Tải bản đầy đủ (.pdf) (77 trang)

Thi hành nghĩa vụ dân sự trong các bản án, quyết định hình sự của tòa án nhân dân từ thực tiễn thành phố hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (632.78 KB, 77 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ THU HUYỀN

THI HÀNH NGHĨA VỤ DÂN SỰ TRONG CÁC BẢN ÁN,
QUYẾT ĐỊNH HÌNH SỰ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN TỪ
THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ

HÀ NỘI, 2019


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ THU HUYỀN

THI HÀNH NGHĨA VỤ DÂN SỰ TRONG CÁC BẢN ÁN,
QUYẾT ĐỊNH HÌNH SỰ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN TỪ
THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

Ngành: Luật kinh tế
Mã: 8 38 01 07

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS NGÔ THỊ HƯỜNG

HÀ NỘI, 2019



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi; các số
liệu, tư liệu được sử dụng trong Luận văn là trung thực, có xuất xứ rõ ràng;
những phát hiện đưa ra trong Luận văn là kết quả nghiên cứu của chính tác
giả Luận văn.


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ......................................................................................................... 1
Chương 1. THI HÀNH NGHĨA VỤ DÂN SỰ TRONG CÁC BẢN
ÁN,QUYẾT ĐỊNH HÌNH SỰ ĐÃ CÓ HIỆU LỰC CỦA TÒA ÁN .......... 6
1.1. Nghĩa vụ dân sự trong các bản án, quyết định hình sự ......................... 6
1.2. Pháp luật hiện hành về thi hành nghĩa vụ dân sự trong các bản án,
quyết định hình sự đã có hiệu lực của tòa án nhân dân ............................. 13
1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả tổ chức thi hành phần nghĩa vụ dân
sự trong các bản án, quyết định hình sự của Tòa án .................................. 16
Chương 2. THỰC TRẠNG THI HÀNH PHẦN NGHĨA VỤ DÂN SỰ
TRONG CÁC BẢN ÁN, QUYẾT ĐỊNH HÌNH SỰ ĐÃ CÓ HIỆU LỰC
CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN TẠI CÁC CƠ QUAN THI HÀNH ÁN DÂN
SỰTHÀNH PHỐ HÀ NỘI .......................................................................... 23
2.1. Vài nét về tổ chức và hoạt động của các cơ quan thi hành án dân sự
thành phố Hà Nội ....................................................................................... 23
2.2. Thực tiễn thi hành phần nghĩa vụ dân sự trong các bản án, quyết định
hình sự đã có hiệu lực của Tòa án nhân dân tại các cơ quan thi hành án dân
sự thành phố Hà Nội .................................................................................. 28
2.3. Đánh giá kết quả tổ chức thi hành phần nghĩa vụ dân sự trong các bản
án, quyết định hình sự đã có hiệu lực của Tòa án nhân dân ...................... 46
Chương 3. PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ GIẢI
PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC THI HÀNH PHẦN NGHĨA

VỤ DÂN SỰ TRONG CÁC BẢN ÁN, QUYẾT ĐỊNH HÌNH SỰ ĐÃ CÓ
HIỆU LỰC CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN ..................................................... 53
3.1. Yêu cầu hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả công tác thi hành
phần NVDS trong Bản án, quyết định hình sự đã có hiệu lực của Tòa án
nhân dân ..................................................................................................... 53
3.2. Giải pháp cụ thể .................................................................................. 55
KẾT LUẬN ................................................................................................... 67
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................... 69


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Kí hiệu
CNH-HDH

Diễn giải
Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa

CHV

Chấp hành viên

NVDS

Nghĩa vụ dân sự

TAND

Tòa án nhân dân

THADS


Thi hành án dân sự

TP

Thành phố

UBND

Uỷ ban nhân dân

XHCN

Xã hội chủ nghĩa


DANH MỤC BẢNG BIỂU, SƠ ĐỒ
Bảng 2.1: Kết quả thi hành thi hành nghĩa vụ dân sự trong bản án và
quyết định hình sự trên địa bàn Hà Nội (về số việc) ............................. 28
Bảng 2.3: Kết quả thi hành thi hành nghĩa vụ dân sự trong bản án và
quyết định hình sự (về số việc) .............................................................. 29
Bảng 2.4: Kết quả thi hành thi hành nghĩa vụ dân sự trong bản án và
quyết định hình sự (về tiền) ................................................................... 30
Bảng 2.5: Số bị cáo bị áp dụng hình phạt tiền ở nước ta giai đoạn ....... 30
2016-2018............................................................................................... 30
Bảng 2.6: Số bị cáo bị áp dụng hình phạt tịch thu tài sản ở nước ta giai
đoạn 2016-2018 ...................................................................................... 32


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Thi hành nghĩa vụ dân sự trong bản án, quyết định hình sự của Tòa án
nhân dân mang tính quyền lực nhà nước nhằm thực hiện bản án, quyết định đã
có hiệu lực của Tòa án trong thực tiễn. Nhiệm vụ của giai đoạn này nhằm thi
hành các hình như phạt tiền, tịch thu tài sản và thi hành các phần quyết định
dân sự khác mà Tòa án áp dụng đối với người bị kết án. Đó cũng chính là việc
tước bỏ một phần hay toàn bộ tài sản của người bị kết án để sung quỹ Nhà
nước hoặc để thu hồi, khắc phục những hậu quả về vật chất mà người phạm
tội đã gây ra; bảo đảm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ
chức, công dân góp phần giữ vững kỷ cương, phép nước, tăng cường pháp
chế xã hội chủ nghĩa. Với ý nghĩa đây là giai đoạn cuối cùng của quá trình
giải quyết một vụ án, thi hành nghĩa vụ dân sự trong bản án, quyết định hình
sự có mối quan hệ hữu cơ với các giai đoạn tố tụng: khởi tố, điều tra, truy tố,
xét xử. Nếu mục đích của thi hành nghĩa vụ dân sự trong bản án, quyết định
hình sự không đạt được thì hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng: điều
tra, truy tố, xét xử trước đó cũng trở nên vô nghĩa.
Thực tiễn thi hành nghĩa vụ dân sự trong bản án, quyết định hình sự của
Tòa án từ thực tiến TP. Hà Nội đã bộc lộ một số mặt hạn chế, bất cập, chưa
đáp ứng đầy đủ yêu cầu của cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm trong tình
hình mới. Do vậy việc nghiên cứu đề tài: "Thi hành nghĩa vụ dân sự trong
các bản án, quyết định hình sự của tòa án nhân dân từ thực tiễn thành phố
Hà Nội" để trên cơ sở đó giải quyết các vướng mắc trong lý luận và thực tiễn
và góp phần hoàn thiện hơn về mặt lập pháp các qui định thi hành nghĩa vụ
dân sự trong bản án, quyết định hình sự.

