Tải bản đầy đủ (.doc) (92 trang)

Pháp luật về bảo đảm quyền lợi của nông dân khi Nhà nước thu hồi đất để phục vụ cho các dự án phát triển kinh tế ở Việt Nam.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (374.83 KB, 92 trang )

I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT

NGUYN TH LAN HNG

PHáP LUậT Về BảO ĐảM QUYềN LợI CủA NÔNG
DÂN
KHI NHà NƯớC THU HồI ĐấT Để PHụC Vụ CHO
CáC Dự áN PHáT TRIểN KINH Tế ở VIệT NAM
Chuyờn ngnh: Lut Kinh t
Mó s: 60 38 01 07

LUN VN THC S LUT HC

Ngi hng dn khoa hc: TS. TRN NGC LIấM
H NI - 2014


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

Nguyễn Thị Lan Hương




MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lụ
MỞ ĐẦU.............................................................................................................................1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN
LỢI CỦA NÔNG DÂN KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT
ĐỂ PHỤC VỤ CHO CÁC DỰ ÁN PHÁT TRIỂN KINH TẾ...........6
1.1.

Khái niệm thu hồi đất và thu hồi đất phục vụ cho các dự án
phát triển kinh tế...............................................................................................6

1.1.1. Khái niệm thu hồi đất.........................................................................................6
1.1.2. Khái niệm thu hồi đất phục vụ cho các dự án phát triển kinh tế.................8
1.2.

Khái niệm quyền lợi của nông dân khi Nhà nước thu hồi đất
để phục vụ cho các dự án phát triển kinh tế..........................................10

1.3.

Cơ sở của việc bảo đảm quyền lợi của nông dân khi Nhà
nước thu hồi đất để phục vụ cho các dự án phát triển kinh tế
................................................................................................................................13

1.4.


Một số điều kiện bảo đảm quyền lợi của nông dân khi Nhà
nước thu hồi đất để phục vụ cho các dự án phát triển kinh tế
................................................................................................................................18

1.5.

Kinh nghiệm từ thực tiễn pháp luật một số nước trên thế giới
................................................................................................................................20

1.5.1.

Kinh nghiệm từ pháp luật Trung Quốc.......................................................21

1.5.2.

Kinh nghiệm từ pháp luật Singapore...........................................................22

1.5.3.

Kinh nghiệm từ pháp luật Hàn Quốc...........................................................24

Tiểu kết Chương 1.........................................................................................................27
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN
LỢI CỦA NÔNG DÂN KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT
ĐỂ PHỤC VỤ CHO CÁC DỰ ÁN PHÁT TRIỂN KINH TẾ.........28


2.1.


Pháp luật về bảo đảm quyền lợi của nông dân khi Nhà nước
thu hồi đất để phục vụ cho các dự án phát triển kinh tế...................28

2.1.1. Quy định chung về phạm vi, căn cứ, thẩm quyền, trình tự thủ tục
thu hồi đất phục vụ các dự án phát triển kinh tế........................................28
2.1.2. Quy định về các quyền lợi cụ thể của người nông dân khi Nhà
nước thu hồi đất để thực hiện các dự án phát triển kinh tế.....................38
2.2.

Thực tiễn thi hành pháp luật về bảo đảm quyền lợi của nông
dân khi Nhà nước thu hồi đất để phục vụ các dự án phát
triển kinh tế.......................................................................................................57

2.2.1. Những thành tựu đạt được...............................................................................58
2.2.2.

Một số tồn tại....................................................................................................59

Tiểu kết Chương 2.........................................................................................................64
Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬT VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN LỢI CỦA NÔNG DÂN KHI
NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT ĐỂ PHỤC VỤ CHO CÁC DỰ
ÁN PHÁT TRIỂN KINH TẾ......................................................................65
3.1.

Sự cần thiết của việc hoàn thiện pháp luật...........................................65

3.2.

Định hướng hoàn thiện pháp luật............................................................66


3.3.

Một số giải pháp cụ thể góp phần hoàn thiện pháp luật..................68

Tiểu kết Chương 3.........................................................................................................82
KẾT LUẬN......................................................................................................................83
TÀI LIỆU THAM KHẢO..........................................................................................85


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong quá trình triển khai công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, vấn
đề phát triển kinh tế được coi là một trong những mục tiêu quan trọng hàng
đầu. Để triển khai được các dự án đầu tư phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế
thì cần sử dụng một diện tích đất rất lớn. Vì vậy, không tránh khỏi việc thu
hồi hàng triệu m2 đất đang sử dụng của các tổ chức, cá nhân, hộ gia đình để
phục vụ cho các dự án phát triển kinh tế.
Nhìn chung, ý thức tự giác của nhân dân ta khá cao trong việc chấp
hành quyết định thu hồi đất của Nhà nước vào mục đích quốc phòng, an
ninh, xây dựng kết cấu hạ tầng kỹ thuật (như đường giao thông, công trình
thủy lợi, v.v.), hay xây dựng cơ sở hạ tầng xã hội (như trường học, bệnh
viện, sân vận động, công viên, chợ, v.v.). Có những trường hợp người bị thu
hồi đất chịu thiệt thòi ít nhiều trong bồi thường, hỗ trợ, tái định cư nhưng
vẫn sẵn sàng hợp tác trong công tác giải phóng mặt bằng vì mong muốn
được đóng góp chung để xây dựng một xã hội văn minh hơn. Vấn đề này trở
nên nhạy cảm và phức tạp hơn khi Nhà nước thu hồi đất để phục vụ cho các
dự án phát triển kinh tế như xây dựng các khu công nghiệp, khu dịch vụ, mặt
bằng sản xuất, kinh doanh phi nông nghiệp. Quy luật giá trị tác động vào tư
tưởng của người có đất bị thu hồi, hình thành nên sự so sánh về thiệt thòi

của mình khi đất do mình đang sử dụng được giao cho người khác với khả
năng sinh lợi cao hơn nhiều. Từ đó đã phát sinh nhiều khiếu kiện của dân về
mức bồi thường, hỗ trợ, đồng thời tạo nên tâm lý nặng nề đối với nhà đầu tư
khi thực hiện bồi thường, hỗ trợ, tái định cư để giải phóng mặt bằng. Điển
hình có một số vụ việc nổi cộm gần đây gây xôn xao dư luận là việc thu hồi
đất dự án Ecopark ở huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên, hay vụ một người
nông dân nổ súng bắn một số cán bộ của Trung tâm phát triển quỹ đất thành
phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình….

