Tải bản đầy đủ (.pdf) (117 trang)

Các điều kiện của trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội trong Luật hình sự Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.09 MB, 117 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN THỊ HẰNG

CÁC ĐIỀU KIỆN CỦA TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ
ĐỐI VỚI NGƢỜI DƢỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI
TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2018


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN THỊ HẰNG

CÁC ĐIỀU KIỆN CỦA TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ
ĐỐI VỚI NGƢỜI DƢỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI
TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 8380101.03

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Cán bộ hƣớng dẫn khoa học: TS. HOÀNG VĂN HÙNG

HÀ NỘI - 2018



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƢỜI CAM ĐOAN

Nguyễn Thị Hằng


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chƣơng 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CÁC ĐIỀU KIỆN CỦA
TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ ĐỐI VỚI NGƢỜI DƢỚI 18 TUỔI ....... 7
1.1.

Khái niệm, đặc điểm của ngƣời dƣới 18 tuổi phạm tội ................. 7


1.1.1.

Khái niệm ngƣời dƣới 18 tuổi phạm tội ............................................. 7

1.1.2.

Các đặc điểm của ngƣời dƣới 18 tuổi ................................................. 9

1.2.

Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của các điều kiện trách
nhiệm hình sự đối với ngƣời dƣới 18 tuổi phạm tội .................... 13

1.2.1.

Chính sách hình sự đối với ngƣời dƣới 18 tuổi phạm tội ................. 13

1.2.2.

Khái niệm điều kiện của trách nhiệm hình sự đối với ngƣời dƣới
18 tuổi phạm tội ................................................................................ 20

1.2.3.

Đặc điểm điều kiện của trách nhiệm hình sự đối với ngƣời dƣới
18 tuổi phạm tội ................................................................................ 25

1.2.4.

Ý nghĩa các điều kiện của trách nhiệm hình sự đối với ngƣời

dƣới 18 tuổi phạm tội ........................................................................ 27

1.3.

Khái quát lịch sử các quy phạm pháp luật về trách nhiệm
hình sự đối với ngƣời dƣới 18 tuổi phạm tội trong pháp luật
hình sự Việt Nam ............................................................................ 29

1.3.1.

Giai đoạn từ sau năm 1945 đến pháp điển hóa lần thứ nhất – Bộ
luật hình sự Việt Nam năm 1985 ...................................................... 29

1.3.2.

Giai đoạn từ pháp điển hóa lần thứ nhất – Bộ luật hình sự Việt
Nam năm 1985 đến giai đoạn pháp điển hóa lần thứ 2 – Bộ luật
hình sự năm 1999 .............................................................................. 31


1.4.

Khái quát các quy phạm pháp luật về điều kiện của trách
nhiệm hình sự đối với ngƣời dƣới 18 tuổi phạm tội trong
pháp luật hình sự một số nƣớc trên thế giới................................. 33

1.4.1.

Trong Bộ luật hình sự liên bang Nga ................................................ 33


1.4.2.

Trong Bộ luật hình sự Trung Quốc ................................................... 35

KẾT LUẬN CHƢƠNG 1................................................................................ 38
Chƣơng 2: CÁC QUY ĐỊNH HIỆN HÀNH VỀ CÁC ĐIỀU KIỆN
CỦA TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ CỦA NGƢỜI DƢỚI 18
TUỔI VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG ĐỐI VỚI NGƢỜI DƢỚI
18 TUỔI PHẠM TỘI ...................................................................... 39
2.1.

Các quy định về điều kiện của trách nhiệm hình sự ngƣời
dƣới 18 tuổi theo pháp luật Việt Nam hiện hành......................... 39

2.1.1.

Nguyên tắc xử lý đối với ngƣời dƣới 18 tuổi theo pháp luật Việt
Nam hiện hành .................................................................................. 39

2.1.2.

Các quy định cụ thể về điều kiện của trách nhiệm hình sự của ngƣời
dƣới 18 tuổi phạm tội trong Bộ luật hình sự Việt Nam hiện hành ........ 47

2.2.

Thực tiễn áp dụng các quy định về điều kiện của trách nhiệm
hình sự đối với ngƣời dƣới 18 tuổi phạm tội ................................ 62

2.2.1.


Tình hình tội phạm do ngƣời dƣới 18 tuổi thực hiện........................ 62

2.2.2.

Thực trạng việc áp dụng quy định về điều kiện của trách nhiệm
hình sự đối với ngƣời dƣới 18 tuổi phạm tội .................................... 66

2.2.3.

Những hạn chế, tồn tại trong áp dụng các điều kiện của trách
nhiệm hình sự đối với ngƣời dƣới 18 tuổi phạm tội ......................... 71

KẾT LUẬN CHƢƠNG 2................................................................................ 77
Chƣơng 3: CƠ SỞ VÀ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ
ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ
VIỆT NAM VỀ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ ĐỐI VỚI NGƢỜI
DƢỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI ....................................................................78
3.1.

Cơ sở hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả áp dụng
điều kiện của trách nhiệm hình sự đối với ngƣời dƣới 18
tuổi phạm tội .................................................................................... 78


3.2.

Các giải pháp hoàn thiện pháp luật .............................................. 82

3.3.


Các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về điều
kiện của trách nhiệm hình sự đối với ngƣời dƣới 18 tuổi
phạm tội ........................................................................................... 91

3.3.1.

Tăng cƣờng công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục và hƣớng
dẫn thực hiện chính sách hình sự đối với ngƣời dƣới 18 tuổi
phạm tội ............................................................................................. 91

3.3.2.

Giáo dục chính trị tƣ tƣởng, đạo đức nghề nghiệp và nâng cao
trình độ chuyên môn của đội ngũ cán bộ các cơ quan bảo vệ
pháp luật, đặc biệt là của Thẩm phán và Hội thẩm........................... 94

3.3.3.

Nâng cao hiệu quả công tác tái hòa nhập cộng đồng cho ngƣời
dƣới 18 tuổi phạm tội ........................................................................ 98

KẾT LUẬN CHƢƠNG 3.............................................................................. 101
KẾT LUẬN .................................................................................................. 102
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 104


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

BLHS:


Bộ luật hình sự

BLTTHS:

Bộ luật tố tụng hình sự

CSHS:

Chính sách hình sự

PLHS:

Pháp luật hình sự

TNHS:

Trách nhiệm hình sự


DANH MỤC CÁC BẢNG

Số hiệu

Tên bảng

Trang

Bảng 2.1.


