Tải bản đầy đủ (.pdf) (88 trang)

Đấu thầu mua sắm hàng hóa theo phương thức một giai đoạn, hai túi hồ sơ theo pháp luật đấu thầu ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (831.88 KB, 88 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LÊ ĐỨC BÌNH

ĐẤU THẦU MUA SẮM HÀNG HÓA THEO PHƯƠNG THỨC
MỘT GIAI ĐOẠN, HAI TÚI HỒ SƠ THEO PHÁP LUẬT
ĐẤU THẦU Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ

Hà Nội - 2019


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LÊ ĐỨC BÌNH

ĐẤU THẦU MUA SẮM HÀNG HÓA THEO PHƯƠNG THỨC
MỘT GIAI ĐOẠN, HAI TÚI HỒ SƠ THEO PHÁP LUẬT
ĐẤU THẦU Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Ngành: Luật kinh tế
Mã số: 8.38. 01 .07

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. BÙI NGUYÊN KHÁNH

Hà Nội - 2019



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác,
tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán
tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Học viện Khoa học xã hội.
Vậy tôi viết lời cam đoan này đề nghị Ban Chủ nhiệm Khoa của Học
viện xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

LÊ ĐỨC BÌNH


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: LÝ LUẬN CHUNG VÀ PHÁP LUẬT VỀ ĐẤU THẦU
MUA SẮM HÀNG HÓA THEO PHƯƠNG THỨC MỘT GIAI
ĐOẠN, HAI TÚI HỒ SƠ ................................................................................ 8
1.1. Khái niệm về đấu thầu mua sắm hàng hóa theo phương thức một
giai đoạn, hai túi hồ sơ .............................................................................. 8
1.2. Pháp luật về đấu thầu mua sắm hàng hóa theo phương thức một
giai đoạn, hai túi hồ sơ ............................................................................ 16
Chương 2: THỰC TRẠNG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT ĐẤU THẦU
MUA SẮM HÀNG HÓA THEO PHƯƠNG THỨC MỘT GIAI
ĐOẠN, HAI TÚI HỒ SƠ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ............................... 41
2.1. Kết quả đạt được .............................................................................. 41
2.2. Hạn chế và nguyên nhân .................................................................. 50
Chương 3: KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ

GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT ĐẤU
THẦU MUA SẮM HÀNG HÓA THEO PHƯƠNG THỨC MỘT
GIAI ĐOẠN, HAI TÚI HỒ SƠ.................................................................... 66
3.1. Giải pháp hoàn thiện pháp luật đấu thầu mua sắm hàng hóa theo
phương thức một giai đoạn, hai túi hồ sơ ............................................... 66
3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật đấu thầu mua
sắm hàng hóa theo phương thức một giai đoạn, hai túi hồ sơ ................ 73
KẾT LUẬN .................................................................................................... 78
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 79


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Tên viết tắt

Diễn giải

HSMT

Hồ sơ mời thầu

HSDT

Hồ sơ dự thầu

KQLCNT

Kết quả lựa chọn nhà thầu

HSĐXKT


Hồ sơ đề xuất về kỹ thuật

HSĐXTC

Hồ sơ đề xuất về tài chính

CĐT

Chủ đầu tư

BMT

Bên mời thầu


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hiện nay, thị trường mua sắm hàng hóa ở Việt Nam đang phát triển khá
rầm rộ với rất nhiều mặt hàng cũng như nhiều bên cung ứng hàng hóa. Hơn
nữa, trong thời kỳ công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước, việc mua sắm
hàng hóa với những dự án lớn, dự án sử dụng nhiều vốn thường được các bên
đặc biệt chú trọng. Những loại hàng hóa này không chỉ đáp ứng các yêu cầu
về kỹ thuật, đảm bảo theo đúng tiêu chuẩn của bên mua mà còn phải đảm bảo
về giá thành.
Chính vì vậy, nhằm tạo ra một thị trường kinh doanh lành mạnh, bình
đẳng giữa các bên cũng như mở rộng sự lựa chọn nhà thầu, pháp luật đã quy
định thêm hình thức đấu thầu mua sắm hàng hóa. Căn cứ vào phương thức lựa
chọn nhà thầu, nhà đầu tư và tính chất của gói thầu, đấu thầu mua sắm hàng
hóa được chia thành đấu thầu mua sắm hàng hóa theo phương thức một giai
đoạn một túi hồ sơ, phương thức đấu thầu một giai đoạn hai túi hồ sơ, phương

thức đấu thầu hai giai đoạn hai túi hồ sơ và phương thức đấu thầu hai giai
đoạn một túi hồ sơ.
Nhận thức được vai trò và tầm quan trọng của việc đấu thầu mua sắm
hàng hóa nói chung, pháp luật Việt Nam hiện hành đã có rất nhiều văn bản
khác nhau điều chỉnh về vấn đề này. Điển hình trong đó phải kể tới Luật Đấu
thầu năm 2013 và hệ thống các thông tư, nghị định hướng dẫn thi hành. Nhờ
có những văn bản, quá trình đấu thầu mua sắm hàng hóa giữa các bên được
đặt dưới sự kiểm soát chặt chẽ của Nhà nước, các vấn đề có liên quan cũng
được bóc tách, quy định cụ thể và rõ ràng hơn. Đồng thời, hoạt động đấu thầu
còn có nhiều đóng góp to lớn cho sự phát triển kinh tế của đất nước.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đó, hoạt động đấu thầu hiện nay
còn tồn tại một thực tế đáng buồn như đấu thầu thiếu minh bạch, thiếu công

