Tải bản đầy đủ (.doc) (112 trang)

Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Toà án nhân dân tỉnh (Trên cơ sở thực tiễn địa bàn tỉnh Phú Thọ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (381.04 KB, 112 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

ĐÀO THỊ HẰNG

XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ CỦA
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH (TRÊN CƠ SỞ THỰC TIỄN
ĐỊA BÀN TỈNH PHÚ THỌ)

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI – 2018


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

ĐÀO THỊ HẰNG

XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ CỦA
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH (TRÊN CƠ SỞ THỰC TIỄN
ĐỊA BÀN TỈNH PHÚ THỌ)
Chuyên ngành: LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ
Mã số: 8380101.03

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS.TS TRƯƠNG QUANG VINH

HÀ NỘI - 2018



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
kết quả nêu trong luận văn chưa được công bố trong bất kì công trình nào
khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác,
tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán
tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia
Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa luật xem xét để tôi có thể
bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Người cam đoan

Đào Thị Hằng


MỤC LỤC
Trang phụ bìa
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU...........................................................................................................1
CHƯƠNG I.......................................................................................................7
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ. .7
I.I. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM VÀ NGUYÊN TẮC XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ
ÁN HÌNH SỰ....................................................................................................7
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của xét xử sơ thẩm vụ án hình sự......................7
1.1.2. Các đặc điểm của xét xử sơ thẩm vụ án hình sự...................................10
1.1.3. Các nguyên tắc cơ bản trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự..................11
1.2. KHÁI QUÁT LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA PHÁP
LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN

HÌNH SỰ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN..........................................................26
1.2.1. Giai đoạn từ sau cách mạng tháng 8/1945 đến trước khi ban hành Bộ
luật tố tụng hình sự năm 1988.........................................................................27
1.2.2. Giai đoạn từ năm 1988 đến trước khi ban hành Bộ luật tố tụng hình sự
năm 2003.........................................................................................................30
1.2.3. Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 đến trước
khi ban hành Bộ luật tố tụng hình sự 2015......................................................33
1.3. THAM KHẢO VỀ XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ TRONG
MỘT SỐ MÔ HÌNH TỐ TỤNG TRÊN THẾ GIỚI........................................35
1.3.1. Mô hình tố tụng hình sự thẩm vấn.........................................................36
1.3.2. Mô hình tố tụng hình sự tranh tụng.......................................................37
1.3.3. Mô hình tố tụng hình sự đan xen...........................................................39
TIỂU KẾT CHƯƠNG I...................................................................................41


2.1. THẨM QUYỂN XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ CỦA TÒA ÁN
NHÂN DÂN TỈNH.........................................................................................42
2.1.1. Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án nhân dân tỉnh.........................42
2.1.2. Một số quy định khác liên quan đến thẩm quyền xét xử vụ án hình sự
của Tòa án nhân dân........................................................................................44
2.2. XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN
CẤP TỈNH.......................................................................................................46
2.2.1. Thụ lý vụ án...........................................................................................46
2.2.2. Chuẩn bị xét xử sơ thẩm........................................................................48
2.2.3. Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự................................................................53
2.3. MỘT SỐ QUY ĐỊNH KHÁC LIÊN QUAN ĐẾN XÉT XỬ SƠ THẨM
VỤ ÁN HÌNH SỰ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP TỈNH.........................64
2.3.1. Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm...................................................64
2.3.2. Giới hạn của việc xét xử sơ thẩm..........................................................65
2.3.3. Nội quy phiên tòa..................................................................................67

2.3.4. Thủ tục rút gọn......................................................................................69
TIỂU KẾT CHƯƠNG II.................................................................................72
CHƯƠNG III:..................................................................................................73
THỰC TIỄN XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ,..................................73
NHỮNG TỒN TẠI, HẠN CHẾ VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO
HIỆU QUẢ XÉT XỬ SƠ THẨM CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ CỦA..................73
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH PHÚ THỌ.......................................................73
3.1. THỰC TIỄN XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ CỦA TÒA ÁN
NHÂN DÂN TỈNH PHÚ THỌ (TỪ NĂM 2011 ĐẾN NĂM 2016)..............73
3.1.1. Thực tiễn về thụ lý sơ thẩm các vụ án hình sự......................................73
3.1.2. Thực tiễn về xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự của Tòa án nhân dân tỉnh
Phú Thọ...........................................................................................................75
3.2. Những tồn tại, hạn chế và nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế........93
3.2.1. Tồn tại và hạn chế..................................................................................93


3.2.2. Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế..............................................95
3.3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ XÉT XỬ SƠ THẨM
CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH PHÚ THỌ......96
3.3.1. Những yêu cầu của việc nâng cao hiệu quả xét xử sơ thẩm các vụ án
hình sự của Tòa án nhân dân tỉnh Phú Thọ.....................................................96
3.3.2. Một số vấn đề đã được hoàn thiện trong Bộ luật tố tụng hình sự năm
2015.................................................................................................................97
3.3.3. Một số giải pháp khác nâng cao hiệu quả xét xử sơ thẩm các vụ án hình
sự của Tòa án nhân dân tỉnh Phú Thọ.............................................................99
KẾT LUẬN...................................................................................................105


