Tải bản đầy đủ (.doc) (92 trang)

THẨM QUYỀN điều TRA của cơ QUAN CẢNH sát điều TRA THEO PHÁP LUẬT tố TỤNG HÌNH sự VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (828.78 KB, 92 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN NGỌC MAI

THẨM QUYỀN ĐIỀU TRA CỦA CƠ QUAN CẢNH SÁT ĐIỀU
TRA THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ

HÀ NỘI, 2019


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN NGỌC MAI

THẨM QUYỀN ĐIỀU TRA CỦA CƠ QUAN CẢNH SÁT ĐIỀU
TRA THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

Ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 8.38.01.04

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. PHÙNG THẾ VẮC

HÀ NỘI, 2019


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số


liệu, kết quả nghiên cứu trong luận văn là trung thực. Luận văn này chưa từng
được công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Hà Nội, ngày 09 tháng 8 năm 2019
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Nguyễn Ngọc Mai


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1. LÝ LUẬN VỀ THẨM QUYỀN ĐIỀU TRA7C ỦA CƠ QUAN
CẢNH SÁT ĐIỀU TRA.................................................................................. 7
1.1. Khái niệm thẩm quyền điều tra của Cơ quan Cảnh sát điều tra ............. 7
1.2. Căn cứ để phân định thẩm quyền điều tra các vụ án hình sự của cơ quan
điều tra trong Công an nhân dân.................................................................. 16
1.3. Khái quát lịch sử hình thành và hoàn thiện các quy định của pháp luật
về thẩm quyền điều tra của Cơ quan Cảnh sát điều tra trong Công an nhân
dân................................................................................................................ 26
Chương 2. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN THỰC
HIỆN THẨM QUYỀN ĐIỀU TRA CỦA CƠ QUAN CẢNH SÁT ĐIỀU
TRA................................................................................................................. 34
2.1. Quy định của pháp luật hiện hành về thẩm quyền điều tra của Cơ quan
Cảnh sát điều tra .......................................................................................... 34
2.2. Thực tiễn thực hiện thẩm quyền điều tra các vụ án hình sự của Cơ quan
Cảnh sát điều tra theo quy định của pháp luật hiện hành ............................ 50
2.3. Đánh giá những thuận lợi và những khó khăn, vướng mắc trong thực
tiễn thực hiện thẩm quyền điều tra các vụ án hình sự của Cơ quan Cảnh sát
điều tra ......................................................................................................... 53
Chương 3. MỘT SỐ YÊU CẦU, GIẢI PHÁP CƠ BẢN GÓP PHẦN
HOÀN THIỆN NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG THỰC HIỆN THẨM

QUYỀN ĐIỀU TRA CỦA CƠ QUAN CẢNH SÁT ĐIỀU TRA THEO
PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM...................................... 63
3.1. Dự báo tình hình tội phạm thuộc thẩm quyền điều tra của Cơ quan
Cảnh sát điều tra .......................................................................................... 63
3.2. Yêu cầu đối với việc hoàn thiện thẩm quyền điều tra của Cơ quan Cảnh
sát điều tra.................................................................................................... 70
3.3. Giải pháp bảo đảm áp dụng đúng các quy định của pháp luật về thẩm
quyền điều tra của Cơ quan Cảnh sát điều tra ............................................. 72
KẾT LUẬN .................................................................................................... 79
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..................................................... 81


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Cơ quan điều tra:

CQĐT

Cơ quan Cảnh sát điều tra:

CQCSĐT

Công an nhân dân:

CAND

Bộ luật hình sự:

BLHS

Bộ luật tố tụng hình sự:


BLTTHS

Tổ chức cơ quan điều tra hình sự:

TCCQĐTHS

Viện kiểm sát nhân dân:

VKSND

Tòa án nhân dân:

TAND

Lực lượng cảnh sát nhân dân:

LLCSND

Điều tra viên:

ĐTV


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Giải quyết vụ án hình sự là quá trình áp dụng pháp luật rất phức tạp,
tiến hành theo một trình tự, thủ tục chặt chẽ, trong đó các cơ quan và người có
thẩm quyền phải áp dụng mọi biện pháp hợp pháp để làm rõ tội phạm, người
phạm tội và những vấn đề khác cần thiết cho việc giải quyết đúng đắn vụ án

hình sự. Quá trình này đòi hỏi phải phát hiện, điều tra xử lý tội phạm và người
phạm tội được chính xác, nghiêm minh, không để lọt tội phạm, không làm oan
người vô tội, đồng thời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.
Trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, hoạt động của CQĐT có một
vị trí hết sức quan trọng. Kết quả của hoạt động điều tra là cơ sở để truy tố và
xét xử vụ án hình sự, có ý nghĩa quyết định đến sự thành, bại đối với cả tiến
trình tố tụng hình sự.
Đối với CQCSĐT - CQĐT có bộ máy lớn nhất, được tổ chức từ Bộ
Công an đến Công an cấp huyện, chịu trách nhiệm thụ lý, điều tra phần lớn số
vụ án hình sự được phát hiện trong toàn quốc (có thẩm quyền điều tra gần
90% số tội danh quy định trong BLHS hiện hành). Trong 74 năm tồn tại và
phát triển, cùng với sự lớn mạnh không ngừng của lực lượng CAND,
CQCSĐT trong CAND ngày càng được củng cố và hoàn thiện. Trong 10 năm
qua (2009-2019), theo thống kê của Bộ Công an, CQCSĐT các cấp đã tiếp
nhận, giải quyết 670.937 tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố
(chiếm trên 96,3% số lượng tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố
của cả nước). Từ kết quả giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm về kiến nghị
khởi tố và phát hiện hành vi phạm tội trong quá trình làm nhiệm vụ, CQCSĐT
đã khởi tố, điều tra 603.360 vụ, 938.018 bị can (chiếm tỉ lệ 98,6% số vụ án
hình sự đã phát hiện, khởi tố của cả nước). Kết quả hoạt động trong hơn nửa
thế kỷ qua đã chứng minh, CQCSĐT trong CAND là một trong những công
1


