Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

SKKN một số biện pháp nâng cao chất lượng giải toán có lời văn cho học sinh lớp 1 trường TH đông tiến b

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (129.83 KB, 22 trang )

I. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài.
Toán học là môn học có vị trí vô cùng quan trọng. Đặc biệt trong đời sống và
khoa học kĩ thuật hiện đại. Nó góp phần đào tạo học sinh trở thành con người phát
triển toàn diện, năng động, sáng tạo đáp ứng được mọi nhu cầu phát triển của
khoa học công nghệ trong xã hội thời kì đổi mới. Việc dạy học giải toán ở tiểu học
nhằm giúp học sinh biết cách vận dụng những kiến thức về toán, được rèn luyện
kĩ năng thực hành,với những yêu cầu được thể hiện một cách đa dạng, phong phú.
Nhờ việc dạy học giúp học sinh có điều kiện rèn luyện và phát triển năng lực tư
duy, rèn phương pháp suy luận và những phẩm chất của con người lao động mới.
Trong dạy học toán giải toán có lời văn là loại toán riêng biệt là biểu hiện đặc
trưng của trí tuệ. Là mục tiêu của việc dạy học toán ở tiểu học nói chung và giải
toán có lời văn cho học sinh lớp 1 nói riêng. Giải toán có lời văn đối với học sinh
lớp 1 là loại toán khó. Do đó việc dạy loại toán này đạt kết quả chưa cao vì:
- Giáo viên hướng dẫn học sinh giải toán nhưng chưa xác định được chuẩn
kiến thức kĩ năng và mục tiêu của sách giáo khoa. Giáo viên chưa chủ động, linh
hoạt sáng tạo trong giảng dạy. Khi dạy chưa phân hoá đối tượng học sinh.
- Giáo viên chưa trú trọng đến việc hướng dẫn học sinh đọc kĩ bài toán, hiểu
nội dung bài toán và tóm tắt bài toán để tìm phương pháp giải (cách giải) bài toán
theo các bước. Do đó việc rèn luyện tư duy của học sinh cũng hạn chế.
- Học sinh đọc bài toán chưa thông thạo, chưa hiểu nội dung bài toán, chưa
xác định được yêu cầu của bài toán: Bài toán cho biết gì ? bài toán hỏi gì? Đa số
học sinh chưa biết trình bày bài giải. Nhận thức được tầm quan trọng của việc dạy
học giải toán ở tiểu học nhất là khối lớp 1. Khối đầu cấp nên tôi chọn sáng kiến:
“Một số biện dạy giải toán có lời văn cho học sinh lớp 1 ở trường Tiểu học
Đông Tiến B, huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hoá”
2. Mục đích nghiên cứu:
Đề tài nghiên cứu một số phương pháp dạy học tích cực trong dạy giải toán
có lời văn có thể áp dụng để tạo hứng thú học tập môn Toán cho học sinh lớp 1.
3. Đối tượng nghiên cứu
- Học sinh lớp 1 trường Tiểu học Đông Tiến B


- Thực trạng giảng dạy giải toán có lời văn ở trường.
- Các giải pháp tạo hứng thú cho HS lớp 1 khi học phần giải toán có lời
văn.
4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu
1


- Phương pháp phân tích, tổng hợp để xây dựng cơ sở lí luận của đề tài.
- Phương pháp điều tra, khảo sát, thống kê thông qua bài kiểm tra của học
sinh.
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm
II. NỘI DUNG
1. Cơ sở lý luận
Đối với mạch kiến thức "Giải toán có lời văn", là một trong năm mạch kiến
thức cơ bản xuyên suốt chương trình Toán cấp tiểu học. Thông qua giải toán có lời
văn, các em được phát triển trí tuệ, được rèn luyện kỹ năng tổng hợp: đọc, viết,
diễn đạt, trình bày, tính toán. Toán có lời văn là mạch kiến thức tổng hợp của các
mạch kiến thức toán học, giải toán có lời văn các em sẽ được giải các loại toán về
số học, các yếu tố đại số, các yếu tố hình học và đo đại lượng. Toán có lời văn là
chiếc cầu nối giữa toán học và thực tế đời sống, giữa toán học với các môn học
khác.
Khả năng giải toán có lời văn chính là phản ánh năng lực vận dụng kiến thức
của học sinh. Học sinh hiểu về mặt nội dung kiến thức toán học vận dụng vào
giải toán kết hợp với kíên thức Tiếng Việt để giải quyết vấn đề trong toán học. Từ
ngôn ngữ thông thường trong các đề toán đưa ra cho học sinh đọc - hiểu - biết
hướng giải đưa ra phép tính kèm câu trả lời và đáp số của bài toán.
Giải toán có lời văn góp phần củng cố kiến thức toán, rèn luyện kỹ năng
diễn đạt, tích cực góp phần phát triển tư duy cho học sinh tiểu học. [3]
2. Thực trạng của vấn đề

Trường Tiểu học Đông Tiến B, huyện Đông Sơn là ngôi trường có truyền
thống và bề dày về việc đưa những phương pháp tối ưu nhất vào trong giảng dạy
để nhằm nâng cao chất lượng dạy và học. Đặc biệt trong môn Toán không những
giúp các em làm thành thạo kĩ năng tính toán mà mỗi giáo viên đều trăn trở để tìm
ra biện pháp có hiệu quả nhất để dạy cho các em kĩ năng giải toán có lời văn.
Trong quá trình giảng dạy nhiều năm ở lớp 1, tôi thấy khi dạy đến phần giải Toán
có lời văn nhiều em rất lúng túng khi nêu câu lời giải, thậm chí nêu sai câu lời
giải, các em không hiểu được câu lời giải ở đây nghĩa là thế nào. Khi viết phép
tính thì nhiều em không viết phần đơn vị cho vào ngoặc đơn, nếu có viết phần đơn
vị vào thì lại sai không đúng với yêu cầu của đề bài. Như vậy là các em chưa nắm
được một cách chắc chắn cách giải bài toán có lời văn.
2.1. Nguyên nhân từ phía GV
GV chưa chuẩn bị tốt cho các em khi dạy những bài trước. Những bài nhìn
hình vẽ viết phép tính thích hợp, đối với những bài này hầu như HS đều làm được
nên GV tỏ ra chủ quan, ít nhấn mạnh hoặc không chú ý lắm mà chỉ tập trung vào
2