MỞ ĐẦU
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI


Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, đã mở ra không gian
phát triển cho nền kinh tế Việt Nam có điều kiện thuận lợi để tạo dựng các
mối quan hệ hợp tác với các quốc gia trong khu vực và trên thế giới góp phần
nâng cao vị thế của nước ta trên trường quốc tế, đời sống nhân dân ngày càng
được cải thiện và nâng cao. Tuy nhiên, xã hội càng phát triển thì vấn đề giữ
vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội càng được trú trọng và quan
tâm, nhất là công tác đấu tranh phòng chống tội phạm trước những diễn biến
phức tạp như hiện nay.
Để đảm bảo một xã hội phát triển bền vững, đẩy lùi mọi tệ nạn xã hội,
Đảng và Nhà nước ta đang từng bước hoàn thiện hệ thống pháp luật kịp thời
điều chỉnh các mối quan hệ xã hội phát sinh. Đồng hành với việc hoàn thiện
hệ thống pháp luật là việc cải cách hệ thống chính trị theo hướng tinh giản,
hiệu quả, đặc biệt là công tác cải cách tư pháp, trong đó chú trọng nâng cao
trách nhiệm, quyền hạn đối với hệ thống các cơ quan hành pháp và cơ quan tư
pháp, đồng thời tăng cường công tác phối hợp, kiểm tra, giám sát giữa ba
ngành Công an, Tòa án, Viện kiểm sát trong công tác đấu tranh phòng chống
tội phạm.
Tại khoản 1 Điều 102 Hiến pháp 2013 quy định: “Tòa án nhân dân là
cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện
quyền tư pháp”. Hiến pháp đã xác định rõ ràng, cụ thể vị trí, vai trò của Tòa
án nhân dân trong bộ máy cơ quan nhà nước. Hiến pháp cũng khẳng định vị
trí trung tâm của Tòa án nhân dân trong hệ thống tư pháp và hoạt động xét xử
là trọng tâm. Trong tố tụng hình sự, Tòa án giữ vị trí, vai trò vô cùng quan
trọng. Tòa án là cơ quan nhà nước có thẩm quyền xét xử đối với mọi hành vi
phạm tội. Để thực hiện quyền lực của mình, thông qua hoạt động xét xử tại


phiên tòa, Hội đồng xét xử có quyền tiến hành các hoạt động điều tra, xác
minh, thu thập chứng cứ, kiểm tra chứng cứ, thẩm vấn công khai, dân chủ,

khách quan để xác định tội phạm. Trong các giai đoạn tố tụng hình sự từ khởi
tố, điều tra, truy tố đến xét xử giai đoạn nào cũng rất quan trọng nhưng để xác
định hành vi của một người là có tội hay không có tội thì xét xử là giai đoạn
có tính quyết định. Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam quy định một người chỉ
được coi là có tội khi có bản án kết tội của Tòa án có hiệu lực pháp luật.
Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là việc Tòa án xét xử lần đầu đối với
người phạm tội, đây là một trong những thủ tục tố tụng phức tạp đòi hỏi
những người tiến hành tố tụng phải là những người có chuyên môn và trình
độ. Khi giải quyết vụ án cần tuân thủ nghiêm chỉnh, triệt để các quy định về
tố tụng tại phiên tòa, nghiên cứu đầy đủ các tình tiết có trong hồ sơ vụ án, đối
chiếu các quy định của pháp luật để đảm bảo vụ án được xét xử khách quan,
đúng pháp luật. Tuy nhiên, trong thời gian gần đây do nhiều nguyên nhân
khác nhau vẫn sảy tình trạng vi phạm nghiêm trọng trong hoạt động tố tụng
hình sự, dẫn đến việc xét xử oan sai cho người vô tội gây thiệt hại đến quyền
và lợi ích hợp pháp của những người tham gia tố tụng.
Từ những nhận thức trên, em nhận thấy hoạt động xét xử của Tòa án
có ý nghĩa rất lớn trong việc định tội danh và quyết định hình phạt đối với
người phạm tội, thông qua hoạt động xét xử để có hình phạt thích đáng nhằm
giáo dục, răn đe và phòng ngừa chung góp phần gìn giữ an ninh, trật tự xã hội
và ngăn ngừa tội phạm. Với mục đích đi sâu tìm hiểu về trình tự, thủ tục tố
tụng tại phiên tòa hình sự sơ thẩm, em đã trọn đề tài: “Xét xử sơ thẩm vụ án
hình sự của Toà án nhân dân tỉnh (Trên cơ sở thực tiễn địa bàn tỉnh Phú
Thọ)” làm đề tài nghiên cứu Luận văn tốt nghiệp Thạc sỹ Luật học - Chuyên
ngành Luật Hình sự và Tố tụng Hình sự.
2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU


Xuất phát từ vị trí, vai trò của Tòa án nhân dân là cơ quan có thẩm
quyền ra phán quyết về các vi phạm pháp luật, các tranh chấp pháp lý, Tòa án
nhân dân có vai trò rất quan trọng trong việc bảo vệ quyền con người, quyền

công dân, bảo vệ lợi ích nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá
nhân. Trong những năm gần đây cũng có một số bài viết và công trình nghiên
cứu liên quan đến thủ tục tố tụng tại phiên tòa hình sự như:
Công trình nghiên cứu cấp Bộ của Tòa án nhân dân Tối Cao về “Vấn
đề tổ chức phiên tòa và việc thực hiện các quy định của pháp luật tố tụng tại
phiên tòa”. Công trình này hoàn thành vào năm 1999; Luận văn thạc sỹ: “Thủ
tục xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự - Lý luận và thực tiễn áp dụng tại tỉnh
Thừa Thiên - Huế” của tác giả Tôn Thất Cẩm Đoàn năm 2003; Luận văn thạc
sỹ “Thủ tục tố tụng tại phiên tòa hình sự sơ thẩm” của tác giả Nguyễn Quỳnh
Trang năm 2008; Đề tài nghiên cứu khoa học “Hoàn thiện pháp luật tố tụng
hình sự nhằm nâng cao hiệu quả xét xử theo tinh thần cải cách tư pháp” của
nhóm tác giả do TS. Hoàng Thị Minh Sơn là chủ nhiệm đề tài năm 2009; Bài
viết: “Thủ tục xét xử sơ thẩm trong tố tụng hình sự Việt Nam - Thực trạng và
phương hướng hoàn thiện” của Thạc sỹ Đinh Văn Quế - Chánh Tòa Hình sự
Tòa án nhân dân Tối Cao đăng trên tạp chí Tòa án nhân dân Tối Cao năm
2012; Luận văn thạc sỹ “Thủ tục tố tụng tại phiên tòa xét xử sơ thẩm theo
Luật tố tụng hình sự Việt Nam trước yêu cầu cải cách tư pháp trên cơ sở số
liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Đắk Lắk” của tác giả Nguyễn Văn Chung năm
2015.
Ngoài ra còn có nhiều bài viết liên quan đến xét xử sơ thẩm vụ án hình
sự được đăng trên tạp chí Tòa án nhân dân, tạp chí Kiểm sát nhân dân, Báo
công lý….Các bài viết và công trình nghiên cứu trên đều đánh giá và phân
tích nội dung liên quan đến thủ tục tố tụng tại phiên tòa hình sự sơ thẩm. Tuy
nhiên, mỗi bài viết lại tiếp cận ở các góc độ khác nhau. Đối với vấn đề về thủ


