Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

SKKN giải pháp tạo hứng thú học tập phân môn vẽ theo mẫu cho học sinh lớp 4

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (98.45 KB, 12 trang )

MỤC LỤC
MỤC

NỘI DUNG

TRANG

I.

MỞ ĐẦU

2

1

Lí do chọn đề tài

2

2

Mục đích nghiên cứu

2-3

3

Đối tượng nghiên cứu

3


4

Phương pháp nghiên cứu

3

5

Những điểm mới của SKKN

3

II.

NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

3

1

Cơ sở lí luận

2

Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng SKKN

4

2.1


Đặc điểm chung

4

2.2

Thực trạng

4

3-4

3

Các giải pháp tiến hành

4

Kết quả đạt được

10

KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ

10

III.

4-10


1

Kết luận

10-11

2

Kiến nghị

11

1


I. MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài.
Trong chương trình giáo dục, môn Mĩ thuật là một trong những môn học
góp phần làm đẹp cho cuộc sống, giáo dục thẩm mĩ cho học sinh, giúp học sinh
có năng lực nhận thức cái đẹp chứ không đơn thuần là dạy học kỹ thuật vẽ. Hoạ sĩ
Nguyễn Phan Chánh đã nói: “Mĩ thuật là tạo ra cái đẹp” có nghĩa là tuỳ thuộc vào
khả năng tư duy, sáng tạo, thị hiếu thẩm mĩ và cảm thụ của người tạo nên nó. Xuất
phát từ nhận thức trước đây thường xem môn Mĩ thuật là môn phụ cho nên các
ngành, các cấp chưa quan tâm nhiều về trí tuệ, thời gian cũng như trang thiết bị,
đồ dùng học tập đặc biệt là phương pháp dạy học chủ yếu còn mang nặng phương
pháp dạy học cổ truyền, máy móc, rập khuôn, chưa chú trọng đến giáo dục thẩm
mĩ.
Việc áp dụng các quy trình dạy học Mĩ thuật theo phương pháp Đan Mạch
(SAEPS) trên thực tế đối với phân môn vẽ theo mẫu hiệu quả chưa cao, chưa đáp
ứng được mục tiêu môn học. Do đó tạo hứng thú học tập phân môn vẽ theo mẫu

cho học sinh là một việc làm hết sức cần thiết. Có năng khiếu và yêu thích môn vẽ
nhưng phải có kĩ năng chuẩn mực để vẽ đẹp, hợp lí và sáng tạo.
Hiểu được các mục tiêu trên và nắm bắt tình hình thực tế địa phương, xác
định được trách nhiệm, yêu cầu cụ thể của bản thân đối với môn học, đó chính là lí
do để tôi đi sâu nghiên cứu thể nghiệm về giải pháp Tạo hứng thú học tập phân
môn vẽ theo mẫu cho học sinh lớp 5.
2. Mục đích nghiên cứu.
Chúng ta đã biết giáo dục thẩm mĩ cho học sinh là nhiệm vụ chính của môn
Mĩ thuật. Bởi con người ta luôn có khát vọng vươn tới cái đẹp, mà muốn cho mỗi
người trong đó có trẻ em tiếp cận và cảm thụ một cách đầy đủ về cái đẹp nói
chung, về cách quan sát tinh tế, ước lượng, so sánh, đối chiếu nói riêng. Thực tế
cuộc sống hàng ngày cho thấy, khi ngôn ngữ con người chưa hình thành và phát
triển thì đã có nhu cầu thiết thực về màu sắc. Trẻ mới sơ sinh nằm chơi đã muốn
nhìn các màu sắc rực rỡ có cách nhìn màu sắc đẹp như (hoa, quần, áo...). Từ đôi
mắt nhận biết màu sắc đến bàn tay vẽ, sử dụng bất kỳ cái gì cũng có thể vẽ, nơi
nào trẻ cũng thích vẽ...
Môn mĩ thuật đối với học sinh Tiểu học các em rất thích. Dạy cũng vẽ, không
dạy cũng vẽ, vẽ theo ngẫu hứng, theo ý thích như: vẽ bông hoa, chiếc lá, con vật ...