1


bằng, tình trạng thông thầu giữa chủ đầu tư và nhà thầu, giữa các bên đấu thầu
với nhau,… Không chỉ vậỵ, trải qua hơn năm năm kể từ ngày Luật Đấu thầu
năm 2013 và các văn bản hướng dẫn thi hành có hiệu lực, các văn bản này đã
dần bộc lộ những hạn chế nhất định. Một số quy định về đấu thầu mua sắm
không còn phù hợp với tình hình thực tại.
Xuất phát từ những lý do nêu trên, tác giả đã quyết định lựa chọn đề tài
“Đấu thầu mua sắm hàng hóa theo phương thức một giai đoạn, hai túi hồ
sơ theo pháp luật đấu thầu ở Việt Nam hiện nay” để nghiên cứu và hoàn
thành Luận văn Thạc sĩ Luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Đấu thầu mua sắm hàng hóa là một lĩnh vực quan trọng, luôn dành
được rất nhiều sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, của các bên tham gia vào
quan hệ đấu thầu. Đặc biệt, đây cũng là một lĩnh vực tốn khá nhiều giấy mực
của giới Luật học trong và ngoài nước. Có thể kể tới một số công trình nghiên

cứu về đề tài này như: Cuốn “Quản lý đấu thầu - Thực trạng ở Việt Nam và
kinh nghiệm quốc tế” của tác giả Ngô Vinh Hải, NXB Giao thông vận tải, Hà
Nội; Bài viết “Bảo đảm dự thầu trong đấu thầu mua sắm hàng hóa theo pháp
luật Việt Nam hiện nay” của tác giả Cao Thị Lê Thương, Viện Nhà nước và
pháp luật – Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam, năm 2019; Bài viết
“Hoàn thiện các quy định về các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trong
Dự thảo Bộ luật Dân sự (sửa đổi)” của tác giả Lê Vũ Nam, Tạp chí Nghiên
cứu lập pháp, Số 13/2015, tr. 23 - 30.
Bên cạnh đó, có một số học giả cũng lựa chọn đề tài này để làm Luận
văn Thạc sĩ của mình như; “Đấu thầu mua sắm hàng hóa theo phương thức
một giai đoạn một túi hồ sơ theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn ngành khí
tượng thủy văn” Luận văn Thạc sĩ Luật học, của tác giả Nguyên Thị Hiệp,
Học viện khoa học xã hội, năm 2017; “Pháp luật Việt Nam về đấu thầu xây

2


dựng – thực trạng và hướng hoàn thiện”, Luận văn Thạc sĩ Luật học của tác
giả Nguyễn Thành Nam, Khoa Luật – đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2014.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của Luận văn là nhằm làm sáng tỏ những vấn đề
đấu thầu mua sắm hàng hóa theo phương thức một giai đoạn hai túi hồ sơ;
Phân tích các quy định của pháp luật và đánh giá thực tiễn thực hiện các quy
định của pháp luật về đấu thầu mua sắm hàng hóa theo phương thức một giai
đoạn, hai túi hồ sơ ở Việt Nam hiện nay. Từ đó, tái hiện bức tranh tổng quan
nhất về tình hình thực hiện pháp luật đấu thầu mua sắm hàng hóa theo phương
thức một giai đoạn, hai túi hồ sơ. Dựa trên kết quả đánh giá này, tác giả đã
đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hơn nữa hiệu
quả áp dụng pháp luật đấu thầu mua sắm hàng hóa theo phương thức một giai

đoạn, hai túi hồ sơ.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện được mục đích nghiên cứu nêu trên, Luận văn đi sâu và
tập trung tiến hành các nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể như sau:
Một là, nghiên cứu nhằm làm sáng tỏ những vấn đề lý luận chung về
đấu thầu và pháp luật về đấu thầu mua sắm hàng hóa theo phương thức một
giai đoạn, hai túi hồ sơ.
Hai là, phân tích và tìm hiểu thực trạng pháp luật Việt Nam hiện nay về
đấu thầu và pháp luật về đấu thầu mua sắm hàng hóa theo phương thức một
giai đoạn, hai túi hồ sơ.
Ba là, phân tích và đánh giá thực trạng áp dụng pháp luật về đấu thầu
mua sắm hàng hóa theo phương thức một giai đoạn, hai túi hồ sơ ở Việt Nam
hiện nay.

3


Bốn là, đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về đấu thầu
mua sắm hàng hóa theo phương thức một giai đoạn, hai túi hồ sơ ở Việt Nam
hiện nay.
Năm là, đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng
pháp luật đấu thầu mua sắm hàng hóa theo phương thức một giai đoạn, hai túi
hồ sơ.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của Luận văn bao gồm: (1) Lý thuyết chung về
đấu thầu mua sắm hàng hóa theo phương thức một giai đoạn, hai túi hồ sơ; (2)
Pháp luật Việt Nam hiện hành về đấu thầu mua sắm hàng hóa theo phương
thức một giai đoạn, hai túi hồ sơ.
4.2. Phạm vi nghiên cứu

Phạm vi nghiên cứu của Luận văn là những quy định của Luật Đấu thầu
năm 2013 về đấu thầu mua sắm hàng hóa theo phương thức một giai đoạn, hai
túi hồ sơ. Đồng thời, phân tích và đánh giá thực trạng pháp luật cũng như thực
tiễn áp dụng pháp luật về đấu thầu mua sắm hàng hóa theo phương thức một
giai đoạn, hai túi hồ sơ ở Việt Nam hiện nay; đưa ra một số kiến nghị nhằm
hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật đấu thầu mua
sắm hàng hóa theo phương thức một giai đoạn, hai túi hồ sơ.
Về phạm vi thời gian, Luận văn nghiên cứu trong khoảng thời gian từ
ngày 01 tháng 07 năm 2014 - kể từ khi Luật Đấu thầu năm 2013 chính thức có
hiệu lực thi hành tới nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Để đạt được những mục đích nghiên cứu, Luận văn đã vận dụng các
phương pháp luận nghiên cứu khoa học của Chủ nghĩa Mác - Lê nin, của tư

