mẫu đại diện để khảo sát.
Cách thức khảo sát là gửi phiếu khảo sát qua Email hoặc gửi trực tiếp.
Phiếu khảo sát được chia thành hai phần. Phần 1 là thông tin chung về ngân


11


hàng khảo sát và Phần 2 là nội dung khảo sát. Phiếu khảo sát được NCS tập
hợp và kết quả cả 28 ngân hàng thương mại trên địa bàn đã trả lời phiếu khảo
sát và được thể hiện ở phụ lục 2.3. Bảng tổng hợp kết quả phiếu khảo sát.
Dữ liệu thứ cấp: là các dữ liệu đã được xử lý như báo cáo tài chính,
báo cáo thường niên, báo cáo tổng kết, báo cáo quản trị và một số tài liệu
khác liên quan đến ngành Ngân hàng các website của các NHTM, Bộ, của các
kết quả nghiên cứu của các tác giả trong và ngoài nước. Các trang web được
tác giả tìm kiếm đọc các bài báo, luận văn, luận án gồm trang web của các
ngân hàng và các trang web chuyên cung cấp các bài báo nghiên cứu liên
quan đến luận án. Các dữ liệu thứ cấp được sử dụng trong luận án còn bao gồm
các báo cáo (số liệu được lấy từ các phòng ban, các bộ phận: Phòng kinh doanh,
phòng kế toán, phòng tổ chức, bộ phận bán hàng...). Các dữ liệu này do các
NHTM cung cấp hoặc khai thác được từ các công trình nghiên cứu trước đó như
các bài báo, luận án có liên quan đến luận án; các văn bản của Bộ Tài chính,
Tổng cục Thống kê,... Từ các cơ sở dữ liệu sẵn có này, tác giả trình bày tổng
quan nghiên cứu và tạo ra hệ thống lý thuyết góp phần đi sâu vào phát triển
nghiên cứu những nội dung hoàn thiện hệ thống chỉ tiêu PTTC tại các NHTM.
5.2.2. Quá trình xử lý dữ liệu
Trên cơ sở số liệu thu thập được, tác giả đã tiến hành tổng hợp, phân
loại, lựa chọn và tóm lược để có thể sử dụng được. Tác giả đã kiểm tra dữ liệu,
nhập dữ liệu vào máy tính và sử dụng các phần mềm như Excel để tính toán, xử
lý và phân tích số liệu nhằm đáp ứng được mục tiêu nghiên cứu. Tác giả sử dụng
các phương pháp phân tích nghiệp vụ như so sánh, đối chiếu, tổng hợp, phân tích
đánh giá. Các dữ liệu thứ cấp được tác giả sử dụng trực tiếp trong chương 2
(minh họa thực trạng) và chương 3 (minh chứng cho giải pháp) của luận án.
6. Câu hỏi nghiên cứu của luận án
Trên cơ sở xác định được mục đích nghiên cứu, đối tượng và phạm vi
nghiên cứu, luận án đưa ra các câu hỏi nghiên cứu hướng vào mục đích
nghiên cứu, dựa trên các câu hỏi nghiên cứu với nội dung chủ yếu như sau:



12

- Nhu cầu sử dụng thông tin của các chủ thể khác nhau liên quan đến
các NHTM từ hệ thống chỉ tiêu PTTC của các NHTM?
- Thực trạng việc vận dụng hệ thống chỉ tiêu PTTC trong các NHTM
trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh trong thực tiễn quản lý của nhà quản trị? Hệ thống
chỉ tiêu PTTC đã đáp ứng yêu cầu cung cấp thông tin để các chủ thể quản lý
ra quyết định như thế nào?
- Hệ thống chỉ tiêu PTTC của các NHTM trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh
cần được hoàn thiện như thế nào để đáp ứng yêu cầu cung cấp thông tin để
các chủ thể quản lý ra quyết định?
7. Các kết quả nghiên cứu dự kiến của luận án
Kết quả nghiên cứu của luận án sẽ có những đóng góp sau:
- Về lý luận: Hệ thống hóa và làm sáng tỏ quan điểm về hệ thống chỉ
tiêu PTTC của các NHTM. Những đánh giá này sẽ giúp các nhà quản trị ngân
hàng, nhà nghiên cứu, các cơ quan hoạch định chính sách, giảng viên, sinh
viên kinh tế có nguồn tài liệu tham khảo hữu ích cho công việc của mình.
- Về phương diện thực tiễn: Luận án đã khái quát về các NHTM trên
địa bàn tỉnh Bắc Ninh và làm rõ kết quả hoạt động, đặc điểm tổ chức quản lý.
Trên cơ sở điều tra chọn mẫu, luận án đã thấy được thực trạng hệ thống chỉ
tiêu PTTC của các NHTM trên địa bàn tình Bắc Ninh phục vụ cho quản trị
ngân hàng. Qua đó, luận án sẽ đánh giá những kết quả đã đạt được và những
hạn chế về hệ thống chỉ tiêu PTTC của các NHTM trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh.
Trên cơ sở định hướng phát triển ngành Ngân hàng trong thời gian tới,
căn cứ vào yêu cầu hoàn thiện hệ thống chỉ tiêu PTTC của các NHTM trên địa
bàn tỉnh Bắc Ninh, luận án đã đưa ra các giải pháp hoàn thiện hệ thống chỉ
tiêu PTTC của các NHTM trên địa bàn Bắc Ninh.
Luận án đề xuất một số kiến nghị đối với các cơ quan quản lý nhà
nước, đối với các NHTM trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh để thực hiện các giải

