Tải bản đầy đủ (.pdf) (109 trang)

Các tội xâm phạm an toàn giao thông đường bộ, đường sắt theo Luật hình sự Việt Nam (Trên cơ sở số liệu thực tiễn tại địa bàn thành phố Hải Phòng)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (886.56 KB, 109 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

TRẦN THANH HẢI

CÁC TỘI XÂM PHẠM AN TOÀN GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ,
ĐƯỜNG SẮT THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
(Trên cơ sở số liệu thực tiễn tại địa bàn thành phố Hải Phòng)

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2018


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

TRẦN THANH HẢI

CÁC TỘI XÂM PHẠM AN TOÀN GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ,
ĐƯỜNG SẮT THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
(Trên cơ sở số liệu thực tiễn tại địa bàn thành phố Hải Phòng)
Chuyên ngành: Luật Hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 8380101.03

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS.TS TRỊNH QUỐC TOẢN

HÀ NỘI - 2018



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công
trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo
tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn
học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của
Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có
thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

Trần Thanh Hải


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CÁC TỘI XÂM PHẠM
AN TOÀN GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ, ĐƯỜNG SẮT ............... 8
1.1.

Khái niệm và đặc điểm của các tội xâm phạm an toàn giao
thông đường bộ, đường sắt ................................................................ 8


1.1.1. Khái niệm các tội xâm phạm an toàn giao thông đường bộ,
đường sắt ............................................................................................... 8
1.1.2. Các đặc điểm đặc trưng của các tội xâm phạm an toàn giao thông
đường bộ, đường sắt............................................................................ 10
1.1.3. Sự cần thiết quy định các tội xâm phạm an toàn giao thông
đường bộ, đường sắt trong Luật hình sự Việt Nam ............................ 17
1.2.

Khái quát lịch sử phát triển của Luật hình sự Việt Nam về
các tội xâm phạm an toàn giao thông đường bộ, đường sắt ......... 23

1.2.1. Giai đoạn từ Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến trước pháp
điển hóa lần thứ nhất - BLHS Việt Nam năm 1985 ........................... 23
1.2.2. Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985 đến trước
khi pháp điển hóa lần thứ hai - Bộ luật hình sự năm 1999 ................. 31
1.2.3. Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1999 đến khi
pháp điển hóa lần thứ ba - Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi
năm 2017) ........................................................................................... 37


Chương 2: NHỮNG QUY ĐỊNH VỀ CÁC TỘI XÂM PHẠM AN
TOÀN GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ, ĐƯỜNG SẮT TRONG
BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 2015 VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG
TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG .............................. 45
2.1.

Những dấu hiệu pháp lý của các tội xâm phạm an toàn giao
thông đường bộ, đường sắt trong Bộ luật hình sự 2015 ................ 45


2.1.1. Những dấu hiệu pháp lý chung của các tội xâm phạm an toàn
giao thông đường bộ ........................................................................... 45
2.1.2. Những dấu hiệu pháp lý đối với các tội xâm phạm an toàn giao
thông đường sắt ................................................................................... 52
2.1.3. Hình phạt đối với các tội xâm phạm an toàn giao thông đường
bộ, đường sắt ....................................................................................... 56
2.2.

Thực tiễn áp dụng những quy định về các tội xâm phạm an
toàn giao thông đường bộ, đường sắt trên địa bàn thành phố
Hải Phòng........................................................................................... 60

2.2.1. Tình hình chung về vi phạm trật tự an toàn giao thông đường bộ,
đường sắt thời gian gần đây trên địa bàn thành phố Hải phòng ......... 60
2.2.2. Tình hình xét xử các tội vi phạm trật tự an toàn giao thông đường
bộ, đường sắt những năm gần đây tại Thành phố Hải Phòng............. 61
2.2.3. Đánh giá chung về những ưu điểm, thiếu sót, hạn chế trong áp
dụng các quy định về các tội xâm phạm an toàn giao thông
đường bộ, đường sắt và nguyên nhân của nó ..................................... 66
Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP TIẾP TỤC HOÀN THIỆN VÀ NÂNG
CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT
HÌNH SỰ NĂM 2015 VỀ CÁC TỘI XÂM PHẠM AN TOÀN
GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ, ĐƯỜNG SẮT ............................................84
3.1.

Sự cần thiết tiếp tục hoàn thiện và nâng cao hiệu quả áp dụng
các quy định về các tội xâm phạm an toàn giao thông đường
bộ, đường sắt trong Bộ luật hình sự năm 2015 .............................. 84



3.2.

Giải pháp tiếp tục hoàn thiện quy định về các tội xâm phạm
an toàn giao thông đường bộ, đường sắt trong Bộ luật hình
sự năm 2015 ....................................................................................... 86

3.3.

Giải pháp hoàn thiện các văn bản pháp luật khác có liên quan ....... 88

3.4.

Tăng cường giải thích, hướng dẫn áp dụng pháp luật của cơ
quan có thẩm quyền .......................................................................... 89

3.5.