4


tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về Nhà nước
và pháp luật, về xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường của Việt Nam
theo hướng xã hội chủ nghĩa, tự do hóa thương mại và đề cao tinh thần hội
nhập kinh tế quốc tế.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở những phương pháp luận đã nêu trên, với mục đích nghiên
cứu toàn diện và cụ thể hơn các quy định của pháp luật, thực tiễn áp dụng
pháp luật về đấu thầu mua sắm hàng hóa theo phương thức một giai đoạn, hai
túi hồ sơ, luận văn còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu như sau:
- Phương pháp thống kế, tổng hợp: Luận văn đã thống kê, tổng hợp các quy
định của pháp luật hiện hành về đấu thầu mua sắm hàng hóa theo phương thức
một giai đoạn, hai túi hồ sơ. Để từ đó, có một cái nhìn khái quát và toàn diện nhất

về những quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về vấn đề này.
Không chỉ vậy, phương pháp thống kê, tổng hợp còn được sử dụng
trong việc thu thập và kế thừa các thông tin, tài liệu tổng kết thi hành Luật
Đấu thầu năm 2013, số liệu của các công trình nghiên cứu khoa học đã được
công bố.
- Phương pháp phân tích, bình luận, đánh giá: Trên cơ sở những thông tin
đã thống kê, tổng hợp được, Luận văn tiếp tục sử dụng phương pháp phân tích
và đánh giá để có cái nhìn đa chiều hơn về đấu thầu mua sắm hàng hóa theo
phương thức một giai đoạn, hai túi hồ sơ. Đồng thời, chỉ ra được những kết
quả đã đạt được cũng như những hạn chế còn tồn tại trong các quy định của
pháp luật hiện nay về đấu thầu mua sắm hàng hóa theo phương thức một giai
đoạn, hai túi hồ sơ.
- Phương pháp so sánh: Phương pháp so sánh này được Luận văn sử dụng
để đối chiếu giữa các quy định của pháp luật, tìm ra các điểm bất cập, chưa
hợp lý, chưa thống nhất trong hệ thống pháp luật Việt Nam hiện hành về đấu

5


thầu mua sắm hàng hóa theo phương thức một giai đoạn, hai túi hồ sơ. Đồng
thời, tìm ra điểm nào chưa phù hợp giữa quy định của pháp luật và thực tiễn
thi hành các quy định này trong thực tế.
- Phương pháp quy nạp, diễn dịch: Với tất cả những thông tin đã có được
nhờ việc sử dụng các phương pháp nghiên cứu nêu trên, Luận văn đã vận
dụng một cách linh hoạt phương pháp quy nạp và phương pháp diễn dịch.
Mục đích của việc sử dụng phương pháp này là nhằm nghiên cứu và chứng
minh những kiến nghị để hoàn thiện pháp luật và những giải pháp nhằm nâng
cao hiệu quả áp dụng pháp luật đấu thầu mua sắm hàng hóa theo phương thức
một giai đoạn, hai túi hồ sơ.
Bên cạnh đó, Luận văn còn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu

khác để đạt được mục đích nghiên cứu đã đề ra và nhằm làm cho bài Luận
văn cụ thể, sinh động hơn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận văn tiếp tục nghiên cứu một cách có hệ thống và toàn diện những
vấn đề lý luận và các quy định của pháp luật hiện hành về vấn đề đấu thầu
mua sắm hàng hóa theo phương thức một giai đoạn, hai túi hồ sơ.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn đánh giá thực trạng thi hành pháp luật về đấu thầu mua sắm
hàng hóa theo phương mức một giai đoạn, hai túi hồ sơ nhằm chỉ ra những
mặt được, những hạn chế còn tồn tại cũng như nguyên nhân của những hạn
chế đó trong quá trình áp dụng pháp luật về đấu thầu mua sắm hàng hóa theo
phương thức một giai đoạn, hai túi hồ sơ. Trên cơ sở đó, Luận văn đề xuất
một số giải pháp nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về
đấu thầu mua sắm hàng hóa. Đồng thời, sau khi hoàn thiện, bài Luận văn này

6


cũng là tài liệu tham khảo cho các học giả quan tâm về đấu thầu mua sắm
hàng hóa theo phương thức một giai đoạn, hai túi hồ sơ.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, bố cục
của bài Luận văn Thạc sĩ bao gồm ba chương với các nội dung như sau:
Chương 1: Lý luận chung và pháp luật về đấu thầu mua sắm hàng hóa
theo phương thức một giai đoạn, hai túi hồ sơ
Chương 2: Thực trạng thực hiện pháp luật đấu thầu mua sắm hàng hóa
theo phương thức một giai đoạn, hai túi hồ sơ ở Việt Nam hiện nay
Chương 3: Kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật và giải pháp nâng cao
hiệu quả áp dụng pháp luật đấu thầu mua sắm hàng hóa theo phương thức một

giai đoạn, hai túi hồ sơ.

7


Chương 1
LÝ LUẬN CHUNG VÀ PHÁP LUẬT VỀ
ĐẤU THẦU MUA SẮM HÀNG HÓA THEO PHƯƠNG THỨC
MỘT GIAI ĐOẠN, HAI TÚI HỒ SƠ
1.1. Khái niệm về đấu thầu mua sắm hàng hóa theo phương thức một giai
đoạn, hai túi hồ sơ
1.1.1. Khái niệm “Đấu thầu”
Trước hết, thuật ngữ “đấu thầu” đã xuất hiện từ lâu. Theo Từ Điển Luật
học A Law Dictionary, Adapted to the Constitution and Laws of the United
States bởi John Bouvier, xuất bản năm 1856 có viết: “A bid is an offer to pay
a specified price for an article about to be sold at auction. The bidder has a
right to withdraw his bid at any time before it is accepted, which acceptance
is generally manifested by knocking down the hammer.” [33] (Tạm dịch: Đấu
thầu là một đề nghị trả giá xác định cho một sản phẩm sắp được bán đấu giá.
Nhà thầu có quyền rút lại giá thầu của mình bất cứ lúc nào trước khi được
chấp nhận, sự chấp nhận này thường được biểu hiện bằng cách hạ búa). Theo
Từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học, xuất bản năm 2003, NXB Đà
Nẵng – Từ điển học, trang 302 thì “đấu thầu là việc tổ chức cuộc đọ sức công
khai ai nhận làm, ai bán với điều kiện tốt nhất”[26,tr.302]
Dưới góc độ pháp lý, khoản 1 Điều 214 Luật Thương mại 2005 có quy
định về khái niệm đấu thầu đối với hàng hóa, dịch vụ như sau: “Đấu thầu
hàng hoá, dịch vụ là hoạt động thương mại, theo đó một bên mua hàng hoá,
dịch vụ thông qua mời thầu (gọi là bên mời thầu) nhằm lựa chọn trong số các
thương nhân tham gia đấu thầu (gọi là bên dự thầu) thương nhân đáp ứng tốt
nhất các yêu cầu do bên mời thầu đặt ra và được lựa chọn để ký kết và thực

hiện hợp đồng (gọi là bên trúng thầu)”[29].

