Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

SKKN một số biện pháp nâng cao hiệu quả về việc rèn cho học sinh tiếp thu chậm môn toán lớp 5

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (104.19 KB, 16 trang )

1. MỞ ĐẦU
1.1 . LÍ DO CHỌN SÁNG KIẾN
Cũng như các môn học khác, môn Toán đóng một vai trò hết sức quan trọng
trong việc rèn tư duy lôgic cho học sinh. Môn Toán còn góp phần hình thành và rèn
luyện các phẩm chất, các đức tính cần thiết của người lao động mới trong xã hội
hiện đại. Vì vậy mỗi giáo viên chúng ta cần phải có trách nhiệm dạy học sao cho
học sinh của mình tiếp thu được những kiến thức và kĩ năng toán học mà chương
trình của Bộ GD-ĐT quy định cho từng cấp học. Tuy nhiên không phải mọi học
sinh đều có trình độ tiếp thu bài như nhau: có em tiếp thu bài rất nhanh nhưng lại
có em tiếp thu bài rất chậm. Các em học chậm là một điều khiến các giáo viên rất
trăn trở và lo lắng: lo lắng cho tỉ lệ lên lớp, lo lắng cho hiệu quả giảng dạy, lo lắng
cho việc chuẩn kiến thức và lo lắng cho cả việc học của các em sau này. Thế
nhưng, mấy ai quan tâm đến việc tìm biện pháp để phụ đạo học sinh yếu sao cho
hiệu quả. Phần đông các trường chỉ lo việc bồi dưỡng học sinh hoàn thành tốt Toán,
Tiếng Việt, Tiếng Anh… Học sinh đã tiếp thu nhanh rồi bồi dưỡng thêm cho giỏi
hơn để đi thi lấy thành tích cho trường. Còn học sinh tiếp thu chậm, lại ít được
quan tâm lại càng chậm thêm. Thực hiện cuộc vận động “Hai không” của ngành,
đặc biệt là chống việc học sinh ngồi nhầm lớp. Bản thân tôi được chủ nhiệm lớp 5
trong nhiều năm qua, các lớp do tôi chủ nhiệm có lực học không đồng đều, nhiều
em học toán rất chậm, hay chán học, thường làm việc riêng trong lớp, gây mất trật
tự, ảnh hưởng đến việc học của bạn, ảnh hưởng rất nhiều đến công tác giảng dạy
của tôi và làm mất nhiều thời gian cho tiết học toán. Tôi cố gắng khắc phục và tìm
ra một số biện pháp để nâng cao hiệu quả về việc rèn học sinh tiếp thu chậm môn
toán.
1.2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
- Để đạt được mục tiêu dạy học môn Toán ở lớp 5A.
- Để học sinh nắm vững kiến thức cũ và kiến thức mới, giúp các em hứng thú
trong học tập.
- Để đạt được mục tiêu giáo dục của nghành, đáp ứng nguyện vọng của giáo
viên, phụ huynh và học sinh.
1.3. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU


Phụ đạo học sinh tiếp thu môn toán chậm ở lớp 5A. Áp dụng cho việc dạy – học
ở khối lớp 5 trong trường.
1.4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1


* Nghiên cứu lí luận
-Tìm đọc tài liệu có liên quan đến việc giúp học sinh tiếp thu tốt môn Toán.
* Nghiên cứu thực tế
- Phương pháp điều tra, khảo sát, quan sát: tình hình thực tế của lớp và
trường….
- Phương pháp trò chuyện : Giữa giáo viên với giáo viên, giữa giáo viên với
học sinh.
- Một số phương pháp hỗ trợ khác: Đọc sách, tham khảo tài liệu…
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2. 1. Cơ sở lý luận:
- Xuất phát từ đổi mới phương pháp dạy – học Toán, góp phần hình
thànhphẩm chất tốt đẹp của người lao động trong giai đoạn công nghiệp hóa – hiện
đại hóa đất nước.
- Xuất phát từ mục tiêu dạy học Toán ở bậc Tiểu học và mục tiêu dạy học
Toán ở lớp 5.
- Mặt khác, xuất phát từ nhiệm vụ và chỉ tiêu phấn đấu cần đạt. Muốn vậy,
giáo viên chủ nhiệm phải dạy tốt tất cả các môn học, trong đó môn Toán là một
trong những môn quan trọng.
2.2. Thực trạng
Xuất phát từ thực tế kiểm tra chất lượng đầu năm và kết quả học tập môn
Toán hằng ngày trên lớp, có một số em tiếp thu bài chậm, có nhiều “lỗ hổng” kiến
thức, kỹ năng và phương pháp học tập Toán chưa tốt.
Qua khảo sát đầu năm học : 2017 - 2018
Tổng số học

