Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

Vận dụng tư tưởng đạo đức hồ chí minh trong việc rèn luyện đạo đức của mỗi sinh viên hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (89.46 KB, 16 trang )

KHOA: Lý luận chính trị

BÀI TIỂU LUẬN
Môn học: Tư tưởng Hồ Chí Minh
Tên đề tài: Vận dụng tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh trong việc rèn luyện
đạo đức của mỗi sinh viên hiện nay.

MỤC LỤC


A.MỞ ĐẦU
B.NỘI DUNG
I.Vai trò, vị trí của đạo đức trong tư tưởng Hồ Chí Minh
1.Hồ Chí Minh bàn về đạo đức
2.Những chuẩn mực đạo đức được đề cập đến trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí
Minh
II.Sinh viên rèn luyện đạo đức theo tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh
1.Tầm quan trọng của việc rèn luyện đạo đức trong sinh viên
2.Phương hướng của việc rèn luyện đạo đức trong sinh viên
2.1 Thực trạng đạo đức trong sinh viên hiện nay
2.1.1 Mặt tích cực
2.1.2 Mặt tiêu cực
2.2 Giải pháp
C.KẾT LUẬN
Tài liệu tham khảo.


A. MỞ ĐẦU
Theo Kinh dịch, Đạo là con đường, hướng đi, lối làm việc, ăn ở… Đức là mức
độ tập trung của Đạo ở một con người. Nói theo ngôn từ ngày nay Đức là trình
độ năng lực nắm vững và vận dụng quy luật. Trình độ cao bao nhiêu thì Đức dày


bấy nhiêu.
Theo Chiết tự, Đạo đức lại được xem là khái niệm của luân thường đạo lý ở con
người, nó thuộc về vấn đề tốt-xấu, hơn nữa được xem như là đúng-sai, được sử
dụng trong 3 phạm vi: lương tâm con người, hệ thống phép tắc đạo đức và trừng
phạt đôi lúc còn được gọi giá trị đạo đức; nó gắn với nền văn hoá, tôn giáo, chủ
nghĩa nhân văn, triết học và những luật lệ của một xã hội về cách đối xử từ hệ
thống này.
Đạo đức là một hiện tượng lịch sử và xét cho cùng nó là sự phản ánh của các
quan hệ xã hội. Ngày nay, người ta khái niệm Đạo đức là một hình thái ý thức xã
hội , là tập hợp những nguyên tắc, quy tắc , chuẩn mực xã hội nhằm điều chỉnh
và đánh giá cách ứng xử của con người trong quan hệ với nhau và quan hệ với
xã hội, chúng được thực hiện bởi niềm tin cá nhân, bởi truyền thống và sức
mạnh của dư luận xã hội. Đạo đức được biểu hiện qua nhiều hình thái như:
thuần hậu, hy sinh, lịch sự, biết ơn, thật thà, trung thực, tôn sư trọng đạo, giữ
chữ tín, lương tâm,…
Từ khi nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, việc giữ
gìn và phát huy các giá trị đạo đức truyền thống cũng như việc xây dựng hệ giá
trị đạo đức mới ở nước ta đã và đang đặt ra nhiều vấn đề cần phải được giải
quyết. Thực tế cho thấy, trong đời sống xã hội đã có những biểu hiện xem nhẹ
những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc, chạy theo thị hiếu không lành
mạnh. Cuộc đấu tranh giữa cái tiến bộ và cái lạc hậu, giữa lối sống lành mạnh
trung thực, có lý tưởng…với lối sống ích kỉ, thực dụng…đang diễn ra hàng
ngày. Bên cạnh những hệ giá trị mới được hình thành trong quá trình hội nhập,
những cái tiêu cực cũng đang xâm nhập vào đạo đức, lối sống của nhiều tầng lớp
nhân dân, đặc biệt là đội ngũ học sinh, sinh viên.
Vì vậy, việc rèn luyện và tu dưỡng đạo cho sinh viên luôn được quan tâm nhất
và đặt lên hàng đầu. Ngày nay, Đảng và Nhà nước ta luôn gương cao ngọn cờ
“Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, vận dụng tư tưởng đạo
đức Hồ Chí Minh trong việc rèn luyện đạo đức ở mỗi sinh viên, để hướng mọi
người làm theo cái tốt, cái thiện tránh xa cái xấu, cái ác, hoàn thiện nhân cách,

đạo đức, lương tâm cho mỗi con người. Bởi vì Hồ Chí Minh là một trong những
tấm gương sáng nhất về cuộc đời của một con người “đầy tình yêu nhân dân,
đầy yêu thương con trẻ, dạt dào tình yêu Tổ quốc, yêu những người lao động,
yêu Đảng, yêu chủ nghĩa xã hội và lý tưởng cộng sản chủ nghĩa”.