Số liệu thống kê xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự có bị
cáo là ngƣời dƣới 18 tuổi phạm tội

63

Phân tích tình hình áp dụng TNHS đối với ngƣời dƣới
18 tuổi phạm tội

67

Tƣơng quan giữa tổng số bị cáo là ngƣời dƣới 18 tuổi
đã xét xử trên toàn quốc với tổng số ngƣời dƣới 18 tuổi
đƣợc miễn TNHS từ năm 2013 đến năm 2017

68

Bảng 2.2.

Bảng 2.3.


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm gần đây, tình trạng ngƣời dƣới 18 tuổi vi phạm
pháp luật xảy ra khá phổ biến, điều cần lƣu ý là hành vi vi phạm pháp luật
hình sự (PLHS) của ngƣời dƣới 18 tuổi ngày cành gia tăng. Việc xử lý ngƣời
dƣới 18 tuổi phạm tội là một việc khá phức tạp bởi ngƣời dƣới 18 tuổi còn
yếu về nhận thức, hành vi của họ thƣờng mang tính bột phát do bị lôi kéo
hoặc kích động, họ chƣa đủ khả năng làm chủ hành động của mình hơn nữa
họ còn có một tƣơng lai dài phía trƣớc. Do đó, không thể áp dụng các biện

pháp xử lý ngƣời dƣới 18 tuổi phạm tội giống với những ngƣời đã thành
niên. Để khắc phục tình trạng nêu trên, Nhà nƣớc ta cần tăng cƣờng hơn nữa
vai trò của gia đình, nhà trƣờng và tổ chức xã hội trong việc giáo dục những
đối tƣợng ngƣời dƣới 18 tuổi phạm tội. Đồng thời, xây dựng một hệ thống
pháp luật hoàn thiện, chính sách PLHS phù hợp để điều chỉnh và áp dụng
cho đối tƣợng phạm tội này.
Với quan điểm nhất quán trong việc bảo vệ trẻ em, Nhà nƣớc Việt Nam
đã tham gia Công ƣớc của Liên hợp quốc về quyền trẻ em và đã thúc đẩy việc
hoàn thiện hệ thống pháp luật bảo vệ quyền trẻ em, trong đó, đã dành sự quan
tâm đặc biệt cho đối tƣợng trẻ em vi phạm pháp luật, nhất là những trƣờng
hợp ngƣời dƣới 18 tuổi phạm tội [32].
Chính sách hình sự (CSHS) của Nhà nƣớc ta đối với việc truy cứu trách
nhiệm hình sự (TNHS) đối với ngƣời dƣới 18 tuổi là nhằm giúp đỡ, cải tạo,
giáo dục để ngƣời dƣới 18 tuổi nhận ra sai lầm, từ đó sửa chữa những sai lầm
của mình, tạo điều kiện để các em có khả năng tái hòa nhập cộng đồng.
Kế thừa nguyên tắc nhân đạo nêu trên, Luật sửa đổi, bổ sung một số
điều của Bộ luật hình sự (BLHS) năm 2015 và BLHS năm 2015 đã có những
sửa đổi quan trọng trong CSHS đối với ngƣời dƣới 18 tuổi phạm tội.

1


CSHS đối với ngƣời dƣới 18 tuổi phạm tội trong BLHS năm 2015 thể
hiện ở phạm vi chịu TNHS của ngƣời dƣới 18 tuổi và chính sách xử lý đối với
ngƣời dƣới 18 tuổi. Do đó, việc nghiên cứu đề tài “Các điều kiện của TNHS
đối với người dưới 18 tuổi phạm tội trong luật hình sự Việt Nam” là vấn đề
mang tính thời sự và cấp thiết.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trƣớc hết, về giáo trình, sách chuyên khảo, bình luận có các công trình
sau: 1) PGS.TS. Trịnh Quốc Toản, "Chƣơng XVIII - Những đặc thù về

TNHS đối với ngƣời chƣa thành niên phạm tội", Giáo trình Luật hình sự Việt
Nam (Phần chung), Nxb Đại học Quốc Gia Hà Nội, 2001, tái bản năm 2003,
2007 (Tập thể tác giả do GS. TSKH. Lê Cảm chủ biên); 2) TS. Hoàng Văn
Hùng, "Chƣơng XVI - TNHS đối với ngƣời chƣa thành niên phạm tội", Giáo
trình luật hình sự Việt Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2000 (tập thể tác
giả do GS. TS Nguyễn Ngọc Hòa chủ biên); 3) PGS. TS Trần Đình Nhã,
"Chƣơng XXIV - TNHS đối với ngƣời chƣa thành niên phạm tội", Giáo trình
luật hình sự Việt Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2003 (tập thể tác giả
do GS. TS Võ Khánh Vinh chủ biên); 4) GS. TS Nguyễn Xuân Yêm,
"Chƣơng 27 - Phòng ngừa các tội phạm do ngƣời chƣa thành niên gây ra", Tội
phạm học hiện đại và phòng ngừa tội phạm, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội,
2001; 5) ThS. Trịnh Đình Thể, Áp dụng CSHS đối với người chưa thành niên
phạm tội, Nxb Tƣ pháp, Hà Nội, 2006; 6) TS. Vũ Đức Khiển, Bùi Hữu Hùng,
Phạm Xuân Chiến, Đỗ Văn Hán, Trần Phàn, Phòng ngừa người chưa thành
niên phạm tội, Nxb Pháp lý, Hà Nội, 1987; 7) ThS. Trần Đức Châm, Thanh,
thiếu niên làm trái pháp luật - Thực trạng và giải pháp, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 2002; v.v…
Bên cạnh đó, dƣới góc độ khoa học cho thấy mới có một số công trình
ở cấp độ luận văn thạc sĩ luật học nhƣng dƣới khía cạnh pháp lý hình sự hoặc

