Tải bản đầy đủ (.pdf) (69 trang)

Các tội điều động người không đủ điều kiện điều khiển các phương tiện giao thông đường bộ, đường sắt, đường thủy, đường không theo Luật hình sự Việt Nam (Trên cơ sở số liệu thực tiễn tại địa bàn thành phố Hải Phòng)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (905 KB, 69 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN VĂN LONG

CÁC TỘI ĐIỀU ĐỘNG NGƢỜI KHÔNG ĐỦ ĐIỀU KIỆN
ĐIỀU KHIỂN CÁC PHƢƠNG TIỆN GIAO THÔNG ĐƢỜNG BỘ,
ĐƢỜNG SẮT, ĐƢỜNG THỦY, ĐƢỜNG KHÔNG THEO
LUẬT HÌNH SỰ VIỆTNAM (TRÊN CƠ SỞ SỐ LIỆU THỰC TIỄN
TẠI ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG)

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2018


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN VĂN LONG

CÁC TỘI ĐIỀU ĐỘNG NGƢỜI KHÔNG ĐỦ ĐIỀU KIỆN
ĐIỀU KHIỂN CÁC PHƢƠNG TIỆN GIAO THÔNG ĐƢỜNG BỘ,
ĐƢỜNG SẮT, ĐƢỜNG THỦY, ĐƢỜNG KHÔNG THEO
LUẬT HÌNH SỰ VIỆTNAM (TRÊN CƠ SỞ SỐ LIỆU THỰC TIỄN
TẠI ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG)

Chuyên ngành
Mã số

: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự


: 8380101.03

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC

Cán bộ hướng dẫn khoa học: T.S Phạm Mạnh Hùng

HÀ NỘI - 2018


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan luận văn với đề tài: “Các tội điều động người
không đủ điều kiện điều khiển các phương tiện giao thông đường bộ,
đường sắt, đường thủy, đường không theo Luật hình sự Việt Nam (Trên
cơ sở số liệu thực tiễn tại địa bàn Thành phố Hải Phòng) ” là công trình
nghiên cứu của riêng tôi dưới sự hướng dẫn của TS Phạm Mạnh Hùng - Phó
Vụ trưởng Vụ Thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử hình sự - Viện
Kiểm sát Nhân dân tối cao. Các kết quả nêu trong luận văn chưa được công
bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận
văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực.
Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã hoàn thành tất cả các nghĩa
vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Trường Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy, tôi viết lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà
Nội xem xét để tôi có thể bảo vệ luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Ngƣời cam đoan

NGUYỄN VĂN LONG



MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Tính cấp thiết của đề tài ......................................................................................... 1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài ................................................................................... 3
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu đề tài .................................................................. 4
4. Đối tƣợng và Phạm vi nghiên cứu. ........................................................................ 5
5. Phƣơng pháp nghiên cứu........................................................................................ 6
6. Những đóng góp khoa học của Đề tài .................................................................... 6
7. Kết cấu của luận văn ............................................................................................... 6
CHƢƠNG 1: KHÁI NIỆM VÀ NHỮNG DẤU HIỆU PHÁP LÝ CỦA CÁC
TỘI ĐIỀU ĐỘNG NGƢỜI KHÔNG ĐỦ ĐIỀU KIỆN ĐIỀU KHIỂN CÁC
PHƢƠNG TIỆN GIAO THÔNG ĐƢỜNG BỘ, ĐƢỜNG SẮT, ĐƢỜNG
THỦY, ĐƢỜNG KHÔNG THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM ......................... 8
1.1. Khái niệm và các đặc điểm chung của các tội điều động ngƣời không đủ
điều kiện điều khiển phƣơng tiện tham gia giao thông đƣờng bộ, đƣờng sắt,
đƣờng thủy, đƣờng không trong luật hình sự Việt Nam. ........................................ 8
1.2. Các dấu hiệu pháp lý và hình phạt của các tội điều động ngƣời không đủ
điều kiện điều khiển các phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ, đƣờng sắt, đƣờng
thủy, đƣờng không. ................................................................................................... 16
1.2.1. Các dấu hiệu pháp lý và hình phạt của tội điều động người không đủ điều
kiện điều khiển phương tiện tham gia giao thông đường bộ (Điều 263 BLHS). ... 16
1.2.2. Các dấu hiệu pháp lý và hình phạt đối với tội điều động người không đủ
điều kiện điều khiển phương tiện giao thông đường sắt (Điều 270 BLHS). .......... 19
1.2.3. Các dấu hiệu pháp lý và hình phạt đối với tội điều động người không đủ
điều kiện điều khiển phương tiện giao thông đường thủy (Điều 275 BLHS) ........ 23
1.2.4. Các dấu hiệu pháp lý và hình phạt đối với tội điều động người không đủ
điều kiện điều khiển tàu bay (Điều 280 BLHS). .................................................... 27


CHƢƠNG 2: THỰC TIỄN XÉT XỬ VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP TIẾP TỤC