cụ không thể thiếu được trong sự nghiệp bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật
tự, an toàn xã hội, đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu chống phá của các thế
lực thù địch, các phần tử phản cách mạng, phát hiện, ngăn chặn và đề xuất xử
lý hành vi phạm tội. Tuy nhiên, thực tiễn công tác điều tra các vụ án hình sự
của CQCSĐT trong CAND trong thời gian qua cho thấy, bên cạnh những mặt
tích cực cũng đã bộc lộ những hạn chế nhất định. Nguyên nhân của những bất

cập, hạn chế thì có nhiều, trong đó có sự bất cập, hạn chế liên quan đến các
quy định của pháp luật về phân định thẩm quyền điều tra của cơ quan này.
Theo quy định của BLTTHS năm 2015 và Luật TCCQĐTHS năm 2015
thì tổ chức CQĐT và thẩm quyền điều tra các vụ án hình sự của cả hệ thống
CQĐT nói chung và của CQCSĐT trong CAND nói riêng đã thay đổi một
cách cơ bản so với trước. Quá trình triển khai thi hành các quy định mới về tổ
chức CQĐT và thực hiện thẩm quyền điều tra các vụ án hình sự của CQCSĐT
trong Công an vừa có thuận lợi cơ bản đồng thời cũng gặp những khó khăn,
vướng mắc đã và đang hạn chế hiệu quả điều tra tội phạm. Việc nghiên cứu,
xác định rõ thẩm quyền điều tra chung của cả hệ thống, của từng cấp và của
từng đơn vị điều tra chuyên trách trong CAND, qua đó đề xuất những kiến
nghị bổ sung, hoàn thiện những quy định của pháp luật tố tụng hình sự về
CQCSĐT đang là vấn đề cấp thiết đặt ra đối với lực lượng CAND.
Trong khi đó, tình hình tội phạm ngày càng diễn biến phức tạp, có
chiều hướng gia tăng cả về số lượng và mức độ nguy hiểm, đặc biệt là tội
phạm có tổ chức, tội phạm xuyên quốc gia, tội phạm lợi dụng công nghệ
cao... Với thực trạng như vậy, để nâng cao hiệu quả công tác điều tra, xử lý
tội phạm thì một trong những đòi hỏi đặt ra là phải thực hiện chuyên môn hoá
trong hoạt động điều tra.
Từ những lý do nêu trên cho thấy, việc nghiên cứu về cơ sở lý luận, cơ
sở pháp lý cũng như thực tiễn thực hiện thẩm quyền điều tra của CQCSĐT
2


trong CAND để trên cơ sở đó đề xuất những giải pháp hoàn thiện cơ sở pháp
lý về thẩm quyền điều tra của CQCSĐT trong CAND là việc làm cần thiết, có
ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong những năm qua, việc luận giải cơ sở lý luận và thực tiến để đề ra
các giải pháp góp phần hoàn thiện các quy định của pháp luật về thẩm quyền

điều tra của CQCSĐT đã được các nhà khoa học và hoạt động thực tiễn quan
tâm. Nhờ đó, trong những năm gần đây đã có một số công trình nghiên cứu,
đề cập dưới góc độ khác nhau, trong đó, đáng chú ý là các công trình sau:
- Nguyễn Ngọc Anh (2007), Đổi mới tổ chức và hoạt động của CQĐT
trong CAND theo tiến trình cải cách tư pháp, Nhà xuất bản Tư pháp, Hà Nội.
- Nguyễn Ngọc Anh (2008), Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam
(đào tạo cao học luật, chuyên ngành Tội phạm học và điều tra tội phạm),
Trường Đại học CSND, Thành phố Hồ Chí Minh.
- Nguyễn Ngọc Anh (2018), Bình luận khoa học Luật tổ chức cơ quan
điều tra hình sự, Nhà xuất bản Tư pháp, Hà Nội.
- Nguyễn Ngọc Anh, Nguyễn Thị Minh Ngọc, Đào Anh Tới (2012),
Hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của CQĐT theo định hướng cải
cách tư pháp, Nhà xuất bản CAND, Hà Nội.
- Học viện An ninh nhân dân (2017), Giáo trình Luật tố tụng hình sự,
Nhà xuất bản CAND, Hà Nội.
- Vũ Duy Công (2015), Cơ quan Cảnh sát điều tra trong TTHS, Luận
án tiến sĩ, Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh.
- Đỗ Khắc Hưởng (2005), Thẩm quyền điều tra các vụ án hình sự của
CQĐT trong CAND, Luận văn thạc sỹ, Đại học Luật Hà Nội.
- Đỗ Ngọc Quang (2000), Cơ quan điều tra, Thủ trưởng Cơ quan điều
tra và Điều tra viên trong CAND, Nhà xuất bản CAND, Hà Nội.
3


- Triệu Văn Đạt (2012), Những vấn đề lý luận và thực tiễn mô hình tổ
chức và thẩm quyền của Cơ quan Cảnh sát điều tra trong Công an nhân dân;
khó khăn, vướng mắc và kiến nghị hoàn thiện, tạp chí CSND số 6/2012.
- Hồ Sỹ Long (2015), Quan hệ phối hợp giữa Cơ quan điều tra trong
Công an nhân dân với Viện kiểm sát nhân dân trong điều tra vụ án hình sự,
Luận án tiến sĩ, Học viện Cảnh sát nhân dân, Hà Nội