1


2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Cho đến nay các nhà luật học đã có tương đối nhiều công trình nghiên

cứu, bài viết về thi hành nghĩa vụ dân sự trong bản án, quyết định hình sự trên
các tài liệu như sách báo, tạp chí (Tạp chí Tòa án nhân dân, Tạp chí kiểm sát,
Tạp chí dân chủ và pháp luật, Tạp chí luật học...). Tuy nhiên các công trình,
bài viết mới chỉ đi vào những vấn đề chung mà chưa đi sâu vào việc nghiên
cứu về cơ sở lý luận cũng như những bất cập đang tồn tại trong thực tiễn.

Trong các giáo trình giảng dạy cũng chỉ đề cập rất ít và ở góc độ cơ bản.
Tác giả của luận văn có thể nêu một vài ví dụ các công trình, bài viết
sau:
PGS.TS Nguyễn Ngọc Chí: "Bàn về nguyên tắc giải quyết vấn đề dân
sự trong vụ án hình sự", Tạp chí Khoa học, (Luật học), số 26, 2010;
Hoàng Thị Sơn: "Việc giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự",
Tạp chí Luật học, số 6, 1998,
Nguyễn Thanh Thủy: "Hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự", Luận
văn thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2001;
Lê Xuân Hồng: "Xã hội hóa một số nội dung thi hành án dân sự", Luận
văn thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2002;
Nguyễn Quang Thái: "Đổi mới tổ chức và hoạt động thi hành án dân
sự ở Việt Nam", Luận văn thạc sĩ Luật học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ
Chí Minh, 2003;
Yến Minh: "Luật thi hành án dân sự còn nhiều bất cập", báo điện tử
Bắc Ninh, ngày 21/8/2012; "Công tác thi hành án dân sự còn nhiều vướng
mắc, bất cập", đăng trên trang thông tin điện tử của Tổng Cục thi hành án dân
sự - Bộ Tư pháp ngày 13/08/2013;

2


Nguyễn Văn Diễn: “Thi hành nghĩa vụ dân sự trong bản án và quyết
định hình sự của tòa án ở Việt Nam”, Luận văn thạc sỹ Luật học, Khoa LuậtĐại học Quốc gia Hà Nội, 2014.

Các công trình nói trên đã đề cập đến các khía cạnh khác nhau của việc
thi hành nghĩa vụ dân sự trong bản án, quyết định hình sự của tòa án nhưng
chưa có công trình nào nghiên cứu một cách tương đối toàn diện và tương đối
có hệ thống về thi hành nghĩa vụ dân sự trong bản án, quyết định hình sự của
tòa án và các giải pháp nâng cao hiệu quả thi hành nghĩa vụ dân sự trong bản
án, quyết định hình sự của tòa án nhân dân trong phạm vi thành phố Hà Nội
dưới cấp độ một luận văn thạc sĩ Luật học.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
 Hệ thống hóa lí thuyết qua lí luận chung về thi hành nghĩa vụ dân sự
 Phân tích thực trạng thi hành nghĩa vụ dân sự trong bản án, quyết
định hình sự từ thực tiến tại Hà Nội
 Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng thi hành nghĩa vụ
dân sự trong bản án, quyết định hình sự.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, tác giả của luận văn đã đặt ra và giải quyết
các nhiệm vụ sau:
 Làm sáng tỏ cơ sở lý luận, thực tiễn các nghĩa vụ dân sự phát sinh từ
quyết định hình phạt tiền, tịch thu tài sản và các quyết định dân sự khác trong
bản án, quyết định hình sự cũng như lý luận và thực tiễn về thi hành nghĩa vụ
dân sự trong bản án, quyết định hình sự của tòa án.
 Đánh giá thực tiễn thi hành nghĩa vụ dân sự trong bản án, quyết định
hình sự của tòa án tại TP.Hà Nội; nêu ra mặt được, mặt chưa được của việc
thi hành nghĩa vụ dân sự trong bản án, quyết định hình sự của tòa án.
3


 Đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả thi hành nghĩa vụ dân sự
trong bản án, quyết định hình sự của tòa án ơt TP. Hà Nội nói riêng và cả
nước nói chung.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là qui định của pháp luật về nghĩa
vụ dân sự trong bản án, quyết định hình sự của tòa án bao gồm các nghĩa vụ
dân sự phát sinh từ quyết định hình phạt tiền, tịch thu tài sản và các quyết
định dân sự khác trong bản án, quyết định hình sự và thực tiễn áp dụng.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn là qui định của pháp luật và thực tiễn
thi hành hình phạt tiền, tịch thu tài sản và các quyết định dân sự khác trong
bản án, quyết định hình sự từ thực tiễn TP.Hà Nội trong khoảng thời gian từ
năm 2016 đến năm 2018.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận của luận văn là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh và của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng, hoàn thiện Nhà nước
pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa, về chính sách thi hành nghĩa vụ dân
sự trong bản án, quyết định hình sự của tòa án. Đề tài được thực hiện trên cơ
sở quán triệt các nghị quyết và chỉ thị của Đảng, các văn bản pháp luật của
Nhà nƣớc về pháp luật hình sự và pháp luật về thi hành nghĩa vụ dân sự trong
bản án, quyết định hình sự của tòa án. Cơ sở thực tiễn của các báo cáo chuyên
đề về thi hành nghĩa vụ dân sự trong bản án, quyết định hình sự của tòa án,
của Tổng Cục thi hành án dân sự - Bộ Tư pháp, Bộ Công an, Vụ Kiểm sát thi
hành án - Viện Kiểm sát nhân dân tối cao...
Phương pháp luận đề thể hiện đề tài này là chủ nghĩa duy vật biện
chứng, duy vât lịch sử. Các phương pháp nghiên cứu được sử dụng gồm:
phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp, phương pháp thống kê, khảo sát
thực tế, phân tích đánh giá về mặt định tính và định lượng… Đi từ cơ sở lý
4