2


tội phạm học hay xem xét nội dung vấn đề trong tƣơng quan với nhiều nội
dung khác nhƣ quyết định hình phạt, TNHS ngƣời chƣa thành niên:
1) Đào Thị Nga, Quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên
phạm tội, Luận văn thạc sĩ luật học, trƣờng Đại học Luật Hà Nội, 1997; 2)
Trần Văn Dũng, TNHS của người chưa thành niên phạm tội trong luật hình
sự Việt Nam, Luận văn thạc sĩ Luật học, Trƣờng Đại học Luật Hà Nội, 2003;
3) Nguyễn Minh Khuê, Quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên

phạm tội, Luận văn thạc sĩ Luật học, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội,
2007; 4) Lƣu Ngọc Cảnh, Các hình phạt và biện pháp tư pháp áp dụng đối
với người chưa thành niên phạm tội theo Luật hình sự Việt Nam (trên cơ sở
thực tiễn xét xử trên địa bàn thành phố Hà Nội), Luận văn thạc sĩ Luật học,
Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2010; v.v…
Còn về các công trình dƣới dạng bài viết đăng trên tạp chí khoa học
pháp lý có thể kể đến các công trình sau: 1) GS. TSKH Lê Cảm, TS. Đỗ Thị
Phƣợng, Tư pháp hình sự đối với người chưa thành niên: Những khía cạnh
pháp lý hình sự, tố tụng hình sự, tội phạm học và so sánh luật học, Tạp chí
Tòa án nhân dân, số 20-10/2004; 2) TS. Trần Văn Dũng, Quyết định hình
phạt trong trường hợp người chưa thành niên phạm tội, Tạp chí Luật học, số
5/2000; 3) TS. Dƣơng Tuyết Miên, Quyết định hình phạt đối với đối với
người chưa thành niên phạm tội, Tạp chí Luật học, số 4/2002; 4) TS. Trƣơng
Minh Mạnh, Phân loại tội phạm với việc quy định TNHS của người chưa
thành niên, Tạp chí Kiểm sát, số 8/2002; 5) TS. Trịnh Tiến Việt, Những khía
cạnh pháp lý hình sự về hình phạt và biện pháp áp dụng đối với người chưa
thành niên phạm tội, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 13 (6), 14 (7)/2010; v.v…
Tuy nhiên, hiện nay trong khoa học luật hình sự Việt Nam vẫn chƣa có
công trình nào đề cập một cách tƣơng đối có hệ thống, đồng bộ và toàn diện
về các điều kiện của TNHS đối với ngƣời dƣới 18 tuổi phạm tội và đặc biệt là

3


ở cấp độ một luận văn thạc sĩ. Do đó, việc lựa chọn đề tài của tác giả có ý
nghĩa lý luận và thực tiễn quan trọng.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu về các điều kiện của TNHS đối với ngƣời dƣới 18
tuổi phạm tội trong luật hình sự Việt Nam. Cụ thể nghiên cứu các vấn đề:

Khái niệm, đặc điểm ngƣời dƣới 18 tuổi, khái niệm điều kiện của TNHS.
Luận văn cũng đánh giá, nhận xét số liệu từ thực tiễn áp dụng PLHS đối với
các trƣờng hợp ngƣời dƣới 18 tuổi phạm tội. Từ đó đƣa ra các giải pháp nhằm
hoàn thiện PLHS và nâng cao việc hiệu quả áp dụng PLHS đối với các trƣờng
hợp ngƣời dƣới 18 tuổi phạm tội.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Từ mục đích nghiên cứu trên, đề tài có những nhiệm vụ nghiên cứu sau:
- Tìm hiểu, nghiên cứu một số vấn đề lý luận về các điều kiện của
TNHS đối với ngƣời dƣới 18 tuổi phạm tội;
- Phân tích, đánh giá thuận lợi và khó khăn, những kết quả đạt đƣợc
cũng nhƣ những hạn chế tồn tại từ đó đề xuất, kiến nghị một số giải pháp,
phƣơng hƣớng nhằm hoàn thiện chính sách pháp luật Việt Nam về vấn đề
TNHS của ngƣời dƣới 18 tuổi phạm tội.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về các điều kiện
của TNHS đối với ngƣời dƣới 18 tuổi phạm tội trong luật hình sự Việt Nam
hiện nay dựa trên cơ sở các quy định của pháp luật và các quan điểm của các
học giả đã công bố về vấn đề này.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu những quy định của PLHS Việt Nam về các điều

4


kiện của TNHS đối với ngƣời dƣới 18 tuổi phạm tội trong lịch sử lập pháp,
đặc biệt là trong BLHS năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Đề tài nghiên cứu thực tiễn áp dụng TNHS đối với ngƣời dƣới 18 tuổi
phạm tội ở Việt Nam t/rong giai đoạn từ năm 2013 đến năm 2017.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu

5.1. Cơ sở lý luận
Đề tài nghiên cứu dựa trên cơ sở chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy
vật lịch sử của Mác Lê nin, và tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về nhà nƣớc và pháp
luật, ngoài ra đề tài còn dựa trên các chủ trƣơng, chính sách của Đảng và Nhà
nƣớc về CSHS, CSHS đối với ngƣời dƣới 18 tuổi phạm tội.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Dựa trên cơ sở lý luận trên, đề tài sử dụng các phƣơng pháp nghiên
cứu nhƣ:
- Phƣơng pháp phân tích, tổng hợp đƣợc sử dụng trong nghiên cứu các
quy phạm pháp luật và các quan điểm của các học giả về vấn đề nghiên cứu;
- Phƣơng pháp so sánh đƣợc sử dụng trong việc phân tích so sánh quy
định của pháp luật qua các thời kỳ và so sánh với pháp luật một số quốc gia
- Phƣơng pháp thống kê, phân tích bản án đƣợc sử dụng trong nghiên
cứu thực tiễn áp dụng TNHS đối với ngƣời dƣới 18 tuổi phạm tội.
6. Tính mới và những đóng góp của đề tài
Các công trình nghiên cứu, bài viết đã công bố phần nào đã đƣa ra và
giải quyết nhiều vấn đề liên quan đến TNHS của ngƣời dƣới 18 tuổi tuy nhiên
cho đến nay chƣa có công trình nào nghiên cứu một cách hệ thống và toàn
diện chuyên sâu về các điều kiện của TNHS đối với ngƣời dƣới 18 tuổi phạm
tội. Bên cạnh đó, hiện nay, việc quy định về TNHS của ngƣời dƣới 18 tuổi
vẫn đang là một trong những nội dung cần quan tâm. Chính vì thế, việc
nghiên cứu về đề tài “Các điều kiện của TNHS đối với người dưới 18 tuổi