tục tố tụng tại phiên tòa hình sự sơ thẩm, hiện nay mới chỉ có công trình
nghiên cứu ở cấp bộ của Tòa án nhân dân Tối Cao về “Vấn đề tổ chức phiên
tòa và việc thực hiện các quy định của pháp luật tố tụng tại phiên tòa”. Công
trình này hoàn thành vào năm 1999, đến nay ít nhiều cũng không còn ý nghĩa

thực tiễn. Bài viết của Thạc sỹ Đinh Văn Quế về “Thủ tục xét xử sơ thẩm
trong tố tụng hình sự Việt Nam - Thực trạng và phương hướng hoàn thiện” đã
đi sâu nghiên cứu và phân tích về phần thủ tục xét xử sơ thẩm trong tố tụng
hình sự, trong đó đã nêu bật được các phương hướng cần hoàn thiện để khắc
phục những hạn chế, thiếu sót về thủ tục xét xử sơ thẩm trong tố tụng hình sự
Việt Nam. Đối với bài viết của tác giả Nguyễn Quỳnh Trang và tác giả
Nguyễn Văn Chung, hai bài viết đều đề cập đến thủ tục xét xử sơ thẩm hình
sự nhưng bài viết của tác giả Nguyễn Quỳnh Trang đánh giá vấn đề một cách
tổng hợp trên diện rộng, còn bài viết của tác giả Nguyễn Văn Chung phân tích
vấn đề trên cơ sở thực tiễn tại địa bàn tỉnh Đắk Lắk trước yêu cầu cải cách tư
pháp, bài viết đã nêu ra được các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng quy
định của Bộ luật tố tụng hình sự về thủ tục phiên tòa sơ thẩm hình sự nhằm
đáp ứng yêu cầu về cải cách tư pháp. Tuy nhiên, cũng chưa có bài viết và
công trình nghiên cứu nào đi sâu về phiên tòa hình sự sơ thẩm của Tòa án
nhân dân cấp tỉnh. Vì vậy, trên cơ sở các bài nghiên cứu liên quan, đề tài có
sự kế thừa cũng như tìm hiểu vấn đề ở khía cạnh mới, tập trung vào quy định
của pháp luật về xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Tòa án nhân dân cấp tỉnh
(cơ sở thực tiễn tại Tòa án nhân tỉnh Phú Thọ). Vấn đề nghiên cứu đề tài trong
thời điểm Bộ luật tố tụng hình sự 2015 mới được ban hành và có hiệu lực là
rất cần thiết và mang tính thời sự cao.
3. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU

Đề tài nghiên cứu trong luận văn tốt nghiệp này hướng tới làm rõ vấn
đề lý luận và thực tiễn về xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Tòa án nhân dân


cấp tỉnh, trên cơ sở thực tiễn tại địa bàn tỉnh Phú Thọ theo quy định của Bộ
luật tố tụng hình sự 2003 và đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng
xét xử các vụ án hình sự sơ thẩm đối với ngành Tòa án nhân dân tỉnh Phú
Thọ.

4. PHẠM VI NGHIÊN CỨU

Xét xử vụ án hình sự là vấn đề rất rộng lớn trong hoạt động tố tụng
của Tòa án mà cần phải có nhiều thời gian nghiên cứu, tìm hiểu. Trong đó có
các nội dung như: xét xử vụ án hình sự sơ thẩm; xét xử vụ án hình sự phúc
thẩm; xem xét theo trình tự giám đốc thẩm, tái thẩm…nhưng trong phạm vi
của một luận văn thạc sỹ không thể xem xét và giải quyết hết mọi vấn đề. Vì
vậy, tác giả chỉ dừng lại nghiên cứu về vấn đề xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
mà thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân cấp tỉnh để làm đề tài nghiên
cứu.
5. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU

Mục đích của luận văn là nghiên cứu các quy định của pháp luật về
xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Tòa án nhân dân cấp tỉnh trên cơ sở thực
tiễn tại Tòa án nhân dân tỉnh Phú Thọ. Từ đó đánh giá được thực trạng trong
hoạt động xét xử các vụ án hình sự sơ thẩm của Tòa án đồng thời đưa ra các
giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật và nâng cao hiệu quả
trong hoạt động xét xử các vụ án hình sự sơ thẩm.
6. CƠ SỞ PHƯƠNG PHÁP LUẬN VÀ CÁC PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN
CỨU

Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa
Mác -Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật; quan điểm của
Đảng và Nhà nước về xây dựng Nhà nước pháp quyền đồng thời căn cứ vào
thực tiễn xét xử của Tòa án trên cơ sở quy định của Bộ luật tố tụng hình sự
2003.


Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả luận văn đã sử dụng các
phương pháp nghiên cụ thể và đặc thù của khoa học Luật tố tụng hình sự đó là

các phương pháp: phân tích, tổng hợp; so sánh và phương pháp thống kê…
7. Ý NGHĨA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA LUẬN VĂN

Ý nghĩa về lý luận, kết quả nghiên cứu Luận văn tốt nghiệp có ý nghĩa
vô cùng quan trọng về lý luận và thực tiễn trong hoạt động xét xử của Tòa án
nhân dân cấp tỉnh đối với các vụ án hình sự sơ thẩm, đây là công trình nghiên
cứu đầu tiên ở cấp độ Thạc sỹ luật học trên địa bàn tỉnh Phú Thọ về vấn đề
này. Trên cơ sở đó luận văn sẽ góp phần là một trong những tài liệu tham
khảo bổ ích cho những nhà nghiên cứu, các cán bộ giảng viên, các nghiên cứu
sinh, các học viên cao học và sinh viên thuộc chuyên ngành luật học về tố
tụng hình sự và hình sự.
Ý nghĩa về thực tiễn, luận văn còn trang bị những kiến thức về trình
tự, thủ tục tại phiên tòa hình sự sơ thẩm cho cán bộ đang thực hiện công tác
xét xử trong hệ thống Tòa án nhân dân nói chung và ngành Tòa án nhân dân
tỉnh Phú Thọ nói riêng, góp phần đảm bảo cho hoạt động xét xử của Tòa án
được khách quan, nghiêm minh, đúng pháp luật.
8. BỐ CỤC LUẬN VĂN

Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương với kết cấu như sau:
Chương I: Những vấn đề lý luận về xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.
Chương II: Những quy định của Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam
2003 về xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Tòa án nhân dân.
Chương III: Thực tiễn xét xử vụ sơ thẩm án hình sự, những tồn tại,
hạn chế và một số giải pháp nâng cao hiệu quả xét xử sơ thẩm các vụ án hình
sự của Tòa án nhân dân tỉnh Phú Thọ.


CHƯƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ

I.I. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM VÀ NGUYÊN TẮC XÉT XỬ SƠ THẨM
VỤ ÁN HÌNH SỰ
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
Quá trình giải quyết vụ án hình sự được chia thành nhiều giai đoạn
khác nhau. Mỗi giai đoạn lại gắn liền với chức năng, nhiệm vụ của các cơ
quan tiến hành tố tụng là Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án. Hiến
pháp 2013 quy định “Tòa án là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam”, do vậy xét xử là hoạt động đặc thù của Tòa án. Bộ luật tố
tụng hình sự Việt Nam 2003 quy định Tòa án thực hiện chế độ hai cấp xét xử
là xét xử theo trình tự sơ thẩm và xét xử theo trình tự phúc thẩm.
Theo từ điển Tiếng Việt (Tra cứu Google.com.vn) thì “xét xử” được
hiểu là: “Đưa phạm nhân ra trước tòa để xác định mức độ phạm tội”. Đây là
một trong những cách hiểu khái quát nhất về xét xử, đó là việc đưa người
phạm tội ra xét xử một cách công khai trước tòa án để xác định tội phạm và
mức độ hình phạt phù hợp.
Từ điển Luật học (Dictionnary of Law) cho rằng: Xét xử là hoạt động
xem xét đánh giá bản chất pháp lý của vụ việc nhằm đưa ra một phán xét về
tích chất, mức độ pháp lý của vụ việc. Từ đó nhân danh Nhà nước đưa ra một
phán quyết tương ứng với bản chất, mức độ trái hay không trái pháp luật của
vụ việc [12, tr.869].
Xét xử là hoạt đặc trưng, là chức năng, nhiệm vụ của các Tòa án, các
Tòa án là những cơ quan duy nhất của một nước được đảm nhiệm chức năng
xét xử. Mọi bản án do các Tòa án tuyên đều phải qua xét xử, không một ai có


thể buộc tội mà không qua xét xử của Tòa án và kết quả xét xử phải được
công bố bằng bản án.
Theo cách hiểu này thì xét xử là hoạt động đặc trưng của Tòa án và chỉ
Tòa án là cơ quan duy nhất được đảm nhiệm chức năng này. Từ điển Luật học
không đưa ra khái niệm về “xét xử sơ thẩm”, vì vậy thuật ngữ “xét xử” trong

trường hợp này được hiểu là hoạt động xét xử chung của Tòa án.
Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam của Khoa Luật - Trường Đại
học Cần Thơ do giảng viên Mạc Giáng Châu biên soạn đã đưa ra khái niệm về
xét xử sơ thẩm vụ án hình sự như sau:
Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là một giai đoạn của quá trình tố
tụng hình sự trong đó Tòa án có thẩm quyền sau khi xem xét hồ
sơ vụ án lần đầu tiên đưa vụ án ra xét xử nhằm xác định có hay
không có hành vi phạm tội và người thực hiện tội phạm, từ đó
đưa ra bản án, quyết định phù hợp với tính chất của vụ án mà
Viện kiểm sát đã truy tố [13, tr.111].
Khái niệm trên đã đưa ra bao hàm đầy đủ về hoạt động xét xử sơ thẩm
vụ án hình sự của Tòa án, khái niệm khẳng định xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
là một giai đoạn trong tố tụng hình sự và đây là lần đầu tiên vụ án được đưa ra
xét xử, có nghĩa là trong giai đoạn xét xử có nhiều cấp độ thì xét xử sơ thẩm
được hiểu là xét xử lần đầu. Tòa án có thẩm quyền xem xét có hay không có
hành vi phạm tội để ra bản án, quyết định phù hợp với hành vi phạm tội đó và
Tòa án chỉ đưa vụ án ra xét xử đối với những tội phạm mà Viện kiểm sát ra
quyết định truy tố, đây là thủ tục bắt buộc trong tố tụng hình sự để đảm bảo
các quy trình tố tụng phải diễn ra theo đúng quy định của pháp luật.
Trong bài viết Thủ tục xét xử sơ thẩm trong tố tụng hình sự Việt Nam
- Thực trạng và phương hướng hoàn thiện Thạc sỹ Đinh Văn Quế - Nguyên
Chánh toà hình sự Tòa án nhân dân Tối cao (Trang Thông tin khoa học -


Trường Đại học kiểm sát Hà Nội) cũng đưa ra quan điểm: Xét xử sơ thẩm là
việc xét xử lần thứ nhất (cấp thứ nhất) do Toà án được giao thẩm quyền thực
hiện theo quy định của pháp luật. Theo Luật tổ chức Toà án nhân dân và Bộ
luật tố tụng hình sự hiện hành của Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam,
thì Toà án có thẩm quyền xét xử sơ thẩm ở Việt Nam là các Toà án cấp huyện,
Toà án cấp tỉnh, Toà án quân sự khu vực, Toà án quân sự cấp quân khu.