HOÀN THIỆN VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH
CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 2015 VỀ CÁC TỘI ĐIỀU ĐỘNG NGƢỜI
KHÔNG ĐỦ ĐIỀU KIỆN ĐIỀU KHIỂN CÁC PHƢƠNG TIỆN GIAO
THÔNG ĐƢỜNG BỘ, ĐƢỜNG SẮT, ĐƢỜNG THỦY, ĐƢỜNG KHÔNG ..... 31
2.1. Khái quát tình hình kinh tế - xã hội của thành phố Hải Phòng..................... 31
2.2. Thực tiễn xét xử các tội điều động ngƣời không đủ điều kiện điều khiển
các phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ, đƣờng sắt, đƣờng thủy, đƣờng không
trên địa bàn Thành phố Hải Phòng. ........................................................................ 35
2.2.1. Tình hình xét xử của các Tòa án các cấp ở Thành phố Hải Phòng từ năm
2013 đến năm 2017 đối với các tội điều động người không đủ điều kiện điều khiển
các phương tiện giao thông đường bộ, đường sắt, đường thủy, đường không ........... 35
2.2.2. Phân tích, đánh giá về những kết quả đã đạt được trong xét xử các vụ án điều
động người không đủ điều kiện điều khiển các phương tiện giao thông đường bộ,
đường sắt, đường thủy, đường không trên địa bàn thành phố Hải Phòng. ................... 42
2.2.3. Phân tích, đánh giá những hạn chế, thiếu sót, bất cập và những nguyên nhân
của nó trong xét xử các tội điều động người không đủ điều kiện điều khiển các
phương tiện giao thông đường bộ, đường sắt, đường thủy và đường không. ............. 44
2.3. Một số kiến nghị, giải pháp tiếp tục hoàn thiện những quy định về các tội
phạm điều động ngƣời không đủ điều kiện điều khiển các phƣơng tiện giao thông
đƣờng bộ, đƣờng sắt, đƣờng thủy, đƣờng không và nâng cao hiệu quả áp dụng ..... 52
2.3.1. Một số kiến nghị tiếp tục hoàn thiện những quy định về các tội phạm
điều động người không đủ điều kiện điều khiển các phương tiện giao thông
đường bộ, đường sắt, đường thủy, đường không.................................................... 52
2.3.2. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của BLHS năm
2015 về các tội phạm điều động người không đủ điều kiện điều khiển các
phương tiện giao thông đường bộ, đường sắt, đường thủy, đường không ............. 53
KẾT LUẬN ................................................................................................................ 60
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................................ 61



DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BLHS

Bộ luật hình sự

BLTTHS

Bộ luật tố tụng hình sự

CBĐT

Cán bộ điều tra

CQĐT

Cơ quan điều tra

ĐTV

Điều tra viên

KTV

Kiểm tra viên

KSV

Kiểm sát viên


VKS

Viện kiểm sát

XHCN

Xã hội chủ nghĩa

TNGT

Tai nạn giao thông


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
An toàn giao thông hiện nay là vấn đề hết sức quan trọng trong thực
tế cuộc sống. Thực hiện tốt an toàn giao thông đồng nghĩa với việc xây
dựng một cộng đồng văn minh phát triển. Đất nước ta đang phát triển khá
nhanh nhờ sự khởi sắc của nền kinh tế và đời sống xã hội, nhưng lĩnh vực
giao thông thì dường như chưa đáp ứng kịp yêu cầu của thời đại. Mặc dù
Nhà nước đã có nhiều biện pháp nhằm giảm bớt các vụ tai nạn giao thông;
về chính sách, nhà nước tập trung các nguồn lực phát triển giao thông
đường bộ, ưu tiên đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ ở
vùng kinh tế trọng điểm, các thành phố, miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên
giới, hải đảo, vùng dân tộc thiểu số; có chính sách huy động các nguồn lực
để quản lý, bảo trì đường bộ. An toàn giao thông là sự đảm bảo về tính
mạng, sức khỏe của người tham gia giao thông.
Trong những năm qua, tình hình vi phạm tội phạm điều động người
không đủ điều kiện điều khiển các phương tiện giao thông đường bộ,
đường sắt, đường thủy, đường không xảy ra với những diễn biến rất phức

tạp, nhiều vụ gây ra những hậu quả rất nghiêm trọng cho xã hội. Trước tình
hình đó, Đảng, Nhà nước và các cơ quan chức năng đã tích cực, chủ động
đưa ra nhiều biện pháp, giải pháp đồng bộ nhằm hạn chế, ngăn chặn để tiến
tới làm giảm thiểu tối đa tình trạng vi phạm đó. Song, thực tế cho thấy, tình
trạng tội phạm điều động người không đủ điều kiện điều khiển các phương
tiện giao thông đường bộ, đường sắt, đường thủy, đường không chưa có
chiều hướng giảm trên cả 3 tiêu chí: số vụ; số người chết, bị thương, và
thiệt hại về tài sản.
Trên thực tế, tình trạng vi phạm các quy định về an toàn giao thông
vẫn chưa thuyên giảm, còn xảy ra nhiều vụ tai nạn giao thông đặc biệt

1


nghiêm trọng, làm chết và bị thương nhiều người, gây thiệt hại lớn về tài
sản, khiến dư luận nhân dân hết sức lo ngại. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến
tình trạng trên, nhưng chủ yếu là do ý thức của những người tham gia giao
thông, một phần do không hiểu biết về các quy định của Nhà nước về an
toàn giao thông, một phần do người tham gia giao thông biết nhưng cố tình
vi phạm. Nhiều trường hợp cơ quan tiến hành tố tụng chưa triệt để áp dụng
các biện pháp nghiệp vụ theo quy định của pháp luật trong việc xác định lỗi
của các bên điều khiển phương tiện tham gia giao thông gây tai nạn, lỗi của
người điều động người khác điều khiển phương tiện giao thông cũng như
nguyên nhân dẫn đến tử vong do tai nạn giao thông gây ra.
Trong những năm qua, qua thực tiễn công tác điều tra, truy tố, xét xử
các các tội điều động người không đủ điều kiện điều khiển các phương tiện
giao thông đường bộ, đường sắt, đường thủy, đường không cho thấy, ngoài
những kết quả đạt được thì hoạt động giải quyết các vụ án của cơ quan có
thẩm quyền tiến hành tố tụng vẫn còn nhiều hạn chế. Nhiều vụ án bị bế tắc
ngay từ khâu bảo vệ hiện trường, dựng hiện trường, vẽ sơ đồ hiện trường,

lấy lời khai, thẩm vấn… Vì vậy, việc nghiên cứu những qui định của pháp
luật hình sự Việt Nam về tội phạm điều động người không đủ điều kiện
điều khiển các phương tiện giao thông đường bộ, đường sắt, đường thủy,
đường không, để từ đó nâng cao hiệu quả của hoạt động điều tra, truy tố,
xét xử tội phạm này là việc làm cần thiết. Do đó, tác giả chọn đề tài: “Các
tội điều động người không đủ điều kiện điều khiển các phương tiện giao
thông đường bộ, đường sắt, đường thủy, đường không theo Luật hình sự
Việt Nam (Trên cơ sở số liệu thực tiễn tại địa bàn Thành phố Hải
Phòng)” làm đề tài luận văn thạc sỹ của mình.