B. NỘI DUNG
I.Vai trò, vị trí của đạo đức trong tư tưởng Hồ Chí Minh
1.Hồ Chí Minh bàn về đạo đức
Hồ Chí Minh là người bàn nhiều về đạo đức, nhất là đạo đức cách mạng. "Đức
là gốc" là quan điểm cơ bản, xuyên suốt và nhất quán trong tư tưởng đạo đức Hồ
Chí Minh. Theo Hồ Chí Minh, đạo đức không chỉ là "gốc", là nền tảng, là nhân
tố chủ chốt của người cách mạng, mà còn là thước đo của lòng cao thượng của
con người.
Hồ Chí Minh không đưa ra định nghĩa đạo đức là gì, nhưng trong sử dụng, thuật
ngữ đạo đức được dùng với 3 nghĩa: Rộng, hẹp, và rất hẹp.
Nghĩa rộng: Đạo đức là hình thái ý thức xã hội, nhờ đó con người tự giác điều
chỉnh hành vi cho phù hợp với lợi ích, hạnh phúc và làm giàu tính người trong
các quan hệ xã hội, kể cả trong các quan hệ chính trị, tư tưởng.
Nghĩa hẹp: Đạo đức là các qui tắc, chuẩn mực dùng điều chỉnh hành vi con
người trong quan hệ giữa người với người trong hoạt động sống.
Nghĩa rất hẹp: Đó là hành vi đạo đức, hành vi đạo đức là hành động cá nhân thể
hiện quan niệm của cá nhân về nghĩa vụ đối với xã hội và đối với người khác,
thể hiện lương tâm hoặc bổn phận cá nhân trong những hoàn cảnh đặc thù không
lặp lại.
“Đức là gốc” trong tư tưởng Hồ Chí Minh là đạo đức mới, đạo đức cách mạng
mang bản chất giai cấp công nhân, kết hợp truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân
tộc và những tinh hoa của đạo đức nhân loại. Quan điểm “Đức là gốc” của Hồ
Chí Minh được xây dựng trên những nội dung cơ bản như sau:
Thứ nhất: Đạo đức là “gốc”, là nền tảng của người cách mạng, giống như cây

phải có gốc, sông, suối phải có nguồn, người cách mạng phải có đạo đức cách
mạng làm nền tảng thì mới hoàn thành được sự nghiệp cách mạng cực kỳ gian
khổ khó khăn. “Đức là gốc” cho nên, đạo đức cách mạng không chỉ giúp cải tạo
xã hội cũ, xây dựng xã hội mới mà còn giúp người cách mạng không ngừng cầu
tiến bộ và hoàn thiện bản thân mình. Người có đạo đức cách mạng thì khi gặp
khó khăn gian khổ, thất bại tạm thời... cũng không rụt rè lùi bước, khi gặp thuận
lợi và thành công, vẫn giữ vững tinh thần gian khổ, khiêm tốn, chất phác, không
công thần, địa vị, kèn cựa hưởng thụ, thật sự trở thành người “lo trước thiên hạ,
vui sau thiên hạ”. Người quan niệm đạo đức tạo ra sức mạnh, nhân tố quyết định
sự thắng lợi của mọi công việc: "Sức có mạnh mới gánh được nặng và đi được
xa. Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng, mới hoàn thành
được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang".


Vì “Đức là gốc” cho nên đạo đức cách mạng là thước đo lòng cao thượng của
con người. Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, trong đời sống xã hội cũng như
trong hoạt động cách mạng, mỗi người có công việc, tài năng, vị trí khác nhau,
người làm việc to, người làm việc nhỏ, nhưng bất cứ ai giữ được đạo đức cách
mạng đều là người cao thượng.
Thứ hai: Trong mối quan hệ giữa Đức và Tài thì “Đức là gốc” nhưng đức và tài
phải đi đôi với nhau, không thể có mặt này mà thiếu mặt kia được. Người cho
rằng có tài mà không có đức là người vô dụng, nhưng có đức mà không có tài thì
làm việc gì cũng khó. Cho nên, đức là gốc nhưng đức và tài phải kết hợp với
nhau để hoàn thành nhiệm vụ cách mạng. Hồ Chí Minh yêu cầu: Tài lớn thì Đức
càng phải cao, vì khi đã có trí thì cái đức chính là cái đảm bảo cho người cách
mạng giữ vững được chủ nghĩa mà mình đã giác ngộ, đã chấp nhận và lựa chọn
tin theo.
Hồ Chí Minh khẳng định: “Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có
nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách
mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi đến mấy cũng không

lãnh đạo được nhân dân”. “Đức là gốc” vì trong đức đã có tài, có cái đức sẽ đi
đến cái trí. Bởi người thật sự có đức thì bao giờ cũng cố gắng học tập, nâng cao
trình độ, rèn luyện năng lực để hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao. Và khi đã
thấy sức không vươn lên được thì sẵn sàng nhường bước, học tập và ủng hộ
người tài đức hơn mình, để họ gánh vác việc nước việc dân. Như vậy, “Đức là
gốc” ở đây phải là “Đức lớn” - đức tận tâm, tận lực phấn đấu hy sinh vì cách
mạng, vì nước vì dân, nó không đồng nhất với những phẩm chất đạo đức thông
thường cụ thể, như hiền lành, ngoan ngoãn, tốt bụng... trong đời sống hàng ngày.
Thứ ba: "Đức là gốc" trong xây dựng Đảng. Phát triển tư tưởng của Mác,
Ăngghen, Lênin về Đảng của giai cấp công nhân, trong bài phát biểu tại lễ kỷ
niệm 30 năm ngày thành lập Đảng, Hồ Chí Minh đã đưa ra một hình tượng về
Đảng kiểu mới của giai cấp vô sản: "….Đảng ta vĩ đại như biển rộng, như núi
cao,Ba mươi năm phấn đấu và thắng lợi biết bao nhiêu tình. Đảng ta là đạo đức,
là văn minh…."
Như vậy, theo Hồ Chí Minh, Đảng phải "là đạo đức, là văn minh" trong đó đạo
đức là "gốc", vẫn là vấn đề được Hồ Chí Minh đặt lên trên hết, trước hết. Bởi
Đảng cộng sản muốn đóng được vai trò tiên phong thì trước hết phải là một
đảng tiêu biểu cho đạo đức cách mạng, tận tâm, tận lực phụng sự tổ quốc và
nhân dân.
2.Những chuẩn mực đạo đức trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh
Hồ Chí Minh quan niệm đạo đức cách mạng là đạo đức của người cách mạng
xuất hiện trong quá trình đấu tranh giải phóng dân tộc và đi lên chủ nghĩa xã hội
ở Việt Nam. Theo Hồ Chí Minh, đạo đức cách mạng là trung với nước, hiếu với