Một số giải pháp khác nâng cao chất lượng xét xử các tội xâm
phạm an toàn giao thông đường bộ, đương sắt.............................. 91

KẾT LUẬN .................................................................................................... 95
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 98


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
ATGT:

An toàn giao thông

BLHS:


Bộ luật hình sự

LHS:

Luật hình sự

TANDTC:

Tòa án nhân dân tối cao

TNHS:

Trách nhiệm hình sự


DANH MỤC CÁC BẢNG

Số hiệu

Tên bảng

Trang

Bảng 2.1

Số liệu thống kê các vụ án Tòa án hai cấp thành phố
Hải Phòng giải quyết trong đó có các vụ án xâm phạm
trật tự an toàn giao thông đường bộ từ năm 2013-2018


62

Bảng 2.2

Số liệu thống kê các vụ án Tòa án hai cấp thành phố
Hải Phòng giải quyết trong đó có các vụ án xâm phạm
trật tự ATGT đường sắt từ năm 2013-2017

62

Bảng 2.3

Số liệu thống kê về kết quả xét xử đối với các bị cáo
phạm các tội xâm phạm trật tự an toàn giao thông
đường bộ từ năm 2013 -6/2018

64

Bảng 2.4

Số liệu thống kê về kết quả xét xử đối với các bị cáo
phạm các tội xâm phạm trật tự an toàn giao thông
đường sắt từ năm 2013 -6/2018

64


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong quá trình phát triển kinh tế xã hội của bất kỳ một quốc gia nào,

giao thông là lĩnh vực luôn giữ một vị trí và vai trò vô cùng quan trọng, nhất
là giao thông đường bộ và đường sắt. Thời gian qua, mặc dù Đảng, Nhà nước
cũng như chính quyền các cấp địa phương đã nỗ lực cố gắng và đề ra nhiều
giải pháp để kiềm chế gia tăng, tiến tới giảm dần tai nạn giao thông, ùn tắc
giao thông, nhưng tình hình vi phạm an toàn giao thông (ATGT) vẫn diễn ra
phức tạp, tai nạn giao thông vẫn ở mức cao và nghiêm trọng, nhất là số người
chết, tiềm ẩn nhiều nguy cơ gia tăng, gây thiệt hại nghiêm trọng về người và
tài sản, ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững về kinh tế, văn hóa, xã hội và
hình ảnh của đất nước Việt Nam với bạn bè quốc tế. Thực trạng tai nạn giao
thông đường bộ và đường sắt đã trở thành vấn đề xã hội hết sức bức xúc và
làm đau đầu các cơ quan chức năng, các nhà quản lý ở nước ta.
Trước tình hình đó, Ban Bí thư Trung ương Đảng đã ban hành Chỉ thị
số 18-CT/TW ngày 04 tháng 9 năm 2012 “Về tăng cường sự lãnh đạo của
Đảng đối với công tác bảo đảm trật tự, an toàn giao thông đường bộ, đường
sắt, đường thủy nội địa và khắc phục ùn tắc giao thông” [11]. Tiếp đó, Chính
phủ đã ban hành Nghị quyết số 30/NQ-CP ngày 01/3/2013 “Ban hành Chương
trình hành động của Chính phủ thực hiện Chỉ thị số 18-CT/TW ngày 04 tháng 9
năm 2012 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về tăng cường sự lãnh đạo của
Đảng đối với công tác bảo đảm trật tự, an toàn giao thông đường bộ, đường
sắt, đường thủy nội địa và khắc phục ùn tắc giao thông” [8]. Nội dung các văn
bản trên đã xác định rõ các mục đích, yêu cầu, nhiệm vụ và giải pháp trọng
tâm, phân công trách nhiệm, tổ chức thực hiện nhằm kiềm chế gia tăng và
từng bước đẩy lùi tai nạn giao thông, đồng thời đã yêu cầu các cấp ủy Đảng,
các cấp chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể, các ngành phải đặt

1


nhiệm vụ bảo đảm trật tự ATGT là một trong những nhiệm vụ chính trị trong
công tác lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý của mình; Đề cao vai trò và gắn trách

nhiệm của người đứng đầu các đơn vị, chính quyền địa phương đối với công
tác bảo đảm trật tự, an toàn giao thông; phải tổ chức quán triệt, triển khai thực
hiện nghiêm túc, đầy đủ, triệt để chỉ thị và nghị quyết trên.
Ở các địa phương trong cả nước đều quyết tâm đầy lùi và ngăn chặn
tình trạng tai nạn giao thông đường bộ, đường sắt. Thành phố Hải Phòng là
một trong những địa phương mà sự phối hợp chặt chẽ giữa các ngành công
an, giao thông, Tòa án, Viện Kiểm sát, đặc biệt là chính sách hình sự được
triển khai thực hiện khá quyết liệt, thế nhưng kết quả vẫn chưa thực sự như
mong muốn, thực tiễn điều tra, xét xử trong vi phạm an toàn giao thông
đường bộ, đường sắt vẫn còn không ít sai sót, dẫn đến hiệu quả điều chỉnh của
pháp luật chưa cao. Vì vậy, việc nghiên cứu nhằm làm sang tỏ về lý luận các
tội xâm phạm ATGT đường bộ, đường sắt theo Luật hình sự (LHS) Việt Nam
một cách có hệ thống, đồng thời tìm ta những bất cập, vướng mắc trong thực
tiễn áp dụng các quy định của pháp luật hiện hành về các tội xâm phạm
ATGT đường bộ, đường sắt và nguyên nhân, từ đó đưa ra những yêu cầu và
giải pháp tiếp tục hoàn thiện và nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của
luật hiện hành mang ý nghĩa quan trọng về lý luận và thực tiễn, góp phần đấu
tranh phòng, chống tội phạm về ANGT đường bộ, đường sắt và nâng cao chất
lượng xét xử các tội này tại thành phố Hải Phòng. Đây cũng chính là lý do để
tác giả quyết định lựa chọn đề tài “Các tội xâm phạm an toàn giao thông
đường bộ, đường sắt theo Luật hình sự Việt Nam (Trên cơ sở số liệu thực
tiễn tại địa bàn thành phố Hải Phòng)” làm đề tài luận văn thạc sĩ Luật học.
2. Tình hình nghiên cứu
Trong thời gian qua việc nghiên cứu về các tội xâm phạm ATGT
đường bộ, đường sắt ở các mức độ khác nhau, trực tiếp và gián tiếp đã có một