pháp hoàn thiện trên.


13

8. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
nội dung của luận án gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về hệ thống chỉ tiêu phân tích tài chính ngân
hàng thương mại.
Chương 2: Thực trạng hệ thống chỉ tiêu phân tích tài chính của các
ngân hàng thương mại trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh.
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện hệ thống chỉ tiêu phân tích tài chính
của các ngân hàng thương mại trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh.


14

Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HỆ THỐNG CHỈ TIÊU
PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Lý luận cơ bản về ngân hàng thương mại
1.1.1. Khái niệm ngân hàng thương mại
Ngân hàng là một loại hình tổ chức có vai trò quan trọng đối với nền
kinh tế nói chung và đối với từng cộng đồng địa phương, chủ thể tham gia nói
riêng. Với vai trò quan trọng như vậy, nhưng quan niệm như thế nào về một
ngân hàng, và sự phân biệt nó với các tổ chức phi ngân hàng không phải là
điều đơn giản. Rõ ràng, có thể định nghĩa ngân hàng thông qua chức năng mà
chúng thực hiện trong nền kinh tế. Tuy nhiên, vấn đề ở chỗ không chỉ chức
năng của các ngân hàng thay đổi, mà có sự "thâm nhập" vào chức năng hoạt

động ngân hàng của các đối thủ cạnh tranh. Do đó, tuỳ theo điều kiện của mỗi
nước và sự phát triển của hệ thống tài chính nước đó mà có những định nghĩa
khác nhau về ngân hàng.
Theo Luật Ngân hàng của Pháp thì NHTM được định nghĩa: "Ngân
hàng thương mại là những xí nghiệp hay cơ sở nào đó thường xuyên nhận
của công chúng dưới hình thức ký thác, hay hình thức khác số tiền mà họ
dùng cho chính họ vào nghiệp vụ chiết khấu, tín dụng hay dịch vụ tài chính"
[44].
Ở Việt Nam, theo quy định tại Luật các tổ chức tín dụng (TCTD) thì
ngân hàng được định nghĩa như sau: "Ngân hàng thương mại là tổ chức kinh
doanh tiền tệ mà hoạt động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi của
khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, thực
hiện nghiệp vụ chiết khấu và làm phương tiện thanh toán " [37].
Đó là các quan niệm về NHTM đứng trên giác độ luật pháp. Còn đứng
trên giác độ tài chính ngân hàng thì sao? Một định nghĩa khác về ngân hàng


15

được Giáo sư Peter Rose đưa ra như sau: "Ngân hàng là loại hình tổ chức
tàt chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất - đặc
biệt là tín dụng, tiết kiệm và dịch vụ thanh toán - và thực hiện nhiều chức
năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế"
[50].
Theo tác giả Trần Trung Dũng thì: "Ngân hàng thương mại là một
doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ mà hoạt động chủ yếu và thường xuyên là
nhận tiền gửi của khách hàng; sử dụng số tiền đó để cho vay, chiết khấu và
thực hiện các dịch vụ cho khách hàng trong nền kinh tế quốc dân" [6].
Như vậy, dù theo định nghĩa nào thì NHTM là một doanh nghiệp đặc
biệt. Như vậy, có thể hiểu NHTM là một loại hình doanh nghiệp đặc biệt, có