1


Làm thế nào để có được những quy định phù hợp, bảo đảm quyền lợi
và sự bình đẳng cho người có đất bị thu hồi; hài hòa lợi ích giữa Nhà nước,
người có đất bị thu hồi, nhà đầu tư thực hiện các dự án; hạn chế khiếu nại, tố
cáo trong công tác bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất là
một vấn đề khó và đang được quan tâm.
Vậy, pháp luật về bảo đảm quyền lợi của người nông dân khi Nhà nước
thu hồi đất để phục vụ cho các dự án phát triển kinh tế cần thực hiện theo cơ
chế nào? Vấn đề nóng bỏng này đang đặt ra, đòi hòi phải được giải quyết cả
khía cạnh lý luận, thực tiễn một cách triệt để, thuyết phục nhất. Đây cũng
chính là lý do tác giả chọn đề tài: “Pháp luật về bảo đảm quyền lợi của nông
dân khi Nhà nước thu hồi đất để phục vụ cho các dự án phát triển kinh tế ở
Việt Nam” làm luận văn thạc sĩ.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Thu hồi đất là một vấn đề luôn nhận được nhiều sự quan tâm nghiên cứu
của giới khoa học pháp lý nói chung và những người làm thực tiễn nói riêng.
Đã có nhiều các công trình nghiên cứu về vấn đề thu hồi đất dưới khía
cạnh khác nhau như: Phạm Thu Thủy, Pháp luật về bồi thường khi Nhà nước
thu hồi đất nông nghiệp ở Việt Nam, Luận văn tiến sĩ (2014); Nguyễn Minh

Tuấn, Thu hồi đất vì mục đích kinh tế ở Việt Nam hiện nay, Luận văn thạc sĩ
(2013); Đỗ Quang Dương, Thực hiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ và tái
định cư khi Nhà nước thu hồi đất giải phóng mặt bằng ở quận Thanh Xuân,
thành phố Hà Nội, Luận văn thạc sĩ (2013); Nguyễn Thị Phương Thảo, Pháp
luật về bồi thường về đất khi thực hiện các dự án kinh tế và thực tiễn áp dụng
tại thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An, Luận văn thạc sĩ (2012); Đinh Thị Huê,
Thực hiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi
đất ở tỉnh Hà Nam hiện nay, Luận văn thạc sĩ (2011); Hoàng Thị Nga, Pháp
luật về thu hồi đất, bồi thường, giải phóng mặt bằng ở Việt Nam hiện nay, Luận

2


văn thạc sĩ (2011);… Nhìn chung, các công trình này đã đi sâu nghiên cứu pháp
luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất nói chung; hoặc
thu hồi đất vì mục đích phát triển kinh tế nói riêng. Tuy nhiên, các đề tài này chủ
yếu tiếp cận vấn đề thu hồi đất vì mục đích phát triển kinh tế dưới các khía cạnh
như: các trường hợp thu hồi đất, trình tự thủ tục thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ,
tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất,…; hoặc đi sâu nghiên cứu đối với một vài
dự án thu hồi đất phát triển kinh tế cụ thể; mà chưa đi sâu vào nghiên cứu dưới
khía cạnh bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người có đất bị thu hồi. Kế thừa
những thành quả nghiên cứu của các công trình kể trên, Luận văn đi sâu tìm hiểu
một cách hệ thống, toàn diện và tập trung về pháp luật về thu hồi đất để thực
hiện các dự án phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam hiện nay dưới phương diện
đảm bảo quyền lợi cho người nông dân bị thu hồi đất.
Nghiên cứu đề tài này, luận văn có những đóng góp mới về mặt khoa
học với những nội dung chủ yếu sau:
Thứ nhất, hệ thống hóa và góp phần hoàn thiện cơ sở lý luận và thực
tiễn của việc xây dựng các quy định về bảo đảm quyền lợi của người nông
dân khi Nhà nước thu hồi đất để phục vụ cho các dự án phát triển kinh tế;

Thứ hai, phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật về bảo đảm quyền lợi
của người nông dân khi Nhà nước thu hồi đất để phục vụ cho các dự án phát
triển kinh tế; trên cơ sở đó chỉ ra tồn tại, bất cập và nguyên nhân của những
hạn chế này trong các quy định hiện hành;
Thứ ba, đưa ra định hướng và đề xuất các giải pháp góp phần hoàn
thiện pháp luật về bảo đảm quyền lợi của người nông dân khi Nhà nước thu
hồi đất để phục vụ cho các dự án phát triển kinh tế.
3. Mục đích nghiên cứu
Luận văn đặt ra những mục đích nghiên cứu cơ bản sau:

3


- Nghiên cứu cơ sở lý luận của việc xây dựng các quy định pháp luật về
bảo đảm quyền lợi của nông dân khi Nhà nước thu hồi đất để phục vụ cho các
dự án phát triển kinh tế;
- Tìm hiểu khái niệm và chỉ ra những đặc điểm riêng về quyền lợi của
nông dân khi Nhà nước thu hồi đất để thực hiện các dự án phát triển kinh tế;
- Nghiên cứu sự hình thành và phát triển của pháp luật về bảo đảm
quyền lợi của nông dân khi Nhà nước thu hồi đất để phục vụ cho các dự án
phát triển kinh tế;
- Nghiên cứu, đánh giá thực trạng pháp luật về bảo đảm quyền lợi của
nông dân khi Nhà nước thu hồi đất để phục vụ cho các dự án phát triển kinh tế;
- Xác lập định hướng và đề xuất các giải pháp góp phần hoàn thiện
pháp luật về bảo đảm quyền lợi của nông dân khi Nhà nước thu hồi đất để
phục vụ cho các dự án phát triển kinh tế.
4. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài bao gồm:
- Hệ thống quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng về bảo đảm
quyền lợi của người sử dụng đất khi Nhà nước thu hồi đất nói chung, thu hồi

đất để phục vụ các dự án phát triển kinh tế nói riêng;
- Các quy phạm pháp luật thực định về bảo đảm quyền lợi của nông dân
khi Nhà nước thu hồi đất để phục vụ cho các dự án phát triển kinh tế;
- Các báo cáo, tổng kết tình hình thực thi pháp luật về bảo đảm quyền
lợi của nông dân khi Nhà nước thu hồi đất để phục vụ cho các dự án phát triển
kinh tế.
5. Phạm vi nghiên cứu
Do tính chất phức tạp và rộng lớn của đề tài, luận văn giới hạn phạm vi
nghiên cứu ở việc đi sâu phân tích, tìm hiểu các quy định về bảo đảm quyền
lợi của nông dân khi Nhà nước thu hồi đất phục vụ cho các dự án phát triển