- Đào Anh Tới (2012), Một số ý kiến về giải pháp nâng cao hiệu quả
hoạt động của Cơ quan Cảnh sát điều tra cấp huyện, tạp chí CAND kỳ 2 tháng
12/2012.
- Nguyễn Xuân Ngư (2012), Giải pháp tăng cường toàn diện Công an
cấp huyện trong tình hình hiện nay, tạp chí CAND kỳ 1 tháng 06/2012.
- Trần Trọng Lượng (2012), Một số ý kiến về điều chỉnh mô hình Cảnh
sát điều tra trong tình hình hiện nay, tạp chí CAND kỳ 01tháng 10/2012.
- Đào Anh Tới (2018), Mối quan hệ tố tụng giữa Cơ quan Cảnh sát điều
tra và Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hình sự Việt Nam hiện nay, Luận
án tiến sĩ, Học viện Khoa học xã hội.
Tuy nhiên, do mục đích, cách tiếp cận vấn đề nghiên cứu của các tác
giả ở những góc độ, khía cạnh khác nhau nên các công trình nghiên cứu ấy
mới chỉ đề cập đến thẩm quyền điều tra hình sự của từng hệ CQĐT và của
từng cấp CQĐT trong CAND mà chưa xem xét vấn đề một cách có hệ thống.
Mặt khác, hiện nay, theo quy định của BLTTHS năm 2015 và Luật
TCCQĐTHS năm 2015, tổ chức CQĐT và thẩm quyền điều tra các vụ án
hình sự của CQĐT nói chung và của CQCSĐT trong CAND nói riêng có sự
thay đổi cơ bản so với trước. Do đó, có thể khẳng định, nghiên cứu vấn đề
thẩm quyền điều tra của CQCSĐT trong CAND dưới góc độ khoa học luật
hình sự, luật tố tụng hình sự là cần thiết, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn.

4


3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích chính của luận văn này là nghiên cứu một số vấn đề lý luận
và thực tiễn liên quan đến thẩm quyền điều tra nói chung, thẩm quyền điều tra
của CQCSĐT trong CAND nói riêng; những hạn chế trong hoạt động của
CQCSĐT trên toàn quốc và những nguyên nhân của những bất cập, hạn chế
đó để làm cơ sở đề xuất các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng quy định của

pháp luật về thẩm quyền điều tra của CQCSĐT trong CAND, góp phần hoàn
thiện cơ sở pháp lý về tổ chức, hoạt động và nâng cao hiệu quả điều tra vụ án
hình sự của các CQCSĐT trong CAND.
Để thực hiện mục đích nêu trên, luận văn đặt ra và giải quyết các nhiệm
vụ sau:
- Làm sáng tỏ cơ sở lý luận về thẩm quyền điều tra vụ án hình sự, thẩm
quyền điều tra của CQCSĐT trong CAND.
- Nghiên cứu dưới góc độ lịch sử về thẩm quyền điều tra các vụ án hình
sự của CQCSĐT trong CAND từ năm 1945 đến nay.
- Khảo sát, đánh giá thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật về
thẩm quyền điều tra các vụ án hình sự của CQCSĐT trong CAND để tìm ra
những bất cập, trở ngại cần được giải quyết.
- Đưa ra các giải pháp góp phần hoàn thiện chế định về thẩm quyền
điều tra các vụ án hình sự của CQCSĐT trong CAND và nâng cao hiệu quả
hoạt động của cơ quan này.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Luận văn đi sâu làm sáng tỏ cơ sở lý luận và cơ sở pháp lý về thẩm
quyền điều tra của CQCSĐT trong CAND, thực tiễn thực hiện thẩm quyền
điều tra các vụ án hình sự của CQCSĐT trong CAND những năm gần đây,
trong đó BLTTHS năm 2015 là nguồn pháp luật được chú trọng.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa
Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta
5


về tổ chức các cơ quan bảo vệ pháp luật, trong đó có CQCSĐT và thẩm quyền
điều tra các vụ án hình sự.
Bên cạnh đó, tác giả đã sử dụng phương pháp nghiên cứu của chuyên
ngành luật hình sự, tố tụng hình sự và các phương pháp nghiên cứu cụ thể như

phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh, khảo sát thực tiễn và tham khảo ý kiến
của chuyên gia, của ĐTV trong CAND... để làm sáng tỏ những vấn đề cần
giải quyết của luận văn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Luận văn là công trình nghiên cứu một cách có hệ thống về thẩm quyền
điều tra của CQCSĐT trong CAND nên những kết quả rút ra qua nghiên cứu
có ý nghĩa lý luận và thực tiễn cao. Ý nghĩa lý luận của luận văn thể hiện ở
chỗ, những kết quả nghiên cứu sẽ góp phần làm phong phú thêm lý luận về
thẩm quyền điều tra hình sự. Về ý nghĩa thực tiễn, CQCSĐT trong CAND có
thể tham khảo nội dung luận văn để vận dụng vào thực tiễn công tác điều tra
vụ án hình sự, góp phần nâng cao hiệu quả công tác điều tra. Với ý nghĩa đó,
luận văn có thể được coi là tài liệu tham khảo khi học tập, nghiên cứu về
chuyên ngành và khi xây dựng, bổ sung pháp luật về điều tra hình sự.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 3 chương.
Chương 1. Lý luận về thẩm quyền điều tra của CQCSĐT
Chương 2. Quy định của pháp luật và thực tiễn thực hiện thẩm quyền
điều tra của CQCSĐT
Chương 3. Một số yêu cầu, giải pháp cơ bản góp phần nâng cao chất
lượng thực hiện thẩm quyền điều tra của CQCSĐT

6


Chương 1
LÝ LUẬN VỀ THẨM QUYỀN ĐIỀU TRA
CỦA CƠ QUAN CẢNH SÁT ĐIỀU TRA
1.1. Khái niệm thẩm quyền điều tra của Cơ quan Cảnh sát điều tra
1.1.1. Khái niệm Cơ quan Cảnh sát điều tra