2


2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Hiện nay đã có một số công trình nghiên cứu của các nhà khoa học
công bố liên quan đến đề tài, có thể liệt kê ra một số công trình nghiên cứu
như sau:
Các công trình sách, báo, tạp chí: Bộ giao thông vận tải (2011), Tài
liệu học tập Luật giao thông đường thủy nội địa, NXB Giao thông vận tải,
Hà Nội; Đinh Văn Quế (2012), Bình luận khoa học Bộ luật hình sự, Tập V
- Các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng, NXB Lao động,
Hà Nội; Trường Đại học Luật Hà Nội (2016), Giáo trình luật hình sự Việt
Nam, NXB Công an nhân dân, Hà Nội; Trần Minh Hưởng (chủ biên)
(2010), Tìm hiểu Bộ luật hình sự nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam và những văn bản hướng dẫn thi hành, NXB Lao động, Hà Nội;
Nguyễn Thủy Anh (2003), Đổi mới quản lý nhà nước về giao thông công
cộng trong đô thị lớn ở nước ta, Tạp chí Quản lý nhà nước số 5/2003;
Hoàng Thị Kim Quế (2010), Văn hóa pháp luật giao thông, những giá trị
chân - thiện - mỹ - ích, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 4/2010; Hoàng
Đình Ban (2008), Hoạt động phòng ngừa tai nạn giao thông đường bộ ở

Việt Nam hiện nay, NXB Công an nhân dân, Hà Nội; Cao Vũ Minh (2013),
Pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường
bộ - những bất cập và hướng hoàn thiện, Tạp chí Luật học số 9/2013...
Các đề tài luận văn thạc sĩ: Luận văn thạc sĩ luật học: Thực hiện
pháp luật trong lĩnh vực đảm bảo trật tự, an toàn giao thông đường bộ (qua
thực tế tỉnh Thái Nguyên) của Nguyễn Quang Huy Năm 2010; Luận văn
thạc sĩ luật học: Các tội xâm phạm trật tự, an toàn giao thông đường bộ
theo luật hình sự Việt Nam của Bùi Quang Trung năm 2011; Luận văn thạc
sĩ luật học: Các tội xâm phạm trật tự, an toàn giao thông đường bộ theo

3


luật hình sự Việt Nam (trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Đắk Nông)
của Bùi Danh Đại năm 2015;...
Các công trình khoa học trên đã đề cập đến các góc độ khác nhau về
tội phạm xâm phạm an toàn giao thông và vấn đề xử lý đối với các tội
phạm này. Tuy nhiên, cho tới nay vẫn chưa có một công trình nào nghiên
cứu về vấn đề tội phạm điều động người không đủ điều kiện điều khiển các
phương tiện giao thông đường bộ, đường sắt, đường thủy, đường không
trên địa bàn một địa phương cụ thể là thành phố Hải Phòng.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
Mục đích nghiên cứu đề tài:
Trên cơ sở nghiên cứu, làm sáng tỏ lý luận về vấn đề tội phạm điều
động người không đủ điều kiện điều khiển các phương tiện giao thông
đường bộ, đường sắt, đường thủy, đường không; những khó khăn, vướng
mắc trong quá trình giải quyết các vụ án về tội phạm điều động người
không đủ điều kiện điều khiển các phương tiện giao thông đường bộ,
đường sắt, đường thủy, đường không, Luận văn nghiên cứu đề xuất một số
giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giải quyết các vụ án về tội phạm điều

động người không đủ điều kiện điều khiển các phương tiện giao thông
đường bộ, đường sắt, đường thủy, đường không.
Nhiệm vụ nghiên cứu đề tài:
Để thực hiện tốt các mục đích nêu trên, luận văn có những nhiệm vụ
sau:
- Làm sáng tỏ khái niệm và dấu hiệu pháp lý của tội phạm điều động
người không đủ điều kiện điều khiển các phương tiện giao thông đường bộ,
đường sắt, đường thủy, đường không.
- Phân tích các quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam và các văn
bản hướng dẫn của cơ quan nhà nước có thẩm quyền nhằm làm sáng tỏ các

4


quy định về tội phạm điều động người không đủ điều kiện điều khiển các
phương tiện giao thông đường bộ, đường sắt, đường thủy, đường không;
- Làm rõ về tình hình tội phạm điều động người không đủ điều kiện
điều khiển các phương tiện giao thông đường bộ, đường sắt, đường thủy,
đường không những năm gần đây.
- Đánh giá về thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử, những bất cập,
vướng mắc trong thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật hình sự, tố tụng
hình sự hiện hành về tội phạm điều động người không đủ điều kiện điều
khiển các phương tiện giao thông đường bộ, đường sắt, đường thủy, đường
không và nguyên nhân của chúng. Trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp
nâng cao hiệu quả hoạt động giải quyết các vụ án về tội phạm điều động
người không đủ điều kiện điều khiển các phương tiện giao thông đường bộ,
đường sắt, đường thủy, đường không.
4. Đối tƣợng và Phạm vi nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là tội phạm điều động người

không đủ điều kiện điều khiển các phương tiện giao thông đường bộ,
đường sắt, đường thủy, đường không trong luật hình sự Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu
- Nghiên cứu các qui định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội
phạm điều động người không đủ điều kiện điều khiển các phương tiện giao
thông đường bộ, đường sắt, đường thủy, đường không.
- Thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật hình sự, tố tụng hình
sự Việt Nam về giải quyết các vụ án điều động người không đủ điều kiện
điều khiển các phương tiện giao thông đường bộ, đường sắt, đường thủy,
đường không trên địa bàn thành phố Hải Phòng.