dạy kĩ năng đặt tính, tính toán của HS mà quên mất rằng đó là những bài toán làm
bước đệm , bước khởi đầu của dạng toán có lời văn sau này. Đối với GV dạy lớp 1
khi dạy dạng bài nhìn hình vẽ viết phép tính thích hợp , cần cho HS quan sát tranh
tập nêu bài toán và thường xuyên rèn cho HS thói quen nhìn hình vẽ nêu bài toán.
Cụ thể tập cho những em HS giỏi tập nói câu trả lời cứ như vậy trong một khoảng
thời gian chuẩn bị như thế thì đến lúc học đến phần bài toán có lời văn HS sẽ
không ngỡ ngàng và các em sẽ dễ dàng tiếp thu, hiểu và giải đúng .
2.2. Nguyên nhân từ phía HS
Trong chương trình toán Tiểu học thì kiến thức “Giải toán có lời văn” là kiến
thức khó đối với học sinh, và càng khó hơn đối với học sinh lớp một. Bởi vì đối
với lớp một: Vốn từ, vốn hiểu biết, khả năng đọc hiểu, khả năng tư duy lôgic của
các em còn rất hạn chế. Một nét nổi bật hiện nay là nói chung học sinh chưa biết

cách tự học, chưa học tập một cách tích cực. Nhiều khi với một bài toán có lời văn
các em có thể đặt và tính đúng phép tính của bài nhưng không thể trả lời hoặc lý
giải là tại sao các em lại có được phép tính như vậy. Thực tế hiện nay cho thấy,
các em thực sự lúng túng khi giải bài toán có lời văn. Một số em chưa biết tóm tắt
bài toán, chưa biết phân tích đề toán để tìm ra cách giải, chưa biết tổng hợp để
trình bày bài giải, diễn đạt vụng về, thiếu lôgic. Ngôn ngữ toán học còn rất hạn
chế, kỹ năng tính toán, trình bày thiếu chính xác, thiếu khoa học, chưa có biện
pháp, phương pháp học toán, học toán và giải toán một cách máy móc nặng về
dập khuôn, bắt chước. Vậy làm thế nào để HS nắm được cách giải một cách chắc
chắn, chính xác?
Trước thực trạng đó, tôi tiến hành khảo sát môn toán dạng bài : “Giải toán có
lời văn lớp 1”. Kết quả khảo sát cuối học kì I lớp 1A như sau:
Tổng số
HS
31

Tốt
SL
10

Hoàn thành
TL
32,3

SL
16

TL
51,6


Chưa hoàn thành
SL
5

TL
16,1

Nếu giải quyết được các vấn đề nêu ở trên kết quả dạy giải toán có lời văn
cho học sinh lớp 1 sẽ tốt hơn rất nhiều. Sau bao trăn trở, suy nghĩ cộng với thực tế
nhiều năm dạy lớp 1 tôi mạnh dạn đúc kết một số kinh nghiệm dạy giải toán có lời
văn cho học sinh lớp 1 nhằm góp phân nâng cao hiệu quả giải toán có lời văn cho
HS.
3. Một số biện pháp thực hiện
3.1. Hệ thống các mạch kiến thức có liên quan đến giải toán có lời văn
Để dạy tốt môn Toán lớp 1 nói chung, "Giải bài toán có lời văn" nói riêng,
3


điều đầu tiên mỗi giáo viên phải nắm thật chắc nội dung chương trình, sách giáo
khoa. Nhiều người nghĩ rằng Toán tiểu học, và đặc biệt là toán lớp 1 thì ai mà
chẳng dạy được. Đôi khi chính giáo viên đang trực tiếp dạy cũng rất chủ quan và
cũng có những suy nghĩ tương tự như vậy. Qua dự giờ một số đồng chí giáo viên
tôi nhận thấy giáo viên dạy bài nào chỉ cốt khai thác kiến thức của bài ấy, còn các
kiến thức cũ có liên quan giáo viên nắm không thật chắc. Người ta thường nói "
Biết 10 dạy 1" chứ không thể " Biết 1 dạy 1" vì kết quả thu được sẽ không còn là
1 nữa.
Trong chương trình toán lớp Một giai đoạn đầu học sinh còn đang học chữ
nên chưa thể đưa ngay "Bài toán có lời văn". Mặc dù đến tuần 23, học sinh mới
được chính thức học cách giải "Bài toán có lời văn" song chúng ta đã có ý ngầm
chuẩn bị từ xa cho việc làm này ngay từ bài "Phép cộng trong phạm vi 3” (Luyện

tập) ở tuần 7. [3]
Vì vậy, giáo viên dạy cần phải nắm vững những kiến thức nào là kiến thức
có liên quan đến dạy giải toán có lời văn sau này. Sau đây là hệ thống các dạng
bài tập theo mức độ từ đơn giản đến phức tạp có liên quan đến “ giải toán có lời
văn”:
* Dạng 1: Điền dấu (số) thích hợp vào phép tính
Bắt đầu từ tuần 7 cho đến các tuần 16 trong hầu hết các tiết dạy về phép
cộng, trừ trong phạm vi (không quá) 10 đều có các bài tập thuộc dạng "Lập phép
tính dựa vào tranh" ở đây học sinh được làm quen với việc:
- Quan sát tranh vẽ.
- Nêu đề bài toán
- Nêu câu trả lời.
- Điền phép tính thích hợp ( tình huống trong tranh).
Ví dụ: Tiết: Luyện tập : Bài 5 trang 46- SGK Toán 1: Viết phép tính thích
hợp [1].
a)
1

2

=

3

GV yêu cầu HS quan sát tranh và nhận xét tranh. GV hỏi: Có một quả bóng
đỏ và 2 quả bóng xanh. Tất cả có mấy quả bóng?
HS trả lời: Có một quả bóng đỏ và 2 quả bóng xanh. Tất cả có 3 quả bóng.
Em làm thế nào để có kết quả là 3 quả bóng? Em lấy 1 + 2 = 3. Vậy em điền
dấu gì vào ô trống? ( Điền dấu cộng) [2]
4