4


kinh tế từ khi có Luật Đất đai năm 2013 đến nay, đặt trong mối tương quan so
sánh với Luật Đất đai năm 2003 và các văn bản hướng dẫn Luật Đất đai năm
2003 trước đây.
6. Phương pháp nghiên cứu
Để giải quyết các yêu cầu mà đề tài đặt ra, trong quá trình nghiên cứu,
tác giả đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau đây:
- Phương pháp luận nghiên cứu khoa học duy vật biện chứng và duy vật
lịch sử của chủ nghĩa Mác-Lênin;
- Phương pháp so sánh luật học, phương pháp phân tích, bình luận,
đánh giá; phương pháp tổng hợp, diễn giải, quy nạp.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về bảo đảm quyền lợi của nông dân
khi nhà nước thu hồi đất để phục vụ cho các dự án phát triển kinh tế.
Chương 2: Thực trạng pháp luật về bảo đảm quyền lợi của nông dân

khi Nhà nước thu hồi đất để phục vụ cho các dự án phát triển kinh tế.
Chương 3: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về bảo đảm
quyền lợi của nông dân khi Nhà nước thu hồi đất để phục vụ cho các dự án
phát triển kinh tế.

5


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN LỢI CỦA
NÔNG DÂN KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT ĐỂ PHỤC VỤ
CHO CÁC DỰ ÁN PHÁT TRIỂN KINH TẾ
Mục tiêu của Chương 1 nhằm làm rõ các vấn đề lý luận chung như khái
niệm thu hồi đất để phục vụ cho các dự án phát triển kinh tế; khái niệm, cơ sở
lý luận và các điều kiện bảo đảm quyền lợi của nông dân khi Nhà nước thu
hồi đất để phục vụ cho các dự án phát triển kinh tế; pháp luật một số nước
trên thế giới về vấn đề này. Để đạt được mục tiêu này, Chương 1 đề cập
những vấn đề sau đây:
1.1. Khái niệm thu hồi đất và thu hồi đất phục vụ cho các dự án
phát triển kinh tế
1.1.1. Khái niệm thu hồi đất
Trong khoa học pháp lý, xây dựng khái niệm là yếu tố tiên quyết để tạo
lập cơ sở lý luận. Trong quá trình ban hành và thực thi pháp luật, xác định
khái niệm và nội hàm khái niệm là những yếu tố gốc rễ, nền tảng bảo đảm
pháp luật được hiểu và vận dụng thống nhất.
Nghiên cứu pháp luật về bảo đảm quyền lợi của người nông dân khi
Nhà nước thu hồi đất để phục vụ cho các dự án phát triển kinh tế, trước hết, ta
phải làm rõ khái niệm thế nào là thu hồi đất.
Đất đai là nguồn tài nguyên vô cùng quý giá, có vai trò đặc biệt quan
trọng trong đời sống kinh tế xã hội của mỗi quốc gia. Để khai thác, sử dụng

đất đai một cách hợp lý, thống nhất, Nhà nước ta trong quá trình quản lý đã sử
dụng nhiều biện pháp khác nhau để phân phối lại quỹ đất quốc gia cho nhiều
chủ sử dụng. Một trong những biện pháp đó chính là thu hồi đất. Hiểu một
cách thuần túy thì thu hồi đất là việc Nhà nước sẽ tước đi quyền sử dụng của

6


các chủ sử dụng đất mà qua đó để thiết lập một quan hệ sử dụng đất mới phù
hợp với lợi ích Nhà nước và xã hội. Thực tế thì thu hồi đất là giai đoạn kết
thúc việc sử dụng đất của chủ thể này nhưng là bước kế tiếp của việc sử dụng
đất của một chủ thể mới.
Khoản 5 Điều 4 Luật Đất đai năm 2003 quy định: “Thu hồi đất là việc
Nhà nước ra quyết định hành chính để thu lại quyền sử dụng đất hoặc thu lại
đất đã giao cho tổ chức, Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn quản lý”.
Cách định nghĩa này dễ dẫn đến cách hiểu rằng người sử dụng đất bị thu
hồi chỉ là tổ chức hay Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn, trong khi đó còn có
chủ thể khác là hộ gia đình, cá nhân lại không được đề cập đến.
Khoản 11 Điều 3 Luật Đất đai năm 2013 quy định về khái niệm thu hồi
đất về cơ bản đã hợp lý hơn so với Luật Đất đai năm 2003: “Nhà nước thu hồi
đất là việc Nhà nước quyết định thu lại quyền sử dụng đất của người được
Nhà nước trao quyền sử dụng đất hoặc thu lại đất của người sử dụng đất vi
phạm pháp luật về đất đai”.
Như vậy, có thể hiểu một cách khái quát thu hồi đất là việc Nhà nước ra
quyết định hành chính để thu lại quyền sử dụng đất đã giao cho các chủ thể sử
dụng đất theo quy định của pháp luật đất đai.
Từ các định nghĩa trên, có thể thấy thu hồi đất có các đặc điểm sau:
Thứ nhất, thu hồi đất là một biện pháp pháp lý làm chấm dứt quan hệ
pháp luật đất đai được thực hiện bởi cơ quan Nhà nước có thẩm quyền về giao
đất, cho thuê đất. Đây là sự thực thi một trong những nội dung của quyền lực

của Nhà nước về quản lý đất đai. Vì vậy, thẩm quyền thu hồi đất phải tuân thủ
theo quy định của Luật Đất đai. Một quyết định thu hồi đất không đúng thẩm
quyền hoặc trái thẩm quyền sẽ không làm chấm dứt quan hệ pháp luật đất đai,
ví dụ như quyết định thu hồi đất của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện đối
với đất giao cho tổ chức sử dụng đất.

7


Thứ hai, thu hồi đất mang tính hành chính mệnh lệnh, bắt buộc. Đây là
quan hệ giữa một bên là người sử dụng đất với một bên là Nhà nước, hai chủ
thể này không có sự bình đẳng về mặt pháp lý. Tuy nhiên, bên cạnh phương
pháp mệnh lệnh hành chính là phương pháp giáo dục, thuyết phục, đặc biệt là
trong thu hồi đất để phục vụ mục tiêu an ninh quốc phòng, lợi ích công cộng.
Thứ ba, việc thu hồi đất phải xuất phát từ nhu cầu Nhà nước và xã hội
hoặc là biện pháp chế tài nhằm xử lý các vi phạm pháp luật đất đai của người
sử dụng đất. Nhà nước có thể thu hồi đất để sử dụng vào mục đích quốc
phòng, an ninh, phát triển kinh tế - xã hội, vì lợi ích quốc gia, công cộng; hoặc
để chấm dứt sự vi phạm của người sử dụng đất và lập lại kỷ cương trong quản
lý nhà nước về đất đai.
1.1.2. Khái niệm thu hồi đất phục vụ cho các dự án phát triển kinh tế
Về khái niệm thu hồi đất để phục vụ cho các dự án phát triển kinh tế,
khoản 1 Điều 40 Luật Đất đai năm 2003 xác định: “Nhà nước thực hiện việc
thu hồi đất để sử dụng vào mục đích phát triển kinh tế trong trường hợp đầu
tư xây dựng khu công nghiệp, khu công nghệ cao, khu kinh tế và các dự án
đầu tư lớn theo quy định của Chính phủ”.
Luật Đất đai năm 2013 không quy định thế nào là thu hồi đất để sử
dụng vào mục đích phát triển kinh tế, mà chỉ quy định các trường hợp cụ thể
mà Nhà nước tiến hành thu hồi đất để phát triển kinh tế xã hội.
Căn cứ vào Điều 62 Luật Đất đai năm 2013, có thể xác định Nhà nước