đối tượng kinh doanh là tiền tệ, sản phẩm của NHTM có tính đặc thù cao, cả
đầu ra và đầu vào đều là tài sản tài chính.
Ngân hàng thương mại có những đặc trưng sau:
- Ngân hàng thương mại là một tổ chức được phép nhận ký thác của
công chúng với trách nhiệm hoàn trả.
- Ngân hàng thương mại là một tổ chức được phép sử dụng ký thác
của công chúng để cho vay, chiết khấu và thực hiện các dịch vụ tài chính khác.
1.1.2. Hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại
Hoạt động của NHTM bao gồm: Hoạt động kinh doanh và hoạt động
khác. Trong đó, hoạt động kinh doanh của NHTM được hiểu là các hoạt động
chủ yếu đem lại lãi và phí cho NHTM (tạo ra doanh thu cho NHTM); hoạt
động khác là các hoạt động xảy ra không thường xuyên, không dự tính trước
và ngoài các hoạt động kinh doanh.
Hoạt động kinh doanh của NHTM bao gồm các hoạt động chủ yếu
sau đây.
1.1.2.1. Hoạt động huy động vốn
Huy động vốn là một trong những nghiệp vụ quan trọng của NHTM


16

nhằm giải quyết đầu vào tức là giải quyết vấn đề chi phí hoạt động của ngân
hàng. Công tác huy động vốn bao gồm: huy động vốn tiền gửi và huy động
vốn phi tiền gửi. Ngân hàng có thể huy động vốn từ nhiều nguồn khác nhau
như huy động dân cư, huy động của tổ chức kinh tế thông qua các công cụ nợ
(trái phiếu, kỳ phiếu, thương phiếu, tín phiếu), thông qua hoạt động liên ngân
hàng, giữa NHTM với NHNN, giữa NHTM với các định chế tài chính… Mục
đích gửi tiền có thể là khác nhau nhưng tựu trung lại là để an toàn tránh trách
nhiệm phải bảo quản tài sản, hưởng lãi cho các khoản tiền gửi và sử dụng các
dịch vụ thanh toán của ngân hàng.

1.1.2.2. Hoạt động tín dụng
Hoạt động tín dụng là hoạt động kinh doanh mang lại lợi nhuận cho
NHTM. Nhờ thế mạnh huy động được một lượng vốn nhàn rỗi khổng lồ từ các
cá nhân, các tổ chức kinh tế qua việc nhận tiền gửi hay đi vay, các ngân hàng
sử dụng số tiền ấy để cho vay các cá nhân, các tổ chức kinh tế cần vốn để đầu
tư các nhu cầu như: mở rộng sản xuất kinh doanh, mua sắm tài sản cố định
(TSCĐ), đầu tư nhu cầu vốn lưu động, nhu cầu tiêu dùng… và đa dạng các
nhu cầu khác. Nghiệp vụ này luôn chiếm từ 60% đến 80% tổng tài sản có của
NHTM và được coi là một hoạt động quan trọng bậc nhất đối với sự tồn tại và
phát triển của mỗi ngân hàng, cũng như đem lại hiệu quả to lớn cho xã hội.
1.1.2.3. Hoạt động thanh toán
Nghiệp vụ này xuất phát từ chính chức năng đầu tiên của ngân hàng là
nhận tiền gửi. Các cá nhân, tổ chức kinh tế trên cơ sở mở các tài khoản tiền
gửi thanh toán hay các tài khoản tiền gửi phục vụ giao dịch khi có nhu cầu
thanh toán có thể ủy quyền cho ngân hàng thực hiện thay mình: thu hộ, chi
hộ… Theo các quan điểm luật pháp ở hầu hết các nước, thì chỉ có các ngân
hàng mới được phép mở tài khoản thanh toán hay các tài khoản giao dịch cho
khách hàng mà không một định chế nào được phép làm điều này.
1.1.2.4. Hoạt động đầu tư


17

Ngoài nghiệp vụ tín dụng là chủ yếu, ngân hàng còn thực hiện đầu tư
vào các loại cổ phiếu, trái phiếu… nhằm mục tiêu thanh khoản, phân tán rủi ro
và đa dạng hóa tài sản có sinh lời. Ngân hàng thường giữ nhiều loại chứng khoán
nhưng chủ yếu chia thành hai loại cơ bản là chứng khoán thanh khoản và chứng
khoán đầu tư. Hiện nay, thị trường chứng khoán Việt Nam đang phát triển rất
mạnh, các doanh nghiệp trong nền kinh tế tham gia vào thị trường chứng
khoán dưới nhiều hình thức khác nhau tạo nên một thị trường khá sôi động.