* Dạng 2: Viết phép tính thích hợp với tình huống trong tranh
Việc ngầm chuẩn bị cho học sinh các tiền đề để giải toán có lời văn là chuẩn
bị cho học sinh cả về viết câu lời giải và viết phép tính. Chính vì vậy ngay các bài
tập dạng “Viết phép tính thích hợp với tình huống trong tranh” chúng ta cần đặt
thêm cho các em những câu hỏi để các em trả lời miệng.
Ví dụ: Tiết 27: Bài: Phép cộng trong phạm vi 4
Bài tập 4: Viết phép tính thích hợp ( trang 47- SGK Toán 1) [1]
Khi dạy dạng bài này GV cần yêu cầu HS quan sát tranh và nêu được nội
dung tranh vẽ gì? Từ đó yêu cầu một số HS học tốt nêu đề bài toán: Trên cành cây
có 3 con chim đang đậu, thêm 1 con chim bay tới. Hỏi tất cả có mấy con chim?
HS viết phép tính: 3 + 1 = 4
Giáo viên nên hỏi tiếp: "Vậy có tất cả mấy con chim?" để học sinh trả lời
miệng: "Có tất cả 4 con chim" ; hoặc "Số chim có tất cả là bao nhiêu? (Số chim có
tất cả là 4) ...
Cứ làm như vậy nhiều lần, học sinh sẽ quen dần với cách nêu câu lời giải
bằng miệng. Do đó các em sẽ dễ dàng viết được các câu lời giải sau này.
* Dạng 3: Lập phép tính tương ứng dựa vào tóm tắt bài toán.
Từ tuần 17, học sinh được làm quen với việc đọc tóm tắt rồi nêu đề toán
bằng lời, sau đó nêu cách giải và tự điền số và phép tính thích hợp vào dãy năm ô
trống. (Bài 3b - trang 87, bài 4 – trang 88, bài 5 - trang 89, bài 3b- trang 90, bài 4
– trang 92, bài 3 – trang 112, bài 5 – trang 113)
Ví dụ: Tiết : Luyện tập
Bài 4 : Viết phép tính thích hợp – trang 88 - SGK Toán 1 [1]
Tóm tắt
Tổ 1 :
6 bạn
Tổ 2 :
4 bạn

Cả hai tổ :...........bạn ?
GV yêu cầu HS đọc bài toán : Tổ 1 có 6 bạn, tổ 2 có 4 bạn. Hỏi cả 2 tổ có
bao nhiêu bạn ? (nhiều học sinh nêu miệng)
GV : Bài toán cho ta biết gì ?
HS : Tổ 1 có 6 bạn, tổ 2 có 4 bạn.
GV : Bài toán hỏi ta điều gì ?
HS : Cả 2 tổ có bao nhiêu bạn ?
HS viết phép tính: 6 + 4 = 10
Giáo viên hỏi tiếp: "Vậy cả hai tổ có tất cả mấy bạn?" để học sinh trả lời
miệng: ( Cả hai tổ có tất cả 10 bạn ); hoặc "Số bạn cả hai tổ là bao nhiêu ?’’(Số
bạn cả hai tổ là 10 bạn ) hoặc Cả hai tổ có số bạn là bao nhiêu ? (Cả hai tổ có số
bạn là 10 )....
5


Cứ làm như vậy nhiều lần, học sinh sẽ quen dần với cách nêu câu lời giải
bằng miệng. Do đó các em sẽ dễ dàng viết được các câu lời giải sau này.
* Dạng 4: Viết số thích hợp vào chỗ chấm để có bài toán
Gồm 4 bài toán có yêu cầu khác nhau.
Ví dụ: Tiết : Bài toán có lời văn (trang 115) Viết số thích hợp vào chỗ chấm
để có bài toán [1]
Bài toán 1: Có …bạn, có thêm… bạn đang đi tới. Hỏi có tất cả bao nhiêu
bạn ?
Bài toán 2: Có … con , có thêm … con thỏ đang chạy tới. Hỏi có tất cả bao
nhiêu con thỏ ?
* Bài toán còn thiếu câu hỏi ( cái cần tìm)
Bài toán 3 : Viết tiếp câu hỏi để có bài toán.
Bài toán : Có 1 gà mẹ và có 7 gà con.
Hỏi ………………………………………………….?
* Bài toán còn thiếu cả số cả câu hỏi ( cái đã cho và cái cần tìm)

Bài toán 4: Có … con chim đậu trên cành, có thêm….con chim bay đến.
Hỏi ………………………………………………….?
- Dạy dạng toán này tôi phải xác định làm thế nào giúp các em điền đủ được
các dữ kiện (cái đã cho và cái cần tìm) còn thiếu của bài toán và bước đầu các em
hiểu được bài toán có lời văn là phải đủ các dữ kiện; đâu là cái đã cho và đâu là
cái cần tìm.
Bước 1: GV đặt câu hỏi - HS trả lời và điền số còn thiếu vào chỗ chấm để có
bài toán. Giáo viên kết hợp dùng phấn màu ghi số còn thiếu vào bài toán mẫu trên
bảng lớp.
Bước 2: Hướng dẫn các em xác định cái đã cho và cái cần tìm. (dữ kiện và
yêu cầu bài toán). Dùng phấn màu gạch chân dữ kiện và từ quan trọng (tất cả) của
bài toán.
Sau khi hoàn thành 4 bài toán giáo viên nên cho các em đọc lại và xác định
bài 1 và bài 2 thiếu cái đã cho; bài 3 thiếu cái cần tìm; bài 4 thiếu cả cái đã cho và
cái cần tìm. Qua đó giúp các em hiều được đây là dạng toán có lời văn phải có đủ
dữ kiện.
3.2. Sử dụng có hiệu quả đồ dùng thiết bị dạy học
Như chúng ta đã biết, con đường nhận thức của học sinh tiểu học là: "Từ
trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, rồi từ tư duy trừu tượng trở lại thực
tiễn". Đồ dùng thiết bị dạy học là phương tiện vật chất, phương tiện hữu hình cực
kỳ cần thiết khi dạy "Giải toán có lời văn" cho học sinh lớp Một. Cũng trong cùng
một bài toán có lời văn, nếu chỉ dùng lời để dẫn dắt, dùng lời để hướng dẫn học
sinh làm bài thì vừa vất vả tốn công, vừa không hiệu quả và sẽ khó khăn hơn rất
6


nhiều so với dùng đồ dùng thiết bị, tranh ảnh, vật thực để minh hoạ. Chính vì vậy
rất cần thiết phải sử dụng đồ dùng thiết bị dạy học để dạy học sinh "Giải bài toán
có lời văn". [2]
Hiện nay bộ đồ dùng trang bị đến từng lớp đã có khá nhiều các đồ dùng mẫu