thu hồi đất phục vụ cho các dự án phát triển kinh tế trong các trường hợp sau:
- Thực hiện các dự án quan trọng quốc gia do Quốc hội chủ trương đầu
tư mà phải thu hồi đất;
- Thực hiện các dự án do Thủ tướng Chính phủ chấp thuận, quyết định
đầu tư mà phải thu hồi đất, bao gồm: Dự án xây dựng khu công nghiệp, khu
chế xuất, khu công nghệ cao, khu kinh tế, khu đô thị mới, dự án đầu tư bằng
nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA);

8


- Thực hiện các dự án do Hội đồng nhân dân cấp tỉnh chấp thuận mà thu
hồi đất: Dự án xây dựng khu đô thị mới, khu dân cư nông thôn mới; chỉnh
trang đô thị, khu dân cư nông thôn; cụm công nghiệp; khu sản xuất, chế biến
nông sản, lâm sản, thủy sản, hải sản tập trung; dự án khai thác khoáng sản
được cơ quan có thẩm quyền cấp phép, trừ trường hợp khai thác khoáng sản
làm vật liệu xây dựng thông thường, than bùn, khoáng sản tại các khu vực có
khoáng sản phân tán, nhỏ lẻ và khai thác tận thu khoáng sản.
Như vậy, thu hồi đất để phục vụ cho các dự án phát triển kinh tế là một
trong các trường hợp Nhà nước thu hồi đất, với mục đích là để phát triển kinh
tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng. Còn đối với các dự án sản xuất, kinh
doanh mà không vì lợi ích quốc gia, công cộng theo quy định cụ thể tại Điều 62
Luật Đất đai năm 2013 thì quỹ đất sẽ không do Nhà nước thu hồi mà chủ đầu
tư sẽ sử dụng đất thông qua hình thức nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất,
nhận góp vốn bằng quyền sử dụng đất theo Điều 73 Luật Đất đai năm 2013.
Thu hồi đất để phục vụ cho các dự án phát triển kinh tế cũng có các đặc
điểm của thu hồi đất nói chung. Ngoài ra, thu hồi đất để phục vụ cho các dự
án phát triển kinh tế còn có đặc điểm sau:
- Mục đích, động cơ của việc thu hồi đất là lợi nhuận kinh tế. Nhà nước
là chủ thể đứng ra thu hồi đất để giao cho các chủ đầu tư dự án. Đất được thu

hồi được sử dụng để thực hiện các dự án không phải phục vụ chung cho lợi
ích của cả cộng đồng hay vì mục đích an ninh quốc phòng quốc gia, mà để
thực hiện các dự án mang lại lợi ích kinh tế, nhằm phát sinh lợi nhuận như dự
án xây dựng khu công nghiệp, khu chế xuất, khu đô thị,…. Chính chủ đầu tư
là người đề xuất thu hồi đất của người sử dụng đất với mục đích, động cơ vì
lợi nhuận kinh tế.
- Mặc dù quan hệ thu hồi đất vì mục đích kinh tế là quan hệ hành chính
mệnh lệnh (Nhà nước ban hành quyết định hành chính để thu hồi đất của người

9


sử dụng đất); tuy nhiên, đối với các dự án mà chủ đầu tư tự đứng ra thoả thuận
với người dân thì quan hệ này đã chuyển sang quan hệ kinh tế - dân sự.
1.2. Khái niệm quyền lợi của nông dân khi Nhà nước thu hồi đất
để phục vụ cho các dự án phát triển kinh tế
Theo Từ điển Tiếng Việt thông dụng, quyền lợi là “quyền được hưởng
những lợi ích về vật chất, tinh thần nào đó”.
Từ đó, có thể hiểu quyền lợi của nông dân khi Nhà nước thu hồi đất
phục vụ cho các dự án phát triển kinh tế là những lợi ích hợp pháp về vật chất,
tinh thần mà người nông dân được hưởng khi Nhà nước thu hồi đất phục vụ
cho các dự án phát triển kinh tế, bao gồm:
- Quyền được bồi thường về đất;
- Quyền được bồi thường chi phí đầu tư vào đất còn lại;
- Quyền được bồi thường thiệt hại đối với tài sản trên đất;
- Quyền được hỗ trợ ổn định đời sống và sản xuất, hỗ trợ đào tạo,
chuyển đổi nghề, tìm kiếm việc làm và tái định cư.
Vậy bồi thường, hỗ trợ nghĩa là gì?
Về khái niệm bồi thường, Từ điển Tiếng Việt thông dụng định nghĩa:
bồi thường là “trả cho người khác cái có giá trị tương xứng với những thiệt

hại đã gây ra” [37].
Tại khoản 6 Điều 4 Luật Đất đai năm 2003 định nghĩa: “Bồi thường khi
Nhà nước thu hồi đất là việc Nhà nước trả lại giá trị quyền sử dụng đất đối
với diện tích đất bị thu hồi cho người bị thu hồi đất”.
Ta thấy, theo khái niệm bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất của Luật
Đất đai năm 2003 nêu trên thì bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất chỉ gồm
bồi thường về đất, trong khi việc thu hồi đất không chỉ gây thiệt hại về đất,
mà còn là những thiệt hại liên quan đến quyền sử dụng đất, công trình xây
dựng, vật kiến trúc, cây trồng, vật nuôi trên đất, thậm chí là thiệt hại về sức