thuyết đến thực tiễn nhằm giải quyết và làm sáng tỏ mục tiêu nghiên cứu của
luận văn.Đồng thời dựa trên kinh nghiệm của bản thân và tham chiếu quan
điểm của các nghiên cứu đã được công bố để minh chứng cho các lập luận

đưa ra.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Kết quả nghiên cứu và những kiến nghị của luận văn có ý nghĩa quan
trọng đối với hoạt động thi hành nghĩa vụ dân sự trong bản án, quyết định
hình sự của tòa án ở Việt Nam. Việc đề xuất hệ thống các giải pháp nâng cao
hiệu quả thi hành nghĩa vụ dân sự trong bản án, quyết định hình sự của tòa
án có ý nghĩa góp phần hoàn thiện các qui định của pháp luật về thi hành
nghĩa vụ dân sự trong bản án, quyết định hình sự của tòa án, hướng dẫn áp
dụng thống nhất các qui định về thi hành nghĩa vụ dân sự trong bản án,
quyết định hình sự của tòa án, giúp cơ quan thi hành án có các biện pháp
hữu hiệu nhằm giáo dục, cải tạo người phạm tội trở thành người có ích và tái
hòa nhập với xã hội.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Thi hành nghĩa vụ dân sự trong các bản án, quyết định hình
sự đã có hiệu lực của Tòa án
Chương 2:Thực trạng thi hành phần nghĩa vụ dân sự trong các bản án,
quyết định hình sự đã có hiệu lực của Tòa án nhân dân tại các cơ quan
THADS TP.Hà Nội
Chương 3: Phương hướng, giải pháp nâng cao hiệu quả công tác thi
hành phần nghĩa vụ dân sự trong các bản án, quyết định hình sự đã có hiệu
lực của Tòa án nhân dân

5


Chương1
THI HÀNH NGHĨA VỤ DÂN SỰ TRONG CÁC BẢN ÁN,
QUYẾT ĐỊNH HÌNH SỰ ĐÃ CÓ HIỆU LỰC CỦA TÒA ÁN

1.1. Nghĩa vụ dân sự trong các bản án, quyết định hình sự
1.1.1. Khái niệm nghĩa vụ dân sự trong các bản án, quyết định hình sự
Trước hết, nghĩa vụ dân sự được hiểu là một quan hệ pháp luật; theo
đặc điểm của đối tượng và đặc điểm của phương pháp điều chỉnh của Bộ Luật
dân sựhiện hành có thể nhận định: nghĩa vụ dân sự được hiểu là quan hệ pháp
luật về tài sản và nhân thân của các chủ thể, theo đó chủ thể mang quyền có
quyền yêu cầu chủ thể mang nghĩa vụ phải chuyển giao một tài sản, thực hiện
một việc hoặc không được thực hiện một việc vì lợi ích của mình hay lợi ích
của người thứ ba, phải bồi thường một thiệt hại về tài sản hoặc nhân thân do
có hành vi gây thiệt hại, vi phạm lợi ích hợp pháp của các bên có quyền. Chủ
thể mang nghĩa vụ dân sự có nghĩa vụ thực hiện quyền yêu cầu của chủ thể
mang quyền.
Tuy nhiên, nghĩa vụ dân sự trong Bản án, Quyết định hình sự của
Tòa án là một phạm trù có tích chất đặc biệt bởi chủ thể mang nghĩa vụ dân
sự phải thi hành phát xét của Tòa án có tính bắt buộc cao. Nghĩa vụ dân sự
trong bản án, quyết định hình sự khác với các nghĩa vụ dân sự khác bởi đối
tượng phải thi hành án phần nghĩa vụ dân sự trong bản án, quyết định hình sự
đa phần là đang trong thời hạn chấp hành hình phạt tù hoặc án cải tạo không
giam giữ và trong cùng một bản án tồn tại cùng một lúc hai nghĩa vụ phát sinh
là nghiã vụ dân sự và nghĩa vụ hình sự được thực thi bởi hai cơ quan thi hành
án độc lập. Xét về mặt pháp lý, Điều 30, Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 có quy
định như sau :Việc giải quyết phần dân sự trong vụ án hình sự được tiến hành
cùng với việc giải quyết vụ án hình sự. Trường hợp vụ án hình sự phải giải
6


quyết vấn đề bồi thường thiệt hại, bồi hoàn mà chưa có điều kiện chứng minh
và không ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án hình sự thì vấn đề dân sự lúc
này có thể tách ra để giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự. Như vậy,ta hiểu
nghĩa vụ dân sự trong bản án, quyết định hình sự là phần trách nhiệm dân sự