2


Qua sự hướng dẫn và phương pháp rèn luyện của giáo viên, các em vẽ đẹp hơn, vẽ
mạnh dạn và tự tin hơn, có ý thức lựa chọn màu sắc thích hợp, sắp đặt màu phù
hợp, có màu đậm, có màu nhạt, không lạm dụng màu quá nhiều. Điều đó khẳng
định nhiệm vụ của giáo viên cần quan tâm nắm vững phương pháp giảng dạy, sử
dụng đồ dùng dạy học khoa học và có tâm huyết trong những giờ giảng thì kết quả
càng tốt hơn, chất lượng bài vẽ ngày càng tiến bộ, sản phẩm của các em ngày càng
đẹp hơn.
3. Đối tượng nghiên cứu.

Kinh nghiệm không đi sâu vào nghiên cứu những vấn đề mở rộng về kiến
thức cơ bản của môn Mĩ thuật cho học sinh mà chỉ nghiên cứu về giải pháp tạo
hứng thú học tập phân môn vẽ theo mẫu cho học sinh lớp 5.
Đối tượng nghiên cứu là học sinh khối 5 thuộc đơn vị tôi đang công tác.
4. Phương pháp nghiên cứu.
1. Phương pháp điều tra quan sát.
2. Phương pháp đàm thoại vấn đáp.
3. Phương pháp trắc nghiệm, thực nghiệm.
4. Phương pháp phân tích tổng hợp.
5. Phương pháp rèn luyện kĩ năng vẽ màu.
6. Phương pháp nghiên cứu xem xét sản phẩm của học sinh.
5. Những điểm mới của SKKN.
- Tạo được sự hứng thú, say mê trong học Mĩ thuật cho học sinh, vì phân
môn vẽ theo mẫu dạy theo phương pháp truyền thống gây nhàm chán, khô khan
trong giờ học.
- Áp dụng giải pháp “Tạo hứng thú học tập phân môn vẽ theo mẫu cho học
sinh lớp 5” vào các bài vẽ theo mẫu môn Mĩ thuật Tiểu học thì kết quả càng tốt
hơn, chất lượng bài vẽ ngày càng tiến bộ, sản phẩm của các em ngày càng đẹp
hơn.
II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
1. Cơ sở lý luận
Môn Mĩ thuật rèn luyện cho học sinh cách quan sát, khả năng tìm tòi, tư duy,
sáng tạo để góp phần hình thành phẩm chất của người lao động mới. Giúp học
sinh nhận thức được vẻ đẹp của Mĩ thuật dân tộc và có ý thức giữ gìn và bảo tồn
nền mĩ thuật đậm đà bản sắc dân tộc của chúng ta. Vì vậy, muốn giáo dục cái đẹp

