Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

Tiểu luận kiểm tra học phàn môn văn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (80.97 KB, 10 trang )

I/ PHẦN MỞ ĐẦU
Truyện kiều là tác phẩm thành công nhất của nhà thơ Nguyễn Du. Đây là tác
phẩm đạt đỉnh điểm sự hoàn thiện của truyện nôm Việt Nam trên nhiều phương
diện. Thi pháp nhân việt, thi pháp kết câu, ngôn từ nghệ thuật. Bàn về ngôn từ
nghệ thuật có rất nhiều nhà nghiên cứu bình luận, Người học đánh giá Truyện
Kiều là tác phẩm thành công rực rỡ về mặt ngôn từ nghệ thuật. Nội dung là hệ
thống của ngôn ngữ dân tộc, là tập đại thành về gôn ngữ của thời đại ông, ông là
người nâng ngôn ngữ văn học thời đại lên đỉnh cao chói lọi. Thành công của
Nguyễn Du về phương diện ngôn ngữ có một ý nghĩa hết sức to lớn đối với lịch
sử. Cùng với Nguyễn Trãi trước kia, Hồ Xuân Hương, dịch giả Chinh phụ ngâm
của Nguyễn Gia Thiều, Nguyễn Công Trứ cùng thời và đặc biệt là Nguyễn Du đã
khẳng định một cách đầy đủ và thuyết phục sự phong phú và khả năng to lớn
trong sáng tác văn học như giáo sư Trần Đình Sử khẳng định “Trong văn học
Tiếng Việt chỉ đến Truyện Kiều thì ngôn từ mới tự đứng lên biểu diễn như một
nghệ thuật còn trước đó Tiếng Việt chủ yếu là sự diễn ý bằng ngôn từ với các
thủ thuật nào đó với các mức độ tài hoa khác nhau nào đó. Thật vậy Tiếng Việt
là một thứ ngôn từ của dân tọc ta rất trong sáng giàu và đẹp khi được sử dụng
vào văn học thì được các tác giả trao chuốt mài giũa và trở thành yếu tố nghệ
thuật đặc sắt. Truyện Kiều của Nguyễn Du đã đánh dấu một bước phát triển mới
về chất có ý nghĩa đặc biệt trong việc học tập thơ ca dân gian và ngôn ngữ quần
chúng của nhà thơ. Có thể khẳng định rằng ngôn từ nghệ thuật trong Truyện
Kiều đã được Nguyễn Du gọt giũa trao chuốt đã tạo nên tiếng nói riêng của dân
tộc Việt Nam chúng ta thật may mắn và tự hào có được Truyện Kiều. Nhờ đó mà
văn học Việt Nam thêm rạng rỡ, vẽ đẹp của Tiếng Việt được tôn xứng, tài năng
người Việt nam được khẳng định.
1
II/ NỘI DUNG
Trong “Truyện Kiều” Nguyễn Du với tư cách nghệ sĩ ông đã “đập vỡ” câu
trúc ngôn từ hàng ngày để tạo thành ngôn từ nghệ thuật. Ông đã tránh ngôn từ
tác giả thực dụng để sử dụng ngôn từ chủ thể. Ông đã trao quyền tự do cho kể
chuyện và cho nhân vật và đã làm chon ngôn từ ấy có khả năng “nói” nhiều hơn.