trong bản án hinh sự mà đối tượng thi hành án phải thi hành đối với khoản thu
NSNN hoặc người được thi hành án bao gồm các khoản: án phí, bồi thường,
các hình phạt bố sung. Và có thể thấy trong quá trình giải quyết các vụ án
hình sự đã phát sinh nghĩa vụ dân sự của chủ thể. Đa phần khi Tòa án đưa ra
phán quyết về các vụ án hình sự luôn kết hợp các nghĩa vụ dân sự trong đó.
Các tội danh hình sự như Tàng tữ trái phép chất ma túy, Đánh bạc,
Tổ chức đánh bạc, Giết người, Lạm dụng quyền hạn, Tham ô tài sản, nhận hối
lộ tài sản… khi đưa ra xét xử ngoài các hình phạt chính như phạt tù, chung
than, tử hình… đều kèm theo một hoặc nhiều hình phạt bổ sung khác về nghĩa
vụ dân sự điển hình như là phạt tiền bổ sung, truy thu tiền sung công quy nhà
nước đối với tội danh Đánh bạc, Tổ chức đánh bạc; bồi thường thiệt hại đối
với tội giết người hay bồi thường một phần nghĩa vụ dân sự đối với người bị
kết án tội tham ô tài sản, nhận hối lộ tài sản nhằm giảm án.
Khi tòa án ra phán quyết cuối cùng trong thời gian 15 ngày kể từ ngày tuyên
án bị án không có kháng cáo, bản án quyết định hình sự có hiệu lực thì
chuyển giao cho cơ quan thi hành án hình sự thi hành phần nghĩa vụ hình sự
và cơ quan thi hành án dân sự thi hành phần dân sự trong bản án, quyết định
đó.
1.1.2. Vai trò, tác động và hiệu quả của việc tổ chức thi hành phần nghĩa
vụ dân sự trong các bản án, quyết định hình sự đã có hiệu lực của Tòa án nhân
dân đối với công tác thi hành án dân sự
1.1.2.1. Chức năng nhiệm vụ cơ quan thi hành án dân sự

7


Ngày 24/01/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ban hành Sắc lệnh số
13/SL, quy định về tổ chức các Tòa án và các ngạch Thẩm phán, trong đó,
khoản 3, Điều 3 của Sắc lệnh quy định: Ban Tư pháp xã có quyền “Thi hành
những mệnh lệnh của các Thẩm phán cấp trên”. Đây chính là văn bản pháp lý

đầu tiên đánh dấu sự ra đời về tổ chức và hoạt động của các cơ quan Thi hành
án dân sự trong chế độ mới; tiếp đó ngày 19/7/1946 Chủ tịch Chính phủ Việt
Nam Dân chủ cộng hòa ban hành Sắc lệnh số 130/SL quy định về thể thức thi
hành mệnh lệnh hoặc bản án của Tòa án. Có thể nói, đây là văn bản của Chính
phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa quy định riêng về công tác thi hành án, thẩm
quyền và thể thức thi hành bản án.
Ngày 18 tháng 7 năm 1982, Bộ Tư pháp và Toà án nhân dân Tối cao đã
ký Thông tư liên ngành số 472 về công tác quản lý thi hành án trong thời kỳ
trước mắt, trong đó quy định: Tại các Toà án nhân dân cấp tỉnh có Phòng Thi
hành án nằm trong cơ cấu bộ máy và biên chế của Toà án để giúp Chánh án chỉ
đạo công tác thi hành án; tại các Toà án cấp huyện có Chấp hành viên hoặc cán
bộ làm công tác thi hành án dưới sự chỉ đạo của Chánh án.
Ngày 28 tháng 8 năm 1989, Pháp lệnh Thi hành án dân sự đầu tiên được
ban hành, tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho việc tăng cường, hoàn thiện tổ chức
và hoạt động thi hành án dân sự.
Để tiếp tục củng cố và hoàn thiện về tổ chức, bộ máy và cơ sở pháp lý,
tạo điều kiện thúc đẩy công tác thi hành án dân sự ngày càng hiệu quả, ngày
14/11/2008, Quốc hội khoá XII đã thông qua Luật Thi hành án dân sự năm
2008, văn bản có giá trị pháp lý cao nhất từ trước tới nay. Tiếp theo đó, ngày
09/9/2009, Chính phủ ban hành Nghị định số 74/2009/NĐ-CP quy định chi tiết
và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thi hành án dân sự về cơ quan
quản lý thi hành án dân sự, cơ quan Thi hành án dân sự và công chức làm công
tác thi hành án dân sự. Theo đó, Hệ thống các cơ quan thi hành án dân sự được
8


xác định rõ hơn theo nguyên tắc quản lý tập trung, thống nhất theo ngành dọc
từ Trung ương đến cấp huyện, với một vị thế mới, tương xứng với nhiệm vụ
chính trị được giao và phù hợp với yêu cầu của cải cách tư pháp.
Ngày 25 tháng 5 năm 2012, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số

17/CT-TTg về việc triển khai công tác thi hành hành chính, trong đó giao Bộ
Tư pháp Bộ Tư pháp chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành có liên quan: Sắp xếp,
kiện toàn tổ chức bộ máy, biên chế công chức, tăng cường cơ sở vật chất cho
các cơ quan thi hành án dân sự bảo đảm triển khai thực hiện có hiệu quả công
tác thi hành án hành chính.
Để tiếp tục hoàn thiện thể chế về thi hành án dân sự, ngày 25 tháng 11
năm 2014 tại Kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XIII đã thông qua Luật sửa đổi, bổ
sung Luật Thi hành án dân sự, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01 tháng 7 năm
2015, ngày 20 tháng 7 năm 2015, Chính phủ ban hành Nghị định số
62/2015/NĐ-CP quy định chi tiết hướng dẫn thi hành Luật sửa đổi bổ sung một
số điều của Luật Thi hành án dân sự, các văn bản này đã tạo hành lang pháp lý
vững chắc cho công tác thi hành án dân sự, góp phần nâng cao hiệu quả công
tác thi hành án dân sự trong thời gian tới.
Theo quy định pháp luật hiện hành thì cơ quan Thi hành án dân sự là cơ
quan trực tiếp thi hành phần nghĩa vụ dân sự trong bản án, quyết định của Tòa
án. Khi thi hành, cơ quan đã gặp không ít bản án, quyết định thiếu sót, vi
phạm được thể hiện ngay trong bản án, quyết định đó. Chính vì thế, để tạo
điều kiện thuận cho cơ quan thi hành bản án, quyết định một cách nhanh
chóng, đúng pháp luật thì Luật thi hành án dân sự đã quy định rõ nhiệm vụ,
quyền hạn của cơ quan Thi hành án tại điều 14,15,16 Luật Thi hành án dân sự
năm 2008 sửa đổi năm 2014, trong đó:
Chức năng, nhiệm vụ của cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh bao
gồm:
9