vật cho việc sử dụng dạy "Giải toán có lời văn" song vẫn là thiếu nếu giáo viên
thực sự có trách nhiệm. Mỗi nhà trường cần có kế hoạch mua bổ xung, từng tổ
khối, cá nhân giáo viên cần sưu tầm, làm thêm các thiết bị như: vật thực, tranh
ảnh... làm đồ dùng, dùng chung và riêng cho từng lớp.
Một điều hết sức quan trọng là một số giáo viên còn ngại, hoặc lúng túng sử
dụng đồ dùng dạy học khi giảng dạy nói chung và khi dạy "Giải toán có lời văn"
nói riêng. Để khắc phục tình trạng này, giáo viên cần có ý thức chuẩn bị sử dụng
đồ dùng dạy học trước khi lên lớp. Cần cải tiến nội dung sinh hoạt chuyên môn để
đưa việc thống nhất sử dụng đồ dùng dạy học và phương pháp sử dụng đồ dùng
dạy học.
Ví dụ: Tiết 82: Bài: Giải toán có lời văn – Trang 117- SGK Toán 1 [1]
Bài toán: Nhà An có 5 con gà, mẹ mua thêm 4 con gà. Hỏi nhà An có tất cả
mấy con gà?
Khi dạy bài này GV nên có tranh vẽ hoặc đưa ra mô hình tương ứng.
Cách sử dụng như sau: Có 5 con gà – GV gắn mô hình 5con gà lên bảng,
thêm 4 con gà – GV gắn mô hình 4 con gà lên bảng. Hỏi tất cả có mấy con gà?
HS quan sát mô hình trên bảng và nêu lại toàn bộ bài toán
GV: Muốn biết nhà An có tất cả mấy con gà em làm thế nào?
HS: Em lấy 5 + 4 = 9
GV: Vậy nhà An có tất cả mấy con gà? Hoặc Số gà nhà An có tất cả mấy
con?..
HS: Nhà An có tất cả 9 con gà hoặc Số gà nhà An có tất cả 9 con……
3.3. Nắm vững quy trình và các bước giải bài toán có lời văn.
Quy trình "Giải bài toán có lời văn " thông thường qua 4 bước:
- Đọc và tìm hiểu đề bài.
- Tìm cách giải bài toán.
- Trình bày bài giải
- Kiểm tra lại bài giải.
a) Đọc và tìm hiểu đề toán
Muốn học sinh hiểu và có thể giải được bài toán thì điều quan trọng đầu

tiên là phải giúp các em đọc và hiểu được nội dung bài toán. Giáo viên cần tổ
chức cho các em đọc kỹ đề toán, hiểu rõ một số từ khoá quan trọng như " thêm,
và, tất cả, ... " hoặc "bớt, bay đi, ăn mất, còn lại, ..." (có thể kết hợp quan sát tranh
vẽ để hỗ trợ). Để học sinh dễ hiểu đề bài, giáo viên cần gạch chân các từ ngữ
7


trọng tâm trong đề bài. Khi gạch chân nên dùng phấn màu khác cho dễ nhìn.
Trong thời kỳ đầu, giáo viên nên giúp học sinh tóm tắt đề toán bằng cách
đàm thoại " Bài toán cho gì? Hỏi gì?" và dựa vào câu trả lời của học sinh để viết
tóm tắt, sau đó cho học sinh dựa vào tóm tắt để nêu lại đề toán. Đây là cách rất tốt
để giúp trẻ ngầm phân tích đề toán.
Nếu học sinh gặp khó khăn trong khi đọc đề toán thì giáo viên nên cho các
em nhìn tranh và trả lời câu hỏi. Ví dụ: Bài 2 trang 149 – SGK Toán 1, giáo viên
có thể hỏi:
- Em thấy An có mấy quả bóng ? ( An có 8 quả bóng )
- An đã thả mấy quả bóng ? ( An đã thả 3 quả bóng )
- Em có bài toán thế nào? (...)
Sau đó giáo viên cho học sinh đọc (hoặc nêu) đề toán ở sách giáo khoa.
Trong trường hợp không có tranh ở sách giáo khoa thì giáo viên có thể gắn
mẫu vật (gà, vịt, ...) lên bảng từ (bảng cài, bảng nỉ, ...) để thay cho tranh; hoặc
dùng tóm tắt bằng lời hoặc sơ đồ đoạn thẳng để hỗ trợ học sinh đọc đề toán.
* Thông thường có 3 cách tóm tắt đề toán:
- Tóm tắt bằng lời :
Ví dụ: An:
3 quyển vở
Hoa:
2 quyển vở
Cả hai bạn có: ... quyển vở ?
- Tóm tắt bằng sơ đồ đoạn thẳng

- Tóm tắt bằng sơ đồ mẫu vật
Có thể lồng "cốt câu" lời giải vào trong tóm tắt, để dựa vào đó học sinh dễ
viết câu lời giải hơn. Chẳng hạn, dựa vào dòng cuối của tóm tắt học sinh có thể
viết ngay câu lời giải là : "Cả hai bạn có:" hoặc "Số vở cả hai bạn có:" hoặc: "Cả
hai bạn có số vở là:". Cần lưu ý trước đây người ta thường đặt dấu? lên trước các
từ như quyển, quả, ... Song làm như vậy thì hơi thiếu chuẩn mực về mặt Tiếng
Việt vì tất cả học sinh đều biết là dấu ? phải đặt cuối câu hỏi. Nếu tóm tắt bằng sơ
đồ đoạn thẳng hoặc sơ đồ mẫu vật thì đặt dấu ? ở đằng trước các từ như quyển,
quả ,... cũng được vì các tóm tắt ấy không phải là những câu. Tuy nhiên học sinh
thường có thói quen cứ thấy dấu ... là điền số (dấu) vào đó nên giáo viên cần lưu ý
các em là: "Riêng trong trường hợp này (trong tóm tắt ) thì dấu ... thay cho từ
"mấy" hoặc "bao nhiêu" ; các em sẽ phải tìm cho ra số đó để ghi vào Đáp số của
Bài giải chứ không phải để ghi vào chỗ ... trong tóm tắt. Nếu không thể giải thích
cho học sinh hiểu được ý trên thì chúng ta cứ quay lại lối cũ, tức là đặt dấu hỏi (?)
ra đằng trước theo kiểu "Còn ? quả" cũng được, không nên quá cứng nhắc.
Giai đoạn đầu nói chung bài toán nào cũng nên tóm tắt rồi cho học sinh dựa
vào tóm tắt nêu đề toán. Cần lưu ý dạy giải toán là một quá trình. Không nên vội
8