8


Trước đây, tại khoản 2 Điều 4 Luật đấu thầu năm 2005 quy định khái
niệm đấu thầu như sau: “Đấu thầu là quá trình lựa chọn nhà thầu đáp ứng
các yêu cầu của bên mời thầu để thực hiện gói thầu thuộc các dự án quy định
tại Điều 1 của Luật này trên cơ sở bảo đảm tính cạnh tranh, công bằng, minh
bạch và hiệu quả kinh tế.”[27] Theo đó, các hoạt động đấu thầu để lựa chọn
nhà thầu cung cấp dịch vụ tư vấn, mua sắm hàng hoá, xây lắp đối với gói thầu
thuộc các dự án sau đây:
“1. Dự án sử dụng vốn nhà nước từ 30% trở lên cho mục tiêu đầu tư phát
triển, bao gồm:
a) Dự án đầu tư xây dựng mới, nâng cấp mở rộng các dự án đã đầu tư xây dựng;
b) Dự án đầu tư để mua sắm tài sản kể cả thiết bị, máy móc không cần lắp đặt;
c) Dự án quy hoạch phát triển vùng, quy hoạch phát triển ngành, quy hoạch
xây dựng đô thị, nông thôn;
d) Dự án nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ, hỗ trợ kỹ thuật;
đ) Các dự án khác cho mục tiêu đầu tư phát triển;
2. Dự án sử dụng vốn nhà nước để mua sắm tài sản nhằm duy trì hoạt động
thường xuyên của cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã
hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp, đơn vị vũ trang nhân dân;
3. Dự án sử dụng vốn nhà nước để mua sắm tài sản nhằm phục vụ việc cải
tạo, sửa chữa lớn các thiết bị, dây chuyền sản xuất, công trình, nhà xưởng đã
đầu tư của doanh nghiệp nhà nước.”
Theo thời gian, để phù hợp với tình hình thực tế, pháp luật đấu thầu
hiện hành đã có sự điều chỉnh lại khái niệm đấu thầu như sau: “Đấu thầu là
quá trình lựa chọn nhà thầu để ký kết và thực hiện hợp đồng cung cấp dịch vụ
tư vấn, dịch vụ phi tư vấn, mua sắm hàng hóa, xây lắp; lựa chọn nhà đầu tư

để ký kết và thực hiện hợp đồng dự án đầu tư theo hình thức đối tác công tư,

9


dự án đầu tư có sử dụng đất trên cơ sở bảo đảm cạnh tranh, công bằng, minh
bạch và hiệu quả kinh tế.”[30]
Như vậy, từ quy định nêu trên, có thể thấy, đấu thầu được hiểu là quá
trình mà chủ đầu tư lựa chọn ra nhà thầu có thể đáp ứng các yêu cầu của mình
để ký kết và thực hiện hợp đồng như hợp đồng cung cấp dịch vụ tư vấn, dịch
vụ phi tư vấn, mua sắm hàng hóa, xây lắp; hoặc thông qua quá trình này lựa
chọn nhà đầu tư để ký kết và thực hiện hợp đồng dự án đầu tư theo hình thức
đối tác công tư, dự án đầu tư có sử dụng đất. Trong đó, thông qua đấu thầu mà
bên mua tổ chức thì bên bán, chính là các nhà thầu sẽ cạnh tranh nhau để
giành được quyền cung cấp mua hàng hóa, dịch vụ đó với giá đủ bù đắp các
chi phí đầu vào và đảm bảo mức lợi nhuận cao nhất có thể cho bên mình. Bên
mua sẽ lựa chọn nhà thầu nào mà mang lại cho bên mua hàng hóa hoặc dịch
vụ có thể thỏa mãn các yêu cầu về kĩ thuật, chất lượng trong hồ sơ mời thầu
và đặc biệt là chi phí thấp nhất. Nói chung, bản chất của đấu thầu như 1 sự
cạnh tranh lành mạnh có tính công bằng, minh bạch và mang lại hiệu quả kinh
tế để được thực hiện công việc nào đó, yêu cầu nào.
Đấu thầu có một số đặc điểm cơ bản như sau:
Thứ nhất, đấu thầu là một hoạt động thương mại mà bên dự thầu là các
thương nhân đáp ứng đủ điều kiện và hướng tới là lợi nhuận từ việc ký kết,
thực hiện hợp đồng; còn bên mời thầu thông qua hoạt động đấu thầu để ký kết
hợp đồng mua bán hàng hóa, hoặc sử dụng dịch vụ với bên nhà thầu mà có
thể đáp ứng các điều kiện tốt nhất của mình.
Thứ hai, đấu thầu là một giai đoạn tiền hợp đồng. Mục đích cuối cùng
của đấu thầu là lựa chọn nhà thầu để ký kết và thực hiện hợp đồng theo quy
định của Luật đấu thầu. Sau khi quá trình lựa chọn nhà thầu hoàn tất, nhà thầu