5


5. Phƣơng pháp nghiên cứu.
- Luận văn dựa trên quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng
Hồ Chí Minh; đường lối, chủ trương của Đảng; Chính sách, pháp luật của
Nhà nước làm cơ sở lý luận để nghiên cứu. Đồng thời sử dụng các phương
pháp: lôgíc và lịch sử, phân tích và tổng hợp; cụ thể: phương pháp so sánh,
thống kê, phân tích để chọn lọc tri thức khoa học cũng như kinh nhiệm
thực tiễn để thực hiện mục đích và nhiệm vụ luận văn đề ra.
- Trong quá trình nghiên cứu có tham khảo, kế thừa có chọn lọc các
công trình nghiên cứu, bài viết có liên quan đến lĩnh vực luận văn đề cập.
6. Những đóng góp khoa học của Đề tài.
- Luận văn đã làm rõ một số vấn đề lý luận về tội phạm điều động
người không đủ điều kiện điều khiển các phương tiện giao thông đường bộ,
đường sắt, đường thủy, đường không.
- Luận văn đã làm rõ được thực tiễn áp dụng các qui định của luật
hình sự, luật tố tụng hình sự trong quá trình giải quyết các vụ án điều động
người không đủ điều kiện điều khiển các phương tiện giao thông đường bộ,

đường sắt, đường thủy, đường không tại thành phố Hải Phòng trong những
năm gần đây.
- Luận văn đã đưa ra được một số đề xuất nâng cao hiệu quả điều tra,
truy tố, xét xử các vụ án điều động người không đủ điều kiện điều khiển các
phương tiện giao thông đường bộ, đường sắt, đường thủy, đường không.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, luận văn được
kết cấu gồm 2 chương:
- Chương 1: Khái niệm và những dấu hiệu pháp lý của các tội điều
động người không đủ điều kiện điều khiển các phương tiện giao thông đường
bộ, đường sắt, đường thủy, đường không trong luật hình sự Việt Nam.

6


- Chương 2: Thực tiễn xét xử và một số giải pháp tiếp tục hoàn thiện
và nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự năm 2015
về các tội điều động người không đủ điều kiện điều khiển các phương tiện
giao thông đường bộ, đường sắt, đường thủy, đường không.

7


CHƢƠNG 1
KHÁI NIỆM VÀ NHỮNG DẤU HIỆU PHÁP LÝ CỦA CÁC
TỘI ĐIỀU ĐỘNG NGƢỜI KHÔNG ĐỦ ĐIỀU KIỆN ĐIỀU KHIỂN CÁC
PHƢƠNG TIỆN GIAO THÔNG ĐƢỜNG BỘ, ĐƢỜNG SẮT, ĐƢỜNG
THỦY, ĐƢỜNG KHÔNG THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM

1.1. Khái niệm và các đặc điểm chung của các tội điều động ngƣời

không đủ điều kiện điều khiển phƣơng tiện tham gia giao thông đƣờng
bộ, đƣờng sắt, đƣờng thủy, đƣờng không trong luật hình sự Việt Nam.
Nghiên cứu thực trạng tình hình hệ thống giao thông đường bộ, đường
sắt, đường thủy, đường không ở Việt Nam cho thấy:
Về đường bộ, với sự phát triển của nền kinh tế quốc dân khiến nhu cầu
vận tải về người, hàng hoá cũng như hệ thống kết cấu hạ tầng và phương tiện
giao thông tăng rất nhanh. Ở Việt Nam, vận tải đường bộ chiếm một tỷ lệ lớn
trong tổng nhu cầu vận tải. Nhu cầu vận tải đường bộ ở Việt Nam đang tăng
lên làm cho khả năng xảy ra tai nạn giao thông cũng tăng lên.
Giao thông đường bộ ở Việt Nam chủ yếu là giao thông hỗn hợp giữa ô
tô và xe máy. Lưu lượng giao thông xe máy chiếm 65% tổng lưu lượng giao
thông hoặc gấp 19 lần lưu lượng ô tô. Giao thông hỗn hợp giữa ô tô và xe
máy là một trong các nguyên nhân làm gia tăng tai nạn giao thông, vì xung
đột giao thông giữa các phương tiện có tốc độ và kích cỡ khác nhau.
Về đường sắt, hệ thống hạ tầng giao thông đường sắt gồm 2632 km
đường sắt chính tuyến, 403 km đường ga, 85 km đường nhánh và 290 ga
trạm; một số điểm đen về tai nạn và ách tắc giao thông đã được xử lý như:
nhiều đường ngang được cải tạo, nâng cấp; đường ngang mở mới; xây dựng
rào ngăn cách giữa đường sắt và đường bộ... nâng cao điều kiện an toàn của
kết cấu hạ tầng giao thông đường sắt; tạo thuận lợi cho các phương tiện giao

8


thông qua đường ngang thuận lợi và an toàn, ngăn chặn được những vụ tại
nạn do phương tiện giao thông đường bộ đổ vào đường sắt; tăng cường đáng
kể các điều kiện an toàn, cung cấp cho người tham gia giao thông đầy đủ các
chỉ dẫn giao thông tạo điều kiện để người dân chấp hành các quy định của
pháp luật về đường sắt. Kết quả là tai nạn giao thông đường sắt cơ bản được
kiềm chế. Tuy nhiên, kết quả này là chưa bền vững, chưa đạt được mục tiêu