5


phạm tội trong luật hình sự Việt Nam” sẽ tìm hiểu, phân tích, đánh giá cụ
thể hơn về TNHS của nhóm đối tƣợng phạm tội dƣới 18 tuổi.
Từ đó, đƣa ra những đánh giá, đề xuất, phƣơng hƣớng nhằm góp
phần hoàn thiện hơn nữa hệ thống PLHS Việt Nam trong công cuộc đấu

tranh, phòng chống tội phạm. Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo,
nghiên cứu tại Khoa luật Đại học quốc gia Hà Nội và các cơ sở đào tạo
khác ở Việt Nam.
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, đề tài
đƣợc kết cấu thành 03 chƣơng:
Chương 1: Một số vấn đề chung về các điều kiện của trách nhiệm hình
sự đối với ngƣời dƣới 18 tuổi.
Chương 2: Các quy định pháp luật hiện hành về các điều kiện của trách
nhiệm hình sự đối với ngƣời dƣới 18 tuổi phạm tội và thực tiễn áp dụng đối
với ngƣời dƣới 18 tuổi phạm tội.
Chương 3: Cơ sở và các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các điều
kiện của trách nhiệm hình sự đối với ngƣời dƣới 18 tuổi phạm tội.

6


Chƣơng 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CÁC ĐIỀU KIỆN CỦA
TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ ĐỐI VỚI NGƢỜI DƢỚI 18 TUỔI
1.1. Khái niệm, đặc điểm của ngƣời dƣới 18 tuổi phạm tội
1.1.1. Khái niệm người dưới 18 tuổi phạm tội
Xét trên phƣơng diện xã hội, ngƣời dƣới 18 tuổi (trƣớc đây BLHS 1999
dùng thuật ngữ “ngƣời chƣa thành niên”) là những ngƣời chƣa hoàn toàn phát
triển đầy đủ về thể chất và tinh thần, cũng nhƣ chƣa phát triển toàn diện về
nhân cách. Xét trên phƣơng diện pháp luật, đối tƣợng này chƣa có đầy đủ
quyền lợi và nghĩa vụ của một công dân. Trong pháp luật của mỗi quốc gia
đều quy định một độ tuổi cụ thể để một ngƣời đƣợc coi là đã có đủ năng lực
để tự mình tham gia vào các quan hệ xã hội cũng nhƣ quan hệ pháp luật.
Ở Việt Nam, độ tuổi này đƣợc xác định thống nhất trong Hiến pháp

2013, BLHS năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017), Bộ luật tố tụng hình sự
năm 2015, Bộ luật Lao động, Bộ luật Dân sự, Luật xử lý vi phạm hành chính
và một số văn bản quy phạm pháp luật khác. Tất cả các văn bản pháp luật đó
đều những quy định riêng, những chế định pháp luật riêng đối với ngƣời dƣới
18 tuổi trong từng lĩnh vực cụ thể.
Cũng cần phải phân biệt khái niệm ngƣời dƣới 18 tuổi với khái niệm trẻ
em. Theo Điều 1 Luật trẻ em năm 2016 thì “Trẻ em là người dưới 16 tuổi”[51].
Nhƣ vậy, trẻ em trong pháp luật Việt Nam có phạm vi độ tuổi thấp hơn so với
ngƣời dƣới 18 tuổi – đối tƣợng có các quy định điều chỉnh riêng biệt hơn
trong các văn bản pháp luật đã nêu ở trên.
Việc lấy độ tuổi 18 tuổi làm giới hạn để xây dựng các quy phạm pháp
luật nói chung và các quy phạm PLHS nói riêng mang tính chất riêng biệt hơn
là dựa trên cơ sở thực tiễn về sự phát triển về mặt thể chất và tinh thần của

7


con ngƣời và cơ sở lý luận là chính sách pháp luật (hình sự) của mỗi quốc gia
Theo đó, ngƣời dƣới 18 tuổi khi tham gia vào quan hệ PLHS sẽ có những quy
định riêng biệt hơn về quyền lợi và nghĩa vụ.
BLHS 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017) quy định về tuổi chịu TNHS
nhƣ sau:
1. Ngƣời từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu TNHS về mọi tội
phạm, trừ những tội phạm mà Bộ luật này có quy định khác.
2. Ngƣời từ đủ 14 tuổi đến dƣới 16 tuổi phải chịu TNHS về
tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định
tại một trong các điều 123, 134, 141, 142, 143, 144, 150, 151, 168,
169, 170, 171, 173, 178, 248, 249, 250, 251, 252, 265, 266, 286,
287, 289, 290, 299, 303 và 304 của Bộ luật này [52, Điều 12].
Quy định này đã chỉ rõ phạm vi chịu TNHS của những ngƣời dƣới 18

tuổi. Ngƣời từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu TNHS về mọi tội phạm, trừ những
tội phạm mà BLHS có quy định khác. Phạm vi chịu TNHS của của ngƣời đủ
14 tuổi đến dƣới 16 tuổi đƣợc chỉ rõ gồm 28 loại tội phạm. Về tính chất các
tội phạm mà ngƣời từ đủ 14 tuổi đến dƣới 16 tuổi phải chịu là “tội phạm rất
nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng” và trong 28 tội phạm mà
ngƣời từ đủ 14 tuổi đến dƣới 16 tuổi phải chịu TNHS nêu trên đều là các tội
phạm có lỗi cố ý.
Đối với trƣờng hợp chuẩn bị phạm tội, BLHS năm 2015 tại khoản 3
Điều 14 quy định rõ “người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chuẩn bị phạm tội
quy định tại Điều 123, Điều 168 của Bộ luật này thì phải chịu TNHS” [49].
BLHS năm 2015 đã hạn chế phạm vi chịu TNHS trong giai đoạn chuẩn bị
phạm tội của ngƣời từ đủ 14 đến dƣới 16 tuổi chỉ còn 2 tội là tội giết ngƣời
(Điều 123) và tội cƣớp tài sản (Điều 168) và dù thuộc trƣờng hợp nào trong
Điều 123 và Điều 168 thì đều phải chịu TNHS.