Bài viết không đưa ra khái niệm cụ thể về xét xử sơ thẩm vụ án hình
sự nhưng tác giả đã có những phân tích và nhận định khái quát về về hoạt
động xét xử sơ thẩm của Tòa án phải tiến hành những công việc gì, trách
nhiệm, quyền hạn của những người tiến hành tố tụng, những người tham gia
tố tụng và thông qua xét xử còn đánh giá trình độ nghiệp vụ của những người
tiến hành tố tụng. “Xét xử sơ thẩm được coi như là đỉnh cao của quyền tư
pháp, tại phiên toà quyền và nghĩa vụ của người tiến hành tố tụng và người
tham gia tố tụng được thực hiện một cách công khai, đầy đủ nhất” [14 tr.1].
Bài viết góp phần phân tích cụ thể về hoạt động xét xử tại phiên tòa sơ thẩm,
việc tổ chức phiên toà sơ thẩm tốt có tác dụng to lớn không chỉ đối với một vụ
án cụ thể mà còn có tác dụng đối với việc nâng cao ý thức pháp luật cho mọi
công dân.
“Xét xử sơ thẩm” là một từ Hán - Việt có nghĩa là “lần đầu tiên đưa vụ
án ra xét xử tại một Tòa án có thẩm quyền” [12, tr.870]. Xét xử sơ thẩm vụ án
hình sự là giai đoạn tiếp theo của quá trình tố tụng hình sự mà Tòa án được
giao thẩm quyền, sau khi nghiên cứu hồ sơ vụ án, lần đầu tiên đưa vụ án hình
sự ra xem xét công khai tại phiên tòa, nhằm xác định có hay không có tội
phạm xảy ra, một người có phải là người phạm tội hay không để từ đó đưa ra
bản án, quyết định phù hợp với tính chất của vụ án mà Viện kiểm sát đã truy
tố [15 tr.7]. Có nhiều cách tiếp cận khác nhau về xét xử sơ thẩm vụ án hình
sự, mỗi bài viết lại đưa ra quan điểm riêng làm sinh động, phong phú hơn về


ngữ nghĩa trong xét xử sơ thẩm, tuy nhiên giữa các bài viết và công trình
nghiên cứu cũng đưa ra nhiều điểm chung. Trong luận văn này, tác giả nghiên
cứu về nội dung xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Tòa án nhân dân cấp tỉnh.
Vì vậy, trước khi đi sâu phân tích và đánh giá từng vấn đề tác giả hoàn toàn
đồng quan điểm với khái niệm xét xử sơ thẩm vụ án hình sự như sau: Xét xử
sơ thẩm vụ án hình sự là một giai đoạn tố tụng hình sự, trong đó Tòa án có
thẩm quyền thay mặt Nhà nước tiến hành việc xét xử lần đầu, toàn diện, tổng

thể vụ án hình sự trên cơ sở hồ sơ vụ án, bản cáo trạng của Viện kiểm sát,
xem xét đánh giá chứng cứ và dựa trên kết quả tranh tụng tại phiên tòa làm
cơ sở để ra các phán quyết công minh, có căn cứ và đúng pháp luật bằng bản
án và quyết định của mình.
Đây là khái niệm tổng quát, toàn diện và đầy đủ nhất về xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự. Thông qua khái niệm này có thể nhận thức được toàn bộ
hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Tòa án, đó chính là việc Tòa án
nhân danh Nhà nước có thẩm quyền tiến hành xét xử đối với người phạm tội
thông qua bản cáo trạng của Viện kiểm sát, đây là lần đầu tiên Tòa án tiến
hành việc xét xử, nếu vụ án không có kháng cáo, kháng nghị thì bản án có
hiệu lực thi hành khi hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
1.1.2. Các đặc điểm của xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự có những đặc điểm như sau:
(i) Về chủ thể: Hiến pháp 2013 xác định chủ thể của xét xử sơ thẩm
vụ án hình sự là Tòa án. Tòa án là cơ quan duy nhất có thẩm quyền xét xử sơ
thẩm các vụ án hình sự. Tòa án đã được Hiến pháp ghi nhận là cơ quan xét xử
của Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Như vậy, ngoài Tòa án thì
không có một chủ thể nào khác được thực hiện quyền này.
(ii) Hành vi tố tụng đặc trưng: Đây là những hoạt động tố tụng được
Bộ luật tố tụng hình sự quy định cụ thể như kiểm tra căn cước của bị cáo, bị


hại và những người tham gia tố tụng khác; phổ biến quyền và nghĩa vụ tại
phiên tòa; tiến hành việc xét hỏi; tranh tụng; nghị án và tuyên án. Hành vi tố
tụng này được quy định cụ thể trong Bộ luật tố tụng hình sự theo một trình tự
thủ tục luật định. Khi tiến hành xét xử, Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa là
người được trao quyền hạn lớn nhất, Thẩm phán là người chủ động điều khiển
toàn bộ diễn biến phiên tòa và thực hiện các hành vi tố tụng đặc trưng này.
Chỉ khi tiến hành việc xét xử tại phiên tòa thì hành vi tố tụng này mới được
thực hiện. Nếu trong quá trình xét xử mà vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố

tụng thì bản án, quyết định của Tòa án có thể bị hủy để xét xử lại theo thủ tục
chung.
(iii) Văn bản tố tụng đặc trưng: Trong xét xử sơ thẩm Tòa án có thẩm
quyền ra bản án, quyết định theo quy định của pháp luật. Bản án, quyết định
của Tòa án là văn bản pháp lý thể hiện ý chí của Nhà nước nên được thi hành
theo một thủ tục luật định gọi là thủ tục thi hành án. Bản án, quyết định có
hiệu lực pháp luật sẽ được thi hành ngay, không ai được quyền cưỡng chế lại
việc thi hành án này.
1.1.3. Các nguyên tắc cơ bản trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
Trong bài viết những vấn đề lý luận cơ bản về chế định các nguyên tắc
của Luật Tố tụng hình sự của Phó giáo sư, tiến sỹ khoa học Lê Cảm - Khoa
Luật, Trường Đại học Quốc gia Hà Nội đã đưa ra định nghĩa về nguyên tắc
của Luật tố tụng hình sự như sau: Là tư tưởng chủ đạo và định hướng cơ bản
được thể hiện trong pháp luật tố tụng hình sự, cũng như trong việc giải thích
và trong thực tiễn áp dụng pháp luật tố tụng hình sự thông qua một hay nhiều
quy phạm (chế định) của nó - của nguyên tắc tương ứng mà ta nghiên cứu
[17, tr.12].
Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam của Khoa Luật, Trường Đại
học quốc gia Hà Nội cho rằng: “Luật tố tụng hình sự tồn tại hệ thống các