2


số nhóm công trình nghiên cứu được công bố, đồng thời thể hiện ở các bình

diện như: luận văn, luận án, sách chuyên khảo, tham khảo, bình luận, cũng
như giáo trình dành cho hệ đại học và một số bài viết bình luận khác. Có thể
kể đến một số công trình nghiên cứu tiêu biểu như sau:
Thứ nhất, nhóm công trình nghiên cứu là các luận án tiến sĩ, luận văn
thạc sĩ luật học bao gồm:
Bùi Kiến Quốc, Các biện pháp đấu tranh phòng, chống tội vi phạm quy
định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ ở Thủ đô Hà Nội, Luận
án Tiến sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2001; Nguyễn Đắc Dũng,
Tội vi phạm các quy định về điều khiển giao thông đường bộ trong LHS Việt
Nam (Trên cơ sở thực tiễn xét xử tại địa bàn tỉnh Bác Ninh), Luận văn thạc sĩ
luật học, 2011; Nguyễn Ngọc Anh, Tội đua xe trái phép trong LHS Việt Nam
Luận văn thạc sĩ luật học, 2012; Trần Văn Thảo, Các tội xâm phạm an toàn
giao thông đường bộ theo LHS Việt Nam, Luận văn thạc sĩ luật học, 2013.
Thứ hai, nhóm các sách chuyên khảo, tham khảo bao gồm:
ThS. Đinh Văn Quế, Bình luận khoa học chuyên sâu BLHS- Phần các
tội phạm, Tập VI - Các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng,
Nxb thành phố Hồ Chí Minh, 2005; ThS. Hoàng Đình Ban, Hoạt động phòng
ngừa tai nạn giao thông đường bộ ở Việt Nam hiện nay, Nxb Công an nhân
dân, Hà Nội, 2008; TS Trần Minh Hường, Các tội xâm phạm an toàn công
cộng, trật tự công cộng, trật tự quản lý hành chính, Nxb Văn hóa Dân tộc, Hà
Nội, 2002; TS. Nguyễn Đức Mai, Chương XIX - Các tội xâm phạm an toàn
công cộng, trật tự công cộng, Trong sách Bình luận khoa học BLHSViệt Nam
năm 1999, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2001, v.v…
Thứ ba, nhóm giáo trình, đề tài, bài viết bao gồm:
1) GS.TS. Đỗ Ngọc Quang, Chương XIX - Các tội xâm phạm an toàn
công cộng, trật tự công cộng. Trong sách: Giáo trình LHS Việt Nam (Phần

3



các tội phạm), GS. TSKH. Lê Cảm chủ biên, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội,
2001 (tái bản năm 2007);
2) GS. TS. Võ Khánh Vinh, Chương X - Các tội xâm phạm an toàn công
cộng, trật tự công cộng, Trong sách: Giáo trình LHS Việt Nam (Phần các tội
phạm), GS. TS. Võ Khánh Vinh chủ biên, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2001;
3) GS. TS. Nguyễn Ngọc Hòa, Chương XXV - Các tội xâm phạm an toàn
công cộng, trật tự công cộng, Trong sách: Giáo trình LHS Việt Nam (Tập II) do
GS. TS. Nguyễn Ngọc Hòa chủ biên, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2010;
4) TS. Phạm Văn Beo, Bài 10 - Các tội xâm phạm an toàn công cộng,
trật tự công cộng, Trong sách: LHS Việt Nam (Quyển 2 - Phần các tội phạm),
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010;
5) TS. Cao Thị Oanh (chủ biên), Chương X - Các tội xâm phạm an
toàn công cộng, trật tự công cộng, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2010; v.v...
Ngoài ra, năm 2004 có đề tài nghiên cứu khoa học cấp Trường (Đại
học Luật Hà Nội) của TS. Trương Quang Vinh (chủ trì): Tội tổ chức đua xe
trái phép, tội đua xe trái phép và đấu tranh phòng, chống các tội này trên
địa bàn thành phố Hà Nội. Tiếp đến là một số bài viết đi sâu vào tranh luận
tội danh cụ thể, xác định lỗi của tội phạm này như: 1) ThS. Lê Văn Luật,
Xác định lỗi trong các vụ án tai nạn giao thông, Tạp chí Tòa án nhân dân, số
6/2005; 2) ThS. Huỳnh Quốc Hùng, Một số vấn đề về định tội và định khung
tăng nặng trong các vụ án vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao
thông đường bộ, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 9/2007; v.v... Tuy nhiên, qua
nghiên cứu các công trình trên cho thấy một số công trình có phạm vi nghiên
cứu rộng, các tội xâm phạm ATGT đường bộ chỉ được đề cập riêng rẽ từng
tội bằng bình luận những dấu hiệu pháp lý hình sự và hình phạt hoặc chỉ
xem xét dưới góc độ tội phạm học - phòng ngừa cả nhóm tội phạm xâm
phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng trong BLHS Việt Nam năm 1999,