8


Để xác định một ngƣời dƣới 18 tuổi phạm tội phải có đầy đủ các căn cứ
sau: - Có hành vi phạm tội do ngƣời dƣới 18 tuổi thực hiện. Căn cứ này xuất
phát từ cơ sở của TNHS đƣợc quy định tại khoản 1 Điều 2 BLHS: “Chỉ người
nào phạm một tội đã được BLHS quy định mới phải chịu TNHS” [49].
- Ngƣời thực hiện hành vi phạm tội đã đủ tuổi chịu TNHS tƣơng ứng
với loại tội phạm đƣợc quy định trong BLHS.
Từ những phân tích trên, chúng tôi đƣa ra định nghĩa khoa học về
ngƣời dƣới 18 tuổi phạm tội nhƣ sau: Người dưới 18 tuổi phạm tội là người từ
đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội mà
BLHS quy định là tội phạm.
1.1.2. Các đặc điểm của người dưới 18 tuổi
Ngƣời dƣới 18 tuổi có những đặc điểm sau, điều này ảnh hƣởng đến xu

hƣớng phạm tội và tâm lý ngƣời phạm tội là ngƣời dƣới 18 tuổi.
* Đặc điểm về trạng thái xúc cảm
Ngƣời dƣới 18 tuổi là ngƣời đang trong quá trình phát triển cả về sinh lí
lẫn tâm lí, ý thức. Đây là giai đoạn diễn ra những biến cố rất đặc biệt, đó là sự
phát triển cơ thể mất cân bằng nên đã dẫn đến tình trạng mất cân bằng tạm
thời trong cảm xúc của ngƣời dƣới 18 tuổi.
Sự phát triển không cân bằng của hệ tim và mạch. Tim phát triển nhanh
hơn các mạch máu đã gây ra sự thiếu máu trong từng bộ phận trên vỏ não và
đôi khi còn làm rối loạn chức năng trong hoạt động của hệ tim mạch.
Do đó, ngƣời dƣới 18 tuổi có cảm giác mệt mỏi, chóng mặt, nhức đầu,
sức làm việc suy giảm, dễ bị kích động, dễ nổi nóng… Đồng thời, tuyến nội
tiết ở ngƣời dƣới 18 tuổi hoạt động mạnh (đặc biệt là tuyến sinh dục và tuyến
giáp trạng) gây ra sự mất cân bằng trong hoạt động của hệ thần kinh trung
ƣơng, dễ đƣa họ đến những cơn xúc động mạnh, những phản ứng nóng nảy vô
cớ, những hành vi bất bình thƣờng.

9


Ở lứa tuổi chƣa thành niên quá trình hƣng phấn của vỏ não mạnh,
chiếm ƣu thế và các quá trình ức chế có điều kiện bị suy giảm. Trong khi đó,
khí chất có cơ sở sinh lí là các kiểu hoạt động thần kinh là thuộc tính tâm lí
phức hợp của cá nhân, biểu hiện cƣờng độ, tiến độ và nhịp độ của các hoạt
động tâm lí, thể hiện sắc thái của hành vi, cử chỉ của cá nhân. Do vậy, nhiều
trƣờng hợp các em thuộc khí chất nóng và ƣu tƣ đã không làm chủ đƣợc bản
thân, không kiềm chế đƣợc xúc động mạnh, dễ bị lôi kéo, kích động, dễ nổi
nóng, gây gổ [36].
Nhƣ vậy, sự mất cần bằng tạm thời về trạng thái xúc cảm của ngƣời
dƣới 18 tuổi là một trong những nhân tố có thể dẫn tới hành vi phạm tội khi
các em không làm chủ đƣợc bản thân và khi nó đƣợc kết hợp với một số yếu

tố tâm lí có tính tiêu cực khác.
* Đặc điểm về nhu cầu độc lập
Những phát triển mạnh mẽ về thể chất và sự hoàn thiện cơ bản của
các chức năng sinh lí làm cho ngƣời dƣới 18 tuổi có ấn tƣợng sâu sắc rằng
“mình không còn là trẻ con nữa”. Đặc điểm tâm lí nổi bật, đặc trƣng nhất
mà ta thƣờng thấy ở lứa tuổi này là sự biểu hiện nhu cầu độc lập. Nhu cầu
độc lập là mong muốn tự hành động, tự đƣa ra quyết định theo cách phù
hợp với nhận thức của bản thân hơn là để thoả mãn đòi hỏi của xã hội, môi
trƣờng hay của ngƣời khác. Nhu cầu độc lập có thể đƣợc hiểu là việc cá
nhân tự hành động và tự ra quyết định theo ý kiến riêng mà không muốn bị
ảnh hƣởng của ngƣời khác.
Sự hình thành và phát triển nhu cầu độc lập ở lứa tuổi chƣa thành niên
là sự phát triển tâm lí có tính chất tất yếu của trẻ. Các em muốn tự khẳng định
những phát triển của mình về nhân cách trên con đƣờng trở thành ngƣời lớn.
Trong nhiều lĩnh vực của cuộc sống, các em không muốn phụ thuộc vào
ngƣời lớn, trƣớc hết là cha mẹ, ông bà và những ngƣời khác. Các em muốn
suy nghĩ và hành động theo cách thức riêng của mình [36].

10


Nhu cầu độc lập của ngƣời dƣới 18 tuổi thể hiện trƣớc hết trong hoạt
động học tập, trong giao tiếp với bạn bè và ngƣời lớn ở gia đình, nhà trƣờng
và ngoài xã hội, trong ăn mặc, trong quan hệ bạn bè, trong thƣởng thức nghệ
thuật hay thể thao...
* Đặc điểm về nhận thức pháp luật
Có thể nói, lứa tuổi chƣa thành niên là giai đoạn phát triển nhƣ “vũ
bão” về mặt sinh học nhƣng lại thiếu cân đối về mặt trí tuệ. Đó là lứa tuổi mà
kinh nghiệm trong cuộc sống còn quá ít ỏi, đặc biệt là khả năng nhận thức về
pháp luật còn nhiều hạn chế.