vàng yêu cầu các em phải đọc thông thạo đề toán, viết được các câu lời giải, phép
tính và đáp số để có một bài chuẩn mực ngay từ tuần 23, 24. Chúng ta cần bình
tĩnh rèn cho học sinh từng bước, miễn sao đến cuối năm (tuần 33, 34, 35) trẻ đọc
và giải được bài toán là đạt yêu cầu.
b) Tìm cách giải bài toán.
+ Ví dụ : Cho bài toán sau: “Nhà An có 5 con gà, mẹ mua thêm 4 con gà. Hỏi
nhà An có tất cả bao nhiêu con gà”
* Sau khi giúp học sinh tìm hiểu đề toán để xác định rõ cái đã cho và cái phải
tìm, chẳng hạn:
- Bài toán cho gì? (Nhà An có 5 con gà)

- Còn cho gì nữa? (Mẹ mua thêm 4 con gà)
- Bài toán hỏi gì? (Nhà An có tất cả mấy con gà?)
Giáo viên nêu tiếp: "Muốn biết nhà An có tất cả mấy con gà em làm tính gì?
(tính cộng) Mấy cộng mấy? (5 + 4) ; 5 + 4 bằng mấy? (5 + 4 = 9); hoặc: "Muốn
biết nhà An có tất cả mấy con gà em tính thế nào? (5 + 4 = 9); hoặc: "Nhà An có
tất cả mấy con gà ?" (9) Em tính thế nào để được 9 ? (5 + 4 = 9).
Tới đây giáo viên gợi ý để học sinh nêu tiếp "9 này là 9 con gà", nên ta viết
"con gà" vào trong dấu ngoặc đơn: 5 + 4 = 9 (con gà).
Tuy nhiên cũng có những học sinh nhìn tranh ở sách giáo khoa để đếm ra kết
quả mà không phải là do tính toán. Trong trường hợp này giáo viên vẫn xác nhận
kết quả là đúng, song cần hỏi thêm: "Em tính thế nào?" (5 + 4 = 9). Sau đó nhấn
mạnh: "Khi giải toán em phải nêu được phép tính để tìm ra đáp số (ở đây là 9).
Nếu chỉ nêu đáp số thì chưa phải là giải toán.
c) Tìm lời giải cho bài toán
Sau khi học sinh đã xác định được phép tính, nhiều khi việc hướng dẫn học
sinh đặt câu lời giải còn khó hơn (thậm chí khó hơn nhiều) việc chọn phép tính và
tính ra đáp số. Với học sinh lớp 1, lần đầu tiên được làm quen với cách giải loại
toán này nên các em rất lúng túng. Thế nào là câu lời giải, vì sao phải viết câu lời
giải? Không thể giải thích cho học sinh lớp 1 hiểu một cách thấu đáo nên có thể
giúp học sinh bước đầu hiểu và nắm được cách làm. Có thể dùng một trong các
cách sau:
* Đối với dạng toán thêm:
Cách 1:
Ví dụ: Tiết 82: Giải toán có lời văn: Bài 1- trang117- SGK Toán [1]
Bài toán: An có 4 quả bóng, Bình có 3 quả bóng. Hỏi cả hai bạn có mấy quả
bóng?
Học sinh đọc bài toán- phân tích đề bài- điền vào tóm tắt và giải bài toán .
Tóm tắt:
9



An có : 4 quả bóng
Bình có : 3 quả bóng
Cả hai bạn có :....quả bóng?
Bài giải
Cả hai bạn có là:
4 + 3 = 7( quả bóng )
Đáp số: 7 quả bóng
Hoặc
Bài giải
Cả hai bạn có số quả bóng là:
4 + 3 = 7( quả bóng )
Đáp số: 7 quả bóng
Bài 2 - trang 118 SGK Toán 1
Bài toán: Lúc đầu tổ em có 6 bạn, sau đó có thêm 3 bạn nữa. Hỏi tổ em có
tất cả mấy bạn?
Tóm tắt:
Có:
6 bạn
Thêm:
3 bạn
Có tất cả:... bạn ?
Bài giải
Có tất cả là:
6 + 3 = 9 ( bạn )
Đáp số: 9 bạn
Hoặc
Bài giải
Có tất cả số bạn là :
6 + 3 = 9( bạn )

Đáp số: 9 bạn
Qua 2 bài toán trên, HS tự rút ra cách viết câu lời giải như sau : Lấy dòng
thứ 3 của phần tóm tắt + thêm chữ « là » hoặc lấy dòng thứ 3 chỗ … thay
bằng chữ số + thêm chữ « là »
* Cách 2: VD: Tiết 84: Luyện tập (Trang 121- SGK Toán 1) [1]
Bài toán 1: Trong vườn có 12 cây chuối, bố trồng thêm 3 cây chuối. Hỏi trong
vườn có tất cả bao nhiêu cây chuối.
Tóm tắt:
Có :
12 cây
Thêm:
3 cây
Có tất cả :... cây ?
Bài giải
Trong vườn có tất cả số cây chuối là :
10


12 + 3 = 15( cây )
Đáp số: 15 cây chuối
Bài toán 2: Trên tường có 14 bức tranh, người ta treo thêm 2 bức tranh nữa.
Hỏi trên tường có bao nhiêu bức tranh?
Tóm tắt:
Có :
14 bức tranh
Thêm:
2 bức tranh
Có tất cả :... bức tranh ?
Bài giải
Trên tường có số bức tranh là :

14 + 2 = 16( bức tranh )
Đáp số: 16 bức tranh
Vậy qua 2 bài tập trên GV chốt lại cách viết lời giải như sau:
Viết câu lời giải dựa vào phần câu hỏi của bài toán: Ta bỏ từ “ hỏi ” đi, thay
từ bao nhiêu (mấy) bằng từ “số” cuối cùng thêm chữ là và dấu hai chấm.
Ví dụ:
Hỏi trên tường có bao nhiêu bức tranh?
Câu lời giải: Trên tường có số bức tranh là :
* Cách 3: Tiết 85: Luyện tập
Bài 1- Trang 122- SGK Toán 1 [1]
Bài toán 1: An có 4 quả bóng xanh và 5 quả bóng đỏ. Hỏi An có tất cả mấy
quả bóng?
Tóm tắt:
Có:
4 bóng xanh
Có:
5 bóng đỏ
Có tất cả :... quả bóng ?
Bài giải
Số quả bóng của An có tất cả là :
4 + 5 = 9( quả )
Đáp số: 9 quả bóng
Bài toán 2: Tổ em có 5 bạn nam và 5 bạn nữ. Hỏi tổ em có tất cả mấy bạn?
Tóm tắt:
Có:
5 bạn nam
Thêm:
5 bạn nữ
Có tất cả:... bạn ?
Bài giải