4



trong khi đó, chưa có công trình khoa học nào ở cấp độ một luận văn thạc sĩ
luật học đề cập đến cả nhóm tội xâm phạm ATGT đường bộ, đường sắt trên
một địa bàn cụ thể là thành phố Hải Phòng. Vì vậy, việc tiếp tục nghiên cứu
để hoàn thiện các quy định của BLHS Việt Nam về các tội xâm phạm ATGT
đường bộ, đường sắt cũng như đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả áp
dụng luôn có ý nghĩa về lý luận và thực tiễn, đặc biệt phục vụ trực tiếp yêu
cầu chính trị - xã hội và đấu tranh phòng, chống các tội phạm đã nêu trên địa
bàn thành phố Hải Phòng.
3. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Mục đích của luận văn là nghiên cứu bổ sung góp phần tiếp tục hoàn
thiện quy định của pháp luật mà đặc biệt là BLHS năm 2015 và đưa ra các
giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng pháp LHS trong xử lý các tội xâm
phạm ATGT đường bộ, đường sắt.
4. Nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của đề tài
4.1. Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Để đạt được mục đích trên, luận văn tập trung vào những nhiệm vụ sau:
- Khái niệm và những dấu hiệu pháp lý hình sự của các tội xâm phạm
ATGT đường bộ, đường sắt;
- Khái quát lịch sử hình thành và phát triển của các tội xâm phạm
ATGT đường bộ, đường sắt trong LHS Việt Nam qua các thời kỳ;
- Nghiên cứu cấu thành tội phạm của các tội xâm phạm ATGT đường
bộ, đường sắt trong BLHS hiện hành.
- Nghiên cứu thực trạng định tội danh và quyết định hình phạt đối với
các tội xâm phạm ATGT đường bộ, đường sắt trên địa bàn Thành phố Hải
Phòng từ 2013 đến tháng 6 năm 2018.
- Đề xuất một số giải pháp tiếp tục hoàn thiện và nâng cao hiệu quả áp
dụng các quy định về các tội xâm phạm ATGT đường bộ, đường sắt theo
BLHS năm 2015.
5



4.2. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Phạm vi nghiên cứu của đề tài: phân tích, đánh giá thực tiễn xét xử
các tội xâm phạm ATGT đường bộ, đường sắt địa bàn Thành phố Hải Phòng
giai đoạn 2013-2018 trên địa bàn thành phố Hải Phòng.
5. Cơ sở phương pháp luận và các phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở phương pháp luận
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và những chủ trương, đường lối, chính
sách hình sự của Đảng, Nhà nước ta về đấu tranh phòng, chống tội phạm,
cũng như trong việc bảo vệ an toàn, trật tự xã hội.
5.2. Các phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu của khoa học luật hình
sự như: phân tích, tổng hợp, so sánh, phân tích quy phạm pháp luật, khảo sát
thực tiễn, điều tra án điển hình... để tổng hợp các tri thức khoa học luật hình
sự và luận chứng các vấn đề cần nghiên cứu trong luận văn này.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
- Ý nghĩa lý luận
Luận văn được hình thành trên cơ sở khái quát lý luận và đánh giá
thực tiễn áp dụng pháp luật xử lý các tội xâm phạm ATGT đường bộ, đường
sắt trong thời gian qua, nên kết quả nghiên cứu sẽ góp phần hoàn thiện cơ sở
pháp lý và làm rõ các nội dung của các tội xâm phạm ATGT đường bộ,
đường sắt trong giai đoạn hiện nay. Luận văn là một tài liệu tham khảo dùng
cho các nhà nghiên cứu, giảng dạy học tập chuyên ngành LHS trong các cơ
sở đào tạo pháp luật.
- Ý nghĩa thực tiễn
Các giải pháp nêu trong luận văn là một kênh tham khảo hữu ích cho các
cơ quan tiến hành tố tụng, mà đặc biệt là tòa án, áp dụng trong thực tiễn xử lý


6


các tội xâm phạm ATGT đường bộ, đường sắt. Bên cạnh đó, luận văn còn có
thể sử dụng làm tài liệu tham khảo, phục vụ nghiên cứu và học tập môn học
LHS. Một số đề xuất, kiến nghị của luận văn sẽ cung cấp những luận cứ khoa
học phục vụ cho công tác lập pháp và hoạt động thực tiễn áp dụng BLHS Việt
Nam liên quan đến các tội xâm phạm ATGT đường bộ, đường sắt qua đó góp
phần nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống tội này hiện nay và
sắp tới ở địa bàn thành phố Hải Phòng nói riêng và cả nước nói chung.
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
luận án được chia thành 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề chung về các tội xâm phạm an toàn giao
thông đường bộ, đường sắt trong luật hình sự.
Chương 2: Những quy định về các tội xâm phạm an toàn giao thông
đường bộ, đường sắt trong Bộ luật hình sự năm 2015 và thực tiễn áp dụng
trên địa bàn thành phố Hải Phòng.
Chương 3: Một số giải pháp tiếp tục hoàn thiện và nâng cao hiệu quả
áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự năm 2015 về các tội xâm phạm an
toàn giao thông đường bộ, đường sắt.