Quá trình giải quyết vụ án hình sự ở nước ta được chia thành các giai
đoạn: Giai đoạn khởi tố, giai đoạn điều tra, giai đoạn truy tố, giai đoạn xét xử
và giai đoạn thi hành án. Quyền tiến hành điều tra vụ án hình sự thuộc về
CQĐT và một số cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt
động điều tra. Các cơ quan khác đó là cơ quan của Bộ đội biên phòng, cơ
quan Hải quan, cơ quan Kiểm lâm, cơ quan của lực lượng Cảnh sát biển, cơ
quan Kiểm ngư và một số cơ quan trong CAND và QĐND.
Để xác định những nội dung liên quan đến Cơ quan CSĐT thì cần làm
rõ một số vấn đề sau:
Một là, Khoản 1 Điều 34 Bộ luật TTHS 2015 quy định: Cơ quan tiến
hành tố tụng gồm có: Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án.
Trên cơ sở phân công thẩm quyền điều tra, hệ thống CQĐT của Nhà
nước ta hiện nay được tổ chức gồm: CQĐT của CAND, CQĐT trong QĐND
và CQĐT của VKSND tối cao. CQĐT trong CAND gồm CQCSĐT và
CQANĐT.
Như vậy, về địa vị pháp lý thì CQCSĐT là một trong những cơ quan
tiến hành tố tụng được quy định trong Luật TTHS.
Hai là, khoản 2 Điều 5 Luật TCCQĐTHS 2015 quy định, trong CAND
có các CQĐT sau:
- Cơ quan CSĐT Bộ Công an; Cơ quan CSĐT Công an tỉnh, thành phố
trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là Cơ quan CSĐT Công an cấp
7


tỉnh); Cơ quan CSĐT Công an huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh,
thành phố thuộc thành phố trung ương (sau đây gọi chung là Cơ quan CSĐT
Công an cấp huyện) [46];
- Cơ quan An ninh điều tra Bộ Công an; Cơ quan An ninh điều tra
Công an tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là Cơ quan
An ninh điều tra Công an cấp tỉnh) [46].

Như vậy, về vị trí thì CQCSĐT là một trong những CQĐT của CAND
và trong tổ chức của CQCSĐT gồm có: Cơ quan CSĐT Bộ Công an; Cơ quan
CSĐT Công an cấp tỉnh và Cơ quan CSĐT Công an cấp huyện.
Ba là, theo quy định tại Điều 8 Luật TCCQĐTHS năm 2015 thì CQĐT
có nhiệm vụ, quyền hạn sau: tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm
và kiến nghị khởi tố; tiếp nhận hồ sơ vụ án do cơ quan được giao nhiệm vụ
tiến hành một số hoạt động điều tra chuyển giao; tiến hành điều tra các tội
phạm, áp dụng mọi biện pháp do luật định để phát hiện, xác định tội phạm và
người thực hiện hành vi phạm tội; lập hồ sơ, đề nghị truy tố; tìm ra nguyên
nhân, điều kiện phạm tội và yêu cầu các cơ quan, tổ chức hữu quan áp dụng
các biện pháp khắc phục và ngăn ngừa. Như vậy, cũng như các CQĐT khác,
CQCSĐT được pháp luật TTHS xác định vị trí pháp lý là Cơ quan tiến hành
tố tụng, là cơ quan đầu tiên tiếp cận thông tin về tội phạm. Do đó CQCSĐT
có nhiệm vụ thực hiện những biện pháp theo quy định của pháp luật để thu
thập chứng cứ chứng minh tội phạm và những vấn đề cần phải chứng minh
khác trong một vụ án hình sự.
Bốn là, thẩm quyền điều tra của CQCSĐT từng cấp được BLTTHS
năm 2015 và Luật TCCQĐTHS năm 2015 quy định khá cụ thể, rõ ràng.
Theo quy định tại Điều 163 và Điều 164 của BLTTHS năm 2015,
CQĐT của CAND điều tra tất cả các tội phạm, trừ những tội phạm thuộc
thẩm quyền điều tra của CQĐT trong QĐND và CQĐT VKSND tối cao.
8


CQĐT trong QĐND điều tra các tội phạm thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa
án quân sự. CQĐT VKSND tối cao, CQĐT VKS quân sự trung ương điều tra
tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp, tội phạm về tham nhũng, chức vụ quy
định tại Chương XXIII và Chương XXIV của Bộ luật hình sự xảy ra trong
hoạt động tư pháp mà người phạm tội là cán bộ, công chức thuộc Cơ quan
điều tra, Tòa án, Viện kiểm sát, cơ quan thi hành án, người có thẩm quyền

tiến hành hoạt động tư pháp. Còn đối với cơ quan của Bộ đội biên phòng, cơ
quan Hải quan, cơ quan Kiểm lâm, cơ quan của lực lượng Cảnh sát biển, cơ
quan Kiểm ngư được giao nhiệm vu tiến hành một sô hoạt đông điều tra khi
phát hiện hành vi có dấu hiệu tội phạm trong lĩnh vực và địa bàn quản lý của
mình thì: Đối với tội phạm ít nghiêm trọng trong trường hợp phạm tội quả
tang, chứng cứ và lý lịch người phạm tội rõ ràng thì quyết định khởi tố vụ án
hinh sự, khởi tố bị can, tiến hành điều tra và chuyển hồ sơ vụ án cho VKS có
thẩm quyền trong thời hạn 01 tháng kể từ ngày ra quyết định khởi tố vụ án
hình sự; đối với tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm
đặc biệt nghiêm trọng hoặc tội phạm ít nghiêm trọng nhưng phức tạp thì quyết
định khởi tố vụ án hinh sự, tiến hành hoạt động điều tra ban đầu và chuyển hồ
sơ vụ án cho CQĐT có thẩm quyền trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày ra
quyết định khởi tố vụ án hình sự. Các cơ quan khác trong CAND và QĐND
được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, trong khi làm nhiệm
vụ của mình, nếu phát hiện sự việc có dấu hiệu tội phạm thì có quyền khởi tố
vụ án hình sự, tiến hành hoạt động điều tra ban đầu và chuyển hồ sơ vụ án cho
CQĐT có thẩm quyền trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày ra quyết định khởi tố
vụ án hình sự [44].
Theo quy định tại Điều 19, Điều 20 và Điều 21 Luật TCCQĐTHS năm
2015, CQCSĐT có thẩm quyền điều tra các vụ án hình sự về các tội phạm
quy định tại Chương XIV đến Chương XXIV của BLHS năm 2015, trừ các
9


tội phạm thuộc thẩm quyền điều tra của của CQĐT trong QĐND, của CQĐT
của VKSND tối cao và của CQANĐT trong CAND, cụ thể như sau:
+ CQCSĐT Công an cấp huyện có thẩm quyền điều tra vụ án vụ án
hình sự về các tội phạm quy định tại các chương từ Chương XIV đến Chương
XXIV của BLHS năm 2015 khi các tội phạm đó thuộc thẩm quyền xét xử của
TAND cấp huyện, trừ các tội phạm thuộc thẩm quyền điều tra của CQĐT