10


khỏe do áp lực căng thẳng, lo âu của người sử dụng đất. Trên thực tế, Luật
Đất đai năm 2003 vẫn có các quy định về bồi thường về tài sản trên đất, bồi
thường chi phí đầu tư vào đất còn lại khi Nhà nước thu hồi đất. Cho nên khái
niệm bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất lại giới hạn trong bồi thường về đất
là không hợp lý.
Vì vậy, Luật Đất đai năm 2013 đã không sử dụng khái niệm chung là
“bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất” mà thay vào đó giải thích thế nào là
“bồi thường về đất”. Đồng thời, Luật cũng quy định cụ thể thế nào là bồi
thường về chi phí đầu tư vào đất còn lại, và các trường hợp bồi thường thiệt
hại đối với tại sản trên đất. Sự tách bạch các nội dung về bồi thường khi Nhà
nước thu hồi đất như vậy đã phản ánh được đúng nội hàm của khái niệm bồi
thường khi Nhà nước thu hồi đất.
Khoản 12 Điều 3 Luật Đất đai năm 2013 quy định: “Bồi thường về
đất là việc Nhà nước trả lại giá trị quyền sử dụng đất đối với diện tích đất thu
hồi cho người sử dụng đất”. Khái niệm này đã thể hiện được tính chất đền bù
tương xứng của bồi thường về đất.
Về khái niệm hỗ trợ, Từ điển Tiếng Việt thông dụng định nghĩa: hỗ trợ

là “giúp đỡ lẫn nhau, giúp đỡ thêm vào” [37].
Theo khoản 7 Điều 4 Luật Đất đai năm 2003 thì: “Hỗ trợ khi Nhà nước
thu hồi đất là việc Nhà nước giúp đỡ người bị thu hồi đất thông qua đào tạo
nghề mới, bố trí việc làm mới, cấp kinh phí để di dời đến địa điểm mới”. Định
nghĩa này tuy có liệt kê các trường hợp hỗ trợ, nhưng không đầy đủ. Hỗ trợ là
chính sách “mềm” nên ngoài các trường hợp hỗ trợ vừa nêu, còn có những
trường hợp hỗ trợ khác do Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định.
Vì vậy, khoản 14 Điều 3 Luật Đất đai năm 2013 đã rút gọn khái niệm
như sau: “Hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất là việc Nhà nước trợ giúp cho
người có đất thu hồi để ổn định đời sống, sản xuất và phát triển”. Khái niệm

11


này vừa khái quát được nội dung và mục đích của hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi
đất, vừa khắc phục được hạn chế của việc xác định khái niệm theo phương
pháp liệt kê như Luật Đất đai năm 2003. Hơn nữa, thực tiễn áp dụng pháp luật
trong thời gian qua cho thấy rằng, việc Nhà nước giúp đỡ bằng cách đào tạo
nghề mới, cấp kinh phí di dời đến địa điểm mới là điều có thể thực hiện được;
tuy nhiên, trong nền kinh tế thị trường thì ý chí của Nhà nước trong việc bố trí
việc làm mới chưa trở thành hiện thực hoàn toàn được, mà phụ thuộc vào ý
chí của nhà đầu tư, theo yêu cầu về số lượng, chất lượng lao động phù hợp với
quy mô và công nghệ sản xuất của họ. Ngay cả trong Điều 55 của Hiến
pháp 1992 trước đây cũng chỉ quy định có tính nguyên tắc, Nhà nước và xã
hội có kế hoạch tạo ngày càng nhiều việc làm cho người lao động. Do vậy
việc quy định về hỗ trợ như Luật Đất đai năm 2013 là phù hợp.
Sự khác nhau căn bản giữa bồi thường và hỗ trợ là: Bồi thường là khái
niệm xuất phát từ ngành luật dân sự, mang tính tương xứng với các nguyên
tắc như: chủ thể nào gây thiệt hại, chủ thể đó phải bồi thường; thiệt hại đến
đâu, bồi thường đến đó. Trong khi đó, khái niệm hỗ trợ là “giúp đỡ”, mang

tính chất cộng thêm vào nên không đòi hỏi tính tương xứng như bồi thường.
Pháp luật đất đai trước kia chưa thật sự rạch ròi hai khái niệm này và
một số trường hợp mang bản chất “bồi thường” nhưng lại được xác định trong
pháp luật là “hỗ trợ”. Ví dụ điển hình là hỗ trợ về giá đất nông nghiệp đối với
đất nông nghiệp là đất vườn ao, đất nông nghiệp trong khu dân cư và đất nông
nghiệp tiếp giáp với khu dân cư. Bản chất là bồi thường về đất, nhưng do
pháp luật quy định là giá đất nông nghiệp định theo phương pháp thu nhập từ
sản xuất nông nghiệp nên giá đất quá thấp, rồi áp dụng thêm khoản gọi là “hỗ
trợ”. Luật Đất đai năm 2013 đã bỏ quy định này, thay vào đó là xác định rõ
bồi thường về đất trong những trường hợp nhất định, trong trường hợp không
đủ điều kiện bồi thưởng về đất thì được xem xét bồi thường chi phí đầu tư vào

12


đất còn lại, còn hỗ trợ chỉ mang tính chất thêm vào, bao gồm hỗ trợ ổn định
đời sống và sản xuất, hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi nghề nghiệp, tìm kiếm việc
làm, và hỗ trợ tái định cư.
Ngoài ra, xét thấy trong trường hợp thu hồi đất nông nghiệp, người
nông dân bị mất đất sản xuất từ đó dẫn đến phải chuyển đổi nghề nghiệp từ
nông nghiệp sang phi nông nghiệp, thì bản chất là đã gây ra thiệt hại do mất
việc làm. Bởi vậy, có ý kiến cho rằng chúng ta nên dùng cụm từ “bồi thường
cho người nông dân do mất việc làm” thay vì “hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp
và tạo việc làm” như hiện nay [12]. Điều này sẽ khắc được tình trạng hỗ trợ
nghề nghiệp bằng một khoản tiền qua loa, sau đó không quan tâm đến việc
người được chuyển đổi nghề nghiệp có việc làm hay không. Mặt khác, điều
này tạo ra một cách hiểu và thực thi pháp luật rằng, chi phí thiệt hại do mất
việc phải được tính toán sòng phẳng, bảo đảm thực sự tái lập và cải thiện chất
lượng cuộc sống người dân sau khi quá trình thu hồi đất.
1.3. Cơ sở của việc bảo đảm quyền lợi của nông dân khi Nhà nước

thu hồi đất để phục vụ cho các dự án phát triển kinh tế
Việc bảo đảm quyền lợi của nông dân khi nhà nước thu hồi đất để phục
vụ cho các dự án phát triển kinh tế xuất phát từ các sơ sở lý luận sau:
Thứ nhất, chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về
bảo đảm quyền lợi của người sử dụng đất nói chung khi Nhà nước thu hồi đất.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy của Ban chấp hành Trung ương Đảng
khóa X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn đã xác định quan điểm “xây
dựng nông thôn mới gắn với xây dựng các cơ sở công nghiệp, dịch vụ và phát
triển đô thị theo quy hoạch là căn bản; phát triển toàn diện, hiện đại hóa
nông nghiệp là then chốt” [1]. Theo đó, mục tiêu đến năm 2020 của nước ta là
nâng cao chất lượng cuộc sống của dân cư nông thôn; thực hiện có hiệu quả,
bền vững công cuộc xoá đói, giảm nghèo; nâng cao trình độ giác ngộ và vị thế