7


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CÁC TỘI XÂM PHẠM
AN TOÀN GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ, ĐƯỜNG SẮT
1.1. Khái niệm và đặc điểm của các tội xâm phạm an toàn giao
thông đường bộ, đường sắt

1.1.1. Khái niệm các tội xâm phạm an toàn giao thông đường bộ,
đường sắt
Tội phạm là chế định quan trọng và chủ yếu của LHS, mang bản chất là
một hiện tượng pháp lý,
xuất hiện cùng với sự ra đời của nhà nước và pháp luật, cũng
như khi xã hội phân chia thành giai cấp đối kháng [6, tr.287], là hiện
tượng tiêu cực mang thuộc tính xã hội - pháp lý, tội phạm luôn chứa
đựng trong nó đặc tính chống đối lại nhà nước, chống đối lại xã hội,
đi ngược lại lợi ích chung của cộng đồng, trật tự xã hội, xâm phạm
đến quyền, tự do và các lợi ích hợp pháp của con người [40, tr.17].
Khái niệm tội phạm cũng được các nhà làm luật nước ta ghi nhận tại
điều 8 BLHS năm 1999 (được sửa đổi bổ sung năm 2009), đã được coi là khái
niệm “có tính khoa học thể hiện tập trung nhất quan điểm của Nhà nước ta về
tội phạm” [28, tr.33]. và đến BLHS năm 2015 đã đưa ra khái niệm thể hiện
đầy đủ các bình diện với các đặc điểm cơ bản của tội phạm.
Khái niệm tội phạm được khoản 1 Điều 8 BLHS 2015 quy định:
Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định
trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự
hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý,
xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ
quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa,

8


quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp
pháp của tổ chức, xâm phạm quyền con người, quyền, lợi ích hợp
pháp của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự
pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo quy định của Bộ luật này phải
bị xử lý hình sự [28, tr.4].

Như vậy, theo quy định của BLHS 2015, thì khái niệm của các loại tội
phạm cụ thể được quy định trong các điều luật phân loại các tội phạm cụ thể,
bằng mô tả các đặc điểm, dấu hiệu pháp lý của các tội phạm.
Căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi
phạm tội được quy định trong Bộ luật này, tội phạm được phân thành bốn
loại: Tội ít nghiêm trọng, tội nghiêm trọng, tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt
nghiêm trọng.
ATGT đường bộ, đường sắt là trạng thái giao thông an toàn, trật tự,
thông suốt, thuận lợi trong lĩnh vực giao thông đường bộ, đường sắt theo quy
định của pháp luật được mọi người thực hiện nghiêm chỉnh nhằm hạn chế
thấp nhất tai nạn giao thông đường bộ, gây thiệt hại về người và tài sản.
Về bản chất, thì vi phạm ATGT đường bộ, đường sắt chính là những
hành vi nguy hiểm, đặt tính mạng, sức khỏe của con người và tải sản vào tình
trạng bị thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại. Về hình thức, vi phạm an toàn
giao thông đường bộ, đường sắt là trái với qui định trong Luật giao thông
đường bộ năm 2008 và các văn bản pháp luật khác về giao thông vận tải
đường bộ, đường sắt.
Xuất phát từ tầm quan trọng của việc giữ gìn an toàn, trật tự công cộng
trong đời sống xã hội, trên cơ sở các quy định của Hiến pháp, hệ thống văn
bản pháp luật, BLHS đã quy định Chương "Các tội xâm phạm an toàn công
cộng, trật tự công cộng" để bảo vệ các lợi ích trên, xử lý các hành vi nguy
hiểm cho xã hội ở mức độ cao, qua đó bảo đảm mọi sinh hoạt, vui chơi, giải

9


trí, hoạt động công cộng được an toàn, ổn định và tuân thủ các quy tắc xã hội
và quy tắc của pháp luật. Vì vậy, tôn trọng và bảo vệ "an toàn công cộng, trật
tự công cộng" là “một trong những thước đo, tiêu chí để đánh giá sự ổn định
của xã hội, đánh giá sức mạnh của các cơ quan bảo vệ pháp luật, khả năng

quản lý của các cơ quan, tổ chức, đồng thời nó cũng đánh giá được ý thức
pháp luật, văn minh pháp lý của công dân” [3, tr.439].
Những quan hệ xã hội được LHS bảo vệ mà bị các tội xâm phạm
ATGT đường bộ, đường sắt xâm phạm đến, cùng với các khách thể khác, là
một trong những khách thể quan trọng được BLHS Việt Nam bảo vệ, tôn
trọng và bất kỳ hành vi nào xâm phạm đến nhóm khách thể này đều bị xử lý
theo các quy định về những tội phạm tương ứng của BLHS.
Do vậy, dưới góc độ khoa học LHS, chúng ta có thể đưa ra một khái
niệm chung về tội xâm phạm ATGT đường bộ, đường sắt như sau:
Các tội xâm phạm an toàn giao thông đường bộ, đường sắt là những
hành vi nguy hiểm cho xã hội, được quy định trong BLHS, được thực hiện một
cách cố ý hoặc vô ý bởi những người có năng lực TNHS và đủ tuổi chịu
TNHS, xâm hại đến an toàn giao thông đường bộ, đường sắt, gây ra những
thiệt hại nghiêm trọng về tính mạng, sức khỏe của con người, thiệt hại về tài
sản của Nhà nước, của tổ chức và công dân.
1.1.2. Các đặc điểm đặc trưng của các tội xâm phạm an toàn giao
thông đường bộ, đường sắt
Để xem xét và xác định hành vi nào là hành vi xâm phạm đến ATGT
đường bộ, đường sắt cần phải xử lý theo LHS thì cần phải xem xét đến các
dấu hiệu pháp lý đặc trưng của các tội này, bao gồm:
* Đặc điểm thứ nhất: Các tội xâm phạm an toàn giao thông đường bộ,
đường sắt là những hành vi nguy hiểm đáng kể cho xã hội
Hành vi xâm phạm ATGT đường bộ, đường sắt là hành vi nguy hiểm