1.1.2.5. Hoạt động cung cấp dịch vụ khác
Mặc dù mục tiêu đầu tiên và quan trọng nhất của ngân hàng là lợi
nhuận nhưng NHTM vẫn cần có sự an toàn, tránh được các rủi ro trong hoạt
động kinh doanh của mình. Do vậy, ngoài các nghiệp vụ chính là tín dụng,
ngân quỹ, đầu tư tài chính, các NHTM hiện đại ngày nay ngày càng quan tâm
đến việc phát triển các dịch vụ mới, đáp ứng tối đa nhu cầu của khách hàng
qua đó ngân hàng tìm kiếm lợi nhuận với mức rủi ro thấp nhất. Các dịch vụ
khác mà ngân hàng cung cấp vô cùng phong phú, gồm có:
- Dịch vụ thanh toán: Đây là nghiệp vụ mang tính dịch vụ đơn thuần
mà không cần sử dụng đến nguồn vốn của ngân hàng, thêm vào đó nó còn tạo
ra một nguồn vốn tương đối lớn cho ngân hàng thông qua quá trình thanh toán.
Ngân hàng thương mại có thể thực hiện dịch vụ thanh toán trong nước
thông qua các phương tiện thanh toán như: séc, uỷ nhiệm thu, uỷ nhiệm chi,
thẻ …hoặc thanh toán quốc tế dưới các hình thức như: chuyển tiền, nhờ thu,
L/C…Thông qua các dịch vụ thanh toán, NHTM không những thu được các
khoản phí mà còn tăng sức cạnh tranh của mình đối với các đối thủ.
- Dịch vụ bảo hiểm: Bao gồm trong đây có các loại hình như: Bảo
hiểm kinh doanh, bảo hiểm nhà ở và đồ dùng… Khi xác định cung cấp loại
hình dịch vụ này, NHTM cũng xác định sẽ phải cạnh tranh gay gắt với các đối
thủ chuyên doanh về bảo hiểm. Tuy nhiên, các NHTM vẫn cung cấp dịch vụ
này vì mục đích đa dạng hoá danh mục sản phẩm cũng như tăng thêm thu
nhập cho bản thân mình.


18

- Dịch vụ bảo lãnh: Cũng như bảo hiểm, bảo lãnh là một nghiệp vụ
ngoại bảng của NHTM. Bảo lãnh ngân hàng là cam kết bằng văn bản của
ngân hàng (bên bảo lãnh) với bên có quyền (bên nhận bảo lãnh) về việc thực
hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng (bên được bảo lãnh) khi khách

hàng không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ đã cam kết với bên
nhận bảo lãnh. Khách hàng phải nhận nợ và hoàn trả cho ngân hàng số tiền đã
được trẩ nợ thay. Qua dịch vụ này, ngân hàng có thể khẳng định uy tín của
mình với các khách hàng và đồng thời ngân hàng cũng thu được phí bảo lãnh,
góp một phần vào thu nhập cho ngân hàng
- Nghiệp vụ kinh doanh ngoại hối và kinh doanh vàng trên thị trường
trong nước và thị trường quốc tế khi NHNN cho phép.
Ngân hàng thương mại có thể kinh doanh giao ngay (spots), giao dịch
ngoại hối kỳ hạn (forwards), hoặc giao dịch hoán đổi (swaps), giao dịch
quyền chọn (options).
Trong xu thế mở cửa giao lưu với quốc tế, để trở thành các NHTM
phát triển đa năng thì nghiệp vụ kinh doanh ngoại hối ngày càng trở nên quan
trọng đối với các NHTM. Bởi nó không chỉ đem lại lợi nhuận trực tiếp do tỷ
giá thay đổi theo chiều hướng có lợi cho NHTM mà còn hỗ trợ để mở rộng
các nghiệp vụ khác
- Dịch vụ uỷ thác: Nghiệp vụ này đã được các NHTM trên thế giới quan
tâm từ rất sớm, bao gồm: uỷ thác cho cá nhân và uỷ thác cho doanh nghiệp.
Ủy thác cho cá nhân gồm: quản lý thanh lý tài sản theo di chúc, giám
hộ và bảo quản tài sản, quản lý điều hành tài sản theo hợp đồng với nội dung
là chuyển nhượng tài sản từ người uỷ thác sang cho người chịu thác để ngưòi
này nắm giữ và điều hành tài sản vì lợi ích của người uỷ thác.
Ủy thác cho doanh nghiệp gồm: quản lý quỹ hưu trí, uỷ thác làm đại
lý cho các tổ chức…


19

Nhìn chung nghiệp vụ uỷ thác mang lại cho ngân hàng những khoản
thu nhập đáng kể và quan hệ tốt đẹp với những khách hàng có doanh số hoạt
động lớn.