- Quản lý, chỉ đạo về thi hành án dân sự trên địa bàn tỉnh, thành phố
trực thuộc trung ương, bao gồm:Bảo đảm việc áp dụng thống nhất các quy
định của pháp luật trong hoạt động thi hành án dân sự;Chỉ đạo hoạt động thi
hành án dân sự đối với cơ quan thi hành án dân sự cấp huyện; hướng dẫn

nghiệp vụ thi hành án dân sự cho Chấp hành viên, công chức khác của cơ
quan thi hành án dân sự trên địa bàn;Kiểm tra công tác thi hành án dân sự đối
với cơ quan thi hành án dân sự cấp huyện…
- Trực tiếp tổ chức thi hành bản án, quyết định theo quy định tại Điều
35 của Luật này.
- Lập hồ sơ đề nghị xét miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án dân sự; phối
hợp với cơ quan Công an trong việc lập hồ sơ đề nghị xét miễn, giảm chấp
hành hình phạt tù và đặc xá cho người có nghĩa vụ thi hành án dân sự đang
chấp hành hình phạt tù.
- Giải quyết khiếu nại, tố cáo về thi hành án dân sự thuộc thẩm quyền
theo quy định của Luật này.
- Thực hiện quản lý công chức, cơ sở vật chất, kinh phí, phương tiện
hoạt động của cơ quan thi hành án dân sự tại địa phương theo hướng dẫn, chỉ
đạo của cơ quan quản lý thi hành án dân sự thuộc Bộ Tư pháp.
- Giúp Ủy ban nhân dân cùng cấp thực hiện trách nhiệm, quyền hạn
theo quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 173 của Luật này.
- Báo cáo công tác thi hành án dân sự trước Hội đồng nhân dân cùng
cấp khi có yêu cầu.
Chức năng, nhiệm vụ của cơ quan thi hành án dân sự cấp huyện bao
gồm:
- Trực tiếp tổ chức thi hành các bản án, quyết định theo quy định tại
Điều 35 của Luật này.

10


- Giải quyết khiếu nại, tố cáo về thi hành án dân sự thuộc thẩm quyền
theo quy địnhcủa Luật này.
- Thực hiện quản lý công chức, cơ sở vật chất, kinh phí và phương tiện
hoạt động được giao theo hướng dẫn, chỉ đạo của cơ quan thi hành án dân sự

cấp tỉnh.
- Thực hiện chế độ thống kê, báo cáo công tác tổ chức, hoạt động thi
hành án theo quy định của pháp luật và hướng dẫn của cơ quan thi hành án
dân sự cấp tỉnh.
- Lập hồ sơ đề nghị xét miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án dân sự.
- Giúp Ủy ban nhân dân cùng cấp thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn theo
quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 174 của Luật này.
- Báo cáo công tác thi hành án dân sự trước Hội đồng nhân dân khi có
yêu cầu.
Trình tự thủ tục thi hành án
- Thụ lý thi hành án: tiếp nhận yêu cầu thi hành án, bản án, hồ sơ ủy
thác; kiểm tra, xử lý yêu cầu thi hành án, bản án, hồ sơ ủy thác; ra quyết định
thi hành án, phân công Chấp hành viên tổ chức thi hành án.
- Tổ chức thi hành án: lập hồ sơ thi hành án; thông báo về thi hành án;
xác minh điều kiện thi hành án; xác minh việc chưa có điều kiện thi hành án,
công khai thông tin của người phải thi hành án chưa có điều kiện thi hành án;
tạm đình chỉ thi hành án , đình chỉ thi hành án, ủy thác thi hành án; miễn giảm
nghĩa vụ thi hành án đối với khoản thu nộp ngân sách; kiến nghị, xem xét lại
bản án, quyết định theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm; áp dụng biện pháp
đảm bảo thi hành án; ra quyết định cưỡng chế thi hành án; tổ chức cưỡng chế
thi hành án; thực hiện thẩm định giá tài sản; thược hiện bán đấu giá tài sản;
tiêu hủy vật chứng, xử lý vật chứng, tài sản tạm giữ bị tuyên tịch thu, sung
công quỹ; trả lại tiền, tài sản tạm giữ cho đương sự; thu tiền, thanh toán tiền
11


thi hành án, thu phí thi hành án; xác nhận kết quả thi hành án; rà soát hồ sơ thi
hành án.
- Thẩm tra, lưu trữ hồ sơ thi hành án: Thẩm tra hồ sơ thi hành án; lưu
trữ hồ sơ thi hành án.

1.1.2.2. Vai trò, tác động và hiệu quả của việc tổ chức thi hành phần nghĩa
vụ dân sự trong các bản án, quyết định hình sự
Thứ nhất, đảm bảo cho công tác xét xử diễn ra đúng luật, hợp lí. Việc
thi hành nghĩa vụ trong bản án quyết định dân sự chính là góp phần đảm bảo
cho công tác xét xử,thi hành án diễn ra đúng trình tự, thủ tục pháp luật. Thực
hiện điều này góp phần nâng cao pháp chế của nhà nước, đảm bảo trật tự pháp
luật.
Thứ hai, đem lại nguồn thu cho ngân sách nhà nước. Thi hành nghĩa vụ
dân sự trong các bản án, quyết định hình sự còn đem lại khoản thu lớn, góp
phần làm tăng ngân sách nhà nước, tạo điều kiện mở rộng hoạt động thi hành
án. Thi hành nghĩa vụ dân sự điều chỉnh hành vi, giúp cho chủ thể cư sử đúng
luật, đi vào nề nếp, quy củ.
Thứ ba, đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật, bảo vệ lợi ích hợp
pháp của công dân.
Thi hành nghĩa vụ dân sự có vị trí, ý nghĩa quan trọng trong việc bảo vệ
tính nghiêm minh của pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công
dân, thực thi công lý, xây dựng một xã hội trật tự, kỷ cương và ổn định. Hoạt
động này không những góp phần trực tiếp, tích cực vào việc bảo vệ những
quyền con người, quyền công dân mà còn góp phần quan trọng vào sự nghiệp
phát triển kinh tế-xã hội của đất nước và từng địa phương; cụ thể như góp
phần tháo gỡ khó khăn, khơi thông, thúc đẩy phát triển sản xuất, kinh doanh
thông qua hoạt động thu hồi nợ, giảm nợ xấu và mở rộng tín dụng, bảo vệ
quyền chủ nợ và thu hồi nợ của các tổ chức tín dụng hay nâng cao an sinh xã
12