dân, suốt đời phấn đấu hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội,
nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng
đánh thắng; là cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; luôn yêu thương, quý
trọng con người, sống có tình, có nghĩa và tinh thần quốc tế trong sáng… Và đạo
đức cách mạng là cái gốc của nhân cách, là nền tảng của người cách mạng. Hồ

Chí Minh đã chỉ rõ: “Trước mặt quần chúng, không phải ta cứ viết lên trán hai
chữ cộng sản mà ta được họ yêu mến. Quần chúng chỉ quý mến những người có
tư cách đạo đức. Muốn hướng dẫn nhân dân, mình phải làm mực thước cho
người ta bắt chước”.
Những quan điểm của Hồ Chí Minh về đạo đức là những quan điểm thực sự
khoa học, biện chứng, Mác-xít; phù hợp với sự tiến hoá của xã hội loài người.
Đó là sự kết hợp nhuần nhuyễn những quy tắc đạo đức cách mạng của giai cấp
công nhân, giai cấp tiên tiến nhất trong thời đại ngày nay, với những truyền
thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc Việt Nam. Theo Hồ Chí Minh những chuẩn
mực chung nhất của nền đạo đức cách mạng Việt Nam gồm những điểm sau:
Một là, trung với nước hiếu với dân. Đây là phẩm chất quan trọng nhất, bao
trùm nhất và chi phối các phẩm chất khác.
Từ khái niệm cũ "trung với vua, hiếu với cha mẹ" trong đạo đức truyền thống
của xã hội phong kiến phương Đông, Hồ Chí Minh đưa vào đó một nội dung
mới, phản ánh đạo đức ngày nay cao rộng hơn là “Trung với nước hiếu với dân”.
Đó là một cuộc cách mạng trong quan niệm đạo đức.
“Trung với nước hiếu với dân, suốt đời phấn đấu hy sinh vì độc lập tự do của Tổ
quốc vì chủ nghĩa xã hội, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng
vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”. Câu nói đó của Người vừa là lời kêu gọi
hành động, vừa là định hướng chính trị-đạo đức cho mỗi người Việt Nam không
phải chỉ trong cuộc đấu tranh cách mạng trước mắt, mà còn lâu dài về sau.
Trung với nước là tuyệt đối trung thành với sự nghiệp dựng nước và giữ nước,
trung thành với con đường đi lên của đất nước; là đặt lợi ích của Đảng, của Tổ
quốc, của cách mạng lên trên hết. Quyết tâm phấn đấu thực hiện mục tiêu của
cách mạng, thực hiện tốt chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước. Nếu như
ở thời chiến, thanh niên Việt Nam luôn thể hiện tinh thần tình nguyện xung kích,
luôn là lực lượng tiên phong đi đầu trong mọi hoạt động và phong trào đấu
tranh, luôn hưởng ứng câu nói của Chủ tịch Hồ Chí Minh “Đâu cần thanh niên
có, đâu khó có thanh niên”. Còn ngày nay, thanh niên chúng ta đang sống trong
thời bình thì phải biết thực hiện tốt quyền và nghĩa vụ công dân, tuân thủ đúng

pháp luật, góp sức mình vào quá trình phát triển đất nước ngày càng vững mạnh,

Trung với nước phải gắn liền hiếu với dân. Vì nước là nước của dân, còn nhân
dân là chủ của đất nước. Hiếu với dân thể hiện ở chỗ thương dân, tin dân, gắn bó


với dân, kính trọng và học tập nhân dân, lấy dân làm gốc, phục vụ nhân dân hết
lòng, khẳng định sức mạnh của nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng căn dặn:
"Làm việc gì cũng phải có quần chúng. Không có quần chúng thì không thể làm
được... Dễ mười lần không dân cũng chịu. Khó trăm lần dân liệu cũng xong".
Đối với cán bộ lãnh đạo, Hồ Chí Minh yêu cầu phải nắm vững dân tình, hiểu rõ
dân tâm, thường xuyên quan tâm cải thiện dân sinh, nâng cao dân trí. Người
luôn nhắc nhở: “ Mỗi người đảng viên, mỗi người cán bộ từ trên xuống dưới đều
phải hiểu rằng: mình vào Đảng để làm đày tớ cho nhân dân. Bác nhấn mạnh:
“Làm đày tớ nhân dân chứ không phải là “quan” nhân dân”.
Hai là, cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. - Theo Hồ Chí Minh thì: Cần tức là
lao động cần cù, siêng năng; lao động có kế hoạch, sáng tạo, có năng suất cao;
lao động với tinh thần tự lực cánh sinh, không lười biếng, không ỷ lại, không
dựa dẫm. Phải thấy rõ "lao động là nghĩa vụ thiêng liêng, là nguồn sống, nguồn
hạnh phúc của chúng ta".
Kiệm tức là tiết kiệm sức lao động, tiết kiệm thì giờ, tiết kiệm tiền của của dân,
của nước, của bản thân mình; phải tiết kiệm từ cái to đến cái nhỏ, nhiều cái nhỏ
cộng lại thành cái to; "không xa xỉ, không hoang phí, không bừa bãi", không phô
trương hình thức, không liên hoan, chè chén lu bù.
Liêm tức là "luôn luôn tôn trọng giữ gìn của công và của dân"; "không xâm
phạm một đồng xu, hạt thóc của Nhà nước, của nhân dân". Phải "trong sạch,
không tham lam". "Không tham địa vị. Không tham tiền tài. Không tham sung
sướng. Không ham người tâng bốc mình. Vì vậy mà quang minh chính đại,
không bao giờ hủ hoá".
Chính, "nghĩa là không tà, thẳng thắn, đứng đắn". Đối với mình: không tự cao,