13


chính trị của giai cấp nông dân, tạo điều kiện để nông dân tham gia đóng góp
và hưởng lợi nhiều hơn trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước, đặc biệt là trong quá trình Nhà nước thu hồi đất để tiến hành công
nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng
khóa XI tiếp tục định hướng đổi mới và hoàn thiện chính sách pháp luật về
đất đai. Trong đó, một trong những chính sách quan trọng là thu hồi đất phải
bảo đảm lợi ích Nhà nước và người dân có đất bị thu hồi tương xứng, khắc
phục những tiêu cực lớn trong lĩnh vực này cũng như tình hình khiếu nại, tố
cáo, tranh chấp về đất đai còn diễn biến phức tạp.
Điều 53 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm
2013 quy định đất đai ở nước ta “thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại
diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý”. Thực hiện chức năng đại diện chủ sở
hữu và thống nhất quản lý của mình, Nhà nước thu hồi đất trong những

trường hợp nhất định để điều phối, quy hoạch hợp lý tài nguyên đất. Theo
khoản 3 Điều 54 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm
2013, chính sách thu hồi đất được quy định là:
“Nhà nước thu hồi đất do tổ chức, cá nhân đang sử dụng trong trường
hợp thật cần thiết do luật định vì mục đích quốc phòng, an ninh; phát triển
kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng. Việc thu hồi đất phải công
khai, minh bạch và được bồi thường theo quy định của pháp luật”.
Để đảm bảo phát triển bền vững quỹ đất, Nhà nước ta chủ trương chỉ
thu hồi đất trong những trường hợp thật cần thiết vì lợi ích quốc gia, công
cộng. Những trường hợp vì lợi ích riêng của Nhà đầu tư thì Nhà nước sẽ
không tiến hành thu hồi đất mà chỉ quản lý, kiểm soát việc chuyển dịch đất
đai giữa các chủ thể.
Nhà nước ta chủ trương thực hiện thu hồi đất phải đảm đảm bảo công

14


khai, minh bạch, dân chủ, và cân bằng lợi ích giữa Nhà nước, nhà đầu tư,
người có đất bị thu hồi. Quá trình thu hồi đất được phải đảm bảo sự tham gia
của người sử dụng đất. Thu hồi đất không chỉ yêu cầu bồi thường đầy đủ và
kịp thời mà còn phải đảm bảo cả sinh kế, đời sống, và việc làm cho người có
đất bị thu hồi. Đây là định hướng mang tính chiến lược để hạn chế khiếu nại,
khiếu kiện về thu hồi đất.
Những quan điểm, đường lối này đã được Luật Đất đai năm 2013 thể
chế hóa, tạo cơ sở pháp lý cho việc bảo đảm quyền lợi của nông dân khi nhà
nước thu hồi đất để phục vụ cho các dự án phát triển kinh tế.
Thứ hai, chế độ sở hữu đất đai mang tính đặc thù ở Việt Nam: chế độ sở
hữu toàn dân về đất đai.
Theo quan niệm về sở hữu tài sản truyền thống trong dân luật được các
nước Châu Âu lục địa thừa nhận, quyền sở hữu bao gồm 3 nhóm quyền năng:

nhóm quyền chiếm hữu, nhóm quyền sử dụng và nhóm quyền định đoạt. Như
vậy, nhóm quyền sử dụng chỉ là một trong những quyền năng của chủ sở hữu
tài sản. Ở Việt Nam, chế độ sở hữu đất đai mang tính đặc thù: đất đai thuộc sở
hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu, song trên thực tế Nhà nước lại
không chiếm hữu, sử dụng đất đai mà giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền
sử dụng đất đang sử dụng của tổ chức, hộ gia đình, cá nhân (gọi chung là người
sử dụng đất) sử dụng ổn định lâu dài. Lý luận về quyền của người sử dụng đất
ở nước ta hình thành và phát triển dựa trên quan điểm của Đảng trong lĩnh vực
đất đai là xác định quyền lợi của người lao động là động lực trực tiếp phát triển
xã hội; theo đó, hộ gia đình, cá nhân là đơn vị kinh tế tự chủ trong sản xuất
được Nhà nước giao đất, cho thuê đất sử dụng ổn định lâu dài và được chuyển
quyền sử dụng đất. Như vậy, quyền sử dụng đất phát sinh trên cơ sở quyền sở
hữu toàn dân về đất đai thông qua việc Nhà nước với tư cách đại diện chủ sở
hữu giao đất, cho thuê đất và công nhận quyền sử dụng đối với đất đang sử

15


dụng ổn định. Tuy nhiên, quyền sử dụng đất lại tách khỏi quyền sở hữu đất đai
và trở thành một loại quyền có tính độc lập tương đối [35]. Quyền sử dụng đất
đã tách khỏi quyền sở hữu đất đai được chủ sở hữu đất đai chuyển giao cho
người sử dụng đất thực hiện và trở thành một loại quyền về tài sản thuộc sở
hữu của người sử dụng đất. Hay nói cách khác, quyền sở hữu đất đai thuộc về
toàn dân do Nhà nước đại diện; còn quyền sử dụng đất thuộc sở hữu của người
sử dụng đất. Như vậy, một khi pháp luật đã thừa nhận quyền sử dụng đất là một
loại quyền về tài sản của người sử dụng đất, thì khi Nhà nước thu hồi đất, Nhà
nước phải bồi thường thiệt hại về tài sản và đảm bảo các quyền lợi khác cho
người sử dụng đất.
Thứ ba, đặc trưng của việc Nhà nước thu hồi đất để phục vụ cho các dự
án phát triển kinh tế so với thu hồi đất vì các mục đích khác và trường hợp

nhà đầu tư thỏa thuận với người sử dụng đất.
Khi Nhà nước thu hồi đất, người nông dân không có quyền thỏa thuận
giá đất bị thu hồi, cũng như không có quyền phản đối hoặc đòi hỏi đền bù
thỏa đáng quyền lợi của mình. Có những dự án Nhà nước thu hồi đất mà giá
bồi thường chỉ có mấy trăm nghìn đồng/m 2 nhưng doanh nghiệp chỉ đổ đất
vào, san phẳng và bán nền đất đã có giá vài chục triệu, thậm chí cả trăm triệu
đồng một mét. Việc thu hồi đất vào mục đích quốc phòng, an ninh hay làm
đường, xây công trình công cộng luôn được người dân ủng hộ và không có
khiếu nại, khiếu kiện. Đó là bởi vì thu hồi đất vì lợi ích chung, vì lợi ích quốc
gia nên người dân sẵn sàng hi sinh quyền lợi. Người dân được bồi thường
thấp nhưng họ cảm thấy cũng được hưởng lợi từ các công trình. Nhưng trong
trường hợp Nhà nước thu hồi đất để chuyển thành khu đô thị theo cách giao
cho các doanh nghiệp đầu tư kết cấu hạ tầng rồi bán nền, bán nhà... sẽ làm
xuất hiện mặt bằng giá quyền sử dụng đất phi nông nghiệp, thường cao hơn
giá đất nông nghiệp nhiều lần.