trúng thầu được lựa chọn sẽ cùng với đơn vị tổ chức đấu thầu đàm phán,

10


thương thảo để kí kết và thực hiện hợp đồng. Vì vậy, có thể coi đấu thầu là
giai đoạn tiền hợp đồng.
Thứ ba, các bên tham gia đấu thầu hàng hóa, dịch vụ cũng chính là bên
mua và bên bán hàng hóa/ dịch vụ. Bên mời thầu có nhu cầu mua sắm hàng
hóa hoặc sử dụng dịch vụ. Thông qua hoạt động đấu thầu, thương nhân nào có
năng lực cung cấp hàng hóa hoặc dịch vụ cho gói thầu mà bên mời thời yêu
cầu thì sẽ tham gia dự thầu. Nếu lựa chọn được nhà thầu, các bên tiến hành
thương thảo, ký kết hợp đồng. Khi đó, bên dự thầu mà trúng thầu sẽ trở thành
bên mua, bên mời thầu sẽ trở thành bên bán trong quan hệ mua bán hàng hóa
hoặc cung cấp dịch vụ.
Thứ tư, đấu thầu hàng hóa, dịch vụ là một quá trình mua bán hàng hóa,
dịch vụ với sự tham gia của một bên mời thầu và nhiều nhà thầu khác. Đấu
thầu là cách thức cạnh tranh giữa các nhà thầu để có thể được lựa chọn thực
hiện gói thầu. Vì vậy mà đấu thầu thu hút nhiều nhà thầu khác tham gia để
cùng cạnh tranh với mình. Từ đó, giúp người mua lựa chọn người bán phù
hợp nhất đáp ứng các yêu cầu của mình.
Thứ năm, hình thức pháp lý của quan hệ đấu thầu hàng hóa, dịch vụ
được thể hiện ở hồ sơ mời thầu và hồ sơ dự thầu. Theo quy định của pháp luật
đấu thầu thì hồ sơ mời thầu là toàn bộ tài liệu làm căn cứ để nhà thầu, nhà đầu
tư chuẩn bị hồ sơ dự thầu và để bên mời thầu tổ chức đánh giá hồ sơ dự thầu
nhằm lựa chọn nhà thầu, nhà đầu tư. Còn hồ sơ dự thầu là toàn bộ tài liệu do
nhà thầu, nhà đầu tư lập và nộp cho bên mời thầu theo yêu cầu của hồ sơ mời
thầu, hồ sơ yêu cầu. Các hồ sơ này thể hiện năng lực có thể đáp ứng của bên
dự thầu theo những yêu cầu được thể hiện ở hồ sơ mời thầu để có thể nhà thầu
phù hợp nhất.

Thứ sáu, giá của gói thầu là giá trị của gói thầu được phê duyệt trong kế
hoạch lựa chọn nhà thầu. Bên dự thầu nếu đưa ra giá cao hơn khả năng tài

11


chính được thể hiện tại kế hoạch lựa chọn nhà thầu của bên mời thầu thì chất
lượng hàng hóa, dịch vụ có tốt cũng khó có thể trúng thầu. Nhà thầu dự thầu
nào có thể đáp ứng được các yêu cầu của bên mời thầu trong kế hoạch lựa
chọn nhà thầu nhưng có giá càng thấp so với giá của gói thầu thì sẽ càng có
cơ hội chiến thắng.
1.1.2. Vai trò của đấu thầu
Đấu thầu là cách thức cạnh tranh trong việc nhận dự án một cách công
khai, minh bạch và công bằng nhất cho các nhà thầu tham gia đấu thầu.
Thông qua đấu thầu, bên mời thầu có thể lựa chọn được nhà thầu phù hợp
nhất với giá thấp nhất nhưng vẫn đảm bảo cho việc hiệu quả kinh tế trong
việc đầu tư dự án của mình.
Vai trò của đấu thầu với chủ đầu tư dự án: Việc tổ chức đấu thầu là
quá trình giúp chủ đầu tư dự án tìm ra được nhà thầu phù hợp nhất để thực
hiện có hiệu quả về yêu cầu chất lượng của dự án; hàng hóa, dịch vụ đảm bảo
cả về chất lượng và giá cả, giúp tiết kiệm nguồn vốn đầu tư dự án nhưng vẫn
đem lại hiệu quả kinh tế.
Vai trò của đấu thầu với nhà thầu: Khi tham gia đấu thầu, các nhà
thầu buộc phải cạnh tranh nhau để có thể tìm kiếm các cơ hội tham dự đấu
thầu các gói thầu, để có thể trúng thầu và thương thảo, kí kết hợp đồng, tạo cơ
hội việc làm cho người lao động nhà thầu và phát triển sản xuất. Thông qua
việc tham gia đấu thầu các dự án, nhà thầu biết cách hoàn thiện hơn ở mọi
phương diện để đáp ứng yêu cầu của dự án, để có thể trúng thầu. Từ đó, các
nhà thầu sẽ phải nâng cao năng lực của mình, nâng cao kỹ thuật để có thể
thực hiện các dự án.

Vai trò với kinh tế đất nước: thông qua hoạt động đấu thầu, chủ đầu
tư lựa chọn được nhà thầu với chi phí tiết kiệm nhưng vẫn đảm bảo được chất
lượng. Từ đó, tạo ra môi trường đấu thầu cạnh tranh một cách công bằng,

12


bình đẳng; góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, thúc đẩy sự phát
triển nền kinh tế của đất nước.
1.1.3. Đấu thầu mua sắm hàng hóa theo phương thức một giai đoạn, hai
túi hồ sơ
Trước hết, cần hiểu hàng hóa theo quy định Luật đấu thầu bao gồm
những hàng hóa gì? Khái niệm “hàng hóa” trong thương mại được hiểu là:
“2. Hàng hóa bao gồm:
a) Tất cả các loại động sản, kể cả động sản hình thành trong tương lai;
b) Những vật gắn liền với đất đai.” [ 30]
Còn khái niệm “hàng hóa” trong đấu thầu được quy định với phạm vi
hẹp hơn, cụ thể được quy định tại Khoản 25 điều 4 Luật đấu thầu 2013 bao
gồm “máy móc, thiết bị, nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu, vật tư, phụ tùng;
hàng tiêu dùng; thuốc, vật tư y tế dùng cho các cơ sở y tế.” [30]
Theo quy định tại điều 29 Luật đấu thầu 2013 thì phương thức một giai
đoạn hai túi hồ sơ là phương thức lựa chọn nhà thầu, nhà đầu tư mà “Nhà
thầu, nhà đầu tư nộp đồng thời hồ sơ đề xuất về kỹ thuật và hồ sơ đề xuất về
tài chính riêng biệt theo yêu cầu của hồ sơ mời thầu” [ 30, điều 29]. Theo đó,
“việc mở thầu được tiến hành hai lần. Hồ sơ đề xuất về kỹ thuật sẽ được mở
ngay sau thời điểm đóng thầu. Nhà thầu, nhà đầu tư đáp ứng yêu cầu về kỹ
thuật sẽ được mở hồ sơ đề xuất về tài chính để đánh giá.” [30, điều 29, 3].
Theo quy định tại khoản 1 điều 29 Luật đấu thầu 2013 thì phương thức một
giai đoạn hai túi hồ sơ được áp dụng trong các trường hợp sau đây:
- Đấu thầu rộng rãi, đấu thầu hạn chế đối với gói thầu cung cấp dịch vụ