VKSNDTC và CQANĐT của CAND [46].
+ CQCSĐT Công an cấp tỉnh có thẩm quyền điều tra vụ án hình sự về
các tội phạm quy định tại các chương từ Chương XIV đến Chương XXIV của
BLHS năm 2015 khi các tội phạm đó thuộc thẩm quyền xét xử của TAND
tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương hoặc các tội phạm thuộc thẩm quyền
điều tra của CQCSĐT Công an cấp huyện xảy ra trên địa bàn nhiều huyện,
quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung
ương, phạm tội có tổ chức hoặc có yếu tố nước ngoài nếu xét thấy cần trực
tiếp điều tra [46].
+ CQCSĐT Bộ Công an có thẩm quyền điều tra vụ án hình sự thuộc
thẩm quyền điều tra của CQCSĐT Công an cấp tỉnh về những tội phạm đặc
biệt nghiêm trọng, phức tạp, xảy ra trên địa bàn nhiều tỉnh, thành phô trực
thuộc trung ương hoặc tội phạm co tổ chức xuyên quốc gia nếu xét thấy cần
trực tiếp điều tra; các vu án đặc biệt nghiêm trọng thuộc thẩm quyền điều tra
của CQCSĐT do Hôi đông Thẩm phán TAND tối cao hủy để điều tra lại[46].
Trên cơ sở phân tích như trên có thể hiểu: CQCSĐT là một trong những
cơ quan tiến hành tố tụng được tổ chức trong hệ thống CQĐT trong CAND,
được tổ chức từ cấp Bộ đến cấp huyện, có trách nhiệm điều tra tất cả những
tội phạm theo thẩm quyền, được áp dụng các biện pháp điều tra theo quy định
của Bộ luật tố tụng hình sự nhằm xác định tội phạm và người thực hiện hành
vi phạm tội, lập hồ sơ, đề nghị truy tố trước pháp luật [34, tr.22].
10


1.1.2. Khái niệm thẩm quyền điều tra của Cơ quan Cảnh sát điều tra
trong Công an nhân dân
Theo Từ điển tiếng Việt, "Thẩm quyền" nói chung là quyền xem xét để
kết luận và định đoạt một vấn đề theo pháp luật (như thẩm quyền xét xử của
Toà án, cơ quan có thẩm quyền); xét về tư cách chuyên môn (người có thẩm
quyền) thì đó là người được pháp luật thừa nhận để có ý kiến có tính chất

quyết định về một vấn đề [39].
Như vậy, nếu hiểu theo nghĩa rộng thì thẩm quyền là quyền được thực
hiện những hành vi và ra các quyết định pháp lý nhất định của chủ thể theo
quy định của pháp luật. Nói cách khác, thẩm quyền là quyền hạn của một cơ
quan, một tổ chức hoặc của một cá nhân được làm một việc hoặc một loại
công việc nào đó trong phạm vi pháp luật cho phép. Phạm vi đó là giới hạn
của thẩm quyền. Trong lĩnh vực tố tụng hình sự, sự phân định thẩm quyền
được thiết lập giữa các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng.
Từ góc độ tố tụng hình sự thì thẩm quyền được hiểu là tổng hợp các quyền và
nghĩa vụ pháp lý thực hiện các hành vi tố tụng và ra các quyết định tố tụng
của cơ quan, tổ chức, cá nhân được pháp luật tố tụng hình sự quy định.
Cũng theo Từ điển tiếng Việt thì điều tra là những hành động "tìm hỏi,
xem xét để biết rõ sự thật" [39]. Như vậy, thẩm quyền điều tra trong tố tụng
hình sự là tổng hợp các quyền và nghĩa vụ thực hiện các hành động như tìm
hỏi, xem xét về các sự việc phạm tội nhằm xác định tội phạm và người đã
thực hiện hành vi phạm tội; làm rõ những chứng cứ xác định có tội và những
chứng cứ xác định vô tội; những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm
hình sự của bị can, bị cáo; xác định hậu quả của tội phạm; thực hiện các biện
pháp bảo đảm bồi thường thiệt hại; tìm ra nguyên nhân và điều kiện phạm tội;
lập hồ sơ, đề nghị truy tố; yêu cầu các cơ quan, tổ chức hữu quan áp dụng các
biện pháp khắc phục ngăn ngừa. Để thực hiện các hành vi nêu trên, CQĐT,
11


ĐTV có quyền ban hành các quyết định tương ứng. Các quyền và nghĩa vụ
này không chỉ được giao cho thủ trưởng, phó thủ trưởng CQĐT, ĐTV mà còn
là thủ trưởng các cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt
động điều tra. Nói một cách khái quát, thẩm quyền điều tra tố tụng là tổng
hợp các quyền và nghĩa vụ hành động, quyết định của các chủ thể nhất định
theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự thể hiện qua việc tìm tòi, xem xét