10


cho xã hội xâm phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ và đường sắt,
gây thiệt hại cho xã hội hoặc hành vi tạo khả năng gây ra các thiệt hại cho các
quan hệ xã hội được LHS bảo vệ. Các thiệt hại do hành vi vi phạm quy định

về an toàn giao thông đường bộ, đường sắt gây ra cho các quan hệ xã hội bao
gồm: tính mạng, sức khỏe, tài sản của người khác. Do vậy, trường hợp vi
phạm các quy định về an toàn giao thông đường bộ gây thiệt hại cho chính
bản thân người vi phạm mà không gây thiệt hại cho tính mạng, sức khỏe, tài
sản của người khác, thì không bị coi là tội phạm.
Hành vi phạm tội xâm phạm trật tự ATGT đường bộ, đường sắt bao
gồm hành động và không hành động. Hành động phạm tội xâm phạm ATGT
đường bộ, đường sắt được quy định trong BLHS cụ thể gồm:
* Đối với đường bộ
- Hành vi vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ gây thiệt
hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khỏe, tài sản của
người khác trong trường hợp: Không có giấy phép lái xe theo quy định; Tham
gia giao thông trong tình trạng có sử dụng rượu, bia mà trong máu hoặc hơi
thở có nồng độ cồn vượt quá mức quy định, có sử dụng chất ma túy hoặc chất
kích thích mạnh khác; Bỏ chạy để trốn tránh trách nhiệm hoặc cố ý không cứu
giúp người bị nạn; Không chấp hành hiệu lệnh của người điều khiển hoặc
hướng dẫn giao thông;
- Hành vi cản trở giao thông đường bộ gây thiệt hại cho tính mạng hoặc
gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khỏe, tài sản của người khác trong các
trường hợp: đào, khoan, xẻ trái phép các công trình giao thông đường bộ; đặt
trái phép chướng ngại vật gây cản trở giao thông đường bộ; tháo dì, di chuyển
trái phép, làm sai lệch, che khuất hoặc phá hủy biển báo hiệu, các thiết bị an
toàn giao thông đường bộ; mở đường giao cắt trái phép qua đường bộ, đường
có giải phân cách; lấn chiếm, chiếm dụng vỉa hè, lòng đường; lấn chiếm hành
lang bảo vệ đường bộ.
11


- Đưa vào sử dụng phương tiện giao thông đường bộ rõ ràng không
đảm bảo an toàn về thông số kỹ thuật gây thiệt hại cho tính mạng hoặc thiệt

hại nghiêm trọng cho sức khỏe, tài sản của người khác.
- Điều động hoặc giao cho người không có giấy phép hoặc bằng lái xe
hoặc không có đủ điều kiện khác như điều kiện về sức khoẻ, kinh nghiệm,
trình độ chuyên môn v.v... vào điều khiển phương tiện giao thông hoặc điều
động người say rượu hoặc dùng các chất kích thích khác điều khiển các
phương tiện giao thông vận tải đường bộ.
- Hành vi gây rối an toàn giao thông đường bộ bằng phương tiện
giao thông cơ giới thể hiện bằng các hành vi: tổ chức đua xe hoặc đua xe mô
tô, ô tô hoặc các loại xe có gắn động cơ trái phép.
Hành vi phạm tội xâm phạm an toàn giao thông đường bộ được
thực hiện dưới dạng không hành động là trường hợp không làm một việc mà
pháp luật bắt buộc phải làm như: không có giấy phép hoặc bằng lái xe theo
quy định, vi phạm quy định về bảo đảm an toàn giao thông khi thi công trên
đường bộ…
* Đối với đường sắt
- Hành vi vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông
đường sắt gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức
khỏe, tài sản của người khác trong trường hợp: Không có giấy phép, bằng
hoặc chứng chỉ chuyên môn tương ứng với nhiệm vụ được giao; Trong tình
trạng có sử dụng rượu, bia mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn vượt
quá mức quy định, có sử dụng chất ma túy hoặc chất kích thích mạnh khác;
Bỏ chạy để trốn tránh trách nhiệm hoặc cố ý không cứu giúp người bị nạn;
Không chấp hành hiệu lệnh của người chỉ huy hoặc người có thẩm quyền điều
khiển, giữ gìn trật tự, an toàn giao thông.
- Hành vi cản trở giao thông đường sắt gây thiệt hại cho tính mạng