tư vấn, dịch vụ phi tư vấn, mua sắm hàng hóa, xây lắp, hỗn hợp;
- Đấu thầu rộng rãi đối với lựa chọn nhà đầu tư.
Còn đối với phương thức một giai đoạn một túi hồ sơ thì áp dụng với
trường hợp sau: Đấu thầu rộng rãi, đấu thầu hạn chế đối với gói thầu cung cấp

13


dịch vụ phi tư vấn; gói thầu mua sắm hàng hóa, xây lắp, hỗn hợp có quy mô
nhỏ. Theo quy định “gói thầu quy mô nhỏ là gói thầu cung cấp dịch vụ phi tư
vấn, mua sắm hàng hóa có giá trị gói thầu không quá 10 tỷ đồng”. Như vậy,
đối với những gói thầu mua sắm hàng hóa trên 10 tỷ thì phải áp dụng theo
phương thức một giai đoạn, hai túi hồ sơ.
Luật Đấu thầu 2013 được các đánh giá cao bởi sự không ràng buộc về
giá, không bắt buộc lấy tiêu chí giá thấp nhất mà thay vào đó sử dụng tiêu chí
xác định toàn diện, cả về kỹ thuật và năng lực tổ chức thi công. Trước đây,
theo Luật đấu thầu 2005, các trường hợp nhà thầu bỏ giá thấp nhất đều trúng
thầu, trong đó có rất nhiều nhà thầu Trung Quốc. Trường hợp nếu doanh
nghiệp bỏ giá thứ 2 nhưng đáp ứng đầy đủ các tiêu chí về kỹ thuật thì vẫn
trúng thầu.
Ngoài ra, một trong những điểm nổi bật tạo ra sự minh bạch trong đấu
thầu của việc áp dụng phương thức đấu thầu một giai đoạn hai túi hồ sơ. Điều
đó đồng nghĩa là túi hồ sơ đề xuất về kỹ thuật sẽ được đánh giá trước và nhà
thầu nào đáp ứng về kinh nghiệm, năng lực kỹ thuật chất lượng thì mới được
bóc túi hồ sơ về tài chính ra để cùng so sánh. Nếu như trước đây, theo Luật
đấu thầu 2005, việc đấu thầu sẽ mở cùng lúc túi về tài chính cũng như túi về
kỹ thuật. Trong trường hợp thì nhà thầu không mạnh về kỹ thuật nhưng họ
chào với giá thấp thì tổ chuyên gia sẽ gặp phải lúng túng. Còn theo Luật đấu
thầu 2013 không bóc túi tài chính nên không biết giá mà nhà thầu chào thầu
cao hay thấp, tổ chuyên gia sẽ làm việc một cách khách quan hơn.

Từ những phân tích trên, có thể hiểu đấu thầu mua sắm hàng hóa theo
phương thức một giai đoạn, hai túi hồ sơ là phương thức lựa chọn nhà thầu để
mua sắm máy móc, thiết bị, nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu, vật tư, phụ tùng;
hàng tiêu dùng; thuốc, vật tư y tế dùng cho các cơ sở y tế. Theo đó, khi thực
hiện đấu thầu, Nhà thầu nộp đồng thời hồ sơ đề xuất về kỹ thuật và hồ sơ đề

14


xuất về tài chính riêng biệt theo yêu cầu của hồ sơ mời thầu. Việc mở thầu
được tiến hành hai lần. Hồ sơ đề xuất về kỹ thuật sẽ được mở ngay sau thời
điểm đóng thầu. Nhà thầu đáp ứng yêu cầu về kỹ thuật sẽ được mở hồ sơ đề
xuất về tài chính để đánh giá.
Theo đó, có thể đưa ra một số đặc điểm cơ bản của đấu thầu mua sắm
hàng hóa theo phương thức một giai đoạn, hai túi hồ sơ:
Thứ nhất, đối tượng đấu thầu là máy móc, thiết bị, nguyên liệu, nhiên
liệu, vật liệu, vật tư, phụ tùng; hàng tiêu dùng; thuốc, vật tư y tế dùng cho các
cơ sở y tế.
Thứ hai, là phương thức lựa chọn nhà thầu để ký kết và thực hiện hợp
đồng mua sắm hàng hóa trên cơ sở bảo đảm cạnh tranh, công bằng, minh bạch
và hiệu quả kinh tế.
Thứ ba, lưu ý về quy trình thực hiện đấu thầu: nhà thầu nộp đồng thời
hồ sơ đề xuất về kỹ thuật và hồ sơ đề xuất về tài chính riêng biệt theo yêu cầu
của hồ sơ mời thầu. Việc mở thầu được tiến hành hai lần. Hồ sơ đề xuất về kỹ
thuật sẽ được mở ngay sau thời điểm đóng thầu. Nhà thầu đáp ứng yêu cầu về
kỹ thuật sẽ được mở hồ sơ đề xuất về tài chính để đánh giá.
Về mặt lý thuyết, có thể thấy đấu thầu mua sắm hàng hóa theo phương
thức một giai đoạn, hai túi hồ sơ giữ vai trò rất quan trọng trong sự phát triển
kinh tế. Phương thức đấu thầu này tạo nên sự cạnh tranh bình đẳng đối với tất
cả doanh nghiệp, nhà cung cấp hàng hóa trên thị trường. Thông qua hoạt động

đấu thầu, nhà đầu tư mua sắm được hàng hóa với giá thấp nhất nhưng vẫn đạt
yêu cầu về chất lượng của hàng hóa. Thông qua đấu thầu giúp thúc đẩy sự
phát triển của nền kinh tế cũng như sự hoàn thiện và phát triển của doanh
nghiệp do tính cạnh tranh mà hoạt động đấu thầu tạo ra.