- Dịch vụ tư vấn: Là loại dịch vụ được thực hiện trên cơ sở hợp đồng
ký kết và cung cấp cho bên được tư vấn những trợ giúp của những nhân viên
được đào tạo về chuyên môn một cách khách quan độc lập.
Hơn bất cứ một doanh nghiệp nào, NHTM là một doanh nghiệp mà
hoạt động kinh doanh luôn chứa đựng rủi ro tiềm ẩn cao bởi đối tượng kinh
doanh của NHTM là tiền tệ và nguồn vốn chủ yếu của ngân hàng là do đi vay
dưới nhiều hình thức. Chính vì vậy trong hoạt động của mình, ngân hàng là
một doanh nghiệp có quan hệ với rất nhiều khách hàng, lưu giữ nhiều thông
tin của các tổ chức kinh tế, hơn nữa ngân hàng còn có các nhân viên đầy kinh
nghiệm trong lĩnh vực tài chính tiền tệ. Điều này giúp cho các chuyên gia của
ngân hàng có thể đưa ra các lời khuyên tối ưu cho các khách hàng, giúp cho
họ giải quyết các vấn dề trong kinh doanh của mình một cách có hiệu quả nhất.
Dịch vụ tư vấn không chỉ giúp cho ngân hàng thu được các khoản phí
mà còn nâng cao hình ảnh của ngân hnàg trong mắt khách hàng.
Ngoài các dịch vụ trên, NHTM còn cung cấp các sản phẩm dịch vụ
khác như: quản lý ngân quỹ, cho thuê két…
Tóm lại, các NHTM hiện nay, ngoài việc thực hiện các nghiệp vụ
truyền thống còn thực hiện đa dạng hoá các nghiệp vụ khác bằng cách đầu tư
vào các thiết bị kỹ thuật, ứng dụng công nghệ thông tin vào việc cung ứng
các sản phẩm dịch vụ cho khách hàng sao cho có thể trở thành ngân hàng đa
năng hiện đại, đáp ứng tối đa nhu cầu của khách hàng để từ đó thu về các
khoản lợi nhuận.
1.1.3. Quản trị tài chính các ngân hàng thương mại
Quản trị tài chính doanh nghiệp là việc lựa chọn, đưa ra các quyết
định và tổ chức thực hiện các quyết định tài chính nhằm đạt được các mục


20

tiêu hoạt động của doanh nghiệp. NHTM là một loại hình doanh nghiệp đặc

biệt - hoạt động và kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ và tín dụng. Vì vậy, quản
trị tài chính của NHTM là việc lựa chọn, đưa ra các quyết định và tổ chức
thực hiện các quyết định tài chính nhằm đạt được các mục tiêu hoạt động của
ngân hàng thương mại. Mục tiêu hoạt động của NHTM đó là cung cấp dịch
vụ tài chính cho khách hàng cá nhân và doanh nghiệp; thu phí và tính lãi từ
các sản phẩm và dịch vụ đã cung cấp cho khách hàng với mục đích tạo ra lợi
nhuận cho ngân hàng.
Xuất phát từ đặc thù của lĩnh vực kinh doanh của NHTM thì trong
mọi trường hợp các nhà quản trị NHTM đều phải đồng thời quan tâm đến tất
cả các mục tiêu vĩ mô và vi mô.
Trên phương diện vĩ mô, mỗi ngân hàng là một yếu tố cấu thành của
hệ thống Tài chính - Ngân hàng của nền kinh tế, cho nên những nhà quản trị
của các ngân hàng luôn phải quan tâm đến các mục tiêu chung của cả hệ
thống mà những mục tiêu này được đảm trách trước hết bởi các cơ quan điều
hành hệ thống Tài chính - Ngân hàng. Đó là mục tiêu tăng trưởng về kinh tế,
ổn định tiền tệ, ổn định giá cả và tạo công ăn việc làm cho người lao động.
Trên phương diện vi mô, các nhà quản trị NHTM luôn phải quan tâm
đến các mục tiêu cơ bản như: Tối đa hóa lợi nhuận ngân hàng; giảm thiểu rủi
ro trong quá trình hoạt động kinh doanh của ngân hàng; Đảm bảo được khả
năng thanh toán của Ngân hàng trong cả ngắn hạn và dài hạn.
Những mục tiêu này trực tiếp chi phối đến hầu hết mọi quá trình ra quyết
định của các nhà quản trị của NHTM. Như vậy, có thể nói mục tiêu cơ bản
tổng quát của nhà quản trị NHTM là duy trì và tăng tài sản ròng của ngân hàng.
Chính vì vậy, quản trị tài chính NHTM bao gồm các nội dung như:
Quản trị nguồn vốn huy động; quản trị tình hình đầu tư, sử dụng vốn (tài sản);
quản trị thanh khoản, quản trị dòng tiền, quản trị rủi ro của NHTM.