để biết rõ sự thật của vụ án hình sự ở giai đoạn điều tra.
Với tính chất là một giai đoạn của tố tụng hình sự, giai đoạn điều tra vụ
án được bắt đầu từ khi có quyết định khởi tố vụ án hình sự và kết thúc bằng
việc CQĐT ra bản kết luận điều tra đề nghị truy tố hoặc ra bản kết luận điều
tra và quyết định đình chỉ điều tra (tuy nhiên trong một số trường hợp, hoạt
động điều tra có thể được tiến hành trước khi có quyết định khởi tố vụ án như
xác minh tin báo, tố giác về tội phạm, khám nghiệm hiện trường...).
Xét trong mối quan hệ tố tụng thì điều tra vụ án là giai đoạn tiếp diễn
sau khi khởi tố vụ án hình sự, là khâu đột phá trong cả tiến trình tố tụng hình
sự. Hoạt động điều tra là giai đoạn tố tụng có ý nghĩa hết sức quan trọng,
những kết quả khả quan cũng như những sai lầm tư pháp nghiêm trọng như
bỏ lọt tội phạm, làm oan người vô tội... thường bắt nguồn từ giai đoạn điều
tra. Số lượng và chất lượng tài liệu, chứng cứ mà CQĐT thu thập được là cơ
sở cho việc nhận định, đánh giá và truy tố người phạm tội của Viện kiểm sát
và là tiền đề để quyết định giới hạn và chất lượng xét xử của Toà án. Vai trò
của giai đoạn điều tra được thể hiện rõ nét trong các nhiệm vụ điều tra cụ thể,
đó là:
Thứ nhất, thu thập chứng cứ, áp dụng mọi biện pháp do pháp luật tố
tụng hình sự quy định để xác định tội phạm và người đã thực hiện hành vi
phạm tội.

12


Tội phạm và người thực hiện hành vi phạm tội là vấn đề cần phải
chứng minh, làm rõ trong vụ án hình sự. Trong giai đoạn điều tra, CQĐT vụ
án hình sự phải thu thập chứng cứ để xác định có hay không có sự việc phạm
tội, đối chiếu với BLHS để xác định tội danh mà người phạm tội đã thực hiện,
cùng với những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Khi xác
định có tội phạm xảy ra, CQĐT vụ án hình sự phải làm rõ ai là người đã thực

hiện hành vi phạm tội. Nếu vụ án có đồng phạm thì phải xác định tính chất
của đồng phạm, vai trò của từng người trong vụ đồng phạm đó.
Khi đã xác định được người thực hiện hành vi phạm tội, nếu thấy cần
phải truy cứu trách nhiệm hình sự thì khởi tố họ với tư cách là bị can. Tùy
theo tính chất, mức độ của tội phạm, thái độ của bị can, yêu cầu của công tác
điều tra mà CQĐT áp dụng biện pháp ngăn chặn. Trường hợp bị can bỏ trốn
thì phải ra quyết định truy nã, tổ chức truy bắt. Đối với những vụ án bị can bị
bắt quả tang về một tội phạm ít nghiêm trọng, sự việc phạm tội đơn giản,
chứng cứ rõ ràng và nhân thân bị can đã được xác định thì CQĐT đề nghị
VKS ra quyết định để áp dụng thủ tục rút gọn.
Thứ hai, qua công tác điều tra, CQĐT xác định được tính chất, mức độ
thiệt hại do tội phạm gây ra, làm cơ sở cho Toà án quyết định mức bồi thường
thiệt hại được chính xác.
Mỗi tội phạm xảy ra đều gây ra hoặc đe doạ gây ra thiệt hại nhất định
cho xã hội. Trong điều tra vụ án hình sự, CQĐT phải làm rõ được loại và mức
độ thiệt hại do tội phạm gây ra hoặc đe doạ gây ra để đánh giá đúng tính chất
và mức độ nguy hiểm của tội phạm. Rằng thiệt hại do tội phạm đó gây ra hoặc
đe doạ gây ra là thiệt hại về tài sản, tính mạng, sức khoẻ, tinh thần hay gây ra
tình trạng nguy hiểm cho người khác và ở mức độ nào. Để tạo điều kiện cho
việc giải quyết vụ án, nết xét thấy cần thiết CQĐT phải áp dụng biện pháp kê

13


biên tài sản đối với những người phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại
hoặc có thể tịch thu tài sản hay phạt tiền...
Thứ ba, lập hồ sơ đề nghị truy tố bị can.
Để ra quyết định truy tố và tiến hành xét xử vụ án đúng người, đúng
tội, đúng pháp luật, VKS và TAND phải căn cứ vào hồ sơ vụ án. Nếu hồ sơ
không đầy đủ, VKS sẽ gặp khó khăn trong việc đưa ra các quyết định và

những yêu cầu hợp lý trong và sau quá trình điều tra như khởi tố bổ sung,
thay đổi hoặc hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn khi có căn cứ theo luật định;
thay đổi ĐTV, yêu cầu CQĐT ra quyết định khởi tố hoặc hủy bỏ quyết định
khởi tố vụ án nếu việc khởi tố của CQĐT không có căn cứ và hợp pháp theo
luật định; ra bản cáo trạng truy tố bị can...
Đồng thời Tòa án cũng không có cơ sở để xem xét bản án hoặc quyết
định cần thiết khác trong khi thực hiện chức năng và nhiệm vụ của minh. Vi
vậy, việc lập và thường xuyên củng cố hồ sơ vụ án trong giai đoạn điều tra là
việc làm hết sức quan trọng và cần thiết.
Hồ sơ vụ án hình sự trong giai đoạn điều tra là tập hợp hệ thống các
văn bản, tài liệu được thu thập hoặc lập từ khi khởi tố cho đến khi kết thúc
điều tra và được đóng dấu bút lục và sắp xếp theo một trình tự nhất định,
nhằm phục vụ cho việc giải quyết vụ án và lưu trữ lâu dài.
Khi đã có đầy đủ chứng cứ để xác định chính xác tội phạm và cong
người thực hiện hành vi phạm tội (bị can) thì CQĐT có nhiệm vụ làm bản kết
luận điều tra đề nghị truy tố. Căn cứ vào bản kết luận điều tra, VKS chỉ ra bản
cáo trạng truy tố bị can về các tội phạm đã được điều tra và có đủ chứng cứ
chứng minh. Những tội phạm và bị can chưa được điều tra sẽ không bị truy tố.
Do vậy, đi đôi với việc thu thập chứng cứ để làm rõ vụ án, CQĐT phải
thường xuyên chủ động và tích cực hoàn chỉnh hồ sơ theo quy định của pháp
luật TTHS.
14