15


1.2. Pháp luật về đấu thầu mua sắm hàng hóa theo phương thức một giai
đoạn, hai túi hồ sơ
1.2.1. Một số quy định chung về pháp luật đấu thầu mua sắm hàng hóa
theo phương thức một giai đoạn, hai túi hồ sơ
1.2.1.1. Tư cách nhà đầu tư, nhà thầu
Theo quy định của Luật đấu thầu về tư cách của nhà thầu, nhà đầu tư
thì khi tham gia gói thầu, nhà thầu, nhà đầu tư phải có tư cách hợp lệ. Nhà
thầu, nhà đầu tư có tư cách hợp lệ khi đáp ứng đủ các điều kiện sau:
 Đối với nhà thầu, nhà đầu tư là tổ chức (Khoản 1 Điều 5 Luật đấu
thầu 2013):
- Có đăng ký thành lập, hoạt động do cơ quan có thẩm quyền của nước
mà nhà thầu, nhà đầu tư đang hoạt động cấp;
- Hạch toán tài chính độc lập;
- Không đang trong quá trình giải thể; không bị kết luận đang lâm vào tình
trạng phá sản hoặc nợ không có khả năng chi trả theo quy định của pháp luật;
- Đã đăng ký trên hệ thống mạng đấu thầu quốc gia;
- Bảo đảm cạnh tranh trong đấu thầu theo quy định của Luật đấu thầu;
- Không đang trong thời gian bị cấm tham dự thầu;
- Có tên trong danh sách ngắn đối với trường hợp đã lựa chọn được danh
sách ngắn;
- Phải liên danh với nhà thầu trong nước hoặc sử dụng nhà thầu phụ
trong nước đối với nhà thầu nước ngoài khi tham dự thầu quốc tế tại Việt

Nam, trừ trường hợp nhà thầu trong nước không đủ năng lực tham gia vào bất
kỳ phần công việc nào của gói thầu.
 Đối với nhà thầu, nhà đầu tư là cá nhân (Khoản 2 Điều 5 Luật đấu
thầu 2013):
- Có năng lực hành vi dân sự đầy đủ theo quy định pháp luật của nước
mà cá nhân đó là công dân;
16


- Có chứng chỉ chuyên môn phù hợp theo quy định của pháp luật;
- Đăng ký hoạt động hợp pháp theo quy định của pháp luật;
- Không đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự;
- Không đang trong thời gian bị cấm tham dự thầu.
Lưu ý rằng, nhà thầu, nhà đầu tư có tư cách hợp lệ theo quy định nêu
trên của Luật đấu thầu được tham dự thầu với tư cách độc lập hoặc liên danh.
Đối với trường hợp nhà thầu, nhà đầu tư tham dự thầu với tư cách liên danh
phải có văn bản thỏa thuận giữa các thành viên, trong đó quy định rõ trách
nhiệm của thành viên đứng đầu liên danh và trách nhiệm chung, trách nhiệm
riêng của từng thành viên trong liên danh.
1.2.1.2. Tính bảo đảm cạnh tranh trong đấu thầu
Để đảm bảo tính cạnh tranh trong hoạt động đấu thầu, Điều 6 Luật đấu
thầu 2013 quy định điều kiện đối với nhà thầu, nhà đầu tư khi tham gia dự thầu:
 Đối với Nhà thầu nộp hồ sơ quan tâm, hồ sơ dự sơ tuyển: phải độc
lập về pháp lý và độc lập về tài chính với các nhà thầu tư vấn lập hồ sơ mời
quan tâm, hồ sơ mời sơ tuyển; đánh giá hồ sơ quan tâm, hồ sơ dự sơ tuyển;
thẩm định kết quả mời quan tâm, kết quả sơ tuyển.
 Đối với Nhà thầu tham dự thầu: phải độc lập về pháp lý và độc lập
về tài chính với các bên sau đây:
- Chủ đầu tư, bên mời thầu;
- Các nhà thầu tư vấn lập, thẩm tra, thẩm định hồ sơ thiết kế, dự toán;

lập, thẩm định hồ sơ mời thầu, hồ sơ yêu cầu; đánh giá hồ sơ dự thầu,
hồ sơ đề xuất; thẩm định kết quả lựa chọn nhà thầu gói thầu đó;
- Các nhà thầu khác cùng tham dự thầu trong một gói thầu đối với đấu
thầu hạn chế.

17


 Đối với Nhà thầu tư vấn giám sát thực hiện hợp đồng: phải độc lập
về pháp lý và độc lập về tài chính với nhà thầu thực hiện hợp đồng, nhà thầu
tư vấn kiểm định gói thầu đó.
Theo khoản 4 Điều 2 Nghị định 63/2014/NĐ-CP quy định chi tiết thi
hành một số điều của Luật Đấu thầu về lựa chọn nhà thầu hướng dẫn về cách
thức xác định Nhà thầu được đánh giá độc lập về pháp lý và độc lập về tài
chính với nhà thầu khác; với nhà thầu tư vấn; với chủ đầu tư, bên mời thầu
theo quy định nêu trên. Theo đó, độc lập về pháp lý và độc lập về tài chính
được đánh giá khi đáp ứng các điều kiện sau đây:
- Không cùng thuộc một cơ quan hoặc tổ chức trực tiếp quản lý đối với
đơn vị sự nghiệp;
- Nhà thầu với chủ đầu tư, bên mời thầu không có cổ phần hoặc vốn góp
trên 30% của nhau;
- Nhà thầu không có cổ phần hoặc vốn góp trên 20% của nhau khi cùng
tham dự thầu trong một gói thầu đối với đấu thầu hạn chế;
- Nhà thầu tham dự thầu với nhà thầu tư vấn cho gói thầu đó không có cổ
phần hoặc vốn góp của nhau; không cùng có cổ phần hoặc vốn góp trên 20%
của một tổ chức, cá nhân khác với từng bên.
Ngoài ra, Điều 2 Nghị định 63/2014/NĐ-CP còn hướng dẫn thêm để
đảm bảo tính cạnh trạnh trong đấu thầu:
- Nhà thầu tham dự thầu gói thầu hỗn hợp phải độc lập về pháp lý và độc
lập về tài chính với nhà thầu lập báo cáo nghiên cứu khả thi, lập hồ sơ thiết kế