Nguyễn Du đã “đập vỡ” cú pháp thông thường để tạo ra những câu thơ … chủ từ
như nhiều người đã nhận xét và làm cho câu thơ trở nên mơ hồ mênh mang.
Đoàn Phú Tứ nhận xét câu “chập chờn cơn tỉnh cơn mê, … ngời chẳng tiện dứt
về chín khôn” là như thế. Ông hỏi kẻ “chập chờn cơn tỉnh cơn mê” ấy là ai? Là
Kiều, Kim Trọng hay cả hai, và còn bao gồm cả người kể người đọc nữa? Hoài
Thanh cũng có nhận xét về câu thơ khác “ đường mây cười tớ ham rong ruổi,
Trương liễu thương ai chụi lạnh lùng” ông thấy “Có người cười mà không thấy
người cười” có tình thương mà không biết ai thương” Nó làm cho câu thơ giàu
sức cảm thông ở mọi người, vì nó làm cho người này, người nọ dễ hoà lẫn vào
nhau. Khác với ngôn từ thực dụng hằng ngày. Ngay trong đoạn thơ đầu Truyện
Kiều ta đã đọc thấy.
“ Trăm năm trong cõi người ta
Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau
Trải qua một cuộc bể dâu
Những điều trông thấy mà đau đơn lòng!
Cái từ “khéo” đầy mỉa mai hờn dỗi kia là của ai và kẻ cùng trong một cuộc
kia là những ai? Rõ ràng không phải một mình người kể mà là tất cả những kẻ tài
hoa bạc mệnh. Nguyễn Du đã dùng ngôn từ của thân tâm để tự sự nhờ thế đã tạo
được sức đồng cảm phổ quát. Các phép sóng đôi ẩn dụ , điển cổ trong Truyện
Kiều đều được sử dụng sao cho yếu tố “Thân tâm” được biểu hiện ra.
2
Ngôn từ ý tưởng cũng là một phương tiện cơ bản của ngôn từ nghệ thuật
Truyện Kiều. Ý tượng là hình ảnh nảy sinh trong tâm tưởng, không phải là hình
ảnh sao chép thực tại. Do đó nó phải có cấu tạo riêng thể hiện sự hoà quyện yếu
tố khách quan và chủ quan. Nguyễn Du đã tạo ra hàng loạt ngôn từ ý tượng,
không có trong thực tế cũng không có trong từ điển thông thường nhưng ngôn từ
ý tượng của Nguyễn Du nói lên sự cảm thụ chủ quan của con người. Nói tới
nước mắt thì nói giọt ngọc, giọt châu, giọt tương, giọt hồng, giọt lệ, giọt tư, giọt
riêng. Nói tới giấc ngủ thì nói tới giấc xuân, giấc mai, giấc hoè, giấc tiên. Nói tới
mái tóc không chỉ là tóc mai, tóc mây, tóc sương mà còn là mái sầu. Nói tới

đường xa ông nói thành dặm hồng, dặm xanh (dặm băng), dặm khách, dặm phần.
Nói tới chén rưọu ông nói tới chén xuân, chén quỳnh, chén đưa, chén mời, chén
khuyên, chén đồng mang đầy sắc thái khác nhau của tình huống. Nói tới của sổ
ông củng nói tới từ của riêng ông: Song ca, song mai, sông hồ, song mây, song
trăng, song đào, song phi. Nói tới bóng trăng thế là bóng nga, bóng nguyệt, gắn
với cảm phúc khi nhìn thấy. Nói tới tấm lòng thì ông gọi là tấm riêng, tấm yêu,
tấm son, tấm thành, tấm thương… Đó là những từ đồng nghĩa được tạo ra theo
cảm xúc và đó là sản phẩm sáng tạo, là cảnh phá vở cánh tạo từ thông thường để
tạo từ mới gây hậu quả lạ hoá.
Nguyễn Du đã phá vở cấu trúc cố định để tạo thành những kết hợp không
đều có. Chẳn hạn, “ăn gió, nằm mưa”, “bướm chán ong chường”, “bướm lả ong
lới”, dày gió, dạn sương”, “gìn vàng giữ ngọc”… Cách cấu tạo diễn tả một trạng
thái sự kiện có ý nghĩa phổ quát và diễn ra nhiều lần và chỉ hiểu được trong ngữ
cảnh tác phẩm. Nguyễn Du đã phát hiện ra các quy luật ẩn kín của Tiếng Việt để
giải cấu trúc ngôn từ thực dụng và tái cấu trúc những biểu đạt mới, làm cho
chúng tự nói lên bằng cấu trúc của bản thân chúng. Không thể dịch lạt được
3
bằng ngôn từ thông dụng mà không làm mất mát ý nghĩa và vẽ đẹp cùng nhạc
điệu của nó.
Truyện Kiều cũng là một tác phẩm được Nguyễn Du sử dụng những điển
cổ lấy từ văn học cổ tiếng việt, đây cũng là một khía cạnh của việc sử dụng từ
Hán Việt. Trong Truyện Kiều, chung ta thấy những điển cổ mà Nguyễn Du dùng
nếu không phải là quen thuộc đối với mọi người thì nhà thơ thường bố trí nó vào
những văn cảnh nhất định để người đọc dù không hiểu điển cổ những vẫn hiểu
câu thơ. Chẳng hạn câu thơ:
Khen tài nhã ngọc phun châu
Nàng ba, ả Tạ cũng đâu thế này.
Hay
Biết bao bướm lả ong lơi
Cuộc say đầy tháng, trận cười suốt đêm