Thứ tư, thông qua hoạt động điều tra tội phạm, CQĐT phát hiện những
nguyên nhân và điều kiện làm phát sinh tội phạm để trên cơ sở đó yêu cầu các
cơ quan, tổ chức hữu quan áp dụng các biện pháp khắc phục, ngăn ngừa tội
phạm.
Trong điều tra vụ án hình sự, một trong những nhiệm vụ không kém
phần quan trọng là xác định nguyên nhân và điều kiện phạm tội để có biện

pháp phòng ngừa tội phạm. Thực hiện nhiệm vụ này, đối với mỗi tội phạm, cơ
quan tiến hành điều tra vụ án phải tìm ra nguyên nhân và điều kiện thúc đẩy
việc thực hiện tội phạm. Nếu tội phạm phát sinh do thiếu sót của cơ quan, tổ
chức thì yêu cầu cơ quan, tổ chức áp dụng các biện pháp khắc phục và ngăn
ngừa.
Thứ năm, thông qua công tác điều tra tội phạm, CQĐT tội phạm góp
phần vào việc giáo dục công dân có ý thức chấp hành pháp luật và các quy tắc
của cuộc sống xã hội chủ nghĩa.
Để thực hiện những nhiệm vụ đặt ra đó, CQĐT phải tiến hành hàng
loạt các hoạt động và hành vi điều tra. Và chất lượng hoạt động điều tra của
CQĐT vụ án hình sự mang tính quyết định và chi phối sâu sắc đến toàn bộ
quá trình xử lý vụ án. Giai đoạn điều tra nhanh chóng, chuẩn xác thì việc truy
tố và xét xử sẽ nhanh chóng và đạt chất lượng cao. Ngược lại, giai đoạn điều
tra kéo dài, kết quả điều tra không chính xác thì sẽ dẫn đến những ảnh hưởng
xấu, thậm chí là sai lầm của việc xử lý vụ án ở các giai đoạn tiếp theo.
Về bản chất, hoạt động điều tra chính là quá trình chủ thể tiến hành
điều tra (cán bộ điều tra) nhận thức về thực tế khách quan của sự việc phạm
tội. Bởi vậy, xét đến cùng thì mục đích của giai đoạn điều tra có đạt được hay
không, bên cạnh những yếu tố cơ sở là tính khả thi của hệ thống pháp luật,
chính là phụ thuộc vào việc tổ chức, nhận thức, thái độ và khả năng của ĐTV
được giao thụ lý điều tra vụ án. Vì vậy, việc hoàn thiện các khâu tổ chức
CQĐT, phân công nội bộ, xác định rõ thẩm quyền điều tra của cơ quan và
15


từng cán bộ điều tra là những yếu tố đóng vai trò quyết định sự thành bại đối
với cả giai đoạn điều tra.
Thẩm quyền điều tra vụ án hình sự không chỉ thuộc về các CQĐT
“chuyên trách”, mà thẩm quyền đó còn thuộc về một số cơ quan, đơn vị tuy
không phải là CQĐT, nhưng vẫn được pháp luật giao quyền tiến hành các

hoạt động điều tra hình sự nhất định. Mặt khác, việc xác định thẩm quyền
điều tra vụ án hình sự không chỉ theo sự phân định theo "chiều ngang", tức là
giữa các CQĐT hoặc các cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số
hoạt động điều tra ở các ngành khác nhau hoặc ở cùng một cấp; mà còn là sự
phân định theo "chiều dọc", tức là sự phân cấp thẩm quyền điều tra giữa cấp
trên và cấp dưới trong cùng một hệ CQĐT hoặc cùng một ngành.
Từ những phân tích trên đây, có thể đưa ra khái niệm về thẩm quyền
điều tra các vụ án hình sự của CQCSĐT trong CAND như sau: "Thẩm quyền
điều tra các vụ án hình sự của CQCSĐT trong CAND là quyền tiến hành hoạt
động điều tra các vụ án hình sự của CQCSĐT. Thẩm quyền này được phân
công, phân cấp căn cứ vào tính chuyên nghiệp và lĩnh vực điều tra cũng như
cấp điều tra trong CAND” [34, tr.9].
1.2. Căn cứ để phân định thẩm quyền điều tra các vụ án hình sự
của cơ quan điều tra trong Công an nhân dân
Căn cứ để phân định thẩm quyền điều tra các vụ án hình sự của
CQĐT nói chung, của CQCSĐT trong CAND nói riêng là một vấn đề có ý
nghĩa lý luận và thực tiễn. Khi phân định thẩm quyền điều tra, nhà làm luật
căn cứ vào nhiều yếu tố, nhưng ở đây chúng tôi chỉ đề cập đến một số yếu tố
cơ bản, đó là:
1.2.1. Căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ và lĩnh vực hoạt động của
từng ngành, từng lực lượng
Dựa vào căn cứ này, cho phép phân định được thẩm quyền điều tra
16