Thực tế cho thấy những ngƣời dƣới 18 tuổi còn rất non nớt về kiến thức
xã hội và ý thức pháp luật. Nhận thức và quan niệm về pháp luật chƣa hình
thành đầy đủ hoặc bị lệch lạc theo cách hiểu chủ quan của họ. Vì thế, nhiều em
thƣờng thờ ơ, lãnh đạm đối với các quy định của pháp luật. Chẳng hạn, khi đi
xe đạp thì dăng thành hàng ba, hàng tƣ trên đƣờng phố, gây cản trở giao thông,
đi xe máy thì đèo ba, đèo bốn, phóng nhanh, vƣợt ẩu gây nguy hiểm cho chính
các em và đặc biệt là cho những ngƣời tham gia giao thông khác.
Một biểu hiện khác của sự nhận thức về pháp luật chƣa đúng đắn là
không ít em cho rằng, những yêu cầu và những đòi hỏi của các chuẩn mực
luật pháp chỉ đƣợc quy định trong các văn bản pháp luật và hoàn toàn mang
tính hình thức còn hành động thì phải căn cứ vào nhu cầu cụ thể của cá nhân
mới thể hiện đƣợc cuộc sống tự do [36].
Có thể nói ý thức về các chuẩn mực xã hội nói chung và các chuẩn mực
pháp luật nói riêng có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với sự phát triển nhân
cách của các em. Nó giúp các em phát triển nhân cách một cách đúng đắn và
trở thành công dân tốt cho xã hội. Khi các em có ý thức pháp luật đúng đắn
thì đây chính là biểu hiện của cái "siêu tôi", là sự hạn chế, ngăn ngừa những
nhu cầu, hành vi mang tính vô thức, những khẳng định của nhu cầu độc lập
không hợp lí của các em.

11


Khi các em không có ý thức pháp luật đúng đắn thì xu hƣớng dẫn tới
các hành vi lệch chuẩn của các em là rất lớn. Thực tế cho thấy, nhiều ngƣời
dƣới 18 tuổi thực hiện hành vi phạm tội đặc biệt nghiêm trọng nhƣng lại
không biết rằng mình phạm tội, không thấy đƣợc hết tính nguy hiểm đối với
xã hội của hành vi đó mà lại cho rằng hành vi của mình là hợp pháp, là tự vệ
hoặc bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình.
* Đặc điểm về nhu cầu khám phá cái mới

Tìm hiểu, khám phá cái mới là một trong những nhu cầu của các em ở
lứa tuổi chƣa thành niên. Các em muốn khám phá thế giới tự nhiên, khám phá
cuộc sống xã hội xung quanh mình. Các em muốn tiếp thu, học hỏi kinh
nghiệm sống, các kiến thức của những ngƣời lớn tuổi và cả những bạn bè
cùng lứa tuổi. Trong bối cảnh các phƣơng tiện thông tin đại chúng phát triển
mạnh mẽ và hiện đại nhƣ ngày nay thì khao khát hiểu biết của các em không
chỉ trong phạm vi của cuộc sống quanh mình, phạm vi của đất nƣớc mình mà
còn khám phá cuộc sống của các quốc gia khác. Khám phá cuộc sống giúp các
em nâng cao nhận thức, hiểu biết của mình. Đây là điều quan trọng đối với việc
phát triển nhân cách của ngƣời dƣới 18 tuổi. Điều đáng lƣu ý là các em không
chỉ có nhu cầu khám phá cái mới mà còn tìm tòi, thử nghiệm cái mới, trong đó
có cả những cái thiếu lành mạnh, trái với các chuẩn mực xã hội [36]. Đây
chính là một trong những nguyên nhân dẫn tới hành vi phạm tội của các em.
Vấn đề này có thể đƣợc lí giải nhƣ sau: Các em rất tò mò, hiếu động, có xu
hƣớng tìm kiếm, khám phá những cái mới lạ, hay bắt chƣớc nên rất dễ bị lôi
cuốn vào những hoạt động tiêu cực. Trong hoàn cảnh đó, những tật xấu sẽ
đƣợc bộc lộ, ngày càng đƣợc củng cố và phát triển. Những nhu cầu, hứng thú,
thói quen xấu dần dần đƣợc hình thành nhƣ nghiện thuốc lá, nghiện ma túy,
thuốc lắc, nghiện rƣợu, ăn quà vặt, ham mê những trò chơi giải trí vô bổ, thiếu
lành mạnh nhƣ xem phim ảnh đồi trụy, bạo lực, nghiền “chát”, chơi điện tử…

12


1.2. Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của các điều kiện trách nhiệm
hình sự đối với ngƣời dƣới 18 tuổi phạm tội
1.2.1. Chính sách hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
CSHS đối với ngƣời dƣới 18 tuổi phạm tội là CSHS nói chung gắn liền
với một bộ phận đối tƣợng đặc thù (ngƣời dƣới 18 tuổi phạm tội). Tính đặc
thù của đối tƣợng ngƣời dƣới 18 tuổi nói chung và ngƣời dƣới 18 tuổi phạm

tội nói riêng thể hiện trên nhiều bình diện khác nhau cả về mặt luật pháp, thiết
chế lẫn thực tiễn đời sống pháp luật.
Công ƣớc Liên hợp quốc về Quyền trẻ em năm 1989 nêu rõ: “Trẻ em do
còn non nớt về thể chất và trí tuệ, cần đƣợc bảo vệ và chăm sóc đặc biệt, kể cả
sự bảo vệ thích hợp về mặt pháp lý trƣớc cũng nhƣ sau khi ra đời” [32]. Công
ƣớc Liên hợp quốc về Quyền trẻ em đề cao quyền lợi tốt nhất của trẻ em trong
mọi hoàn cảnh và nghĩa vụ của các quốc gia thành viên phải làm nhƣ vậy.
Công ƣớc kêu gọi phải có sự bảo vệ đặc biệt cho trẻ em bị tƣớc đoạt môi
trƣờng gia đình và bảo vệ trẻ em khỏi bị cha mẹ hoặc bất kỳ ai lạm dụng, sao
nhãng; xác định trẻ em có quyền đƣợc học hành và có mức sống đầy đủ, có
quyền đƣợc vui chơi giải trí và đƣợc bảo vệ khỏi bị bóc lột về kinh tế, tình dục
và các loại bóc lột khác. Công ƣớc còn đề cập đến nhu cầu bảo vệ chống lại sự
đối xử phân biệt trong việc áp dụng pháp luật với ngƣời dƣới 18 tuổi; đến việc
bảo vệ và thực hiện các quyền của trẻ em làm trái pháp luật hay nói tới các
quyền của trẻ em bị tƣớc quyền tự do, quyền của trẻ em bị quy là phạm tội.
Đối với trẻ em, ngƣời dƣới 18 tuổi, quan điểm xuyên suốt của Đảng và
Nhà nƣớc Việt Nam là luôn chú trọng tạo điều kiện thuận lợi nhất để các em
có thể phát triển toàn diện cả về thể chất lẫn tinh thần, thực sự xứng đáng là
chủ nhân của đất nƣớc, tƣơng lai của dân tộc, là lớp ngƣời kế tục sự nghiệp
cách mạng của dân tộc. Về khía cạnh tâm lý, ngƣời dƣới 18 tuổi ở độ tuổi bẻ
gãy sừng trâu, tâm sinh lý chƣa ổn định, nhân cách chƣa hoàn thiện, nhận