12


hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khỏe, tài sản của người khác trong

các trường hợp: đặt chướng ngại vật trên đường sắt; làm xê dịch ray, tà vẹt;
khoan, đào, xẻ trái phép nền đường sắt; mở đường ngang, xây cống hoặc công
trình khác trái phép qua đường sắt; làm hỏng, thay đổi, chuyển dịch, che
khuất tín hiệu, biển hiệu, mốc hiệu của công trình giao thông đường sắt; để
súc vật đi qua đường sắt không đúng quy định hoặc để súc vật kéo xe
qua đường sắt mà không có người điều khiển; đưa trái phép phương tiện tự
tạo, phương tiện không được phép chạy trên đường sắt; phá hoại phương tiện
giao thông đường sắt; lấn chiếm hành lang an toàn giao thông đường sắt,
phạm vi bảo vệ công trình giao thông đường sắt gây thiệt hại cho người khác
- Đưa vào sử dụng phương tiện giao thông đường sắt không đảm bảo an
toàn: đưa vào sử dụng phương tiện, thiết bị giao thông đường sắt rõ ràng
không bảo đảm tiêu chuẩn an toàn kỹ thuật, không có giấy chứng nhận đăng
ký, đăng kiểm.
- Điều động hoặc giao cho người không có giấy phép lái tàu hoặc người
đang trong tình trạng có sử dụng rượu, bia mà trong máu hoặc hơi thở có
nồng độ cồn vượt quá mức quy định, có sử dụng chất ma túy, chất kích thích
mạnh khác hoặc không đủ các điều kiện khác theo quy định của pháp luật
điều khiển phương tiện giao thông đường sắt gây thiệt hại cho người khác
Tương tự như hành vi phạm tội xâm phạm an toàn đường bộ, hành vi
phạm tội xâm phạm an toàn giao thông đường sắt được thực hiện dưới dạng
không hành động là trường hợp không làm một việc mà pháp luật bắt buộc
phải làm như: Khi điều khiển phương tiện giao thông đường sắt: Không có
giấy phép, bằng hoặc chứng chỉ chuyên môn tương ứng với nhiệm vụ được
giao; Trong tình trạng có sử dụng rượu, bia mà trong máu hoặc hơi thở có
nồng độ cồn vượt quá mức quy định, có sử dụng chất ma túy hoặc chất kích
thích mạnh khác; Bỏ chạy để trốn tránh trách nhiệm hoặc cố ý không cứu

13



giúp người bị nạn; Không chấp hành hiệu lệnh của người chỉ huy hoặc người
có thẩm quyền điều khiển, giữ gìn trật tự, an toàn giao thông;…
* Đặc điểm thứ hai: Các tội vi phạm quy định an toàn giao thông
đường bộ, đường sắt được quy định trong Bộ luật hình sự
Các tội vi phạm quy định an toàn giao thông đường bộ, đường sắt được
quy định trong BLHS là đặc điểm cơ bản của các tội phạm này. Đây là đặc
điểm thể hiện nguyên tắc pháp chế trong luật hình sự Việt Nam. Pháp chế là
đòi hỏi quan trọng của pháp luật hình sự, là cơ sở để pháp luật hình sự được
thực thi một cách có hiệu quả.
Pháp chế như là tính thiêng liêng của pháp luật, tính bền
vững của các quy phạm pháp lý... Pháp chế có mối quan hệ chặt
chẽ với pháp luật, với bình đẳng và với sự tuân thủ luật pháp,
không một ai, không một người nào có bất kỳ một đặc quyền nào
trước pháp luật... [45].
Yêu cầu tội phạm vi phạm quy định an toàn giao thông đường bộ,
đường sắt phải được BLHS quy định là cơ sở pháp lý quan trọng bảo đảm tính
thống nhất trong đấu tranh phòng, chống tội phạm và bảo đảm các quyền con
người không bị xâm phạm bởi sự tùy tiện trong hoạt động của các cơ quan tiến
hành tố tụng hình sự.
Nguyên tắc pháp chế về quy định tội phạm - không có luật thì không có
tội phạm có giá trị tuyệt đối, không có ngoại lệ. Nói tội phạm vi phạm quy
định an toàn giao thông đường bộ, đường sắt được BLHS quy định có nghĩa
là tất cả các nội dung liên quan đến tội phạm đều phải do BLHS quy định.
Ngoài ra, khi quy định từng loại tội phạm cụ thể cần phải xác định rõ ràng,
chính xác các dấu hiệu đặc trưng, điển hình và bắt buộc của nó, Ở Việt Nam,
trước đây, tội phạm và hình phạt được quy định không chỉ trong các văn bản
pháp luật hình sự như sắc lệnh, sắc luật, pháp lệnh mà còn trong các văn bản

14



pháp luật phi hình sự, nhưng kể từ khi luật hình sự được pháp điển hóa với việc
ban hành BLHS năm 1985, thì tội phạm và hình phạt chỉ được quy định trong
BLHS. Trong BLHS năm 2015 (sửa đổi năm 2017), Điều 2 BLHS quy định: Chỉ
người nào phạm một tội đã được Bộ luật hình sự quy định mới phải chịu
trách nhiệm hình sự. Khoản 1 Điều 8 quy định: "Tội phạm là hành vi nguy
hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự...".
Như vậy, theo quy định trên thì chỉ những hành vi nguy hiểm cho xã
hội được quy định từ Điều 260 đến Điều 271 mới là các tội vi phạm quy định
về an toàn giao thông đường bộ và đường sắt. Người thực hiện một trong
những tội được quy định trong các điều luật về tội phạm ấy mới phải chịu
trách nhiệm hình sự.
* Đặc điểm thứ ba: Chủ thể thực hiện các tội vi phạm quy định an toàn
giao thông đường bộ, đường sắt phải là người có năng lực TNHS và đạt đủ
tuổi chịu TNHS thực hiện"
Người có năng lực TNHS là con người cụ thể đạt độ tuổi do LHS quy
định, có khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của mình. Người đó không
mắc bệnh tâm thần hoặc bệnh tật khác làm mất khả năng nói trên.
Năng lực TNHS được Nhà nước ta quy định theo phương pháp loại trừ,
tức là khẳng định tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự là gì và
nếu không phải là tình trạng đó, thì là tình trạng có năng lực TNHS. Theo quy
định tại Điều 21 BLHS: “Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong
khi đang mắc bệnh tâm thần, một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức
hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình, thì không phải chịu trách nhiệm
hình sự” [28].
Tuy nhiên, để trừng trị những người phạm tội do say rượu hoặc dùng
chất kích thích mạnh, Nhà nước vẫn truy cứu TNHS đối với họ. Mặc dù trong
thực tế có người do say rượu hoặc do dùng chất kích thích mạnh mà không