tự đại, luôn chịu khó học tập cầu tiến bộ, luôn tự kiểm điểm để phát triển điều
hay, sửa đổi điều dở của bản thân mình. Đối với người: không nịnh hót người
trên, không xem khinh người dưới, luôn giữ thái độ chân thành, khiêm tốn, đoàn
kết thật thà, không dối trá, lừa lọc. Đối với việc: để việc công lên trên việc tư,
làm việc gì cho đến nơi, đến chốn, không ngại khó, nguy hiểm, cố gắng làm việc
tốt cho dân cho nước.
Theo Hồ Chí Minh, Cần, kiệm, liêm, chính là “tứ đức” không thể thiếu được của
con người. Người viết:
“Trời có bốn mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông
Đất có bốn phương: Đông, Tây, Nam, Bắc
Người có bốn đức: cần, kiệm, liêm, chính
Thiếu một mùa thì không thành trời
Thiếu một phương thì không thành đất


Thiếu một đức thì không thành người”.
Bác cũng nhấn mạnh: Cần, kiệm, liêm, chính càng cần thiết đối với người cán
bộ, đảng viên. Nếu đảng viên mắc sai lầm thì sẽ ảnh hưởng đến uy tín của Đảng,
nhiệm vụ của cách mạng. Cần, kiệm, liêm, chính còn là thước đo sự giàu có về
vật chất, vững mạnh về tinh thần, sự văn minh của dân tộc. “Nó” là cái cần thiết
để “làm việc, làm người, làm cán bộ, để phụng sự Đoàn thể, phụng sự giai cấp
và nhân dân, phụng sự Tổ quốc và nhân loại”.
Chí công vô tư là ham làm những việc ích quốc, lợi dân, không ham địa vị,
không màng công danh, vinh hoa phú quý. Người nói: "Đem lòng chí công vô tư
mà đối với người, với việc". “Khi làm bất cứ việc gì cũng đừng nghĩ đến mình
trước, khi hưởng thụ thì mình nên đi sau”; phải "lo trước thiên hạ, vui sau thiên
hạ".Thực hành chí công vô tư là nêu cao chủ nghĩa tập thể, nâng cao đạo đức
cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân. Chủ nghĩa cá nhân chỉ biết đến mình,
muốn “mọi người vì mình”. Nó là giặc nội xâm, còn nguy hiểm hơn cả giặc
ngoại xâm.

Hồ Chí Minh viết: “Một dân tộc, một đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là
vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay vẫn được mọi người yêu
mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá
nhân”.
Ba là, yêu thương con người. Hồ Chí Minh đã xác định tình yêu thương con
người là một trong những phẩm chất đạo đức cao đẹp nhất. Người dành tình yêu
thương rộng lớn cho những người cùng khổ. Những người lao động bị áp bức
bóc lột, Người viết: "Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao
cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai
cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành". Hồ Chí Minh yêu thương đồng
bào, đồng chí của Người, không phân biệt họ ở miền xuôi hay miền ngược, là trẻ
hay già, trai hay gái... không phân biệt một ai, không trừ một ai, hễ là người Việt
Nam yêu nước thì đều có chỗ trong tấm lòng nhân ái của Người.
Tình yêu thương của Người còn thể hiện đối với những người có sai lầm khuyết
điểm. Với tấm lòng bao dung của một người cha, Người căn dặn, chúng ta: "Mỗi
con người đều có thiện và ác ở trong lòng ta, phải biết làm cho phần tốt ở trong
mỗi con người nảy nở như hoa mùa xuân và phần xấu bị mất dần đi, đó là thái
độ của người cách mạng. Đối với những người có thói hư tật xấu, từ hạng người
phản lại Tổ quốc và nhân dân, ta cũng phải giúp họ tiến bộ bằng cách làm cho
cái phần thiện trong con người nảy nở để đẩy lùi phần ác, chứ không phải đập
cho tơi bời".
Trong Di chúc, Người căn dặn Đảng: Phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau,
nhắc nhở mỗi cán bộ, đảng viên luôn luôn chú ý đến phẩm chất yêu thương con
người.