16


Thứ tư, đặc trưng của chủ thể bị thu hồi đất là người nông dân.
Nông dân là những người sống lâu đời ở nông thôn, lấy sản xuất nông
nghiệp làm nguồn sống chính [37]. Với đặc trưng về loại đất mà họ có quyền
sử dụng là đất nông nghiệp, nên việc bảo đảm quyền lợi của họ khi Nhà nước
thu hồi đất càng trở nên cần thiết so với các chủ thể sử dụng đất khác. Điều
này thể hiện ở các khía cạnh:
Giá đất nông nghiệp bồi thường cho người nông dân thường ở mức
thấp so với các loại đất khác. Do mức sinh lợi của ngành nông nghiệp thấp
nên giá trị quyền sử dụng đất nông nghiệp thành tiền không lớn, giá đất bồi
thường thường thấp hơn giá đất cùng loại trên thị trường, đặc biệt là đối với
đất nông nghiệp trong khu vực đô thị, khu dân cư nông thôn. Tiền bồi thường

đất nông nghiệp thường không đủ để nhận chuyển nhượng diện tích đất nông
nghiệp tương tự hoặc không đủ để nhận chuyển nhượng đất sản xuất kinh
doanh phi nông nghiệp để chuyển sang làm ngành nghề khác.
Người nông dân bị thu hồi đất không chỉ bị thiệt hại trước mắt về
quyền sử dụng đất, tài sản trên đất, mà còn bị ảnh hưởng lâu dài về nghề
nghiệp, sinh kế sau này. Vì vậy, Nhà nước khi thu hồi đất của nông dân ngoài
việc bồi thường về đất còn phải quan tâm đến việc hỗ trợ cho người nông dân
để ổn định sản xuất, chuyển đổi nghề nghiệp, tạo việc làm sau thu hồi đất.
Với đặc thù của nước ta có tới gần 70% dân số là nông dân thì yêu cầu
bảo đảm quyền lợi của người nông dân bị thu hồi đất càng trở nên cần thiết.
Đất đai không chỉ mang ý nghĩa là tài sản mà còn là tư liệu sản xuất. Quan
tâm đến quyền lợi của nông dân khi Nhà nước thu hồi đất chính là quan tâm
đến đời sống của phần đông xã hội. Nếu không giải quyết tốt vấn đề này sẽ
gây ảnh hưởng chung đến đời sống kinh tế, ổn định xã hội của cả quốc gia.

17


1.4. Một số điều kiện bảo đảm quyền lợi của nông dân khi Nhà
nước thu hồi đất để phục vụ cho các dự án phát triển kinh tế
Có thể khái quát một số điều kiện cơ bản để bảo đảm quyền lợi của nông
dân khi Nhà nước thu hồi đất để phục vụ cho các dự án phát triển kinh tế là:
 Điều kiện đảm bảo về chính trị, tư tưởng
Đảm bảo trước hết cho quyền lợi của nông dân khi Nhà nước thu hồi đất
chính là đảm bảo về chính trị, tư tưởng, thể hiện qua đường lối, chính sách của
Đảng và Nhà nước.
Sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước bằng đường lối chủ trương chính
sách đúng đắn, phản ánh đúng các yêu cầu thực tiễn đối với sự phát triển kinh
tế - xã hội của đất nước và công tác thu hồi đất, đặc biệt là các chủ trương đối
với những người bị thu hồi đất là cơ sở chính trị tư tưởng quan trọng để người

có đất bị thu hồi được đảm bảo quyền lợi của mình.
Đây là nền tảng, là định hướng để từ đó các cơ quan Nhà nước thể chế
hoá thành hệ thống văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến thu hồi đất.
 Điều kiện đảm bảo về pháp lý
Đây là đảm bảo quan trọng nhất đối với quyền lợi của người nông dân
bị thu hồi đất. Bởi lẽ, pháp luật được Nhà nước ban hành có hiệu lực trên toàn
bộ phạm vi lãnh thổ quốc gia, mọi chủ thể đều phải chấp hành pháp luật. Pháp
luật còn được đảm bảo thi hành bằng hàng loạt các chế tài cùng với sự hoạt
động có hiệu quả của hệ thống các cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Hiện nay, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh về vấn đề
thu hồi đất bao gồm: Hiến pháp năm 2013, Luật Đất đai năm 2013 và các văn
bản hướng dẫn là Nghị định 43/2014/NĐ-CP ngày 15/4/2014, Nghị định
44/2014/NĐ-CP ngày 15/4/2014, Nghị định 47/2014/NĐ-CP ngày 15/4/2014
của Chính phủ, Thông tư 37/2014/TT-BTNMT ngày 30/6/2014 của Bộ Tài
nguyên và môi trường. Đây là những cơ sở pháp lý quan trọng để tổ chức