3


để các em tiếp nhận và cảm thụ được một cách đầy đủ, biến nó thành những giá trị

thẩm mĩ thực sự cho bản thân thì việc giáo dục thẩm mĩ nói chung và môn mĩ
thuật nói riêng phải được giải quyết tốt ở những năm học Tiểu học.
Để giúp các em biết bộc lộ tình cảm của bản thân mình với mọi người, với tự
nhiên, xã hội, thì những người thầy giáo, cô giáo đóng một vai trò hết sức quan
trọng để đạt được mục tiêu môn học đề ra. Gắn giáo dục thẩm mĩ với các môn học
khác, với đặc thù của địa phương phải được tiến hành một cách thường xuyên,
nghiêm túc để các em có những tư duy tốt về thẩm mĩ, để các em mang lại nhiều
cái hay, cái đẹp cho cuộc sống, cho xã hội.
2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.
2.1. Đặc điểm chung:
- Thuận lợi:
Trường tôi đang công tác đóng trên địa bàn khu vực 8 xã vùng biển của
huyện. Được sự chỉ đạo sát sao của ban giám hiệu nhà trường và đại đa số phụ
huynh quan tâm đến việc học tập của con em. Học sinh có tương đối đầy đủ sách
vở, đồ dùng học tập. Phương tiện, thiết bị dạy học cơ bản đảm bảo cho hoạt động
của thầy và trò. Học sinh ham thích học vẽ, so với một số nơi khác thì môn Mĩ
thuật ở đơn vị tôi công tác sớm được quan tâm. Bởi vậy, khi xem tranh vẽ của các
em học sinh ta thấy khá đẹp về hình vẽ: dí dỏm, ngộ nghĩnh, hồn nhiên, màu sắc
tươi sáng, phong phú và hấp dẫn, gần gũi với cuộc sống. Đó chính là kết quả của
những giá trị thẩm mĩ mà các em thể hiện qua tranh.
- Khó khăn:
Trên đây là những điều kiện thuận lợi trong việc dạy học Mĩ thuật cho học
sinh. Song bên cạnh đó, vẫn còn tồn tại không ít hạn chế gây khó khăn cho dạy
học Mĩ thuật, đó là: một số phụ huynh học sinh còn xem nhẹ môn này, xem đây là
môn học phụ dẫn đến ảnh hưởng học tập của học sinh.
2.2. Thực trạng:
Trước đây người ta tin rằng trẻ em chỉ học hiệu quả nhất nếu giáo viên
giảng giải kiến thức một cách rõ ràng còn học sinh thì nghe và ghi nhớ đầy đủ.
Hơn nữa một số quan niệm cho rằng vẽ theo mẫu là phải vẽ đúng mẫu 100% kể
cả kích thước, đậm nhạt, màu sắc. Chính vì những điều đó mà tôi luôn trăn trở,

băn khoăn và tự nhủ mình quyết tâm tìm tòi, suy nghĩ và mạnh dạn đưa ra giải
pháp “Tạo hứng thú học tập phân môn vẽ theo mẫu cho học sinh lớp 5”.
3. Các giải pháp tiến hành.

4


Qua nghiên cứu điều tra gần đây cho thấy trẻ em học hiệu quả nhất khi các
em được tích cực tham gia vào quá trình học tập. Dạy học đã chuyển từ giảng giải
- ghi nhớ sang tổ chức của GV - hoạt động học của HS. Trọng tâm dạy học là phải
thay đổi từ kiến thức mà HS thu được thành bản thân quá trình học tập tích cực,
chủ động của HS.
Muốn nâng cao hiệu quả dạy học gây hứng thú cho HS không phải ngày
một ngày hai mà là một quá trình lâu dài của thầy cô giáo, HS và sự giúp đỡ của
phụ huynh, sự quan tâm của BGH, của ngành, các cấp đối với giáo dục nói chung
và bộ môn Mĩ thuật nói riêng.
Mục tiêu chương trình môn mĩ thuật nêu rõ:
* Về kiến thức:
- Hiểu biết được vẻ đẹp thiên nhiên, của tác phẩm mĩ thuật.
- Nắm được một số kiến thức ban đầu về mĩ thuật: đường nét, hình khối, màu sắc
đậm nhạt, cách sắp xếp hình ảnh...
* Về kỹ năng:
- Hoàn thành được các bài tập theo yêu cầu của chương trình: Vẽ mẫu đơn giản,
trang trí hình vuông, hình tròn, đường diềm và các đồ vật quen thuộc, vẽ tranh các
con vật, phong cảnh và sinh hoạt hằng ngày; nặn và tạo đáng đồ vật, con vật, biết
xem tranh, tượng...
- Biết cách quan sát: Từ bao quát đến chi tiết, so sánh ước lượng tỷ lệ; có khả năng
suy nghĩ, tìm tòi trong khi vẽ.
* Về thái độ:
- Có ý thức trân trọng, giữ gìn, bảo vệ cái đẹp của thiên nhiên, của con người tạo