Bốn là, tinh thần quốc tế trong sáng. Đó là, tinh thần đoàn kết quốc tế vô sản,
mà Hồ Chí Minh đã nêu lên bằng mệnh đề "Bốn phương vô sản đều là anh em";
là tinh thần đoàn kết với các dân tộc bị áp bức, với nhân dân lao động các nước,
mà Hồ Chí Minh đã dày công vun đắp bằng hoạt động cách mạng thực tiễn của

bản thân mình và bằng sự nghiệp cách mạng của cả dân tộc; là tinh thần đoàn
kết của nhân dân Việt Nam với tất cả những người tiến bộ trên thế giới vì hoà
bình, công lý và tiến bộ xã hội, vì những mục tiêu lớn của thời đại là hoà bình,
độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội, là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội, là hợp tác và hữu nghị với tất cả các nước, các dân tộc.
Theo Hồ Chí Minh, chủ nghĩa quốc tế vô sản gắn liền với chủ nghĩa yêu nước,
hơn nữa phải là chủ nghĩa yêu nước chân chính và chủ nghĩa quốc tế vô sản
trong sáng.
Người cũng khẳng định đạo đức không phải là thứ có sẵn trong mỗi người mà
đạo đức là do con người tiếp thu được qua giáo dục và tạo thành nhờ bản thân
tích cực tu dưỡng bền bỉ rèn luyện trong môi trường sống và trong cuộc đấu
tranh cách mạng. Người đưa ra lời khuyên rất dễ hiểu: "Đạo đức cách mạng
không phải trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hàng ngày mà
phát triển, củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng
trong".
Nâng cao đạo đức trong tình hình mới, Đảng và nhân dân ta quán triệt tư tưởng
đạo đức Hồ Chí Minh, ra sức bồi dưỡng các phẩm chất đạo đức, vận dụng các
nguyên tắc xây dựng đạo đức mà Người đã nêu ra.
II.Sinh viên rèn luyện đạo đức theo tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh
1.Tầm quan trọng của việc rèn luyện đạo đức trong sinh viên
Sinh viên là bộ phận quan trọng của xã hội và sinh viên cũng là những công dân
của xã hội.Họ mang đầy đủ các quyền hạn và nghĩa vụ của một công dân trước
pháp luật. Đặc biệt họ được xã hội quan tâm chăm sóc và đào tạo một cách có hệ
thống để trở thành lực lượng lao động và quản lý xã hội trong tương lai.
Sinh viên là những tri thức trẻ tương lai, không ai hết mà chính họ sẽ là những
người đóng vai trò chủ chốt trong công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước. Bởi vì, sinh viên là bộ phận tiên tiến của xã hội, có trình độ học vấn cao.
Có khả năng tiếp nhận cái mới rất nhanh biết thay đổi linh hoạt, thích nghi với
sự thay đổi nhanh chóng của xã hội hiện đại, đại diện cho một thế hệ tiên tiến
mới.

Vì vậy, việc tìm hiểu ý thức đạo đức của sinh viên luôn là vấn đề bức thiết và vô
cùng quan trọng vì qua đó chúng ta mới dự báo được tình hình sinh viên, là cơ
sở để xây dựng kế hoạch đào tạo và giáo dục, rèn luyện phẩm chất đạo đức cho
sinh viên,phát huy tính tích cực, xây dựng lối sống tiến bộ, lành mạnh trong sinh


viên và điều chỉnh những hành vi lệch lạc trong ý thức đạo đức của sinh viên.
Nó tác động rất lớn tới việc bảo vệ và sử dụng nguôn nhân lực này. Nguồn nhân
lực rất quan trọng trong việc xây dựng một xã hội văn minh – giàu đẹp.
Để giữ gìn và phát huy các giá trị đạo đức truyền thống trong điều kiện kinh tế
thị trường ở nước ta hiện nay, trước hết phải tăng cường công tác tuyên truyền,
giáo dục đạo đức cho toàn xã hội, đặc biệt là cho thế hệ trẻ. Bởi lẽ, một thực tế
không thể phủ nhận được là do thiếu sự giáo dục và tuyên truyền sâu rộng về
đạo đức trong nhà trường, nên có những biểu hiện của thế hệ trẻ về các giá trị
đạo đức,có thể nói không đầy đủ, thậm chí còn sai lệch ở một số thành viên.
Trong quá trình xây dựng đất nước nếu chúng ta chỉ quan tâm đến tăng trưởng
kinh tế mà không chú ý đến việc giữ gìn và phát huy các giá trị văn hoá, đạo đức
truyền thống thì sự phát triển xã hội sẽ trở nên lệch lạc, không bền vững. Như
Chủ tich Hồ Chí Minh có nói, đạo đức phải luôn luôn gắn liền với kinh tế, phát
triển kinh tế phải đi đôi với phát triển văn hoá, đạo đức, con người.
Để giữ gìn và phát huy các giá trị đạo đức truyền thống Việt Nam. Trước hết,
chúng ta phải coi trọng và quan tâm một cách thực sự đến công tác tuyên truyền
và giáo dục đạo đức cho toàn xã hội và đặc biệt là thế hệ trẻ. Không những
chúng ta phải làm tốt nhiệm vụ giáo dục đạo đức trong gia đình, trong nhà
trường, mà còn phải làm tốt nhiệm vụ giáo dục đạo đức ngoài xã hội. Giáo dục
đạo đức cho sinh viên nhằm phát huy hết khả năng sáng tạo, khả năng thích nghi
tạo nên đội ngũ cán bộ có trình độ và văn hoá cao thúc đẩy nhanh quá trình tiến
lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Giáo dục đạo đức cho sinh viên trong nhà trường tạo nên môi trường lý tưởng
cho sinh viên hình thành và phát triển nhân cách, nâng cao ý thức trách nhiện