21


Thứ nhất, về quản trị nguồn vốn huy động. Bao gồm quản trị nợ phải
trả và quản trị vốn chủ sở hữu
- Quản trị nợ phải trả là một bộ phận trong quản trị hoạt động kinh
doanh của NHTM nói chung và của quản trị tài chính nói riêng, nó tạo ra nền
tảng huy động vốn vững chắc đảm bảo cho hoạt động kinh doanh của NHTM.
Mục tiêu cụ thể của quản trị nguồn vốn huy động là đảm bảo đủ số vốn để đáp
ứng yêu cầu sử dụng vốn với chi phí và rủi ro thấp nhất. Nhu cầu sử dụng vốn
bao gồm các nhu cầu đảm bảo khả năng thanh toán, cho vay và đầu tư. Như
vậy nhà quản trị cần phải xây dựng các chính sách, biện pháp huy động vốn
như lãi suất và chi phí huy động vốn; kiểm soát rủi ro trong huy động vốn;
kiểm soát khả năng thanh khoản và rủi ro thanh toán; xác định rủi ro lãi suất
và rủi ro tỷ giá.
- Quản trị vốn chủ sở hữu thực chất là xác định quy mô, cấu trúc vốn
chủ sở hữu sao cho phù hợp với yêu cầu kinh doanh của NHTM, đồng thời tìm
ra các giải pháp tăng vốn chủ sở hữu một cách có hiệu quả. Nội dung quản trị
vốn chủ sở hữu bao gồm: Xây dựng quy mô vốn chủ sở hữu cho phù hợp với
yêu cầu an toàn kinh doanh của NHTM (như vậy cần xem xét tình hình đảm
bảo an toàn vốn của NHTM) đồng thời phải quản lý có hiệu quả vốn chủ sở
hữu bằng cách nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của các NHTM.
Thứ hai, về quản trị tình hình sử đầu tư, sử dụng vốn (tài sản). Các
NHTM kinh doanh nhằm thu được lợi nhuận bằng cách bán những tài sản nợ
và dùng tiền thu được để mua được tài sản có. Tài sản của NHTM bao gồm:
Tiền mặt, vàng bạc, đá quý; tiền gửi tại NHNN; tiền gửi và cho vay ở các
NHTM và TCTD khác; Chứng khoán đầu tư; Các khoản cho vay; Góp vốn đầu
tư dài han, Các tài sản khác. Chiến lược cơ bản của quản trị tài sản các NHTM
đó là tìm kiếm lãi suất sinh lời cao nhất có thể trên các khoản cho vay và chứng
khoán, tạo tính thanh khoản bằng cách giữ các tài sản thanh khoản cao; giảm


22


rủi ro... Đồng thời để quản trị tốt tài sản thì các NHTM phải quản trị từng loại
tài sản, quản trị tín dụng và đầu tư, nâng cao hiệu suất, hiệu quả sử dụng tài sản.
Thứ ba, quản trị thanh khoản. Một trong những nhiệm vụ hàng đầu
của NHTM là đảm bảo khả năng thanh toán đầy đủ. Một NHTM được xem là
có khả năng thanh khoản nếu nó tiếp cận dễ dàng các nguồn vốn khả dụng với
chi phí hợp lý. Để quản trị thanh khoản có hiệu quả tốt, các nhà quản trị cần
thường xuyên bám sát hoạt động chịu trách nhiệm huy động vốn và sử dụng
vốn trong phạm vi ngân hàng và điều phối hoạt động của các bộ phận trong
NHTM, đồng thời các nhà quản trị cần nâng cao hiệu quả hoạt động của
NHTM, từ đó có khả năng thanh toán những khoản nợ.
Thứ tư, quản trị dòng tiền. Quản trị dòng tiền là hoạt động hoạch định và
tổ chức điều khiển để cân đối dòng tiền ra, vào theo yêu cầu của hoạt động của
Ngân hàng nhằm tối đa hóa giá trị của ngân hàng. Xét theo thời hạn phát sinh
dòng tiền có thể chia dòng tiền của NHTM thành hai loại là dòng tiền dài hạn và
dòng tiền ngắn hạn. Chính vì vậy, công việc quản trị dòng tiền cũng được chia
thành quản trị dòng tiền ngắn hạn và quản trị dòng tiền dài hạn. Việc quản trị
dòng tiền của các NHTM được thể hiện rõ nét trong lập kế hoạch dòng tiền
(dòng tiền vào và dòng tiền ra) và xác định dòng tiền thuần của ngân hàng.
Thứ năm, quản trị rủi ro. Rủi ro ngân hàng có thể xuất hiện tại tất cả
các nghiệp vụ của ngân hàng như: thanh toán, tín dụng, tiền gửi, ngoại tệ, đầu
tư... Vì vậy, vấn đề quản trị rủi ro ngân hàng luôn được các ngân hàng đặc biệt
chú trọng nghiên cứu, phân tích. Để quản trị rủi ro ngân hàng cần phải quan
tâm đến các vấn đề như:
- Nhận diện các loại rủi ro ngân hàng. Hiệu quả của việc quản trị rủi