hội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động thông qua việc xử
lý kịp thời những vi phạm pháp luật về bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế.
1.2. Pháp luật hiện hành về thi hành nghĩa vụ dân sự trong các bản
án, quyết định hình sự đã có hiệu lực của tòa án nhân dân

Tại điều 30 Bộ luật hình sự có nêu: Hình phạt là biện pháp cưỡng chế
nghiêm khắc nhất của Nhà nước được quy định trong Bộ luật này, do Tòa án
nhân dân quyết định áp dụng đối với người hoặc pháp nhân thương mại phạm
tội nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người, pháp nhân thương
mại đó.
Như vậy việc thi hành phần dân sự trong Bản án, Quyết định hình sự là
một trong những nội dung quan trọng của hoạt động thi hành án dân sự. Theo
quy định tại Điều 1 “Phạm vi điều chỉnh” và mục 1 Chương V Luật Thi hành
án dân sự năm 2008 sửa đổi, bổ sung năm 2014 (Luật THADS) thì những vụ
việc dân sự phải thi hành án trong bản án, quyết định hình sự thuộc thẩm
quyền của cơ quan THADS bao gồm: hình phạt tiền, tịch thu tài sản, truy thu
tiền (truy nộp), tài sản thu lợi bất chính, xử lý vật chứng, tài sản, án phí và thi
hành nghĩa vụ cấp dưỡng; bồi thường thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh
dự, nhân phẩm; bồi thường thiệt hại về tài sản…
- Án phí hình sự: là án phí mà người bị xử phạt về hình sự phải nộp vào
ngân sách nhà nước cho án sơ thẩm, án sơ thẩm đồng thời chung thẩm và án
phúc thẩm cùng với việc xét xử về tội phạm, nếu còn xét xử về bồi thường
thiệt hại, thì tòa án quyết định án phí theo số tiền bồi thường thiệt hại dựa vào
mức quy định đối với những việc tranh chấp tài sản có giá trị trong án phí về
dân sự. Nếu vụ án được kháng cáo mà toà phúc thẩm y án sơ thẩm thì người
kháng cáo phải chịu án phí kháng cáo. Nếu tòa án phúc thẩm sửa hoặc huỷ án
sơ thẩm thì ngườikháng cáo không phải chịu án phí phúc thẩm.Theo danh
mục án phí, lệ phí Tòa án ban hành kèm theo Nghị quyết số
13


326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy đinh về mức thu,
miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án của Ủy ban
thường vụ quốc hội thì mức án phí hình sự sơ thẩm và án phí hình sự phúc
thẩm là 200.000 đồng/ bị cáo.

- Phạt tiền: là hình phạt có tính chất kinh tế, nhằm vào tài sản của người
phạm tội, buộc người phạm tội phải nộp một khoản tiền để sung quỹ nhà
nước. Hình phạt tiền áp dụng với những tội ít nghiêm trọng, được áp dụng là
hình phạt chính khi có điều luật quy định. Ngoài ra phạt tiền được áp dụng là
hình phạt bổ sung khi không áp dụng là hình phạt chính.Xét về nội dung và
giá trị các tác động của hình phạt, phạt tiền tước bỏ một số quyền lợi vật chất
của người bị kết án, tác động đến kinh tế (tình hình tài sản) của họ, và thông
qua đó đạt mục đích phòng ngừa riêng và phòng ngừa chung của hình phạt.
Về bản chất, biện pháp phạt tiền trong hình sự và hành chính đều là sự tước
bỏ khoản tiền nhất định của người bị kết án, người vi phạm để sung quỹ Nhà
nước. Biện pháp phạt tiền là hình phạt chính trong pháp luật hành chính, có
thể là hình phạt chính hoặc hình phạt bổ sung trong pháp luật hình sự. Tuy
nhiên, có thể thấy sự khác biệt rõ nét giữa hình thức phạt tiền trong hình sự và
hành chính nằm ở nguyên tắc và thủ tục áp dụng. Phạt tiền trong pháp luật
hành chính có thể được thể hiện bằng biên bản hoặc không. Phạt tiền trong
pháp luật hình sự thì buộc phải được thể hiện trong bản án. Mức phạt tiền
trong hình sự được áp dụng theo mức độ nghiêm trọng của tội đã phạm, đồng
thời có xét đến tình hình tài sản của người đã phạm tội, sự biến động của giá
cả nhưng mức tối thiểu là một triệu đồng thể hiện tính nghiêm khắc của chế
tài hình sự so với chế tài hành chính có mức phạt tiền tối thiểu thấp hơn
nhiều.
- Tịch thu, sung quỹ nhà nước được áp dụng đối với công cụ, phương
tiện dùng vào việc thực hiện phạm tội, đây là những công cụ, phương tiện mà
14


người phạm tội đã sử dụng vào việc thực hiện tội phạm, như: dao, súng, xe
máy được sử dụng để cướp tài sản; tiền được sử dụng để đánh bạc, đưa hối
lộ,…Vật hoặc tiền có được do việc thực hiện tội phạm, như: xe máy, tiền có
được do trộm cắp, cướp giật, lừa đảo, lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt,… hoặc