của sinh viên đối với bản thân, gia đình, nhà trường và xã hội. Bởi vì giáo dục
đạo đức trong nhà trường làm cho sinh viên nhận thức được những giá trị đạo
đức nào là cần thiết,có ý nghĩa thiết thực đối với bản thân và xã hội.
Trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, làm
cho họ nhận thức những giá trị đạo đức truyền thống như: Lòng nhân ái,tinh
thần yêu nước, đức tính cần cù,chị khó, vị tha, trung thực……Là những giá trị
đích thực cao đẹp của mỗi con người, hơn nữa làm cho họ nhận thức được sự
cần thiết phải thường xuyên tự rèn luyện tư tưởng, nâng cao năng lực và phẩm
chất của mình. Giáo dục đạo đức trong nhà trường làm cho sinh viên biết trân
trọng, yêu qúy, cố gắng tiếp thu và thực hiện các gía trị đạo đức đích thực, đồng
thời không tiếp nhận những phản giá, tích cực đấu tranh bảo vệ và phát triển
những giá trị đạo đức truyền thống.
2.Phương hướng của việc rèn luyện đạo đức trong sinh viên
2.1.Thực trạng đạo đức trong sinh viên hiện nay


2.1.1 Mặt tích cực
Đa số sinh viên vẫn coi trọng các gía trị đạo đức truyền thống của dân tộc như:
Kính trọng và biết ơn ông bà, cha mẹ, thầy cô giáo, những người có công với
dân tộc, đất nước, sống nhân ái, nhân nghĩa, giúp đỡ người khó khăn hoạn nạn,
trung thực, thẳng thắn, trọng lẽ phải. Có tinh thần trách nhiệm và biết giữ chữ
tín. Yêu lao động, giữ gìn và bảo vệ môi trường sống, đây là vấn đề đang được
rất nhiều sinh viên quan tâm và có ý thức trách nhiệm với việc giữ gìn, bảo vệ
môi trường sống của mình. Tuân thủ Hiến pháp và Pháp luật, làm theo những
chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước.
Nhìn chung những giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc vẫn được số đông
sinh viên coi trọng, tuy vẫn chưa thể hiện qua hành vi, hoạt động. Hiện nay đa
số sinh viên có nhận thức đúng về những giá trị thể hiện lẽ sống của cá nhân phù
hợp với lý tưởng của Đảng, của nhân dân như “Tinh thần yêu nước và tự hào
dân tộc như là những giá trị tư tưởng quan trọng”. Rất nhiều sinh viên xem học

tập là mục tiêu phấn đấu quan trọng nhất vào lúc này, muốn đóng góp một phần
sức mình vào công cuộc xây dựng và phát triển đất nước, phấn đấu cho lí tưởng
“Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh”. Đồng thời sinh
viên cũng nhận thức đúng về một lối sống lành mạnh, giản dị, tiết kiệm, ứng xử
có văn hoá.
Sinh viên đang có xu hướng hình thành lối sống năng động, nhạy cảm, tích cực
thích nghi với những điều biến đổi của sự phát triển kỹ thụât, văn hoá, xã hội…
Trong quá trình học tập sinh viên luôn tự xác định cho mình một mục tiêu học
tập, tự trao dồi kiến thức bằng nhiều cách khác nhau: ở trường, ở nhà và ngoài
xã hội. Có nhiều cách tiếp cận tri thức và nhiều phương pháp học tập khác nhau
sao cho có hiệu quả nhất. Với mục đích học rõ ràng, tích cực và phương pháp
học hiệu quả, sinh viên hiện nay không ngừng trang bị tri thức, hướng đến tương
lai. Sinh viên luôn có ý thức độc lập, tự chủ, tự cường, tự vươn lên lập thân, lập
nghiệp, góp phần vào sự phát triển của xã hội.
Nói chung, phần đông sinh viên luôn nhận thức được tầm quan trọng của việc
bảo vệ và phát huy các giá trị đạo đức của dân tộc, đồng thời tiếp thu có chọn
lọc các giá trị đạo đức của nhân loại. Từ đó xây dựng cho mình một ý thức sống,
một lối sống lành mạnh, có văn hoá, luôn giữ vững tư tưởng chính trị và nâng
cao tinh thần cảnh giác cách mạng, chống lại âm mưu phá hoại của kẻ thù,
không ngừng học hỏi, rèn luyện để thực hiển ức mơ, hoài bão của mình, khẳng
định vị trí của mình trong xã hội.
2.1.2 Mặt tiêu cực
Bên cạnh những yếu tố tích cực thì những yếu tố tiêu cực trong sinh viên cũng
rất lớn. Do sự tác động của cơ chế thị trường và một số nguyên nhân khác, một
số bộ phận sinh viên có sự giao động về nhận thức, có những hành vi sai trái.


Nhiều người lôi bè kéo cánh để đánh nhau (cả trai lẫn gái), thậm chí hành hung
cả thâỳ cô giáo, con giết cha, anh giết em, trẻ vị thành niên cũng gây ra nhiều vụ
án mạng. Những hành vi tàn bạo này được đăng trên mặt báo chỉ là những tảng