13


thức về các vấn đề xã hội còn hạn chế, thậm chí sai lệch. ngƣời dƣới 18 tuổi
thƣờng có tính cách nông nổi, hiếu thắng, liều lĩnh trƣớc tác động của ngoại
cảnh có đặc tính tò mò, hiếu kỳ, có thiên hƣớng bắt chƣớc cả những sai trái
của ngƣời lớn; dễ bị kích thích, khó tự kiềm chế bản thân khi có các yếu tố
của ngoại cảnh tác động, dễ dẫn đến manh động và có các hành vi bạo lực để

đối phó, chống trả sự tác động; thích đƣợc đặt mình vào các nhân vật điển
hình trong các phim, truyện; thích đƣợc đề cao, muốn đƣợc mọi ngƣời khen;
muốn chứng minh sự dũng cảm của mình đối với ngƣời khác. Đặc biệt, ngƣời
dƣới 18 tuổi phạm tội thƣờng hoạt động theo băng nhóm có sự chỉ đạo của
đối tƣợng cầm đầu, hay giao tiếp, tìm đến những đối tƣợng có các hành vi vi
phạm pháp luật với tính cách ngang tàng, ƣơng bƣớng, lầm lì, côn đồ… kết
bạn theo kiểu “cùng hội, cùng thuyền” hay “ngƣu tầm ngƣu, mã tầm mã”.
Ngƣời dƣới 18 tuổi phạm tội là nhóm chủ thể đặc biệt so với nhóm chủ
thể là ngƣời đã thành niên. Từ yêu cầu của nguyên tắc nhân đạo và nguyên tắc
phân hóa TNHS, việc xử lý ngƣời dƣới 18 tuổi phạm tội vừa phải tuân thủ
quy định về xử lý tội phạm nói chung, vừa phải tuân thủ các quy định đƣợc
xây dựng phù hợp với đặc thù của ngƣời dƣới 18 tuổi phạm tội. Những quy
định phù hợp với đặc thù của ngƣời dƣới 18 tuổi phạm tội chính là cơ sở để
việc xử lý ngƣời dƣới 18 tuổi phạm tội vừa đảm bảo tính nghiêm khắc của
việc xử lý về hình sự, vừa phát huy hiệu quả giáo dục đối với nhóm chủ thể
này. Chính vì vậy, chính sách xử lý ngƣời dƣới 18 tuổi phạm tội luôn là vấn
đề đƣợc ghi nhận và thực hiện trong PLHS nƣớc ta. Ở các giai đoạn khác
nhau, nội dung các quy định cụ thể có thể khác nhau nhƣng nhìn chung chúng
đều đƣợc xây dựng trên cơ sở cân nhắc các yếu tố gắn với đặc thù của ngƣời
dƣới 18 tuổi phạm tội.
CSHS đối với ngƣời dƣới 18 tuổi phạm tội có một số dấu hiệu đặc
trƣng chung của chính sách pháp luật gồm dấu hiệu ý chí của Đảng, Nhà nƣớc

14


và mệnh lệnh quyền lực, tính chất liên kết và chính thức, tính hệ thống, tính
nền tảng, tính quan niệm tổng thể, tính chất công, tính năng động và tính ổn
định, tính kế hoạch, sự phụ thuộc vào các nhân tố của môi trƣờng bên ngoài
và bên trong và các dấu hiệu khác. Đồng thời, CSHS đối với ngƣời dƣới 18

tuổi phạm tội là hoạt động hƣớng đến việc nâng cao chất lƣợng của đời sống
pháp luật của xã hội, hoàn thiện PLHS, hƣớng đến sự thay đổi tiến bộ của hệ
thống PLHS, đến sự phát triển PLHS tƣơng ứng của xã hội, đến việc nâng
cao văn hóa pháp luật của công dân. CSHS đối với ngƣời dƣới 18 tuổi phạm
tội là hoạt động thể hiện quan hệ của các chủ thể đối với những vấn đề quan
trọng nhất của phát triển đời sống pháp luật của xã hội, của sự thay đổi và
đổi mới các phần có ý nghĩa nhất của nó. CSHS đối với ngƣời dƣới 18 tuổi
phạm tội là hoạt động đƣợc thực hiện với sự trợ giúp của cả các phƣơng tiện
pháp lý (công cụ và kỹ thuật) và của hệ thống các phƣơng tiện riêng, nó gắn
liền với việc hoạch định và thực hiện các tƣ tƣởng pháp luật mang tính chiến
lƣợc và sách lƣợc.
CSHS của nhà nƣớc đối với ngƣời dƣới 18 tuổi phạm tội là những
phƣơng hƣớng cơ bản có tính chất chỉ đạo của Nhà nƣớc trong hoạt động lập
pháp và áp dụng PLHS đối với ngƣời dƣới 18 tuổi phạm tội, đảm bảo sự ổn
định của hệ thống PLHS, tăng cƣờng việc bảo vệ các quyền và tự do của
ngƣời dƣới 18 tuổi phạm tội, cũng nhƣ các lợi ích hợp pháp của xã hội và của
Nhà nƣớc bằng PLHS, đồng thời góp phần nâng cao hiệu quả của cuộc đấu
tranh phòng và chống tội phạm do ngƣời dƣới 18 tuổi thực hiện. Đây là
những nguyên tắc có tính định hƣớng cho việc xây dựng và áp dụng các quy
định của luật hình sự để xử lý ngƣời dƣới 18 tuổi phạm tội. Những nguyên tắc
này xuất phát từ việc ghi nhận đầy đủ và thể hiện rõ nét nguyên tắc xử lý
ngƣời dƣới 18 tuổi phạm tội đƣợc quy định tại Công ƣớc về quyền trẻ em và
các chuẩn mực quốc tế khác có liên quan; đồng thời thể hiện quan điểm của