ra.
- Yêu mến cái đẹp, vận dụng những hiểu biết về cái đẹp vào sinh hoạt, học tập
hàng ngày
Xuất phát từ mục tiêu trên môn mĩ thuật 5 nêu một số mục tiêu sau:
+ Củng cố, nâng cao hơn về kiến thức, kỹ năng thực hành (bố cục, hình vẽ, vẽ
màu) để HS tiếp cận dần với môn Mĩ thuật ở THCS.
+ Giáo dục thẩm mĩ, giúp HS cảm nhận cái đẹp và vận dụng được hiểu biết về cái
đẹp vào học tập, sinh hoạt hằng ngày.
+ Phát triển khả năng quan sát và tư duy hình tượng.
Để đáp ứng với mục tiêu trên cần đưa ra phương pháp mới để phù hợp với thực
tiễn ở lớp 5, học Mĩ thuật chủ yếu là hoạt động thực hành và tự sáng tác theo ý
thích của mình. HS vẽ bài, tìm hiểu tác phẩm theo khả năng hiểu biết và cảm thụ
riêng, không sao chép rập khuôn theo những khuôn mẫu có sẵn. Dạy học Mĩ thuật
ở lớp 5 tiếp tục tạo điều kiện cho HS tiếp xúc với cái đẹp của thiên nhiên, của tác
phẩm mĩ thuật, từ đó HS tập tạo ra cái đẹp bằng suy nghĩ, tìm tòi, sáng tạo tạo của
5


mình đồng thời vận dụng những hiểu biết về cái đẹp vào sinh hoạt, học tập hàng
ngày.
Học Mĩ thuật HS cần được thường xuyên tiếp xúc với cái đẹp, vì thế GV
cần chuẩn bị ĐDDH: vật mẫu tranh ảnh, hình gợi ý cách vẽ... đảm bảo yêu cầu
đẹp đúng trọng tâm của từng bài. Nếu không có điều kiện chuẩn bị ĐDDH như nội
dung SGK giáo viên có thể tự làm hoặc tìm dạng tương đương ở địa phương như
hoa, lá, quả, đồ vật, tranh ảnh... để bài dạy sát thực tế và phong phú hơn.
Trong môn Mĩ thuật cơ cấu về phân môn vẽ theo mẫu đó là phân môn khá
trọng tâm nhằm rèn luyện khả năng quan sát, so sánh, bố cục, tỷ lệ, hình khối,
đường nét, màu sắc, ánh sáng không gian trước mẫu thực. Với HS Tiểu học vật
mẫu chỉ là cái cớ giúp các em quan sát, nhận xét và gây cảm xúc hứng thú. Môn
Mĩ thuật chủ yếu là thực hành để nhằm rèn luyện kỹ năng quan sát, khả năng

luyện hình và bước đầu phân biệt sơ bộ về khối, ánh sáng, độ đậm nhạt nhằm phát
triển tư duy tạo hình qua vật mẫu. Để thực hiện những việc trên qua thực tế giảng
dạy tôi đưa ra một vài giải pháp giúp HS hứng thú học tập phân môn vẽ theo mẫu.
Thứ nhất: Mỗi một bài dạy giáo viên phải xác định rõ mục tiêu toàn bài, từng
phần trong bài, phương tiện dạy học cần thiết để phục vụ cho bài lựa chọn phương
pháp dạy học phù hợp, chú trọng hoạt động dạy học chủ yếu dự đoán tình huống
sư phạm sảy ra từ đó lập kế hoạch bài dạy theo tinh thần đổi mới.
Thứ hai: Hệ thống câu hỏi rõ ràng, câu hỏi từ dễ đến khó, từ tư duy cụ thể đến tư
duy trìu tượng, cho HS suy nghĩ trước nội dung giúp các em suy nghĩ tìm tòi ra cái
hay, cái đẹp mà còn gợi ý cho các em về cách chọn nội dung, bố cục, hình vẽ, màu
sắc, đánh bóng, độ đậm nhạt của từng bài. Trong đó gây ấn tượng ban đầu, thu hút
sự chú ý và giữ vai trò quan trọng trong vẻ đẹp của bài vẽ là bố cục. Vì vậy khi HS
làm bài giáo viên hướng dẫn các em tiến hành từ bao quát đến chi tiết dạy các em
tìm ra cái đẹp theo khả năng riêng mình mà không gò bó, áp đặt, rập khuôn.
Ví dụ: Dạy bài 8 Vẽ theo mẫu: Mẫu vẽ có dạng hình trụ và hình cầu.
GV nêu hệ thống câu hỏi sau khi bày một số đồ vật dạng hình trụ và hình cầu làm
mẫu. (Quả cam, táo, chanh, quả bóng nhựa; Cái chai, lọ hoa, hộp đựng trà...)
- Cho biết hình dáng của từng vật mẫu?
- Vật mẫu gồm những bộ phận nào?
Thảo luận 2 câu trên theo từng cặp.
GV yêu cầu HS mở SGK quan sát H1
- Gọi tên các đồ vật ở hình 1 SGK trang 24
- Tìm sự giống nhau, khác nhau của lọ hoa và cái chai ở hình trên.
- Tìm sự giống nhau, khác nhau của quả táo và quả chanh ở hình trên.
- Nêu tác dụng của chúng trong cuộc sống.
Thảo luận câu hỏi này theo nhóm 4