băng nổi, thực tế còn nhiều hơn nữa. nhiều còn có lối sống thực dụng, ích kỉ, sa
vào chủ nghĩ cá nhân, dối trá, tinh thần trách nhiện kém, không có ý thức giữ gìn
và bảo vệ môi trường sống, không giữ chữ tín, không tuân thủ pháp luật,...
Một bộ phận sinh viên lại thờ ơ với lý tưởng, mất niềm tin vào cuộc sống, có
thái độ bàng hoàng với những người xung quanh. Sự hy vọng và quan tâm đến
người khác thấp đi và nếu có thì thường được đánh giá dưới góc độ kinh tế, thực
dụng hơn là tình cảm và sự chia sẻ. Cùng với sự du nhập lối sống và công nghệ
hiện đại từ các nước phát triển đã dần làm cho không ít sinh viên xa rời các giá
trị đạo đức truyền thống tốt đẹp vốn luôn phù hợp với thời kỳ hiện đại. Từ đó
hình thành tư tưởng hưởng thụ, ăn chơi, đua đòi, chịu sự tác động của tệ nạn xã
hội, dễ bị giao động về mặt định hướng đạo đức và lối sống trong bối cảnh nền
kinh tế mở của.
Các quan niệm đạo đức trong một số bộ phận sinh viên đang bị lệch lạc đặc biệt
là quan niệm cho rằng đạo đức và lợi ích cá nhân là hoàn toàn đồng nhất mọi lúc
mọi nơi. Sự dối lừa được coi là chuyện bình thường. Có thể thấy một biểu hịên
đáng buồn là nhiều sinh viên cho rằng việc sao chép tài liệu, ăn cắp ý tưởng
trong quá trình làm bài thi, viết tiểu luận và khoá luận là một hành vi phi đạo
đức. Nhiều sinh viên đi thuê làm khoá luận, đồ án tốt nghiệp hoặc đi thi hộ trong
các kì thi… Hiện tượng mua bằng bán điểm không còn là chuyện hiếm thấy.
Điều đáng ngại là nhiều người cho rằng đó là chuyện bình thường không liên
quan đến đạo đức không đáng phê bình.
Một số bộ phận sinh viên thể hiện lối sống vô kỉ luật, có ý thức học tập rất kém
hoặc không có ý thức học tập, học một cách tiêu cực, lười nhiều hơn chăm. Hiện
tượng học thiếu mục đích, học không thực, không vì kiến thức đang tồn tại trong
một bộ phận không nhỏ sinh viên. Rất nhiều sinh viên bỏ học bỏ buổi mà họ có
những nguyên nhân dẫn đến tình trạng đó là: Chán học, muốn đi chơi, vì học
thêm mà bỏ học chính……
Nhiều sinh viên thì bị ảnh hưởng quá nhiều của những bộ phim lãng mạn Hàn
Quốc. Từ cách ăn mặc đến đầu tóc hay phong cách thời trang các bạn đều thể
hiện sao cho giống thần tượng của mình. Nghiêm trọng hơn nữa, các bạn còn

chạy theo một kiểu tình cảm phương tây chớp nhoáng không giới hạn. Bên cạnh
đó, tình trạng sống thử và quan hệ tình dục trước hôn nhân ngày càng tăng cao.
Đồng thời tình trạng nạo phá thai cũng đang ở mức báo động.
Từ những sách báo không lành mạnh, đến những băng đĩa phim sex được các
bạn trẻ trao cho nhau cách dễ dàng, từ những quán karaoke buổi tối đến những


vũ trường, quán bar thâu đêm, rồi vào những ngôi nhà nghỉ. Mặt khác, tình trạng
đua xe cũng là một trong những vấn đề nổi cộm đang được diễn ra ở nhiều nơi.
Một nhà văn lớn đã từng nói “Sống hay không sống - đó là vấn đề”. Là một
người sinh viên đồng thời cũng là một người thanh niên thuộc thế hệ trẻ, chúng
ta hãy sống sao cho có mục đích, có lí tưởng, hãy sống sao để khi nhìn lại những
gì đã qua ta không phải xót xa ân hận những tháng năm đã sống hoài sống phí.
2.2 Giải pháp
Một là, thường xuyên chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng, lối sống trong sạch,
lành mạnh cho học sinh, sinh viên.
Đây là giải pháp cơ bản nhằm xây dựng, hình thành nhân cách con người mới xã
hội chủ nghĩa cho thanh niên, vì đạo đức là “gốc của người cách mạng”. Chú
trọng giáo dục làm cho học sinh, sinh viên nhận thức đúng các giá trị chân,
thiện, mỹ, những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Từ đó hình thành cho
họ lối sống trong sạch, lành mạnh, những hành vi đạo đức trong sáng phù hợp
với các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc và thời đại. Để việc giáo dục bồi
dưỡng có hiệu quả, cần tổ chức tốt các phong trào hành động cách mạng của học
sinh, sinh viên mà tiêu bi ểu là phong trào: “Thanh niên lập nghiệp và tuổi trẻ
giữ nước”, “Thanh niên tình nguyện”, “Chiến dịch mùa hè xanh”…
Hai là, phải kết hợp chặt chẽ giữa gia đình, nhà trường và xã hội trong việc giáo
dục, rèn luyện đạo đức, lối sống cho học sinh, sinh viên.
Trước hết gia đình là nơi lưu giữ các giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp của dân
tộc, là môi trường đầu tiên hình thành đạo đức cho học sinh, sinh viên. Gia đình
là nơi mà tình yêu quê hương, đất nước, yêu thương con người được truyền từ

thế hệ này sang thế hệ khác. Do đó trong gia đình, ông bà, cha mẹ phải thật sự
mẫu mực, làm gương về đạo đức, yêu thương, chăm lo bồi dưỡng thế hệ trẻ. Để
giáo dục đạo đức cho thanh niên, mỗi gia đình cần giữ gìn đạo đức, nề nếp gia
phong, phát huy các giá trị đạo đức truyền thống, làm cho các giá trị đó ngày
càng toả sáng, góp phần bồi dưỡng tư tưởng tình cảm cao đẹp cho thế hệ con
cháu.
Nhà trường không chỉ dạy chữ, dạy nghề mà còn là nơi dạy người. Giáo dục lý
tưởng, đạo lý làm người là nội dung giáo dục hàng đầu trong nhà trường hiện
nay và phải đặc biệt coi trọng. Học sinh, sinh viên ngày nay đang sống trong
thời kỳ bùng nổ thông tin, kinh tế tri thức phát triển mạnh mẽ, giao lưu quốc tế
ngày càng mở rộng. Học sinh, sinh viên đã và đang chịu ảnh hưởng cả mặt tích
cực và mặt tiêu cực từ môi trường kinh tế, xã hội. Vì vậy các tổ chức, đoàn thể,
cần quan tâm định hướng tạo môi trường thuận lợi để học sinh, sinh viên phấn
đấu, rèn luyện, trưởng thành.