Dập dìu lá gió cành chim
Sớm đưa Tống Ngọc, tối tìm Tràng Khanh
Thì dù không ai biết nàng Ban, ả Tạ, là những cô gái nào, Tống Ngọc,
Tràng Khanh là những ai: Hay câu “Dập dìu lá gió cành chim” dù không biết
như Kiều Oánh Mậu, nó rút ra từ câu thơ của nàng Tiết Đào đời Đường.
Chi nghênh nam bắc điểu
Diệp tống vàng lai phong
Vẫn có thể hiểu và rung cảm được.
Nguyễn Du không thoát ra ngoài phong cách thời đại, nhưng nhà thơ có
thể chọn một chỗ đứng để có thể phát triển phong cách, không là cho nó tạo
thành bảo thủ chết cứng.
4
Việt dùng từ Hán Việt còn do một nhu cầu có tính chất tu từ học trong thơ.
Trong Truyện Kiều Nguyễn Du dùng song song những từ thuần Việt với từ Hán
Việt có cùng một ý nghĩa khá phổ biến. Cũng chỉ khái niệm “Bố mẹ” trong
Truyện Kiều có từ như “hai thân” “Song thân” “hai đường” cùng một khái niệm
“người mối lái” Truyện Kiều có một từ như nhà băng, băng nhân, mới. Cùng
khái niệm “Mặt trăng” Truyện Kiều lại có những từ mặt trăng, vành trăng cúng
trăng, cung quảng, gương nga, bóng nga, chị Hằng. Cùng khái niệm giấc ngủ,
Truyện Kiều có những từ giấc xuân, giấc mộng, giấc mê, giấc vàng, giấc chiêm
bao, giấc hương quan… Cùng một khái niệm “phụ nữ” Truyện Kiều có những từ
đàn bà, gái 18, má hồnh, má đào, hồng nhan, hồng quần, nữ nhi, nhi nữ, thuyền
quyên… Trong những trường hợp này Nguyễn Du có thể dùng từ thuần Việt để
thay thế cho từ Hán Việt, hoặc có thể việc hoá từ Hán Việt, nhưng Nguyễn Du
đã dùng tất cả những kiểu vừa thuần Việt, vừa Hán Việt, vừa Hán Việt được Việt
Hoá bằng cách dịch là để làm giàu cho kho từ vựng của mình, đồng thời có thể
tránh được sự trùng lặp đơn điệu, có thể gieo vần một cách uyển chuyển, làm cho
âm hưởng của câu thơ dồi dào sinh động.
Bộ phận từ thuần Việt của Nguyễn Du trong Truyện Kiều thường xuất
phát từ hai nguồn: Một nguồn từ ca dao, tục ngữ thành ngữ nghĩa là một thứ

ngôn ngữ đã được trao chút, đúc kết và một nguồn lấy trực tiếp từ lời ăn tiếng
nói hằng ngày của họ. Ở phương diện này, Nguyễn Du đã có những tìm tòi,
những đóng góp hết sức độc đáo. Có thể khẳng định trong Truyện Kiều có những
hàng mấy chục câu thơ Nguyễn Du trực tiếp rút ra từ ca dao: Đơn cử như câu:
Vầng trăng ai xẻ làm đôi
Nửa in gối chiết, nửa soi dặm trường”
Là rút ra từ những câu ca dao:
5

×