6



GV giúp đỡ nhóm yếu với câu hỏi gợi ý (khác về hình dáng chung, các bộ phận
cấu tạo, tỷ lệ của các bộ phận, màu sắc, độ đậm nhạt...) để các em thấy được điểm
khác nhau ở chúng.
Dạy vẽ theo mẫu cần tiến hành từ bao quát đến chi tiết.
+ Ước lượng, so sánh tỷ lệ.
+ Phác khung hình chung, khung hình riêng cân đối khổ giấy, phác đường trục của
đồ vật.
+ Cân đối tỉ lệ các bộ phận của vật mẫu
+ Hoàn thiện nét vẽ, vẽ đậm nhạt hay vẽ màu theo ý thích.
Đối với HS tiểu học thường có thói quen cầm bút là vẽ ngay, chưa có thói quen
quan sát kỹ trước khi vẽ, vì vậy hình vẽ thường bị xộc xệch, méo mó không đúng
mẫu. Để khắc phục tình trạng này, sau khi bày mẫu xong GV yêu cầu HS không
vẽ ngay mà phải giành thời gian quan sát kỹ mẫu và nhấn mạnh một số điểm đối
với bài vẽ theo mẫu.
- Xác định khung hình chung, nhìn bao quát hình dáng của các vật mẫu
- So sánh, ước lượng tỷ lệ giữa chiều ngang, chiều cao của từng vật mẫu.
- So sánh, ước lượng tỷ lệ các bộ phận.
- Xác định các chi tiết cơ bản của vật mẫu
GV nhắc nhở các em biết cách sắp xếp hình vẽ sao cho cân đối, vừa phải phù hợp
trang giấy. Chính yêu cầu này là một trong những nhân tố quan trọng đối với việc
giáo dục và rèn luyện ý thức về cái đẹp trong sự cân đối hài hoà thể hiện trên các
bài vẽ mẫu.
Thứ ba: Tâm lý HS tiểu học “Học mà chơi, chơi mà học” thông qua chơi tạo cho
trẻ phát triển tình cảm, trí tuệ vì thế mỗi giờ học GV phải tạo không khí phấn khởi,
vui vẻ, khơi dậy sự chú ý, chờ đón, hồi hộp. Lời giới thiệu bài có thể là hát, đọc
thơ, câu đố, mẫu chuyện nhỏ hay câu hỏi liên quan nội dung bài.
Ví dụ: Dạy bài 32 vẽ theo mẫu - Vẽ tĩnh vật (vẽ màu)
GV yêu cầu HS hát bài “Quả” hoặc yêu cầu các em tìm bài hát, câu đố, bài thơ nói
về Hoa; Quả; Đồ vật; hay tổ chức cho HS nhóm 2 đố nhau như:
(*)