giảm tai nạn giao thông đường sắt trên cả 3 tiêu chí; ý thức tham gia giao
thông của người dân còn hạn chế do hoạt động cưỡng chế nhà nước trong lĩnh
vực đường sắt còn thiếu và yếu; mục tiêu xoá bỏ 50% đường ngang trong năm
2010 chưa đạt được; mục tiêu xoá bỏ các yếu tố mất an toàn tại các đường
ngang hiện còn chưa đạt, các yếu tố chủ yếu gây tai nạn giao thông tại các
đường ngang vẫn tồn tại chưa được xử lý.
Về đường thủy, đến nay, mới có hơn 17.000km sông, kênh được đưa
vào quản lý phục vụ cho khai thác vận tải (chiếm khoảng hơn 40%); trong đó,
hơn 6.700 km là tuyến đường thủy nội địa quốc gia và hơn 10.500km là tuyền
đường thủy nội địa địa phương.
Cơ sở hạ tầng nhiều cảng thủy nội địa đã đáp ứng yêu cầu, một số cảng
được phép đón các tàu biển có trọng tải vừa, tàu nước ngoài. Tuy nhiên, còn
một số cảng thủy nội địa chưa đảm bảo yêu cầu về cơ sở vật chất kỹ thuật,
nhất là những cảng cũ đã qua sử dụng, khai thác nhiều năm bị xuống cấp,
không đảm bảo an toàn trong khai thác;
Luồng, tuyến đường thủy nội địa vẫn còn một số bất cập, đó là: nhiều
tuyến đường thủy nội địa trong từng khu vực còn chưa đồng cấp; một số
tuyến thường xuyên bị khan cạn, gây ách tắc giao thông, bị chia cắt bởi các
công trình thuỷ lợi, đăng đáy cá, nuôi trồng thuỷ sản; nhiều kênh, rạch có
chiều rộng h p gây không ít khó khăn cho hoạt động vận tải thuỷ. Ngoài ra,
trên các luồng tuyến đường thủy nội địa của cả nước nhiều nơi có đá ngầm,

9


đập ngăn, bờ sông có nhiều chỗ bị sụt lở, chiều rộng khoảng thông thuyền
nhỏ, tĩnh không cầu hoặc công trình vượt sông thấp… là những hạn chế lớn
cho hoạt động giao thông đường thủy nội địa.
Tính đến hết năm 2011 có hơn 4.600 cảng, bến thủy nội địa; trong đó
có hơn 100 cảng thủy nội địa, số còn lại là bến thủy nội địa.

Về đường không, hàng không dân dụng là lĩnh vực giao thông đặc thù,
trong đó công tác bảo đảm an ninh, an toàn hàng không được đặt lên hàng
đầu. So sánh chỉ số an toàn của Hàng không Việt Nam với quốc tế cho thấy
tình trạng đảm bảo an toàn hàng không của Việt Nam trong giai đoạn 2006 2010 đạt được các chỉ số an toàn cao hơn mức trung bình của thế giới. Việt
Nam đạt 14 năm liên tục không để xảy ra tai nạn tàu bay gây thiệt hại về
người và tài sản.
Đông đảo đối tượng khi được tuyên truyền, phổ biến pháp luật đều tuân
thủ theo đúng các quy định của pháp luật nhưng một bộ phận nhỏ đối tượng
vẫn còn thiếu ý thức, cố tình vi phạm các quy định như: gây mất an ninh, trật
tự trên tàu bay; tung tin, cung cấp thông tin sai về có bom, mìn trên tàu bay;
mở cửa thoát hiểm trên tàu bay bay; hút thuốc trên tàu bay, mang vật phẩm
cấm lên tàu bay, xâm phạm độ cao an toàn tĩnh không...
Hiện nay, giao thông của Việt Nam còn rất nhiều bất cập. Áp lực
phương tiện đè nặng lên kết cấu hạ tầng giao thông, nên cần có hệ thống hạ
tầng thích hợp cùng mạng lưới vận tải công cộng phát triển, thuận tiện, được
người dân ưu tiên lựa chọn. Đặc biệt, cần có chiến lược, lộ trình và quy hoạch
cụ thể như việc triển khai các dự án phải tuyệt đối tuân thủ quy hoạch đã được
phê duyệt, đẩy mạnh quá trình triển khai ứng dụng, khoa học, công nghệ mới,
kết hợp quản lý chặt chẽ các nguồn vốn đầu tư; cần tranh thủ sự ủng hộ, tạo
điều kiện của quốc tế, mở rộng quan hệ hợp tác, học tập kinh nghiệm phát
triển cơ sở hạ tầng giao thông ở các thành phố lớn hiện đại trên thế giới;

10


Chính sách xây dựng phát triển hạ tầng giao thông phải kết hợp chặt chẽ với
các chính sách xã hội khác, nhất là nhà ở, ổn định dân cư; Đa dạng hóa các
hình thức đầu tư trong và ngoài nước, đặc biệt là việc tổ chức giao thông luôn
phải linh hoạt, sáng tạo trên nguyên tắc giảm đến mức thấp nhất ách tắc cũng
như tai nạn giao thông.

Vấn đề an toàn giao thông luôn chiếm một vị trí quan trọng đối với các
nước phát triển và đang phát triển. An toàn giao thông đang là vấn đề rất lớn
và cần thiết trong đời sống của mỗi người dân. Đảm bảo trật tự, an toàn giao
thông là một yêu cầu và nhiệm vụ cơ bản của mọi quốc gia và xem đó là điều
kiện cần thiết để phát triển kinh tế, củng cố an ninh quốc phòng và ổn định
trật tự xã hội. Đảm bảo trật tự, an toàn giao thông còn là trách nhiệm của tất
cả mọi người khi tham gia giao thông.
An toàn giao thông có liên quan chặt chẽ tới các hoạt động kinh tế - văn
hóa cũng như cuộc sống của mọi người dân. Vì thế luôn được sự quan tâm
của Đảng, Nhà nước cũng như của toàn xã hội. Với sự tăng trưởng mạnh mẽ
về kinh tế và các phương tiện, sự phát triển của hệ thống cơ sở hạ tầng giao
thông, thì các vụ án xâm phạm an toàn giao thông luôn có chiều hướng gia
tăng với tính chất phức tạp, hậu quả ngày càng nghiêm trọng hơn.
An toàn giao thông là các hành vi văn hóa khi tham gia giao thông bao
gồm việc chấp hành luật giao thông, phải có ý thức khi tham gia giao thông.
An toàn giao thông còn là sự an toàn đối với người tham gia lưu thông trên
các phương tiện đường bộ, đường sắt, đường thủy, đường không, là sự chấp
hành tốt các luật lệ về giao thông, cư xử phù hợp khi lưu thông trên các
phương tiện giao thông. An toàn giao thông đang là vấn đề mang tính thời sự
được sự quan tâm của xã hội. Chỉ thị số 18-CT/TW ngày 04-09-2012 của Ban
Bí thư Trung ương Đảng nhận định:

11


Tình hình vi phạm trật tự, an toàn giao thông còn diễn ra phức tạp; tai
nạn giao thông vẫn ở mức cao và nghiêm trọng, nhất là số người chết, tiềm ẩn
nhiều nguy cơ gia tăng, gây thiệt hại nghiêm trọng về người và tài sản. Tai
nạn giao thông và ùn tắc giao thông đường bộ vẫn đang là vấn đề bức xúc của
toàn xã hội, ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững về kinh tế, văn hóa, xã hội

và hình ảnh của đất nước Việt Nam với bạn bè quốc tế.
Tình hình trên do nhiều nguyên nhân, trong đó chủ yếu là do ý thức
tự giác chấp hành kỷ luật về trật tự, an toàn giao thông của người tham gia
giao thông còn yếu kém. Kết cấu hạ tầng giao thông còn nhiều hạn chế, bất
cập.... [01].
Hiện nay, tai nạn giao thông do không tuân thủ pháp luật về an toàn iao
thông ở nước ta ở mức cảnh báo, nó để tác hại vô cùng to lớn trước mắt và lâu
dài; một phần nguyên nhân là do ý thức của người dân không thực hiện an
toàn giao thông khi lưu thông, số thiệt hại do tai nạn giao thông gây ra ngày
càng nghiêm trọng. Trong những năm qua, các cơ quan, đơn vị, ban ngành ở
địa phương đã có nhiều hoạt động cụ thể triển khai thực hiện công tác tuyên
truyền phổ biến giáo dục pháp luật về giao thông với hàng loạt các biện pháp
mang tính vi mô và vĩ mô.
Các nghị quyết, chỉ thị, quyết định, chương trình, kế hoạch có liên
quan đến công tác này đã được nhiều cấp ban hành từ trung ương đến địa
phương; các hình thức tuyên truyền, phổ biến đa dạng, phong phú được
triển khai để phù hợp với từng điều kiện, đối tượng cụ thể (như tổ chức hội
thảo, hội nghị, hội thi, phát sách, tờ rơi, đăng báo, bản tin, gửi email, đăng
trên website, Internet…); công tác tuyên truyền, phổ biến cũng hướng đến
nhiều đối tượng như: cán bộ, công chức, viên chức, học sinh, sinh viên;
người sử dụng lao động, người lao động trong các doanh nghiệp và người
tham gia giao thông...

12


Tuy nhiên, công tác đảm bảo trật tự, an toàn giao thông vẫn chưa đạt
được hiệu quả như mong muốn. Có nhiều yếu tố khách quan đã và đang gây
ảnh hưởng đến hoạt động đảm bảo an toàn giao thông, hạn chế phần nào hiệu
quả, tác động tích cực đến kết quả của công tác này. Số lượng tai nạn giao

thông đã giảm trên cả 3 tiêu chí nhưng số vụ tai nạn vẫn cao, mức độ phức tạp
và nghiêm trọng của tai nạn giao thông ngày càng tăng, trở thành mối quan
tâm, bức xúc của xã hội. Hiện tượng không chấp hành pháp luật khi tham gia
giao thông đường bộ, đường sắt còn thường xuyên xảy ra và diễn biến phức
tạp. Đây là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến nhiều vụ tai nạn giao
thông nghiêm trọng đã xảy ra.
Trong những năm qua, mặc dù Đảng, Nhà nước và chính quyền các
cấp, các ngành đã rất nỗ lực cố gắng và đề ra nhiều giải pháp để kiềm chế tiến
tới giảm dần các vụ tai nạn giao thông, nhưng tai nạn giao thông vẫn tiếp tục
xảy ra ngày càng nhiều với nhiều vụ gây thiệt hại lớn về người, tài sản của
Nhà nước, của tổ chức và người dân. Thực trạng này đã là một vấn đề khiến
xã hội bức xúc và là một bài toán hóc búa đối với các cơ quan chức năng, các
nhà quản lý ở nước ta hiện nay. Do đó, các hành vi điều động người không đủ
điều kiện điều khiển các phương tiện giao thông đường bộ, đường sắt, đường
thủy, đường không là những hành vi nguy hiểm cho xã hội xâm phạm đến an
toàn công cộng rất cần thiết được ghi nhận trong BLHS Việt Nam là tội phạm
để kịp thời xử lý những người có hành vi xâm phạm an toàn giao thông đường
bộ, đường sắt, đường thủy, đường không nếu đáp ứng các điều kiện nhất định.
Vì vậy, ngay từ khi ban hành BLHS đầu tiên năm 1985, các nhà làm luật đã
quan tâm đến việc quy định một số hành vi liên quan đến các tội phạm này,
tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, bảo vệ lợi ích của
Nhà nước, của tổ chức, bảo vệ tính mạng, sức khỏe, tài sản của người dân.
Việc xử lý nghiêm minh các hành vi vi phạm trật tự, an toàn giao thông