kỹ thuật, lập hồ sơ thiết kế bản vẽ thi công cho gói thầu đó, trừ trường
hợp các nội dung công việc này là một phần của gói thầu hỗn hợp.
- Nhà thầu tư vấn có thể tham gia cung cấp một hoặc nhiều dịch vụ tư
vấn cho cùng một dự án, gói thầu bao gồm: Lập báo cáo nghiên cứu tiền khả

18


thi, lập báo cáo nghiên cứu khả thi, lập hồ sơ thiết kế kỹ thuật, lập hồ sơ thiết
kế bản vẽ thi công, tư vấn giám sát.
- Trường hợp đối với tập đoàn kinh tế nhà nước, nếu sản phẩm, dịch vụ
thuộc gói thầu là ngành nghề sản xuất kinh doanh chính của tập đoàn và là
đầu ra của công ty này, đồng thời là đầu vào của công ty kia trong tập đoàn thì
tập đoàn, các công ty con của tập đoàn được phép tham dự quá trình lựa chọn
nhà thầu của nhau. Trường hợp sản phẩm, dịch vụ thuộc gói thầu là đầu ra của
công ty này, đồng thời là đầu vào của công ty kia trong tập đoàn và là duy
nhất trên thị trường thì thực hiện theo quy định của Thủ tướng Chính phủ.
 Đối với Nhà đầu tư tham dự thầu: phải độc lập về pháp lý và độc lập
về tài chính với các bên bao gồm Nhà thầu tư vấn đấu thầu đối với dự án đầu
tư theo hình thức đối tác công tư, dự án đầu tư có sử dụng đất cho đến ngày
ký kết hợp đồng dự án; Nhà thầu tư vấn thẩm định dự án đầu tư theo hình
thức đối tác công tư, dự án đầu tư có sử dụng đất cho đến ngày ký kết hợp
đồng dự án; Cơ quan nhà nước có thẩm quyền, bên mời thầu.
1.2.1.3. Bảo đảm dự thầu
Theo quy định tại Khoản 1 Điều 4 Luật đấu thầu 2013:
“Bảo đảm dự thầu là việc nhà thầu, nhà đầu tư thực hiện một trong các
biện pháp đặt cọc, ký quỹ hoặc nộp thư bảo lãnh của tổ chức tín dụng hoặc
chi nhánh ngân hàng nước ngoài được thành lập theo pháp luật Việt Nam để
bảo đảm trách nhiệm dự thầu của nhà thầu, nhà đầu tư trong thời gian xác
định theo yêu cầu của hồ sơ mời thầu, hồ sơ yêu cầu.” [30]

Bảo đảm dự thầu trong đấu thầu là một trong những quy định ràng buộc
cả Bên mời thầu và Bên dự thầu đều phải tuân thủ trong đấu thầu nói chung
và đấu thầu mua sắm hàng hoá nói riêng. Bên dự thầu phải có bảo đảm dự
thầu bằng một trong các biện pháp đặt cọc, ký quỹ hoặc nộp thư bảo lãnh để
bảo đảm trách nhiệm tham gia đấu thầu của mình trong suốt quá trình đấu

19


thầu. Bên mời thầu cần phải tuân thủ các quy định về bảo đảm dự thầu để hồ
sơ mời thầu của mình là hợp lệ.
a. Các trường hợp áp dụng bảo đảm dự thầu
Bảo đảm dự thầu áp dụng trong các trường hợp theo Điều 11 Luật đấu
thầu 2013:
Trường hợp thứ nhất: Đấu thầu rộng rãi, đấu thầu hạn chế, chào hàng
cạnh tranh đối với gói thầu cung cấp dịch vụ phi tư vấn, mua sắm hàng hóa,
xây lắp và gói thầu hỗn hợp;
Trường hợp thứ hai: Đấu thầu rộng rãi và chỉ định thầu đối với lựa
chọn nhà đầu tư.
b. Giá trị bảo đảm dự thầu
Nhà thầu, nhà đầu tư sẽ phải thực hiện biện pháp bảo đảm dự thầu để
nhằm bảo đảm trách nhiệm dự thầu của mình trước thời điểm đóng thầu đối
với hồ sơ dự thầu, hồ sơ đề xuất với giá trị bảo đảm dự thầu phải được thực
hiện theo như sau:
- Đối với lựa chọn nhà thầu: giá trị bảo đảm dự thầu được quy định trong
hồ sơ mời thầu, hồ sơ yêu cầu theo một mức xác định từ 1% đến 3% giá gói
thầu căn cứ quy mô và tính chất của từng gói thầu cụ thể;
- Đối với lựa chọn nhà đầu tư, giá trị bảo đảm dự thầu được quy định
trong hồ sơ mời thầu, hồ sơ yêu cầu theo một mức xác định từ 0,5% đến 1,5%
tổng mức đầu tư căn cứ vào quy mô và tính chất của từng dự án cụ thể.

c. Thời gian có hiệu lực của bảo đảm dự thầu
Về thời gian có hiệu lực của bảo đảm dự thầu bằng thời gian có hiệu
lực của hồ sơ dự thầu, hồ sơ đề xuất cộng thêm 30 ngày và được quy định
trong hồ sơ mời thầu, hồ sơ yêu cầu. Đối với trường hợp cần gia hạn, pháp
luật đấu thầu quy định tại khoản 5 Điều 11 Luật đấu thầu 2013 như sau:

20


×