Số bạn của tổ em có là :
5 + 5 = 10( bạn )
Đáp số: 10 bạn
Vậy qua 2 bài tập trên GV chốt lại cách viết lời giải như sau:
11


Thêm chữ “Số” + đơn vị tính của bài toán trước cụm từ có tất cả là như
ở tiết 82 đã làm. Riêng với loại bài mà đơn vị tính là đơn vị đo độ dài (cm)
cần thêm chữ “dài” vào trước chữ “là”
Ví dụ: Bài 2 – trang 123 – SGK Toán 1
Tóm tắt
Đoạn thẳng AB
: 5cm
Đoạn thẳng BC : 3cm
Cả hai đoạn thẳng : ... cm?
Bài giải
Cả hai đoạn thẳng dài là:
5+ 3 = 8 ( cm)
Đáp số : 8 cm
Hầu hết đều có bài toán có lời văn vận dụng kiến thức toán được cung cấp
theo phân phối chương trình . Tuy nhiên, việc phân tích đề- tóm tắt- giải bài toán
phải luôn luôn được củng cố duy trì và nâng dần mức độ. Song cơ bản vẫn là các
mẫu lời giải cho các bài toán thêm là:
- Có tất cả là:
- Có tất cả số….là:
- Viết câu lời giải dựa vào phần câu hỏi của bài toán: Ta bỏ từ “ hỏi ”
đi, thay từ bao nhiêu ( mấy) bằng từ “số” cuối cùng thêm chữ là và dấu hai
chấm.
- Số ( đơn vị tính ) + có tất cả là:

- ... đoạn thẳng....+ dài là:
* Đối với dạng toán bớt.
Ví dụ: Tiết 105: Giải toán có lời văn (tiếp theo) - trang 148 – SGK Toán 1
[1]
Bài toán: Nhà An có 9 con gà, mẹ đem bán 3 con gà. Hỏi nhà An còn lại
mấy con gà?
HS đọc - phân tích bài toán :
+ Bài toán cho biết là gì?
Có 9 con gà. Bán 3 con gà.
+ Câu hỏi là gì ?
Còn lại mấy con gà?
GV hướng dẫn HS đọc tóm tắt - bài giải mẫu. GV giúp HS nhận thấy câu lời
giải ở loại toán bớt này cũng như cách viết của loại toán thêm đã nêu ở trên chỉ
khác ở chỗ cụm từ có tất cả được thay thế bằng cụm từ còn lại mà thôi. VD:
Cách 1: Còn lại là: hoặc Còn lại số con gà là :
Cách 2 : Nhà An còn lại số con gà là :
Cách 3 : Số gà nhà An còn lại là :
Nhưng bài 4 (trang 150) và bài 4 (trang151) thì lời giải dựa vào dòng thứ 3
12


của phần tóm tắt bài toán: [1]
Số hình tam giác không tô màu là :
8 - 4 = 4( hình )
Đáp số: 4 hình tam giác

Số hình tròn không tô màu là:
15 - 4 = 11( hình )
Đáp số: 11 hình tròn.


* Bài 3 (trang 151 Tóm tắt bằng sơ đồ đoạn thẳng
? cm

2cm

13cm
Bài giải
Sợi dây còn lại dài là:
13 – 2 = 11( cm)
Đáp số : 11cm
Trên đây là 2 mẫu toán đơn điển hình của phần giải toán có lời văn ở lớp
1.Tôi đã đưa ra phương pháp dạy từ dễ đến khó để HS có thể giải toán mà không
gặp khó khăn ở bước viết câu lời giải.Tối thiểu HS học chưa tốt cũng có thể chọn
cho mình 1 cách viết đơn giản nhất bằng cụm từ: Có tất cả là:
Hoặc : Còn lại là:
Còn HS học tốt các em có thể chọn cho mình được nhiều câu lời giải khác
nhau nâng dần độ khó thì lời giải càng hay và sát với câu hỏi hơn. Bên cạnh đó
GV cần cho học sinh hiểu câu lời giải chính là câu trả lời cho câu hỏi của bài toán.
d) Trình bày bài giải
Có thể coi việc trình bày bài giải là trình bày một sản phẩm của tư duy. Thực
tế hiện nay các em học sinh lớp 1 trình bày bài giải còn rất hạn chế, kể cả học sinh
học tốt. Cần rèn cho học sinh nề nếp và thói quen trình bày bài giải một cách
chính xác, khoa học, sạch đẹp dù trong giấy nháp, bảng lớp, bảng con hay vở,
giấy kiểm tra. Cần trình bày bài giải một bài toán có lời văn như sau:
Bài giải
Nhà An có tất cả là:
5 + 4 = 9 ( con gà )
Đáp số: 9 con gà
Nếu lời giải ghi: "Số gà nhà An là:" thì phép tính có thể ghi: “5 + 4 = 9
(con)”. (Lời giải đã có sẵn danh từ "gà"). Tuy nhiên nếu học sinh viết quá chậm

mà lại gặp phải các từ khó như "thuyền, quyển, ..." thì có thể lọc bớt danh từ cho
nhanh.
Giáo viên cần hiểu rõ lý do tại sao từ "con gà" lại được đặt trong dấu ngoặc
đơn? Đúng ra thì 5 + 4 chỉ bằng 9 thôi (5 + 4 = 9) chứ 5 + 4 không thể bằng 9 con
13