ro phụ thuộc rất nhiều vào việc phân loại rủi ro. Phân loại rủi ro được hiểu là
việc phân rủi ro thành từng nhóm riêng biệt theo dấu hiệu của chúng. Cơ sở
khoa học về việc phân loại rủi ro đã tạo điều kiện cho các nhà quản trị ngân
hàng có thể xác định rõ ràng vị trí của từng loại rủi ro trong hệ thống rủi ro.



23

Việc phân loại rủi ro hợp lý sẽ giúp nâng cao khả năng và hiệu quả áp dụng
những phương pháp phù hợp trong việc quản trị rủi ro. Thông thường rủi ro
được phân theo những loại sau: rủi ro tín dụng, rủi ro thị trường, rủi ro lãi
suất, rủi ro thanh khoản, rủi ro hoạt động, rủi ro luật pháp… Nhưng bởi vì có
nhiều loại rủi ro khác nhau, không có cùng mức độ ảnh hưởng đến sự vững chắc
của ngân hàng và hình thành từ nhiều yếu tố khác nhau, có mức độ khác nhau
nên không thể cùng áp dụng một loại phương pháp đánh giá và quản trị chung.
- Phân tích rủi ro. Tức là phải xác định chính xác nguồn gốc của rủi

ro, khả năng thiệt hại cũng như lợi nhuận từ những nghiệp vụ ngân hàng có
tiềm ẩn rủi ro. Việc phân tích sẽ giúp ngân hàng lựa chọn kịp thời những giải
pháp tối ưu trong nhiều giải pháp khác nhau.
- Đánh giá rủi ro. Đánh giá rủi ro tạo điều kiện cho các nhà quản trị
ngân hàng xác định đại lượng của rủi ro ngân hàng. Hiện nay trên thực tế có
ba phương pháp đánh giá rủi ro như: Phương pháp thống kê, Phương pháp
kinh nghiệm, Phương pháp tính toán - phân tích
- Cảnh báo và giảm thiểu rủi ro. Để cảnh báo và giảm thiểu rủi ro cần
xây dựng những phương pháp phòng chống rủi ro từ xa đối với từng loại
nghiệp vụ cụ thể; xây dựng cơ chế giới hạn rủi ro thông qua các qui định giới
hạn mức độ rủi ro cho phép cũng như đối với các nghiệp vụ ngân hàng; Đa
dạng hoá các hình thức kinh doanh; Phân bố rủi ro cho các đối tác thông qua
các nghiệp vụ ngân hàng; Tự bảo hiểm bằng việc trích lập dự phòng rủi ro.
- Giám sát và kiểm tra. Để phối hợp giữa việc thực hiện những mục
tiêu của ngân hàng và việc kiểm tra mức độ rủi ro của ngân hàng cần phải xây
dựng một hội đồng kiểm tra và quy chế về chính sách kiểm tra rủi ro. Việc
thực hiện giám sát các chương trình kiểm tra rủi ro cho thấy: để nâng cao tính

hiệu quả của các chương trình kiểm tra rủi ro đòi hỏi việc xây dựng những
tiêu chuẩn đối với các chương trình này, trong đó bao gồm việc lựa chọn và
phân tích thông tin.