Hoàn thành tốt
Hoàn thành
Cần cố gắng
SL
%
SL
%
SL
%
sinh
1
4%
6
26%
16
70%
23
Kết quả trên cho thấy, số học sinh tiếp thu chậm còn nhiều. Chính vì vậy
mà việc phụ đạo cho học sinh là vấn đề cần quan tâm. Muốn làm tốt công tác này
chúng ta cần phải làm gì? Đây cũng chính là câu hỏi mà bản thân cần phải tìm tòi
nghiên cứu. Từ những thực trạng trên thôi thúc bản thân tìm ra nguyên nhân dẫn
đến tình trạng “Học sinh tiếp thu bài còn chậm” là do đâu? để từ đó tìm ra biện
pháp phụ đạo cho học sinh đạt hiệu quả.
2.3. Một số biện pháp nâng cao hiệu quả về việc rèn cho học sinh tiếp
thu chậm môn toán lớp 5.
2.3.1. Tìm hiểu một số mặt yếu cơ bản môn Toán của học sinh lớp 5.
2


Phát hiện học sinh tiếp thu chậm việc làm đầu tiên là khảo sát chất lượng

môn Toán đầu năm, sau đó phân tích kĩ chất lượng của bài khảo sát đầu năm đó
theo tinh thần chỉ đạo của Sở GD-ĐT và của Phòng GD-ĐT. Đồng thời nắm bàn
giao chất lượng cụ thể từng em qua giáo viên lớp 4. Từ đó sớm phát hiện ra các
trường hợp học sinh và đi sâu tìm hiểu từng trường hợp cụ thể, phân tích nguyên
nhân đưa đến tình hình đó
Trong quá trình giảng dạy lớp 5A, tôi đã nhìn thấy được các mặt yếu cơ bản
của học sinh lớp 5A như sau: Chưa thuộc bảng nhân , chia. Hổng kiến thức cơ
bản, tính toán chậm. - Không biết chia số tự nhiên dẫn đến chia số thập phân không
được. - Không hiểu đề, không nắm dạng toán, không biết vận dụng công thức trong
giải toán.
2.3.2.Tìm hiểu nguyên nhân đẫn đến tình trạng trên
Nguyên nhân dẫn đến tình trạng tiếp thu chậm của học sinh. Từ các mặt cơ
bản trên đã giúp tôi nhận thấy rằng: học sinh tiếp thu chậm môn Toán cần được
quan tâm, hỗ trợ dạy học một cách đặc biệt. Thế nhưng một số giáo viên vẫn chưa
chú ý đúng mức đến đối tượng này, các hoạt động trên lớp thường nhằm vào
những em hoàn thành bài, hoàn thành bài tốt để tránh phải xử lí tình huống. Phần
củng cố bài của tiết toán thường có câu hỏi hoặc bài tập mở rộng kiến thức khiến
học sinh tiếp thu chậm thường bị bỏ quên. Việc điều chỉnh dạy học chưa được
thực hiện đều ở các tiết gây nặng nề, khó khăn cho học sinh. Mặt khác, chưa có sự
kết hợp chặt chẽ giữa giáo viên chủ nhiệm với gia đình học sinh nên giáo viên
chưa hiểu hết hoàn cảnh của từng em để có biện pháp phụ đạo. Ngoài ra, một số
em có hoàn cảnh khó khăn, đi học không đều, lười biếng và chưa chú tâm vào
việc học; một số em thiếu sự quan tâm của phụ huynh. Xác định rõ một trong
những nguyên nhân trên đối với mỗi học sinh tránh để tình trạng học sinh ngồi
nhầm lớp. Trong quá trình giảng dạy tôi đã suy nghĩ, trao đổi cùng đồng nghiệp,
đưa ra một số biện pháp để khắc phục tình trạng học sinh tiếp thu chậm về môn
Toán trong lớp, đem lại lòng tự tin và niềm hứng thú cho học sinh đối với việc học
Toán.
2.3.3. Lập kế hoạch, nội dung chương trình phụ đạo học sinh như sau.
a) Kế hoạch về thời gian: Thời gian phụ đạo ngoài giờ chủ yếu vào chiều thứ

ba và thứ năm.
- Thứ ba: Kiểm tra các kiến thức cơ bản bị hổng, làm bài tập ứng dụng.
3