nguyên tắc cơ bản chứ không phải là những nguyên tắc rời rạc” [22, tr.240]
Giáo trình Luật tố tụng hình sự của Trường Đại học Luật Hà Nội đã đưa ra
định nghĩa về nguyên tắc cơ bản của Luật tố tụng hình sự: “Là những phương
châm định hướng chi phối toàn bộ hay một số hoạt động tố tụng hình sự được
ghi nhận trong Hiến Pháp, Bộ luật tố tụng hình sự và các văn bản có liên
quan” [22, tr.241]
Bài viết Tổng quan về mô hình tố tụng hình sự Việt Nam - Thực trạng
và phương hướng hoàn thiện của GS.TSKH Đào Trí Úc có viết:
“Trong tố tụng hình sự Việt Nam, nguyên tắc của tố tụng hình sự

là những tư tưởng và quan điểm chủ đạo được thể chế hóa bằng
pháp luật, có ý nghĩa quyết định đối với việc xác định và thực
hiện các hoạt động tố tụng hình sự và các quan hệ tố tụng hình
sự, đối với các hình thức và phương pháp thực hiện những hoạt
động và quan hệ đó”.
Có nhiều quan điểm khác nhau về nguyên tắc cơ bản trong tố tụng
hình sự nhưng có thể hiểu các nguyên tắc cơ bản của Luật tố tụng hình sự là
những phương châm, định hướng chi phối toàn bộ hay một số giai đoạn quan
trọng của tố tụng hình sự trong quá trình xây dựng và áp dụng pháp luật tố
tụng hình sự. Những nguyên tắc này thể hiện chính sách hình sự, quan điểm
giải quyết vụ án hình sự của Đảng và Nhà nước ta là đảm bảo mọi tội phạm
đều được phát hiện kịp thời, xử lý nhanh chóng, công minh theo đúng pháp
luật, không bỏ lọt tội phạm và làm oan người vô tội. Vì vậy, trong quá trình
xây dựng pháp luật và áp dụng pháp luật để giải quyết vụ án hình sự những
nguyên tắc cơ bản của Luật tố tụng hình sự cần được quán triệt và thực hiện
nghiêm chỉnh [22, tr.239].
Tại chương 2 Bộ luật tố tụng hình sự 2003 đã quy định 29 nguyên tắc
cơ bản từ Điều 3 đến Điều 32. Các nguyên tắc này là phương châm, định


hướng chi phối toàn bộ quá trình tố tụng hình sự, tuy nhiên cũng có những
nguyên tắc chỉ áp dụng riêng cho giai đoạn tố tụng cụ thể, đây có thể coi là
những nguyên tắc đặc thù. Trong giai đoạn xét xử ngoài các nguyên tắc cơ
bản cũng có những nguyên tắc đặc thù, do vậy để giải quyết vụ án hình sự
được đảm bảo khách quan đúng pháp luật. Tòa án cần nghiêm chỉnh chấp
hành và tuân thủ các nguyên tắc này.
1.1.3.1. Nguyên tắc bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa trong tố tụng
hình sự
Pháp chế xã hội chủ nghĩa được hiểu là một chế độ đặc biệt của đời
sống chính trị xã hội, trong đó tất cả các cơ quan nhà nước, các tổ chức kinh

tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân, nhân viên nhà nước và mọi công
dân đều phải tôn trọng và thực hiện Hiến pháp, pháp luật một cách nghiêm
chỉnh, triệt để, chính xác. Mọi hành động xâm phạm lợi ích của nhà nước,
quyền, lợi ích của tập thể, của công dân đều bị xử lý theo pháp luật [23, tr.54].
Nhà nước ta đang quản lý, điều chỉnh mọi mặt đời sống kinh tế, chính
trị, văn hóa, xã hội bằng pháp luật, đảm bảo pháp chế xã hội chủ nghĩa chính
là đảm bảo pháp luật có giá trị thực thi trong thực tiễn và được mọi người tôn
trọng thực hiện.
Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa là nguyên tắc Hiến định. Bộ
luật tố tụng hình sự 2003 cũng ghi nhận nguyên tắc bảo đảm pháp chế xã hội
chủ nghĩa trong tố tụng hình sự: “Mọi hoạt động tố tụng hình sự của cơ quan
tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng phải
được tiến hành theo quy định của Bộ luật này” [7, Điều 3]. Pháp chế là
nguyên tắc quan trọng trong sinh hoạt xã hội, trong tổ chức và hoạt động của
các cơ quan nhà nước, của các tổ chức xã hội, của người có chức vụ, quyền
hạn và của công dân. Đây là nguyên tắc hiến định được hiểu là việc thường
xuyên, nhất quán tuân thủ và chấp hành các quy định của Hiến pháp, của các


đạo luật và các văn bản quy phạm pháp luật khác phù hợp với Hiến pháp, với
các đạo luật của tất cả các cơ quan nhà nước và các tổ chức xã hội của những
người có chức vụ, quyền hạn, của mọi công dân [24, tr.12].
Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa trong tố tụng hình sự được hiểu
là những quy định cơ bản chung nhất, được ghi nhận trong Bộ luật tố tụng
hình sự và mang ý nghĩa chỉ đạo đối với toàn bộ hoạt động tố tụng hình sự,
theo đó các cơ quan tiến hành tố tụng, những người tiến hành tố tụng, bị can,
bị cáo và người tham gia tố tụng khác trong khi thực hiện quyền và nghĩa vụ
tố tụng phải nghiêm túc, triệt để tuân theo những quy định của pháp luật tố
tụng hình sự. Đối với cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng
phải thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ được pháp luật quy định. Trong giai