13


đường bộ, đường sắt, đường thủy, đường không liên quan đến việc điều động
người không đủ điều kiện điều khiển các phương tiện giao thông là một trong
những giải pháp quan trọng góp phần ngăn chặn, phòng ngừa và kiềm chế tai

nạn giao thông, bảo đảm an ninh trật tự, an toàn xã hội, đảm bảo tính mạng,
sức khỏe, tài sản của người dân.
Vì vậy, các nhà làm luật Việt Nam đã quy định các hành vi điều động
người không đỉ điều kiện điều khiển các phương tiện giao thông thành những
tội cụ thể xâm phạm an toàn giao thông trong BLHS với 4 tội phạm cụ thể
quy định tại các điều 263, 270, 275, 280 làm căn cứ pháp lý quan trọng để bảo
đảm việc giữ gìn và bảo vệ an toàn công cộng, bảo vệ tính mạng, sức khỏe, tài
sản của người dân đối với các tội phạm điều động người không đủ điều kiện
điều khiển các phương tiện giao thông đường bộ, đường sắt, đường thủy,
đường không.
Nghiên cứu các tội phạm này cho thấy chúng có những đặc điểm chủ
yếu sau:
Thứ nhất, các tội phạm điều động người không đủ điều kiện điều khiển
các phương tiện giao thông đường bộ, đường sắt, đường thủy, đường không.
Tính nguy hiểm cho xã hội của các tội phạm này thể hiện trước hết ở chỗ
chúng trực tiếp xâm hại tới trật tự an toàn giao thông trên các lĩnh vực đường
bộ, đường sắt, đường thủy và đường không, xâm hại hoặc đe dọa trực tiếp
xâm hại tới tính mạng, sức khỏe của người khác, tài sản của cá nhân hoặc của
xã hội, ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của xã hội.
Thứ hai, các hành vi điều động người không đủ điều kiện điều khiển các
phương tiện giao thông đường bộ, đường sắt, đường thủy, đường không là những
hành vi nguy hiểm đáng kể cho xã hội và được BLHS năm 2015 quy định là tội
phạm và bị đe dọa phải chịu biện pháp xử lý TNHS, trong đó có hình phạt.

14


Thứ ba, các tội điều động người không đủ điều kiện điều khiển các
phương tiện giao thông đường bộ, đường sắt, đường thủy, đường không đều
được thực hiện có lỗi. Lỗi trong các tội phạm này được thể hiện dưới dạng lỗi

vô ý do quá tự tin hoặc lỗi do cẩu thả.
Thứ tư, các tội điều động người không đủ điều kiện điều khiển các
phương tiện giao thông đường bộ, đường sắt, đường thủy, đường không được
thực hiện bởi chủ thể là chủ thể đặc biệt, đó là người chức vụ, quyền hạn nhất
định trong cơ quan, tổ chức. Người đó được giao nhiệm vụ hoặc có quyền
điều động người điều khiển phương tiên giao thông đường bộ, đường sắt,
đường thủy, đường không.
Các đặc điểm nêu trên là những dấu hiệu chung của các tội điều động
người không đủ điều kiện điều khiển các phương tiện giao thông đường bộ,
đường sắt, đường thủy, đường không. Các đặc điểm đó là cơ sở để phân biệt
tội phạm và vi phạm chưa cấu thành tội điều động người không đủ điều kiện
điều khiển các phương tiện giao thông đường bộ, đường sắt, đường thủy,
đường không. Chúng được thể hiện trong cấu thành tội phạm và là tổng hợp
những dấu hiệu chung có tính chất đặc trưng cho loại tội phạm này được quy
định trong bộ luật hình sự.
Từ những phân tích trên, có thể đưa ra định nghĩa khái niệm các tội điều
động người không đủ điều kiện điều khiển phương tiện tham gia giao thông
đường bộ, đường sắt, đường thủy, đường không đó là những hành vi nguy hiểm
cho xã hội, được quy định tại các điều 263, 270, 275, 280 BLHS năm 2015, do
người có chức vụ, quyền hạn nhất định thực hiện bằng lỗi vô ý xâm phạm trực
tiếp đến trật tự, an toàn giao thông đường bộ, đường sắt, đường thủy, đường
không, gây thiệt hại cho tính mạng, sức khỏe của người khác, tài sản của người
khác và xã hội được luật hình sự bảo vệ và việc xâm hại gây ra các thiệt hại nói
trên phản ánh đầy đủ nhất bản chật của các tội phạm này.

15


1.2. Các dấu hiệu pháp lý và hình phạt của các tội điều động ngƣời
không đủ điều kiện điều khiển các phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ,

đƣờng sắt, đƣờng thủy, đƣờng không.
1.2.1. Các dấu hiệu pháp lý và hình phạt của tội điều động ngƣời
không đủ điều kiện điều khiển phƣơng tiện tham gia giao thông đƣờng
bộ (Điều 263 BLHS).
a) Các dấu hiệu pháp lý của tội điều động ngƣời không đủ điều
kiện điều khiển phƣơng tiện tham gia giao thông đƣờng bộ
* Khách thể của tội phạm
Khách thể của tội phạm này cũng là trật tự, an toàn giao thông
đường bộ.
Đối tượng tác động của tội phạm này là con người, là người điều khiển
phương tiện giao thông đường bộ không đủ điều kiện quy định tại Luật giao
thông đường bộ. Người không đủ điều kiện điều khiển phương tiện giao thông
là người không có giấy phép lái xe, không đủ sức khỏe, không đủ độ tuổi để
điều khiển phương tiện hoặc người đang trong tình trạng có sử dụng rượu, bia
mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn vượt quá mức quy định, người có
sử dụng chất ma túy, chất kích thích mạnh khác hoặc không đủ các điều kiện
khác theo quy định của pháp luật…
Theo quy định của Luật giao thông đường bộ thì những người không
đủ điều kiện điều khiển phương tiện giao thông đường bộ (phương tiện giao
thông cơ giới đường bộ, phương tiện giao thông thô sơ đường bộ và xe máy
chuyên dùng tham gia giao thông đường bộ), như: Không có giấy phép lái xe
theo quy định; Điều khiển xe máy chuyên dùng tham gia giao thông đường bộ
không có chứng chỉ bồi dưỡng kiến thức pháp luật về giao thông đường bộ,
bằng hoặc chứng chỉ điều khiển xe máy chuyên dùng. Không bảo đảm độ