Hoa gì chỉ nở về đêm
Muốn xem phải đợi trăng lên ngang đầu.
(hoa Quỳnh)
Hoa gì không phải hôm nay
Không là tên gọi của ngày hôm qua.
(hoa Mai)

7


Hoa gì mọc chốn bùn nhơ
Mà sao vẫn chẳng bao giờ hôi tanh.
(hoa Sen)
Có mắt mà chẳng có tai
Thịt trong thì trắng, da ngoài thì xanh
Khi trẻ ngủ ở trên cành
Lúc già mở mắt – hóa thành quả ngon.
(quả Na)
Da đầy mụn, đầy rôm
Ruột đầy tôm đầy tép
Dáng khi tròn khi dẹp
Ăn khi ngọt khi chua.
(quả Bưởi, Cam)
Khép na khép nép
Đứng nép bờ mương
Trái chật đầy .. buồng
Xếp thành hai lượt.
(quả Chuối)
Một mẹ sinh được sáu con
Giỏ nào quai ấy vừa tròn vừa xinh

Đón đưa tiếp khách nhiệt tình
Không ăn mà uống hàng bình như chơi?
(bộ ấm chén)
Thứ tư: Trò chơi là là một nhu cầu giải trí đối với mọi lứa tuổi, nhất là ở lứa tuổi
tiểu học, là một nhân tố cần thiết cho sự phát triển thể lực, trí tuệ, tinh thần, ý thức
xã hội (tinh thần đồng đội, tinh thần kỷ luật...) như vậy thông qua trò chơi vừa
cũng cố kiến thức vừa gây hứng thú học tập
Trò chơi 1: Thi vẽ
Số lượng người: 4
Đồ dùng: Giấy, bút
Cách chơi: Người chơi đều bịt mắt, mỗi người đều nhận được 1 tờ giấy, 1 cây bút
và vẽ cái cốc bằng một nét. Vẽ xong cái cốc mới được nhấc bút lên để vẽ chi tiết
phụ, sau đó mở mắt xem hình. Các bạn ngồi dưới cùng GV là ban giám khảo.
Trò chơi 2: Vẽ thêm
Số lượng 1 đội chơi 5 người
Cách chơi: Vẽ sẵn vào bảng phụ một số mẫu vật nhưng lại thiếu một bộ phận,
người chơi đứng cách bảng 1m quan sát hình vẽ 1 phút rồi bịt mắt đi thẳng tới
bảng vẽ thêm bộ phận còn thiếu vào vật mẫu.
8


Trò chơi 3: Ghép hình
Chuẩn bị: 10 cánh hoa đỏ, 2 nhụy hoa vàng, bảng phụ gắn được nam châm.
Cách chơi: 2 nhóm chơi (mỗi nhóm 3 người: 1 người chọn, 1 người trao, 1 người
gắn) các đội tự chọn cánh hoa khớp với nhụy hoa, ghép trong thời gian 30 giây.
Luật chơi: Nhóm nào ghép nhanh, đúng, đẹp thì nhóm đó thắng.
Thứ năm: Liên hệ với thực tiễn cuộc sống:
Tri thức của môn học đều được chắt lọc từ cuộc sống và trở lại phục vụ cho
cuộc sống, cho nên trong dạy học cần liên hệ bài học với thực tiễn tạo cho học
sinh sự liên tưởng, gây thói quen quan sát, so sánh, móc nối giữa cái đang học và