Ba là, phát huy vai trò tự học tập, tự du dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối sống của
học sinh, sinh viên.
Học sinh, sinh viên là lớp người trẻ, khoẻ, có nhiệt tình cách mạng, nhạy cảm
với cái mới, cái tiến bộ. Phát huy vai trò của học sinh, sinh viên trong tự học tập,
tự tu dưỡng đạo đức lối sống là biện pháp quan trọng giúp họ nhanh chóng tiến
bộ, trưởng thành.
Trước hết phải hình thành cho học sinh, sinh viên nhu cầu, động cơ phấn đấu,
rèn luyện đúng đắn, làm cho mỗi người có ý thức làm chủ, ham học hỏi, cầu tiến
bộ, vươn lên tự khẳng định mình. Cần tạo mọi điều kiện thuận lợi để học sinh,
sinh viên phấn đấu, rèn luyện; đồng thời cần quan tâm đáp ứng những nhu cầu
chính đáng của học sinh, sinh viên về vật chất, tinh thần; giao nhiệm vụ phù hợp
với sở trường, năng khiếu đặc điểm tâm, sinh lý của họ sẽ tạo điều kiện tốt để
thanh niên rèn luyện đạo đức, lối sống.
Mỗi học sinh, sinh viên phải xác định rõ trách nhiệm trước Tổ quốc và nhân dân,

sống có lý tưởng, có hoài bão, khát khao vươn tới cái mới, cái tiến bộ. Bản thân
mỗi người tự giác rèn luyện, biết tự kiềm chế, biết vượt qua những cám dỗ và
tiêu cực xã hội, những biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân, ích kỷ, thực dụng, lợi
mình hại người. Học sinh, sinh viên cần phải tự tin vào chính mình, giữ vững
niềm tin trong cuộc sống, vào các giá trị chân, thiện, mỹ; vượt qua mọi khó khăn
gian khổ như Bác Hồ đã dạy: “gian nan rèn luyện mới thành công”.
Bốn là , chương trình sách giáo khoa giáo dục công dân bậc phổ thông cần phải
có những thay đổi từ nội dung đến phương pháp truyền đạt. Những giá trị đạo
đức, ứng xử trong đạo lý của người Việt Nam cần phải được chuyển tải trong
những tình huống cụ thể, gần gũi để học sinh, sinh viên dễ tiếp cận, dễ nhớ. Cần
dạy cho học sinh những giá trị đạo đức cơ bản của con người thay cho quá nhiều
kiến thức triết học, hàn lâm, thiếu vắng việc hình thành những thói quen đạo đức
và kỹ năng sống phù hợp với những chuẩn mực xã hội.
Trước một xã hội mà những người chủ nhân tương lai của đất nước đang ngày
càng suy đồi về đạo đức, thì một giải pháp có hiệu quả thực sự còn đáng quý
hơn một bài diễn văn dài dòng toàn lời nói suôn.
"Tôi khuyên các bạn là chớ đặt những chương trình kế hoạch mênh mông, đọc
nghe sướng tai nhưng không thực hiện được. Việc gì cũng cần phải thiết thực,
nói được, làm được. Việc gì cũng phải từ nhỏ dần dần đến to, từ dễ dần đến khó,
từ thấp dần đến cao. Một chương trình nhỏ mà thực hành được hẳn hoi hơn là
một trăm chương trình to tát mà không làm được" - Hồ CHí Minh


C. KẾT LUẬN
“Vì lợi ích mười năm trồng cây
Vì lợi ích trăm năm trồng người”
- Hồ Chí Minh
Đã đến lúc xã hội cần nhìn nhận vấn đề đạo đức học sinh, sinh viên trong nhà
trường hiện nay với một tinh thần trách nhiệm và nghiêm túc. Cần phải đổi mới
hoàn toàn cách thức mà lâu nay chúng ta đã dùng để giáo dục đạo đức học sinh,

sinh viên. Bản thân giáo dục đã mang tính xã hội hóa, nhà nước cần tạo điều
kiện để toàn dân tham gia vào công tác giáo dục học sinh, sinh viên. Điều quan
trọng là cần có một môi trường xã hội lành mạnh, mọi người sống tuân thủ pháp
luật và tôn trọng những giá trị đạo đức xã hội. Một môi trường xã hội tốt sẽ tác
động vào nhận thức của học sinh, sinh viên và các em cũng phải tuân thủ những
nguyên tắc ứng xử đã được học trong nhà trường mà cả xã hội đang áp dụng.


TÀI LIỆU THAM KHẢO

/> />%A9c#%C4%90%E1%BA%A1o_%C4%91%E1%BB%A9c_theo_Kinh_D
%E1%BB%8Bch
/> /> /> /> />


×