giữa CQCSĐT trong CAND với thẩm quyền điều tra của các CQĐT khác, các

17



cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra và giữa
CQCSĐT và CQANĐT.
Trong tổ chức bộ máy nhà nước, mỗi ngành, mỗi cơ quan có chức
năng, nhiệm vụ và lĩnh vực hoạt động riêng. Các cơ quan đó có chức trách và
đủ kinh nghiệm, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, phương tiện, điều kiện
thuận lợi nhất để thực hiện nhiệm vụ đã được phân công. Kinh nghiệm cho
thấy, tội phạm xảy ra trong lĩnh vực quản lý nào thì CQĐT được ngành, cơ
quan thuộc lĩnh vực đó thành lập tiến hành điều tra sẽ đạt hiệu quả hơn cả.
Theo căn cứ này, lực lượng CAND có chức năng quản lý nhà nước về
an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội; trực tiếp đấu tranh phòng, chống tội
phạm và các vi phạm pháp luật khác về an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã
hội. Từ đó, pháp luật quy định cho CQĐT trong CAND có thẩm quyền điều
tra các tội xâm phạm an ninh quốc gia; phá hoại hoà bình, chống loài người,
tội phạm chiến tranh và các tội xâm phạm trật tự, an toàn xã hội. Đó là thẩm
quyền điều tra chung của CQĐT trong CAND.
Tuy nhiên, dù trong cùng một ngành nhưng giữa lực lượng CSND và
lực lượng ANND cũng được phân biệt khá rõ về chức năng và nhiệm vụ. Cụ
thể là:
Lực lượng CSND có nhiệm vụ giữ gìn trật tự, an toàn xã hội, đấu tranh
chống những hành vi xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm
của con người; những hành vi xâm phạm trật tự, an toàn công cộng và những
hành vi xâm phạm sở hữu. Vì vậy, pháp luật quy định cho CQCSĐT và các
cơ quan khác của lực lượng CSND được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt
động điều tra có thẩm quyền điều tra những tội phạm xảy ra trong lĩnh vực
nêu trên, cụ thể là: điều tra các vụ án hình sự về các tội phạm quy định tại các
chương từ Chương XIV đến Chương XXIV của BLHS năm 2015 trừ các tội

18



phạm thuộc thẩm quyền điều tra của CQĐT trong QĐND, của CQĐT
VKSND tối cao và của CQANĐT của CAND.
Lực lượng ANND có nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia, bảo vệ sự
vững mạnh của Nhà nước CHXHCN Việt Nam, bảo vệ khối đại đoàn kết toàn
dân, đấu tranh chống các tội xâm phạm an ninh quốc gia. Do đó, pháp luật
quy định CQANĐT và các cơ quan khác của lực lượng ANND được giao
nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra có thẩm quyền điều tra vụ án
hình sự về các tội phạm quy định tại Chương XIII, Chương XXVI và các tội
phạm quy định tại các Điều 207, 208, 282, 283, 284, 299, 300, 303, 304, 305,
309, 337, 338, 347, 348, 349 và 350 của BLHS năm 2015 khi các tội phạm đó
thuộc thẩm quyền xét xử của TAND; tiến hành điều tra vụ án hình sự về tội
phạm khác liên quan đến an ninh quốc gia hoặc để bảo đảm khách quan theo
sự phân công của Bộ trưởng Bộ Công an; vu án đặc biệt nghiêm trọng thuộc
thẩm quyền điều tra của CQANĐT của CAND do Hội đông Thẩm phán
TAND tối cao hủy để điều tra lai [46].
VKSND có chức năng cơ bản là thực hành quyền công tố và kiểm sát
các hoạt động tư pháp. Trong quá trình thực hiện chức năng này, VKS là cơ
quan có điều kiện trong việc phát hiện, nhận thức hành vi vi phạm pháp luật
của nhân viên cơ quan tư pháp và của cơ quan tư pháp. Xuất phát từ chức
năng và đặc điểm ấy, để góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm
chỉnh và thống nhất, bảo đảm tính khách quan của việc điều tra, truy tố
CQĐT của VKSND tối cao được trao thẩm quyền điều tra các vụ án hình sự
về một số tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp mà người phạm tội là cán bộ
thuộc các cơ quan tư pháp.
QĐND là lực lượng vũ trang có nhiệm vụ bảo vệ sự thống nhất và toàn
vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, xây dựng lực lượng vũ trang chính quy, tinh nhuệ.
Do đặc thù của nhiệm vụ nêu trên CQĐT trong QĐND có quyền điều tra vụ
19



án hình sự về những tội phạm mà bị can là quân nhân tại ngũ, công chức,
công nhân quốc phòng, quân nhân dự bị trong thời gian tập trung huấn luyện
hoặc kiểm tra tình trạng sẵn sàng chiến đấu; dân quân, tự vệ phối thuộc với
Quân đội trong chiến đấu, phục vụ chiến đấu và những người được trưng tập
làm nhiệm vụ quân sự do các đơn vị quân đội trực tiếp quản lý; bị can là
người không thuộc các đối tượng nêu trên mà phạm tội có liên quan đến bí
mật quân sự hoặc gây thiệt hại cho quân đội; vụ án vừa có bị cáo hoặc tội
phạm thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự vừa có bị cáo hoặc tội
phạm thuộc thẩm quyền xét xử của TAND mà vụ án này không thể tách; tội
phạm xảy ra trong thời gian thi hành thiết quân luật [53].
Bộ đội biên phòng là lực lượng vũ trang, thực hiện chức năng, vai trò là
nòng cốt chuyên trách bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, an ninh, trật tự tại
biên giới quốc gia trên đất liền, các hải đảo, vùng biển nội thuỷ và tại các cửa
khẩu. Bộ đội biên phòng có nhiệm vụ quản lý, bảo vệ đường biên giới quốc
gia, hệ thống dấu hiệu mốc giới, đấu tranh, ngăn chặn các hành vi xâm phạm
lãnh thổ, vượt biên, vượt biển, nhập cư trái phép, khai thác trộm tài nguyên và
những hành vi xâm phạm đến chủ quyền, lợi ích quốc gia, an ninh, trật tự, gây
hại đến môi trường ở khu vực biên giới; chủ trì phối hợp với các ngành, địa
phương trong hoạt động quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia và duy trì an ninh,
trật tự, an toàn xã hội ở khu vực biên giới trên đất liền, các hải đảo, vùng biển
và các cửa khẩu.
Cơ quan Hải quan thực hiện chức năng quản lý chuyên ngành về hải
quan và một trong những nhiệm vụ cơ bản của cơ quan này là kiểm tra, giám
sát hải quan đối với hàng hoá xuất khẩu, quá cảnh; phương tiện vận tải xuất
cảnh, nhập cảnh, quá cảnh; phòng, chống buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng
hoá qua biên giới.

20



×