gà được. Do đó, nếu viết: "5 + 4 = 9 con gà" là sai. Nói cách khác , nếu vẫn muốn
được kết quả là 9 con gà thì ta phải viết như sau mới đúng: "5 con gà + 4 con gà =
9 con gà". Song cách viết phép tính với các danh số đầy đủ như vậy khá phiền
phức và dài dòng, gây khó khăn và tốn nhiều thời gian đối với học sinh lớp 1.
Ngoài ra học sinh cũng hay viết thiếu và sai như sau:
5 con gà + 4 = 9 con gà
5 + 4 con gà = 9 con gà
5 con gà + 4 con gà = 9
Về mặt toán học thì ta phải dừng lại ở 9, nghĩa là chỉ được viết 5 + 4 = 9
thôi. Song vì các đơn vị cũng đóng vai trò rất quan trọng trong các phép tính giải
nên vẫn phải tìm cách để đưa chúng vào phép tính. Do đó, ta mới ghi thêm đơn vị
"con gà" ở trong dấu ngoặc đơn để chú thích cho số 9 đó. Có thể hiểu rằng chữ
"con gà” viết trong dấu ngoặc ở đây chỉ có một sự ràng buộc về mặt ngữ nghĩa với
số 9, chứ không có sự ràng buộc chặt chẽ về toán học với số 9. Do đó, nên hiểu: 5
+ 4 = 9 (con gà) là cách viết của một câu văn hoàn chỉnh như sau: "5 + 4 = 9, ở
đây 9 là 9 con gà". Như vậy cách viết 5 + 4 = 9 (con gà) là một cách viết phù hợp.
Trong đáp số của bài giải toán thì không có phép tính nên ta cứ việc ghi: "Đáp số :
9 con gà" mà không cần ngoặc đơn.
e) Kiểm tra lại bài giải
Học sinh Tiểu học đặc biệt là học sinh lớp Một thường có thói quen khi làm
bài xong không hay xem, kiểm tra lại bài đã làm. Giáo viên cần giúp học sinh xây
dựng thói quen học tập này. Cần kiểm tra về lời giải, về phép tính, về đáp số hoặc
tìm cách giải hoặc câu trả lời khác.

3.4. Hướng dẫn học sinh các dạng bài toán có lời văn
Để giúp học sinh không nhầm lẫn khi thực hiện giải toán có lời văn, tôi đã
phân thành 2 nhóm dạng bài sau:
* Dạng toán thêm
- Đối với dạng bài tập cơ bản: GV hướng dẫn các em đọc kĩ đề bài toán. Nếu
bài toán nào có dữ kiện là: thêm, bay tới, chạy tới, đi tới…hoặc phần câu hỏi của
bài toán có cụm từ “ có tất cả ” thì bài toán đó ta làm phép tính cộng.
- Đối với dạng bài tập mở rộng ( dành cho HS học tốt ):
Mặc dù có dữ kiện “ kém, ít hơn…” nhưng vẫn làm tính cộng. Đối với dạng bài
này GV cần nêu rõ vì sao phải làm tính cộng để học sinh phân biệt. [4]
Ví dụ: Năm nay em 3 tuổi. Em kém anh 5 tuổi. Hỏi anh mấy tuổi?
Bài này nhiều HS chưa hiểu rõ nội dung bài toán. Vì vậy, GV cần gợi mở
giúp HS phân tích và hiểu nội dung bài toán: Năm nay em 3 tuổi. Em kém anh 5
tuổi. Có nghĩa là: Em 3 tuổi, anh hơn em 5 tuổi. Trong thực tế lúc nào tuổi anh
cũng hơn tuổi em. Nhờ gợi mở và phân tích bài toán như vậy mà HS hiểu và giải
14


bài toán một cách dễ dàng:
Số tuổi của anh là:
3 + 5 = 8 ( tuổi)
Đáp số : 8 tuổi
* Dạng toán bớt
- Đối với dạng bài tập cơ bản: GV hướng dẫn các em đọc kĩ đề bài toán. Nếu
bài toán nào có dữ kiện là: bớt, biếu, cho, tặng, ăn, cắt, bay đi, chạy đi…hoặc
phần câu hỏi của bài toán có cụm từ “ còn lại ” thì bài toán đó ta làm phép tính
trừ.
- Đối với dạng bài tập mở rộng ( dành cho HS học tốt ). [4]
Ví dụ: Năm nay mẹ 35 tuổi, mẹ hơn con 25 tuổi. Hỏi năm nay con bao nhiêu
tuổi ?

Khi đọc bài tập này nhiều em sẽ nhầm hơn thì sẽ làm phép tính cộng. Vì
vậy,
GV cần cho HS hiểu: Năm nay mẹ 35 tuổi, mẹ hơn con 25 tuổi có nghĩa là:
Con kém mẹ 25 tuổi. Trong thực tế lúc nào tuổi mẹ cũng hơn tuổi con. Nhờ gợi
mở và phân tích bài toán như vậy mà HS hiểu và giải bài toán một cách dễ dàng:
Số tuổi của con là:
35 - 25 = 10 ( tuổi)
Đáp số : 10 tuổi
Như vậy có trường hợp trong bài toán có từ nhiều hơn khi giải toán làm
phép tính trừ. Có trường hợp trong bài toán có từ kém khi giải làm phép tính cộng.
Đây là dạng toán nâng cao( dành cho HS học tốt ). Vì vậy muốn giải được bài
toán đúng GV phải yêu cầu HS đọc kĩ đề, phân tích và hiểu các ngôn ngữ trong
bài toán, có liên hệ với thực tế để HS nắm được các dạng toán. Nhờ đó mà tất cả
HS học tốt đều giải được bài toán.
4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
* Khảo sát cuối học kì 2, kết quả đạt được như sau:
Tổng số
HS
31

Tốt
SL
23

Hoàn thành
TL
71.9

SL
8


TL
25

Chưa hoàn thành
SL
0

TL
0

15


Từ bảng tổng hợp trên ta thấy chất lượng học sinh đạt hoàn thành cuối học kì
2 cao hơn hẳn so với cuối học kì 1. Ở cuối học kì 2 không còn học sinh chưa
hoàn thành. Hầu hết các em nhìn vào bài toán nêu được tóm tắt, nhìn vào tóm tắt
hiểu nội dung bài toán. Biết trình bày bài giải, các em tư duy được nhiều câu lời
giải khác nhau. Các em nắm chắc được kiến thức cơ bản của từng dạng toán. Đặc
biệt nắm được các bước khi giải toán.
III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
Quá trình nghiên cứu và kinh nghiệm dạy toán có lời văn theo chương trình
sách giáo khoa mới tôi nhận thấy về cơ bản nội dung sách giáo khoa và chương
trình khá phù hợp. Tất nhiên để có dược kinh nghiệm dạy giải toán có lời văn cho
HS lớp 1, người giáo viên phải dày công nghiên cứu tài liệu và dạy HS qua nhiều
năm, nắm bắt được điểm yếu của HS để tập trung khắc phục. Có như vậy mới đạt
được đích của việc đổi mới phương pháp dạy học.
Để học sinh làm tốt các bài toán về :“Giải toán có lời văn”Giáo viên cần:
- Nắm vững nội dung chương trình, cấu trúc sách giáo khoa về “Giải toán có