16


tuổi, sức khoẻ [14, Điều 60]; Người tập lái xe thực hành trên xe không phải xe
tập lái và không có giáo viên bảo trợ tay lái; Điều khiển xe ô tô, máy kéo, xe

máy chuyên dùng trên đường mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn.
Điều khiển xe mô tô, xe gắn máy mà trong máu có nồng độ cồn vượt quá 50
miligam/100 mililít máu hoặc 0,25 miligam/1 lít khí thở [22, Điều 3].
Trường hợp cho người khác mượn xe mô tô, xe máy mà biết người
mượn xe không đủ điều kiện điều khiển phương tiện giao thông đường bộ,
nhưng vẫn cho mượn dẫn đến người mượn xe gây tai nạn làm chết người thì
người cho mượn xe bị coi là giao cho người không đủ điều kiện điều khiển
phương tiện giao thông đường bộ và bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội
giao cho người không đủ điều kiện điều khiển phương tiện tham gia giao
thông đường bộ theo quy định tại Điều 264 BLHS mà không phải chịu trách
nhiệm hình sự về Tội điều động người không đủ điều kiện điều khiển phương
tiện tham gia giao thông đường bộ quy định tại Điều 263 BLHS.
* Mặt khách quan của tội phạm
- Hành vi khách quan nguy hiểm cho xã hội của tội phạm này là hành
vi điều động người không đủ điều kiện điều khiển phương tiện giao thông
đường bộ như nêu trên.
Hành vi điều động có nghĩa là ra lệnh, phân công, chỉ thị cho người
khác. Điều động người không đủ điều kiện điều khiển phương tiện giao thông
đường bộ là ra lệnh, ra chỉ thị hoặc phân công những người mà Luật giao
thông đường bộ cấm khi điều khiển phương tiện giao thông đường bộ [12,
Điều 8].
- Hậu quả nguy hiểm cho xã hội của tội điều động người không đủ điều
kiện điều khiển phương tiện tham gia giao thông đường bộ quy định tại
Khoản 1 Điều 263 BLHS là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm này.
Hậu quả có thể là một trong những thiệt hại sau: i) Gây thiệt hại về tính mạng

17


làm chết người; ii) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 01

người mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên; Gây thương tích hoặc gây tổn
hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của
những người này từ 61% đến 121%; iii) Gây thiệt hại về tài sản từ 100.000.000
đồng đến dưới 500.000.000 đồng. Nếu hành vi điều động người không đủ điều
kiện điều khiển các phương tiện giao thông đường bộ mà chưa gây ra thiệt hại
hoặc gây thiệt hại liên quan tính mạng, sức khoẻ, tài sản của người khác nhưng
chưa đến mức độ quy định như trên thì không cấu thành tội phạm.
- Giữa hành vi điều động người không đủ điều kiện điều khiển phương
tiện tham gia giao thông đường bộ của chủ thể với hậu quả thiệt hại về tính
mạng, sức khỏe hoặc về tài sản như nêu trên có mối quan hệ nhân quả biện
chứng với nhau. Hành vi của chủ thể là nguyên nhân dẫn đến hậu quả làm
chết người, gây thương tich hoặc gây thiệt hại về tài sản cho người khác như
nêu trên.
* Chủ thể của tội phạm
Chủ thể của tội phạm này là chủ thể đặc biệt. Người phạm tội là người
chịu trách nhiệm về việc điều động người điều khiển các phương tiện giao
thông đường bộ, có năng lực TNHS, như: Giám đốc xí nghiệp vận tải, Giám
đốc xí nghiệp xe khách, Chủ các doanh nghiệp vận tải...
* Mặt chủ quan của tội phạm
Lỗi của người điều động người không đủ điều kiện điều khiển phương
tiện tham gia giao thông đường bộ là lỗi vô ý. Mặc dù là vô ý phạm tội,
nhưng trước khi điều động người không đủ điều kiện điều khiển các phương
tiện giao thông đường bộ, người phạm tội phải biết người mà mình điều động
phải là người không đủ điều kiện điều khiển các phương tiện giao thông
đường bộ. Nếu vì một lý do nào đó mà người phạm tội không biết người mà
mình điều động người không đủ điều kiện điều khiển các phương tiện giao
thông đường bộ thì không có lỗi đối với hành vi điều động.

18



b) Hình phạt đối với tội điều động ngƣời không đủ điều kiện điều
khiển phƣơng tiện tham gia giao thông đƣờng bộ
- Phạm tội theo quy định tại khoản 1, tức là thỏa mãn các dấu hiệu cấu
thành cơ bản của tội phạm thì bị bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến
100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01
năm đến 03 năm.
- Phạm tội theo quy định tại khoản 2 thì bị phạt tù từ 02 năm đến 7
năm, nếu có một trong những tình tiết định khung tăng nặng: i) Làm chết 02
người; ii) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên
mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 122% đến 200%; iii)
Gây thiệt hại về tài sản từ 500.000.000 đồng đến dưới 1.500.000.000 đồng.
- Phạm tội theo quy định tại khoản 3 thì bị phạt tù từ 05 năm đến 12
năm, nếu có một trong những tình tiết định khung tăng nặng: i) Làm chết 03
người; ii) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 03 người trở lên
mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 201% trở lên; iii)
Gây thiệt hại về tài sản từ 1.500.000.000 đồng trở lên.
Ngoài ra, người phạm tội này còn có thể bị phạt hình phạt bổ sung: phạt
tiền từ 10.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm
hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
1.2.2. Các dấu hiệu pháp lý và hình phạt đối với tội điều động
ngƣời không đủ điều kiện điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng sắt
(Điều 270 BLHS).
a) Các dấu hiệu pháp lý của tội điều động ngƣời không đủ điều
kiện điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng sắt.
* Khách thể của tội phạm
Khách thể của tội phạm này cũng là trật tự, an toàn giao thông
đường sắt.

19



×