do mua bán, chuyển nhượng, trao đổi với người khác, mang đi cầm xe máy
trộm cắp được, gán nợ, tặng cho,…Vật thuộc loại Nhà nước cấm sản xuất,
tang trữ, vận chuyển, mua bán, lưu hành, như: vũ khí quân dụng, pháo nổ, ma
túy, chất phóng xạ, chất nổ, văn hóa phẩm đồi trụy,… Đây là những vật mà
người phạm tội sử dụng làm công cụ, phương tiện phạm tội hoặc là đối tượng
của việc thực hiện tội phạm. Vật chứng là công cụ, phương tiện phạm tội, vật
cấm lưu hành, là tiền hoặc tài sản do phạm tội mà có thì bị tịch thu sung quỹ
Nhà nước. Tuy nhiên, nếu vật không còn giá trị sử dụng, vật cấm lưu hành là
các chất ma túy, văn hóa phẩm đồi trụy thì tuyên tịch thu nhưng không sung
quỹ Nhà nước mà tịch thu tiêu hủy theo quy định.
- Tịch thu tài sản: là tước một phần hoặc toàn bộ tài sản thuộc sở hữu
của người bị kết án để nộp vào ngân sách nhà nước.Theo điều 45 Bộ luật hình
sự có nêu: Tịch thu tài sản chỉ được áp dụng đối với người bị kết án về tội
phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt
nghiêm trọng xâm phạm đến an ninh quốc gia, tội phạm về ma túy, tham
nhũng hoặc tội phạm khác do Bộ luật này quy định. Khi tịch thu toàn bộ tài
sản vẫn để cho người bị kết án và gia đình họ có điều kiện để sinh sống. Ví
dụ: Vụ án đường dây ma túy Vũ Xuân Trường được phát hiện ở thời điểm
năm 1996 và đã từng gây chấn động dư luận cả nước. Có 34 đối tượng tham
gia mua bán, vận chuyển hơn 400kg heroin. TAND TP Hà Nội thời điểm ấy
đã tuyên phạt 8 án tử hình và 7 án chung thân trong vụ án này.Là "đệ tử"
trung thành của Vũ Xuân Trường, bản án đã tuyên Đào Xuân Xe mức án tử
hình, ngôi nhà số 184 Khâm Thiên của Xe bị tịch thu sung công quỹ Nhà
15


nước và đã được bàn giao lại cho Sở Tài chính - Vật giá quản lý theo đúng
luật định. Hiện nay, ngôi nhà số 184 Khâm Thiên là trụ sở của cơ quan Thi
hành án dân sự quận Đống Đa.
- Truy nộp: là khoản tiền nộp thêm của người phạm tội mà đáng lẽ phải

nộp trước đó để sung quỹ Nhà nước. Biện pháp truy nộp (truy thu tiền)
thường là hình phạt bổ sung đối với các tội danh như đánh bạc, tổ chức đánh
bạc, môi giới mại dâm...
- Bồi thường thiệt hại: là hình thức trách nhiệm dân sự nhằm buộc bên
có hành vi gây thiệt hại phải khắc phục hậu quả bằng cách đền bù các tổn thất
về vật chất và tổn thất về tinh thần cho bên bị thiệt hại. Trách nhiệm bồi
thường thiệt hại về vật chất là trách nhiệm bù đắp tổn thất về vật chất thực tế,
được tính thành tiền do bên vi phạm nghĩa vụ gây ra, bao gồm tổn thất về tài
sản, chi phí để ngăn chặn, hạn chế thiệt hại, thu nhập thực tế bị mất, bị giảm
sút.
1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả tổ chức thi hành phần
nghĩa vụ dân sự trong các bản án, quyết định hình sự của Tòa án
1.3.1. Pháp luật và thể chế
Pháp luật và thể chế là yếu tố hàng đầu ảnh hưởng đến công tác thi
hành NVDS trong bản án, quyết định hình sự. Pháp luật tạo cơ sở, nền tảng
pháp lý vững chắc cho hoạt động thi hành án triển khai trên thực tế, ban hành
các quy định về nội dung, trình tực, thủ tục cùng các chế tài nhằm tạo sức răn
đe, xử lý nghiêm mọi hành vi vi phạm.
Bên cạnh đó, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước
tạo điều kiện cho hoạt động thi hành NVDS đạt hiệu quả. Ngày nay, đường
lối, chủ trương của Đảng gắn với sự nghiệp CNH-HDH đất nước, tập trung
đổi mới, phát triển nền kinh tế đã tạo thuận lợi hơn cho thi hành NVDS, đảm

16


bảo cho công tác thi hành án dân sự nói chung bền vững và đem lại hiệu quả
cao hơn trên thực tế.
1.3.2. Hiệu quả của các hoạt động tố tụng
Các hoạt động tố tụng trong THADS ảnh hưởng lớn đến hiệu quả công

tác thi hành NVDS trong bản án, quyết định hình sự. Cụ thể, hoạt động tố
tụng diễn ra giúp cho thi hành NVDS được thực hiện đầy đủ, đúng hạn và quy
củ, tránh trường hợp chây ì hay trốn tránh nghĩa vụ, trách nhiệm. Sự phối hợp
của các cơ quan trong hoạt động tố tụng là cơ sở giúp cho hoạt động thi hành
án diễn ra đồng bộ, nhịp nhàng, có hiệu quả vì có sự tương tác, hỗ trợ lẫn
nhau.
1.3.3. Tổ chức bộ máy các cơ quan thi hành án dân sự
Tổ chức bộ máy cơ qaun THADS càng tinh gọn, đơn giản thì công tác
thi hành NVDS càng đạt được hiệu quả tích cực. Ngược lại, bộ máy rườm rà,
cồng kềnh sẽ là yếu tố kìm hãm chất lượng công tác thi hành NVDS, khiến
cho hoạt động thi hành NVDS rời rạc, thiếu tính liên kết, thậm chí mang lại
kết quả tiêu cực.
Trong xu thế hiện nay, các cơ quan nhà nước nói chung và cơ quan
THADS nói riêng thực hiện tinh giản biên chế, đơn giản hóa bộ máy, tăng
cường hiệu lực, hiệu quả, giảm bớt sự cồng kềnh sẽ là yếu tố tiên phong giúp
cho thi hành NVDS trong bản án, quyết định hình sự ngày một nâng cao cả về
lượng cũng như về chất. Tinh giản biên chế giúp giảm tải trình tự, thủ tục trở
nên đơn giản hơn, tránh những sai sót không đáng có, nâng cao hiệu lực bộ
máy nhà nước.
1.3.4. Năng lực của chấp hành viên
Trong thời gian gần đây, công tác thi hành án dân sự (THADS) ngày
càng được Đảng và Nhà nước quan tâm. Đội ngũ chấp hành viên (CHV) được
tăng cường về số lượng và cả chất lượng. Tuy nhiên, đến nay, THADS vẫn là
17