lời văn” ở lớp một để xác định được trong mỗi tiết học phải dạy cho học sinh cái
gì, dạy như thế nào?
- Rèn kĩ năng đọc và phân tích đề toán để nắm chắc dạng toán.
- Nhìn vào bảng tóm tắt bằng lời hoặc sơ đồ đoạn thẳng, hiểu được nội dung
bài toán. Nắm chắc các bước khi giải toán.
- Lấy học sinh làm trung tâm, tổ chức học sinh độc lập, sáng tạo. Dạy phân
hoá đối tượng học sinh, dạy mở rộng và nâng cao kiến thức ở buổi học thứ hai.
- Dạy theo chuẩn kiến thức kĩ năng. Động viên khuyến khích học sinh tìm
được nhiều câu lời giải ngắn gọn, có sáng tạo.
- Giáo viên thường xuyên trao đổi đồng nghiệp tìm ra phương pháp tối ưu
nhất. Giáo viên luôn sáng tạo trong việc đổi mới phương pháp dạy học,
- Phối kết hợp với gia đình, nhà trường để học sinh có phương pháp học tốt
nhất. Đạt được kết quả cao nhất.
Không có phương pháp dạy học nào là tối ưu hay vạn năng, chỉ có lòng
nhiệt tình, tinh thần trách nhiệm của người thầy với nghề nghiệp là mang lại kết
quả cao trong giảng dạy, là chiếc chìa khoá vàng tri thức để mở ra cho các em
cánh cửa khoa học vì một ngày mai tươi sáng. Đó là vinh dự và trách nhiệm của
16


người giáo viên. Trong khuôn khổ hạn hẹp của sáng kiến kinh nghiệm mà bản
thân tôi chiêm nghiệm, trăn trở bằng một tình yêu nghề nghiệp, hy vọng nó sẽ
cùng các bạn đồng nghiệp gần xa trao đổi để hoàn thành xứ mệnh vẻ vang mà
Đảng và nhà nước trao cho nghề thầy giáo.
Đối với học sinh lớp 1, các em thực sự là những mầm cây còn rất non nớt, để
có được một cây to, cây khoẻ, mỗi giáo viên dạy lớp Một ngoài việc uốn nắn,
buộc tỉa phải biết chăm sóc để các em được phát triển một cách toàn diện. Làm tốt
việc dạy “Giải toán có lời văn cho học sinh lớp 1” sẽ góp phần vô cùng quan trọng
để phát triển trí tuệ cho các em một cách tổng hợp. Từ đó các em sẽ có một nền
tảng vững chắc để học các môn học khác và tiếp tục học lên các lớp trên.

2. Kiến nghị
* Đối với nhà trường:
- Nhà trường (tổ chuyên môn) thường xuyên tổ chức chuyên đề nhằm đổi
mới và thống nhất phương pháp giảng dạy, áp dụng kinh nghiệm sáng kiến để giờ
học đạt hiệu quả.
- Nhà trường có kế hoạch phù đạo cho học sinh yếu để các em tiến bộ và
theo kịp các bạn.
* Đối với các cấp quản lí giáo dục:
Cần đầu tư quan tâm hơn nữa đến trang thiết bị dạy học, tài liệu tham khảo
các môn học nói chung và môn toán nói riêng để giờ học sinh động , nâng cao
hiệu quả dạy học.
Trên đây là một số kinh nghiệm của bản thân đó áp dụng thành công ở
trường Tiểu học Đông Tiến B, tôi xin được chia sẻ với các bạn đồng nghiệp. Rất
mong rằng sáng kiến kinh nghiệm này sẽ được áp dụng và phổ biến rộng răi để
chất lượng giáo dục ngày càng được nâng cao hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Đông Sơn, ngày 12 tháng 3 năm 2018
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết
không sao chép nội dung của người khác.
XÁC NHẬN CỦA
Người viết
THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Lê Thị Thu Huyền
17


TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Sách giáo khoa Toán lớp 1 của Nhà xuất bản Giáo dục, tháng 1 năm 2012.
[2]. Hướng dẫn sử dụng thiết bị dạy học tối thiểu lớp 1 của Bộ Giáo dục & Đào

tạo, tháng 12/2006.
[3]. Phương pháp dạy học các môn học ở lớp 1 tập 2 của Bộ Giáo dục & Đào tạo,
tháng 9/2007.
[4]. Nguồn tham khảo Internet.

18


19


MỤC LỤC

TT
I
1
2
3
4
II
1
2
3
3.1

Nội dung
PHẦN MỞ ĐẦU
Lý do chọn đề tài
Mục đích nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu

Phương pháp nghiên cứu
NỘI DUNG
Cơ sở lý luận
Thực trạng vấn đề
Một số biện pháp thực hiện
Hệ thống các mạch kiến thức có liên quan đến Giải toán có
lời văn.

Trang
1
1
1
1
1
2
2
2
3
3

3.2

Sử dụng có hiệu quả đồ dùng thiết bị dạy học

6

3.3

Nắm vững quy trình và các bước giải bài toán có lời văn.


7

3.4
4
III
1
2

Hướng dẫn học sinh giải các dạng bài toán có lời văn
Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Kết luận
Kiến nghị

14
15
16
15
17

20


DANH MỤC
CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG ĐÁNH GIÁ XẾP
LOẠI CẤP SỞ GD&ĐT XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN

Họ và tên tác giả: Lê Thị Thu Huyền
Chức vụ và đơn vị công tác: Giáo viên – Trường Tiểu học Đông Tiến B,
huyện Đông Sơn

Cấp đánh
giá xếp
loại
(Phòng,
Sở,
Tỉnh...)

Kết quả
đánh giá
xếp loại
(A, B,
hoặc C)

1

Cấp tỉnh

B

2

Cấp tỉnh

B

TT

Tên đề tài SKKN

Năm học

đánh giá
xếp loại

2014- 2015

21


22



×