24

1.2. Lý luận về hệ thống chỉ tiêu phân tích tài chính của ngân hàng
thương mại
1.2.1. Khái niệm về hệ thống chỉ tiêu phân tích tài chính của các
ngân hàng thương mại
Trong phân tích tài chính thì chỉ tiêu chính là đối tượng mà phân tích
hướng vào, thông qua việc vận dụng các phương pháp và kỹ thuật để tính
toán, phân tích các chỉ tiêu, từ đó làm căn cứ cho việc ra các quyết định khác
nhau. Có một số quan điểm khác nhau về chỉ tiêu tài chính như:
Quan điểm của TS. Trần Quý Liên - Trường Đại học Kinh tế quốc dân
thì "Chỉ tiêu tài chính là một phạm trù kinh tế có nội dung tương đối ổn định,
thể hiện kết quả, hiệu quả kinh doanh, cấu trúc tài chính của một doanh
nghiệp tại một thời điểm hay trong một thời kỳ" [14].
Quan điểm của TS. Hồ Thị Thu Hương - Học viện Tài chính: "Chỉ
tiêu tài chính có nội dung tương đối ổn định, phản ánh quá trình và kết quả
của quá trình hoạt động kinh doanh theo thời gian và không gian xác định và
có đơn vị đo lường" [11].
Tuy nhiên, theo quan điểm của tác giả thì mỗi một chỉ tiêu tài chính
của đơn vị đều mang một nội dung kinh tế và phản ánh một khía cạnh nhất
định về tình hình tài chính của đơn vị. Một chỉ tiêu tài chính có nội dung
tương đối ổn định, phản ánh quá trình, kết quả, và hiệu quả hoạt động kinh
doanh của đơn vị theo thời gian, không gian xác định và có đơn vị đo lường
nhất định.
Tập hợp các chỉ tiêu tài chính hình thành hệ thống chỉ tiêu tài chính.

Hệ thống này có thể được sắp xếp theo một trình tự nhất định, phản ánh tình
hình và các quan hệ tài chính trong đơn vị. Hệ thống chỉ tiêu tài chính là công
cụ đắc lực giúp các chủ thể quản lý ra các quyết định.
Hệ thống chỉ tiêu phân tích là nội dung cơ bản của hoạt động PTTC,
nó quyết định tới chất lượng của thông tin khi phân tích và ảnh hưởng tới kết


25

quả hoạt động của doanh nghiệp. Hệ thống chỉ tiêu PTTC không những thể
hiện tình trạng tài chính, sức mạnh tài chính, an ninh tài chính, mà còn thể
hiện hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Do vậy, PTTC của đơn vị thông
qua phân tích hệ thống chỉ tiêu tài chính là cách tiếp cận khoa học, chính xác.
Các nhà khoa học có nhiều quan điểm khác nhau về bản chất hệ thống chỉ tiêu
PTTC, cụ thể:
Theo PGS,TS. Nguyễn Ngọc Quang - Trường Đại học Kinh tế quốc
dân, trong luận án tiến sĩ của mình có đưa ra quan điểm về bản chất hệ thống
chỉ tiêu PTTC: "Hệ thống chỉ tiêu phân tích tài chính là tổng thể các chỉ tiêu
tài chính sắp xếp theo một trình tự nhất định nhằm đánh giá họat động tài
chính của doanh nghiệp theo yêu cầu của cấp quản lý" [36].
Cũng theo một nhà khoa học khác thuộc Trường Đại học Kinh tế
Quốc dân là TS. Trần Quý Liên thì "Hệ thống chỉ tiêu tài chính là một bảng
tổng hợp các chỉ tiêu tài chính nhằm phản ánh tình hình tài chính của doanh
nghiệp phục vụ cho các đối tượng có nhu cầu" [14].
Hai nhà khoa học trên đều thống nhất ở quan điểm hệ thống chỉ tiêu là
bảng tổng hợp các chỉ tiêu và bảng tổng hợp này được sắp xếp, phản ánh tình
hình tài chính doanh nghiệp nhằm phục vụ các mục đích khác nhau của các
chủ thể sử dụng thông tin.
Tuy nhiên, Theo PGS,TS. Nghiêm Thị Thà thì "Hệ thống chỉ tiêu phân
tích tài chính là toàn bộ các chỉ tiêu tài chính có thể tính toán được ở một

doanh nghiệp trong kỳ phân tích mà thông qua hệ thống chỉ tiêu đó có thể
tiến hành phân tích, đánh giá cũng như dự đoán tình hình tài chính của
doanh nghiệp một cách toàn diện đầy đủ, chính xác làm cơ sở cho việc đưa
ra quyết định của các chủ thể quản lý khác nhau" [39].
Theo quan điểm này thì hệ thống chỉ tiêu PTTC bao gồm các chỉ tiêu
tài chính có thể tính toán được trong từng kỳ phân tích, và phục vụ mục đích
đưa ra các quyết định của chủ thể sử dụng.


×