18


thực hiện việc thu hồi đất.
Để thực hiện pháp luật về vấn đề này có hiệu quả thì hệ thống văn bản
quy phạm pháp luật trên đây cần đảm bảo một số yêu cầu cơ bản sau:
- Tính hợp hiến của văn bản pháp luật đất đai: Hiến pháp là đạo luật cơ
bản, có hiệu lực pháp lý cao nhất, là cơ sở để xây dựng nên toàn bộ hệ thống
pháp luật của quốc gia. Các quy định về chế độ sở hữu đất đai, chính sách của
Nhà nước khi thu hồi đất trong Hiến pháp là cơ sở quan trọng để pháp luật đất
đai cụ thể hóa thành các quy định chi tiết. Vì vậy, pháp luật đất đai phải được
xây dựng phù hợp với các quy định chung của Hiến pháp.
- Tính toàn diện, đồng bộ của các văn bản quy phạm pháp luật: Các văn
bản pháp luật có đồng bộ, không chồng chéo, mâu thuẫn lẫn nhau thì việc áp

dụng pháp luật mới thống nhất và có hiệu quả. Pháp luật đất đai phải đồng bộ
với pháp luật chung về dân sự và pháp luật khác liên quan như pháp luật về
đầu tư, pháp luật về nhà ở,…. Các văn bản pháp luật về đất đai cũng phải
đồng bộ với nhau, tránh trường hợp về cùng một vấn đề nhưng mỗi văn bản
lại có quy định riêng, gây khó khăn cho việc áp dụng pháp luật.
- Sự phù hợp của pháp luật với đường lối, chính sách của Đảng: Đường
lối, chính sách của Đảng là yếu tố mang tính định hướng, chỉ đạo. Pháp luật
phải phù hợp với những đường lối đó thì mới đảm bảo những chủ trương của
Đảng, Nhà nước được triển khai trên thực tế.
- Sự tương thích của pháp luật với các công cụ điều chỉnh xã hội khác:
Pháp luật là công cụ hữu hiệu nhất để điều chỉnh các quan hệ xã hội. Để phát
huy có hiệu quả vai trò của mình thì pháp luật phải phù hợp với các công cụ
điều chỉnh xã hội khác như kinh tế, đạo đức,…
- Sự phù hợp của pháp luật với thực tiễn: Pháp luật và phương tiện để
Nhà nước quản lý xã hội. Vì vậy, pháp luật là phải phù hợp với thực tiễn, xuất
phát yêu cầu của xã hội thì mới có thể điều chỉnh thực tiễn xã hội đó.

19


 Điều kiện đảm bảo về kinh tế và xã hội
Để thực thực thi việc bảo đảm quyền lợi của nông dân khi Nhà nước
thu hồi đất phải có nguồn kinh phí, vật chất khá lớn. Những chi phí này bao
gồm chi phí cho công tác tuyên truyền giáo dục pháp luật; chi phí cho cơ quan
nhà nước tổ chức triển khai thực hiện và xử lý vi phạm pháp luật, và đặc biệt
là các chi phí cho bồi thường, hỗ trợ và xây dựng các khu vực tái định cư cho
người bị thu hồi đất.
Quyền lợi của nông dân khi Nhà nước thu hồi đất phục vụ cho các dự
án phát triển kinh tế còn được đảm bảo bởi các cơ chế xã hội khác như: tổ
chức đào tạo nghề nghiệp, giới thiệu việc làm, quỹ trợ cấp thất nghiệp,…Các

cơ chế xã hội này góp phần bảo đảm cho người nông dân sau thu hồi đất có
thể ổn định đời sống, nâng cao trình độ, và tìm kiếm việc làm mới.
 Điều kiện đảm bảo về trình độ, năng lực, phẩm chất của cán bộ thực
hiện công tác thu hồi đất
Cán bộ thực hiện công tác thu hồi đất là những người trực tiếp quyết
định các nội dung cụ thể về quyền lợi của người nông dân bị thu hồi đất trong
từng dự án cụ thể. Pháp luật đã quy định nhưng người thực hiện công tác thu
hồi đất lại hiểu không đúng hoặc cố tình làm sai pháp luật thì quyền lợi của
người bị thu hồi đất sẽ bị ảnh hưởng trực tiếp.
Vì vậy, quyền lợi của nông dân khi Nhà nước thu hồi đất để phục vụ
cho các dự án phát triển kinh tế muốn được đảm bảo tốt còn đòi hỏi ở chất
lượng đội ngũ cán bộ thực hiện bồi thường, giải phóng mặt bằng. Họ phải
trung thực, tận tâm trong công việc. Đồng thời phải có trình độ chuyên
môn, nghiệp vụ, có phẩm chất chính trị đạo đức tốt…và cần có chế độ tiền
lương phù hợp.
1.5. Kinh nghiệm từ thực tiễn pháp luật một số nước trên thế giới
Tìm hiểu tổng quan pháp luật về thu hồi đất để thực hiện các dự án phát

20


triển kinh tế của một số nước như Trung Quốc, Singapore, và Hàn Quốc,
chúng ta có thể rút ra một số kinh nghiệm mang tính tham khảo cho Việt Nam
trong quá trình xây dựng và hoàn thiện lĩnh vực pháp luật này như sau:
1.5.1. Kinh nghiệm từ pháp luật Trung Quốc
Ở Trung Quốc, mục tiêu bao trùm lên chính sách bồi thường, hỗ trợ, tái
định cư là hạn chế đến mức tối đa việc thu hồi đất, giải tỏa mặt bằng, cũng
như số lượng người bị ảnh hưởng bởi việc thu hồi đất để thực hiện dự án đầu
tư. Phương án đền bù được xây dựng cẩn thận, trên cơ sở tính toán đầy đủ lợi
ích của nhà nước, tập thể và cá nhân, đảm bảo cho những người bị thu hồi đất

có thể khôi phục lại hoặc cải thiện mức sống so với trước khi bị thu hồi đất.
Theo quy định của pháp luật Trung Quốc, khi Nhà nước thu hồi đất thì
người nào sử dụng đất sau đó sẽ có trách nhiệm bồi thường. Người bị thu hồi
đất được thanh toán ba loại tiền: tiền bồi thường đất đai, tiền trợ cấp về tái
định cư, tiền trợ cấp bồi thường hoa màu trên đất. Cách tính tiền bồi thường
đất đai và tiền trợ cấp tái định cư căn cứ theo tổng giá trị tổng sản lượng của
đất đai những năm trước đây rồi nhân với hệ số. Tiền bồi thường cho hoa
màu, cho các loại tài sản trên đất được tính theo giá cả hiện tại.
Mức bồi thường được thực hiện theo nguyên tắc đảm bảo cho người
dân có cuộc sống bằng hoặc cao hơn nơi ở cũ. Việc quản lý giải phóng mặt
bằng được giao cho các cục quản lý tài nguyên đất đai ở địa phương đảm
nhiệm. Tổ chức, cá nhân được quyền sử dụng thửa đất nào sẽ trả tiền thuê một
đơn vị xây dựng giải tỏa mặt bằng.
Để giải quyết nhà ở cho người dân khi giải phóng mặt bằng, phương
thức chủ yếu của Trung Quốc là trả tiền và hỗ trợ bằng cách tính ba khoản
sau: Một là, giá cả xây dựng lại, chênh lệch giữa giá xây dựng lại nhà mới và
nhà cũ; Hai là, giá đất tiêu chuẩn; Ba là, trợ cấp về giá cả. Ba khoản này cộng
lại là tiền bồi thường về nhà ở.

21


×