15


Đảng và Nhà nƣớc ta trong việc bảo vệ, giáo dục trẻ em nói chung và ngƣời
dƣới 18 tuổi phạm tội nói riêng. Nguyên tắc xử lý ngƣời dƣới 18 tuổi phạm
tội đƣợc thể hiện thông qua một số nội dung sau:

Thứ nhất, việc xử lý ngƣời dƣới 18 tuổi phạm tội phải đảm bảo lợi ích
tốt nhất của ngƣời dƣới 18 tuổi. Tại Điều 3 Công ƣớc về quyền trẻ em quy
định “trong mọi hành động đối với trẻ em, dù là cơ quan phúc lợi xã hội của
nhà nước hay của tư nhân, tòa án, nhà chức trách hành chính hay cơ quan
lập pháp, lợi ích tốt nhất của trẻ em phải là mối quan tâm hàng đầu” [32].
Nguyên tắc này đòi hỏi các cơ quan, tổ chức, cá nhân khi tiến hành các hoạt
động tố tụng liên quan đến ngƣời dƣới 18 tuổi phạm tội, cần đảm bảo quyết
định của mình là tốt nhất cho ngƣời dƣới 18 tuổi phạm tội; đồng thời đảm bảo
hài hòa với lợi ích khác và sự nghiêm minh của pháp luật.
Mục đích xử lý ngƣời dƣới 18 tuổi phạm tội chủ yếu nhằm mục đích
giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh, trở thành công
dân có ích cho xã hội. Còn căn cứ xử lý ngƣời dƣới 18 tuổi phạm tội dựa vào
độ tuổi, khả năng nhận thức của họ về tính chất nguy hiểm cho xã hội của
hành vi phạm tội, nguyên nhân và điều kiện gây ra tội phạm.
Thứ hai, ngƣời dƣới 18 tuổi phạm tội đƣợc miễn TNHS trong những
trƣờng hợp cụ thể khi xét thấy việc truy cứu TNHS đối với họ là không cần
thiết. Đây là nguyên tắc xác định vấn đề miễn TNHS đối với ngƣời dƣới 18
tuổi phạm tội. Theo nguyên tắc, ngƣời dƣới phạm tội đƣợc miễn TNHS ngoài
những trƣờng hợp áp dụng đối với ngƣời từ đủ 18 tuổi trở lên phạm tội. Hay
nói các khác, quy định này bổ sung thêm trƣờng hợp miễn TNHS đƣợc áp
dụng riêng cho ngƣời dƣới 18 tuổi phạm tội ngoài các trƣờng hợp đƣợc quy
định áp dụng chung cho ngƣời từ đủ 18 tuổi trở lên phạm tội. Điều này thể
hiện sự khoan hồng đặc biệt và chính sách nhân đạo của Nhà nƣớc Việt Nam
đối với ngƣời dƣới 18 tuổi phạm tội,

16


Thứ ba, việc truy cứu TNHS ngƣời dƣới 18 tuổi phạm tội chỉ trong
trƣờng hợp cần thiết và phải căn cứ vào những đặc điểm về nhân thân của họ,

tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội và yêu cầu của việc phòng
ngừa tội phạm. Nguyên tắc này trình tự xác định TNHS đối với ngƣời dƣới 18
tuổi phạm tội đƣợc thực hiện nhƣ sau: trƣớc tiên Tòa án xem xét miễn TNHS
và áp dụng một số biện pháp giám sát hoặc áp dụng biện pháp giáo dục tại
trƣờng giáo dƣỡng, nếu không đảm bảo hiệu quả giáo dục, phòng ngừa thì sẽ
áp dụng hình phạt hoặc áp dụng các hình phạt không tƣớc tự do còn nếu không
có tác dụng răn đe, phòng ngừa thì áp dụng hình phạt tù có thời hạn [30].
Tinh thần này phù hợp với tinh thần Công ƣớc về quyền trẻ em và các
chuẩn mực quốc tế có liên quan về tƣ pháp ngƣời dƣới 18 tuổi phạm tội
khuyến nghị các quốc gia thành viên hạn chế đến mức thấp nhất việc áp dụng
các chế tài giam giữ đối với ngƣời dƣới 18 tuổi phạm tội. Tại Điều 37 Công
ƣớc về quyền trẻ em quy định “việc bắt, giam giữ hoặc bỏ tù trẻ em… phải là
biện pháp cuối cùng và trong thời hạn thích hợp ngắn nhất” [32]. Cũng theo
nguyên tắc này, cách tiếp cận trong việc áp dụng chế tài đối với ngƣời dƣới
18 tuổi là ƣu tiên áp dụng các biện pháp không tƣớc đi tự do, hình phạt nói
chung và phạt tù nói riêng chỉ đƣợc áp dụng khi không còn cách nào khác.
Theo một số nghiên cứu khoa học, việc truy cứu TNHS và áp dụng
hình phạt đối với ngƣời dƣới 18 tuổi phạm tội chỉ đƣợc xem là “cần thiết” khi
thỏa mãn đủ 3 điều kiện sau đây [14, tr.22]: a) Ngƣời dƣới 18 tuổi phạm tội
có nhân thân xấu; b) Tội phạm đã đƣợc ngƣời dƣới 18 tuổi thực hiện có tính
chất nghiêm trọng trở lên; c) Những biện pháp giám sát, giáo dục và biện
pháp tƣ pháp không có hiệu quả để cải tạo ngƣời dƣới 18 tuổi phạm tội mà
cần áp dụng hình phạt đối với họ.
Từ những phân tích, kiến giải nêu trên, tác giả cho rằng, CSHS đối với
người dưới 18 tuổi phạm tội là hệ thống các quan điểm, phương hướng có

17



×