một vấn đề bức xúc trong lĩnh vực tư pháp bởi lượng án tồn đọng chưa được
thi hành còn nhiều, số lượng đơn thư khiếu nại vượt cấp còn lớn. Điều này
xuất phát từ nhiều nguyên nhân, nhưng một trong những nguyên nhân cơ bản
là do năng lực của CHV trong THADS còn hạn chế. Bởi vậy, trong tiến trình

cải cách tư pháp hiện nay, nâng cao năng lực của CHV trong THADS, giúp
họ hoàn thành tốt nhiệm vụ, đáp ứng yêu cầu thực tiễn đặt ra là một vấn đề rất
đáng quan tâm.Năng lực chấp hành viên ảnh hưởng không nhỏ đến công tác
thi hành NVDS. CHV càng giỏi, chuyên môn cao thì hoạt động thi hành
NVDS càng hiệu quả, chuẩn xác, ngược lại, CHV yếu kém về chuyên
môn,trình độ là yếu tố cản trở công tác thi hành án, gây ra những sai sót, bất
cập lớn.
Năng lực của CHV trong THADS là tổ hợp những khả năng tạo nên
năng lực tư duy lý luận và năng lực hoạt động thực tiễn của người CHV, giúp
họ thực thi pháp luật đúng đắn và đạt được kết quả cao trong việc tổ chức thi
hành các bản án, quyết định của tòa án và các bản án, quyết định khác theo
quy định của pháp luật. Cũng như bất kỳ cán bộ, công chức nào trong bộ máy
nhà nước, để hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình, CHV THADS cũng phải có
năng lực nhất định. Với trách nhiệm là người được Nhà nước trao quyền tổ
chức THA và do tính chất công việc, năng lực của CHV trong THADS được
cấu thành bởi tổ hợp những khả năng như: khả năng nhận thức, khả năng áp
dụng pháp luật, khả năng làm việc độc lập, tính quyết đoán cao, khả năng
kiềm chế và kiên nhẫn, khả năng làm việc với nhiều người và khả năng sáng
tạo, khả năng kiểm tra và tổng kết kinh nghiệm thực tiễn… Tất cả những khả
năng đó tạo nên hai yếu tố mà mỗi CHV cần phải có khi tổ chức THA là năng
lực tư duy lý luận và năng lực tổ chức hoạt động thực tiễn. Đây cũng là những
yếu tố quan trọng nhất tạo nên tài năng của mỗi CHV, làm cho CHV này khác
CHV kia.
18


Khi tổ chức THA, CHV phải thường xuyên giao tiếp, làm việc với rất
nhiều cá nhân, tổ chức như người được THA, người phải THA, người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan tới việc THA, các cơ quan, tổ chức, đoàn thể
nhân dân có nhiệm vụ phối hợp trong việc THA. Vì vậy, CHV phải có khả

năng giao tiếp xã hội, làm việc với tập thể, với nhiều người. Đó là khả năng
hiểu biết con người, nhận biết được khả năng của người khác và có thể khai
thác được lợi thế của họ cho yêu cầu nhiệm vụ của mình; biết xây dựng mối
quan hệ, biết cách làm việc với từng tập thể, từng con người, ứng xử đúng
mực với từng mối quan hệ; biết “đối nhân xử thế”. Đồng thời, biết học tập,
tiếp thu, vận dụng những cái hay, cái tốt của người khác cho sự hoàn thiện
của chính mình và đặc biệt là phải biết cách xử lý khéo léo nhưng đúng pháp
luật những mối quan hệ phức tạp, tế nhị. Nhờ năng lực giao tiếp, làm việc mà
CHV có thể nắm bắt được diễn biến tâm lý, nguyện vọng, dự đoán được hành
vi sắp xảy ra của các đương sự để có những biện pháp THA phù hợp. Có
nhiều vụ việc, qua nghệ thuật giao tiếp của CHV mà người phải THA đang từ
chống đối việc THA chuyển sang tự nguyện THA. Cũng nhờ năng lực giao
tiếp xã hội, làm việc với tập thể, với nhiều người mà CHV có thể thuyết phục
và lôi cuốn, thu hút được mọi người tham gia vào công việc chung, nhất là đối
với các cơ quan, tổ chức, đoàn thể nhân dân có nhiệm vụ phối hợp trong việc
THA.
Do phải chịu trách nhiệm cá nhân về kết quả THA của mình và do tính
phức tạp của công tác THA, CHV phải có khả năng làm việc độc lập, có tính
quyết đoán. CHV chủ động trong công việc, có thể tự hoạch định chương
trình và trù tính kế hoạch hành động cho mình để thực hiện mục tiêu đã định
mà không trông chờ hay ỷ lại vào người khác. Để có khả năng đó, CHV
không chỉ lao động bền bỉ, cần mẫn tìm tòi, học hỏi với tinh thần trách nhiệm
cao, có kỷ luật tự giác mà còn phải say mê, năng động và tâm huyết với nghề
19


×