cái đã có trong cuộc sống, hướng các em đi tìm cái đẹp cho mai sau.
Để vận dụng biện pháp này có hiệu quả đòi hỏi giáo viên cần suy nghĩ, tìm
tòi, phân tích tổng hợp, yêu nghề và hứng thú với bộ môn.
Biện pháp này giúp học sinh tự bổ sung nhận thức và phát huy óc tưởng tượng,
khả năng tư duy, sáng tạo cho các em. Trang bị cho các em những hiểu biết cần
thiết để vận dụng vào cuộc sống. Như là cảm nhận được sự hài hoà ở viên gạch lát
nền của lớp học, hình vẽ, hoạ tiết ở tờ giấy khen... hay sự cảm nhận tinh tế với
màu sắc của thiên nhiên khi thể hiện qua các bài văn miêu tả sau này, thiết thực
hơn nữa có thể chọn màu sắc trang phục, đồ dùng cá nhân cho phù hợp với con
người...
Ngoài những biện pháp trên còn phải vận dụng các phương pháp giáo dục
chính khoá và ngoại khoá để giáo dục, hướng dẫn học sinh phân biệt các màu sắc,
những màu đậm, những màu nhạt, vẽ màu từ đơn giản đến phức tạp để vận dụng
vào các bài tập thực hành một cách có hiệu quả.
- Đánh giá phân tích kết quả qua các bài thực hành của học sinh về vẽ tranh, vẽ
theo mẫu của học sinh lớp 5.
- Quá trình tư duy của học sinh có vai trò trong việc tiếp thu những tri thức về
môn Mĩ thuật và vận dụng những tư duy của các em dần dần phát triển từ khái
quát đến chi tiết.
- Ở tiểu học, tư duy hình ảnh trực quan còn đơn giản, dễ sai lệch lên các lớp
trên khả năng tư duy hình ảnh trực quan của các em cao hơn, chính xác hơn, đến
lớp cuối cấp (5) khả năng tư duy trừu tượng xuất hiện và hoàn thiện dần. Việc rèn
luyện cách quan sát, nhận xét, kĩ năng so sánh, ước lượng, đối chiếu thông qua các
bài vẽ theo mẫu, tôi nhận thấy các em vẽ tốt hơn. Những biểu hiện cụ thể:
- Học sinh vẽ mạnh dạn mạnh, không dùng thước kẻ các vật mẫu có nét thẳng,
rất tự tin không vẽ tuỳ tiện, đơn điệu.
- Biết áp dụng các đường nét đã học để vẽ bài theo ý thích của mình. Mặt khác
cũng thấy được cái hào hứng, say mê khi vẽ bài...
Thứ sáu: Đánh giá kết quả học tập nhằm gây hứng thú động viên, khích lệ là
chính, giáo viên cố gắng tìm những ưu điểm của HS để động viên khen ngợi kịp


9


thời. Cuối năm học tổ chức triển lãm tranh giữa các lớp trong khối và giữa các
khối với nhau nhằm góp phần tạo không khí thi đua học tập đồng thời nâng cao
thêm sự hiểu biết cho các em.
4. Kết quả đạt được:
Trong những năm vừa qua, bản thân tôi trực tiếp tham gia giảng dạy bộ môn
Mĩ thuật trong trường tiểu học, so sánh đối tượng học sinh qua các đợt thao giảng,
sinh hoạt tổ chuyên môn ở trường bạn, được học tập, nghiên cứu, tiếp thu chuyên
đề đổi mới chương trình, sách giáo khoa do Bộ giáo dục và đào tạo tổ chức. Ở cấp
Tiểu học nói chung và lớp 5 nói riêng, tôi đã đi sâu nghiên cứu giải pháp gây hứng
thú học tập phân môn vẽ theo mẫu lớp 5. Tuy thời gian chưa nhiều, song kết quả
thu được là rất đáng mừng, số học sinh hoàn thành ngay tại lớp 95%. Học sinh đã
có ý thức học tập tốt, tích cực tham gia vào các hoạt động trong nhà trường, có
nhiều em có bài vẽ đẹp, ngộ nghĩnh, hồn nhiên, các em đã biết vận dụng vào thực
tiễn cuộc sống (như biết giữ gìn vệ sinh cá nhân hơn, giữ gìn sách vở, đồ dùng học
tập tốt hơn, có ý thức chăm sóc bảo vệ cây cối, cơ sở vật chất trong nhà trường tốt
hơn biết lễ phép kính trọng thầy cô giáo và yêu mến bạn bè...) và cũng thông qua
môn Mĩ thuật đã giúp các em học tốt các môn học khác. Hơn nữa số học sinh làm
bài hoàn thành tốt tăng lên rõ rệt. Để kiểm tra so sánh, trong năm học tôi đã chọn
hai lớp 5A và 5B có trình độ tương đối đồng đều để khảo sát thực nghiệm và kết
quả mỗi lớp như sau:
Lớp 5A
Tổng
số
34