15



nhận thức được hành vi họ thực hiện là nguy hiểm cho xã hội hoặc mất khả
năng điều khiển hành vi của mình trong khi phạm tội. Cho nên, tại Điều 13
BLHS 2015 quy định: "Người phạm tội trong tình trạng mất khả năng nhận
thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình do dùng rượu, bia hoặc chất
kích thích mạnh khác, thì vẫn phải chịu TNHS". Tại điểm b khoản 2 Điều 260
và điểm b, khoản 2, Điều 267 BLHS 2015 cũng quy định phạm tội thuộc một
trong các trường hợp sau đây "... b) Trong tình trạng có sử dụng rượu, bia mà
trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn vượt quá mức quy định, có sử dụng
chất ma túy hoặc chất kích thích mạnh khác" là tình tiết tăng nặng định khung
hình phạt đối với tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ và vi
phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường sắt.
Chủ thể của các tội xâm phạm trật tự an toàn giao thông đường bộ,
đường sắt là những cá nhân cụ thể không chỉ có năng lực TNHS mà còn đủ
tuổi chịu TNHS. Về nguyên tắc họ phải đặt đủ tuổi từ 16 tuổi trở lên. Nếu từ
đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi thì họ chỉ chịu TNHS về một số tội rất nghiêm
trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng do LHS quy định.
* Đặc điểm thứ tư: Các tội xâm phạm trật tự an toàn giao thông đường
bộ, đường sắt do chủ thể thực hiện là có lỗi
Trong LHS Việt Nam, nguyên tắc có lỗi là một trong những nguyên tắc
cơ bản. Nội dung của nguyên tắc này là "không có tội nếu như không có
lỗi"[12, tr.128]. Lỗi là thái độ tâm lý của người thực hiện tội phạm đối với
hành vi nguy hiểm cho xã hội mà họ thực hiện và đối với hậu quả cho xã hội
do hành vi đó gây ra.
Lỗi của các tội xâm phạm trật tự an toàn giao thông đường bộ, đường
sắt được thể hiện dưới hình thức cố ý hoặc vô ý, nhưng nghiên cứu cho thấy
tuyệt đại đa số các tội xâm phạm trật tự an toàn giao thông đường bộ, đường
sắt là những tội được thực hiện dưới hình thức lỗi vô ý.


16


Vô ý phạm tội xâm phạm trật tự an toàn giao thông đường bộ, đường
sắt là phạm tội thuộc một trong những trường hợp sau đây:
Một là, người phạm tội tuy thấy trước hành vi của mình có
thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội, nhưng cho rằng hậu quả đó
sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được; Hai là, người phạm
tội không thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy
hại cho xã hội, mặc dù phải thấy trước và có thể thấy trước hậu
quả đó [39, tr.10].
1.1.3. Sự cần thiết quy định các tội xâm phạm an toàn giao thông
đường bộ, đường sắt trong Luật hình sự Việt Nam
Giao thông vận tải là mạch máu của nền kinh tế quốc dân, giao thông
phát triển, an toàn, thuận lợi tạo điều kiện tốt cho sự phát triển về kinh tế,
chính trị, văn hóa giữa các vùng, miền, giữa thành phố với nông thôn, giữa
các quốc gia với nhau. Ngày nay các hoạt động liên quan đến giao thông vận
tải là nhu cầu không thể thiếu được của con người, cùng với sự phát triển của
khoa học kỹ thuật, các phương tiện giao thông ngày càng đa dạng, phát triển
manh và cùng với đó là cơ sở hạ tầng giao thông cũng phát triển vượt bậc
nhằm đáp ứng nhu cầu thực tế đặt ra. Vì thế vấn đề đặc ra cho cả xã hội là
đảm bảo an toàn giao thông và hoạt động bình thường của các phương tiện
giao thông là hết sức cần thiết.
An toàn giao thông đường bộ và đường sắt có liên quan chặt chẽ tới
các hoạt động kinh tế - văn hóa cũng như cuộc sống của mọi người dân, an
toàn giao thông đang là vấn đề lớn được cả xã hội quan tâm. Đi khắp nẻo
đường, câu khẩu ngữ “An toàn giao thông là hạnh phúc cho mọi nhà” như
lời nhắc nhở, cũng là lời cảnh báo với những người tham gia giao thông, hãy
chấp hành luật giao thông để đem lại an toàn cho chính mình, cho gia đình
mình và cho xã hội.


17


×