đoạn khởi tố, điều tra Thủ trưởng cơ quan điều tra, Điều tra viên phải căn cứ
vào các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự đảm bảo việc phát hiện nhanh
chóng, chính xác tội phạm để tiến hành khởi tố, điều tra thu thập, củng cố
chứng cứ truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Giai đoạn truy
tố thuộc chức năng nhiệm vụ của Viện kiểm sát, trước khi ra quyết định truy
tố, Viện trưởng Viện kiểm sát, Kiểm sát viên phải căn cứ vào các quy định
của Bộ luật tố tụng hình sự tiến hành các biện pháp cần thiết để đánh giá toàn
diện, khách quan các tài liệu của vụ án xác định có hay không có tội phạm để
quyết định truy tố hay không truy tố bị can ra trước Tòa án. Giai đoạn xét xử
được coi là trung tâm của tố tụng hình sự và mang tính quyết định để kết tội
đối với bị cáo, chính vì vậy khi tiến hành các hoạt động tố tụng theo thẩm
quyền Chánh án, Thẩm phán, Thư ký tòa án cần tuân thủ đúng các quy định
của pháp luật tố tụng hình sự. Quá trình thụ lý hồ sơ, nghiên cứu hồ sơ và xét
xử tại phiên tòa phải tiến hành nghiêm túc, đúng trình tự thủ tục.
Nguyên tắc đảm bảo pháp chế xã hội chủ nghĩa trong tố tụng hình sự
không chỉ áp dụng đối với cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng


mà những người tham gia tố tụng cũng phải tuân thủ nguyên tắc này, điều này
thể hiện đối với những người tham gia tố tụng phải tôn trọng, nghiêm chỉnh
chấp hành đối với lệnh, giấy báo, giấy triệu tập, quyết định, bản án….của cơ
quan có thẩm tiến hành tố tụng, phải có mặt đúng thời gian địa điểm theo yêu
cầu và trình bày đúng sự thật mà mình biết về vụ án khi được lấy lời khai, khi
tham gia phiên tòa.
Đây là nguyên tắc bao trùm nhất, cơ bản nhất được quán triệt trong
toàn bộ quá trình tiến hành tố tụng hình sự. Nguyên tắc này đòi hỏi mọi hoạt
động tố tụng hình sự phải được pháp luật điều chỉnh chặt chẽ và được tuân
thủ một cách nghiêm chỉnh.
1.1.3.2. Nguyên tắc tôn trọng và bảo vệ các quyền cơ bản của công
dân

Tại quảng trường Ba Đình lịch sử năm 1945, Hồ Chủ tịch đã đọc Bản
tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, Bản tuyên
ngôn đã khẳng định: “Tất cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng, tạo
hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được, trong những quyền
ấy có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc” [25, tr.5].
Quyền cơ bản của công dân được hiểu là các lợi ích cụ thể mà pháp
luật ghi nhận cho mọi người, mọi công dân. Quyền cơ bản của công dân là
quyền bất di bất dịch gắn liền với cá nhân mỗi con người. Trong đó có những
quyền con người sinh ra đã có sẵn như quyền sống, quyền mưu cầu hạnh
phúc, quyền bất khả xâm phạn tính mạng, danh dự, nhân phẩm,….. đây được
coi là những quyền tự nhiên, vốn có. Và có những quyền được pháp luật ghi
nhận khi con người đạt đến độ tuổi nhất định như quyền về kết hôn, quyền
bầu cử, quyền được đến trường…
Bộ luật tố tụng hình sự 2003 ghi nhận nguyên tắc tôn trọng và bảo vệ
các quyền cơ bản của công dân như sau:


Khi tiến hành tố tụng, Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra,
Điều tra viên, Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát, Kiểm sát
viên, Chánh án, Phó Chánh án Tòa án, Thẩm phán, Hội thẩm trong
phạm vi trách nhiệm của mình phải tôn trọng và bảo vệ các quyền và
lợi ích hợp pháp của công dân, thường xuyên kiểm tra tính hợp pháp
và sự cần thiết của những biện pháp đã áp dụng, kịp thời hủy bỏ hoặc
thay đổi những biện pháp đó, nếu xét thấy có vi phạm pháp luật hoặc
không còn cần thiết nữa [7, Điều 4].
Theo nội dung của nguyên tắc thì chủ thể có nghĩa vụ thực hiện
nguyên tắc này là Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra, Điều tra
viên, Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát, Kiểm sát viên, Chánh án,
Phó Chánh án Tòa án, Thẩm phán, Hội thẩm đây là những người được Nhà
nước trao quyền tiến hành các hoạt động tố tụng hình sự. Quyền cơ bản của

công dân được pháp luật tôn trọng và bảo vệ, vì vậy khi tiến hành các hoạt
động tố tụng Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng phải có nghĩa
vụ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho công dân, đảm bảo mọi hành vi xâm
phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân phải được phát hiện kịp
thời và xử lý nhanh chóng theo đúng quy định của pháp luật.
Nguyên tắc này đặt ra yêu cầu đối với những người tiến hành tố tụng
hình sự phải tôn trọng và bảo vệ quyền bất khả xâm phạm về thân thể của
công dân, bảo vệ tính mạng, sức khỏe, tài sản, danh dự và nhân phẩm của
công dân bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở, an toàn và bí mật thư
tín, điện thoại, điện tín của công dân. Việc hạn chế các quyền và tự do nói trên
chỉ được tiến hành trên cơ sở và trong sự phù hợp với các quy định của pháp
luật [24, tr.14]. Tố tụng hình sự là thủ tục đặc biệt mang tính quyền lực Nhà
nước được áp dụng đối với mọi hành vi phạm tội. Khi một người thực hiện
hành vi phạm tội sẽ có những chế tài nghiêm khắc mang tính bắt buộc, người


bị buộc tội sẽ bị hạn chế một số quyền cơ bản của công dân thậm chí bị tước
đi quyền sống, vì vậy mọi hành vi của các chủ thể khi tiến hành tố tụng phải
thận trọng, cân nhắc không được cẩu thả, tùy tiện ban hành các quyết định
liên quan đến quyền của cá nhân mỗi con người. Bộ luật tố tụng hình sự quy
định rất chặt chẽ, chi tiết, cụ thể về thủ tục bắt người trong tố tụng hình sự,
chỉ được bắt người để tạm giữ, tam giam trong trường hợp khẩn cấp, phạm tội
quả tang hoặc đang bị truy nã. Các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành
tố tụng chỉ được áp dụng các biện pháp ngăn chặn, biện pháp điều tra thu thập
chứng cứ, biện pháp cưỡng chế tố tụng hình sự khi có các căn cứ và trong giới
hạn quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Các cơ quan, cá nhân có thẩm
quyền phải thường xuyên kiểm tra, kiểm sát tính hợp lý, hợp pháp của việc áp
dụng các biện pháp ngăn chặn, biện pháp điều tra thu thập chứng cứ, nếu phát
hiện thấy có vi phạm pháp luật phải hủy bỏ ngay các quyết định đó. Khi
những căn cứ áp dụng các biện pháp ngăn chặn, biện pháp điều tra không còn