Lớp 5B


Số HS vẽ hoàn Số HS vẽ hoàn
thành tốt (A+)

thành (A)

SL

%

SL

%

9

26,5

25

73,5

Tổng
số
31

Số HS vẽ hoàn
thành tốt (A+)

Số HS vẽ

hoàn
thành (A)

SL

%

SL

%

7

22,6

24

77,4

III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
1. Kết luận:
Xuất phát từ mục tiêu giáo dục toàn diện cho đất nước, từ nhiệm vụ phải giáo
dục thẩm mĩ cho thế hệ trẻ để xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc, việc giảng dạy Mĩ thuật nhằm mục tiêu giáo dục con người có
một tầm quan trọng trong các trường phổ thông nói chung và cấp Tiểu học nói
riêng.
Những khả năng bước đầu gây hứng thú học tập phân môn vẽ theo mẫu cho
học sinh lớp 5 có phát huy được hết những giá trị giáo dục hay không, còn phụ

10



thuộc vào nhiều yếu tố: chủ quan, khách quan, môi trường giáo dục... xác định
được vấn đề quan trọng như vậy, các nhà giáo dục, các thầy giáo, cô giáo, các bậc
phụ huynh hãy cùng phối hợp để khơi dậy những điều tốt đẹp còn tiềm ẩn trong
mỗi một con người các em để phát huy năng lực nhận thức của mình từ mái
trường tiểu học. Để điều đó trở thành hiện thực mỗi một chúng ta, nhất là giáo
viên dạy học môn Mĩ thuật cần:
- Kiên trì, chịu khó nghiên cứu bài dạy một cách chu đáo.
- Phải nắm vững nội dung yêu cầu, nhiệm vụ của từng tiết dạy cụ thể, nắm được
đặc điểm tâm sinh lí của của học sinh cũng như khả năng tư duy, sáng tạo của từng
học sinh.
- Phải có lòng yêu nghề, mến trẻ, tinh thần học hỏi cao để luôn luôn trau dồi
chuyên môn nghiệp vụ.
- Tăng cường làm đồ dùng dạy học, dụng cụ trực quan...
2. Kiến nghị:
- Tiếp tục bồi dưỡng, nâng cao kiến thức chuyên môn và nghiệp vụ sư phạm cho
đội ngũ giáo viên.
- Tăng cường trang thiết bị, đồ dùng dạy học (nhất là các bức tượng - những bài
này vẫn phải giới thiệu với học sinh bằng các bức ảnh chụp các bức tượng, ngoại
trừ tượng của Bác Hồ).
Trên đây là một vài biện pháp nhỏ của bản thân tôi đã áp dụng thành công
trong năm học 2017 - 2018. Chắc chắn còn nhiều hạn chế, rất mong được sự góp ý
của cấp trên và đồng nghiệp để ngày càng đạt kết quả cao hơn trong dạy học môn
Mĩ thuật.
Xin chân thành cảm ơn !
XÁC NHẬN CỦA BAN GIÁM
HIỆU NHÀ TRƯỜNG

Hoằng Tiến, ngày 11 tháng 5 năm 2018

Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung của
người khác .
Người viết

Lê Trung Nguyệt

11


TÀI LIỆU THAM KHẢO:
- Chương trình và sách giáo viên từ khối 1 đến khối 5
- Vở tập vẽ từ khối 1 đến khối 5
- Sách giáo khoa từ khối 4 đến khối 5
- Tài liệu đổi mới chương trình, sách giáo khoa từ khối 1 đến khối 5
- Tài liệu dạy học Mĩ thuật dành cho giáo viên Tiểu học (SAEPS) và một số tài
liệu tham khảo khác.
(*) caudo.net; caudovui.net

12



×