hoặc không cần thiết thì các cơ quan và người có thẩm quyền phải kịp thời
hủy bỏ hoặc thay thế quyết định áp dụng các biện pháp đó.
Nhà nước ta đang xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
của dân, do dân, vì dân, các quyền cơ bản của con người được pháp luật tố
tụng hình sự tôn trọng và bảo vệ. Tôn trọng và bảo vệ quyền cơ bản của công
dân là nguyên tắc Hiến định có tính chất bao trùm, xuyên suốt trong mọi hoạt
động của chủ thể tiến hành tố tụng. Vì vậy, cơ quan tiến hành tố tụng, người
tiến hành tố tụng phải chấp hành đúng quy định của nguyên tắc, đảm bảo các
quyền và lợi ích hợp pháp của công dân không bị xâm phạm bất hợp pháp.
1.1.3.3. Nguyên tắc không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội
của Toà án đã có hiệu lực pháp luật
Không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội của Tòa án có hiệu
lực pháp luật là một trong những nguyên tắc cơ bản được quy định tại Điều 9,


Bộ luật tố tụng hình sự 2003 của Nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam:
“Không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội
của Toà án đã có hiệu lực pháp luật”. Theo quy định của nguyên tắc này, thì
một người chỉ bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi có bản án kết tội của
Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Con người là sản phẩm của tự nhiên và xã
hội, con người là chủ thể đặc biệt được pháp luật tôn trọng và bảo vệ, do vậy
bất cứ quốc gia nào trên thế giới đều lấy quyền và lợi ích của con người là
mục tiêu phát triển của đất nước, nhưng nếu con người vi phạm các quy tắc
của cuộc sống, xâm phạm đến quyền và lợi ích của cá nhân, của tập thể và
Nhà nước mà được pháp luật hình sự bảo vệ thì sẽ bị xử lý theo quy định. Để
việc kết tội đối với cá nhân một con người là đúng, không bị oan sai, nhầm
lẫn Bộ luật tố tụng hình sự quy định rất chặt chẽ về thủ tục trong tố tụng hình
sự. Trong các giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử mỗi giai đoạn
người phạm tội lại có tư cách tố tụng khác nhau. Khi chưa khởi tố được coi là
người bị tình nghi phạm tội, từ khi có quyết định khởi tố đến trước khi có

quyết định đưa vụ án ra xét xử được gọi là bị can, khi Tòa án quyết định đưa
vụ án ra xét xử gọi là bị cáo và đến khi bản án có hiệu lực pháp luật và ra
quyết định thi hành án được gọi là người bị kết án. Tuy nhiên, trong tất cả các
giai đoạn từ khởi tố, điều tra, truy tố đến khi Tòa án quyết định đưa vụ án ra
xét xử bị cáo vẫn chưa bị coi là người có tội, thậm chí bản án sơ thẩm sau khi
Tòa án cấp sơ thẩm tuyên án và kết án bị cáo phạm tội cũng không được cho
rằng họ là người có tội, vì bản án sơ thẩm sau khi tuyên chưa có hiệu lực thi
hành ngay vì còn thời hạn kháng cáo, kháng nghị. Nếu hết thời hạn kháng cáo
(15 ngày) và thời hạn kháng nghị (30 ngày) kể từ ngày tuyên án mà không có
kháng cáo, kháng nghị thì bản án mới có hiệu lực thi hành. Trường hợp có
kháng cáo, kháng nghị thì bản án phúc thẩm có hiệu lực thi hành ngay sau khi
tuyên án. Trong thực tiễn khi ban hành bản án sơ thẩm Tòa án thường đóng


dấu án có hiệu lực hoặc án chưa có hiệu lực vào bản án để đảm bảo cho công
tác thi hành án được chính xác.
Quyền của con người luôn được pháp luật tôn trọng và bảo vệ. Trong
hệ thống các cơ quan nhà nước nói chung và hệ thống các cơ quan tư pháp
hình sự nói riêng chỉ có Tòa án mới có chức năng xét xử về hình sự. Điều đó
có nghĩa rằng Tòa án là cơ quan xét xử duy nhất có quyền kết tội người nào
đó và quyết định hình phạt đối với người phạm tội trên cơ sở xem xét đánh
giá chứng cứ một cách khách quan, toàn diện và chính thức tại phiên tòa [24].
Không ai bị coi là có tội hoặc phải chịu hình phạt nếu chưa có bản án kết tội
của Tòa án có hiệu lực pháp luật. Nguyên tắc cũng khẳng định chỉ Tòa án là
cơ quan duy nhất của Nhà nước được quyền ra phán quyết đối với người
phạm tội. Nguyên tắc này mang tính nhân văn cao và khẳng định quyền của
con người là bất khả xâm phạm.
1.1.3.4. Nguyên tắc thực hiện chế độ xét xử có Hội thẩm tham gia
Tại khoản 1 và Điều 103 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Việc xét xử
sơ thẩm của Tòa án nhân dân có Hội thẩm tham gia, trừ trường hợp xét xử

theo thủ tục rút gọn”.
Điều 8 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 quy định: “Việc xét
xử sơ thẩm của Tòa án có Hội thẩm tham gia theo quy định của luật tố tụng,
trừ trường hợp xét xử theo thủ tục rút gọn”.
Nguyên tắc thực hiện chế độ xét xử có Hội thẩm tham gia được quy
định trong Hiến pháp, Luật tổ chức Tòa án nhân dân điều đó thấy rằng việc
tham gia xét xử của Hội thẩm là rất cần thiết và vô cùng quan trọng, Tại Điều
15 Bộ luật tố tụng hình sự 2003 cũng ghi nhận: “Việc xét xử của Toà án nhân
dân có Hội thẩm nhân dân, của Toà án quân sự có Hội thẩm quân nhân tham
gia theo quy định của Bộ luật này. Khi xét xử, Hội thẩm ngang quyền với
Thẩm phán”.


×