- Thứ năm: Tổ chức đố em và trò chơi có nội dung toán học hoặc làm bài
luyện tập, bài khảo sát.
b) Kế hoạch thực hiện việc phụ đạo học sinh tiếp thu chậm: Lập kế hoạch
dạy học phù hợp đối với từng đối tượng học sinh:
* Tháng 9, 10: - Giúp các em học thuộc lại các bảng nhân chia, các công
thức, quy tắc và những ghi nhớ ở các lớp dưới có liên quan đến chương trình lớp
5 - Đồng thời ôn lại cách thực hiện các phép nhân chia số tự nhiên. Đặc biệt chú ý
phép chia cho 2, 3 chữ số, hướng dẫn các em biết ước lượng thương ở các lầnchia.
Tận dụng 15 phút đầu giờ mỗi buổi học để kiểm tra việc học thuộc của học sinh,
có đôi bạn kèm cặp giúp đỡ. Ngoài ra bạn giỏi cũng giúp bạn yếu thực hiện lại
phép chia. Mỗi tuần kiểm tra một mảng kiến thức được ôn tập, kết hợp các kiến
thức đó để làm bài tập.
* Tháng 11: - Ôn lại cách thực hiện những bài toán đơn giản bằng cách vận
dụng các quy tắc, công thức hoặc ghi nhớ như. Tính chu vi, diện tích các hình như:
hình vuông, hình chữ nhật, hình bình hành, hình thoi. Hoặc dựa vào dấu hiệu chia
hết để tìm các số. Hoặc dựa vào tính chất cơ bản của các phép tính để tính các dãy
tính: a + b = b + a; a x (b+c) = a x b + a x c …
- Giao bài tập đơn giản áp dụng các quy tắc, công thức và các ghi nhớ cần
ôn luyện. Bạn hoàn thành bài tốt kèm bạn tiếp thu chậm.
* Tháng 12, 1: Một số kinh nghiệm rèn học sinh tiếp thu chậm môn Toán
lớp 5 . Từ phép nhân chia số tự nhiên rèn học sinh nhân chia số thập phân. Nhắc
nhở các em chú ý cách chuyển dấu phẩy ở số chia số bị chia.
- Do việc hổng kiến thức nên các bài toán có lời văn các em học rất yếu. Đối
với một đề toán tôi giúp học sinh tìm hiểu đề bằng cách phân tích: dựa vào các đã
cho để tìm cái chưa biết và rút ra dạng toán. Tuỳ từng dạng toán giúp học sinh

nhớ lại cách giải của từng dạng, sau đó cho bài tập thực hành. - Để rèn cặp học
sinh thực hành giải toán có lời văn tôi thường ghi bài tập vào phiếu và kèm theo
một số câu hỏi để học sinh tự suy nghĩ, tìm tòi cách giải. Bài tập giao về nhà cho
các em làm, tôi yêu cầu phụ huynh kí vào phía dưới để có sự giám sát hay đốc
thúc kịp thời của gia đình
* Các tháng còn lại ở học kì II: Sau khi rèn cặp cho học sinh yếu bù đắp lại
những kiến thức bị hổng. Phân thời gian còn lại giúp các em học tiếp tục và kết
4


hợp các kiến thức mới của chương trình như: cách giải các bài toán về tỉ số phần
trăm, các bài toán về hình tam giác, hình thang, hình tròn, hình hộp,….

2.3.4. Gây hứng thú học tập cho các em
Trong những học sinh học yếu môn Toán có nhiều học sinh không hứng
thú học môn Toán. Vậy để kích thích học sinh có húng thú học môn Toán tôi
xác định điều đầu tiên quan trọng là phương pháp dạy của giáo viên. Dạy phát
huy tính tích cực của học sinh, dạy sát đối tượng bằng cách trong các giờ học
Toán tôi có các câu hỏi, bài tập phù hợp với từng đối tượng học sinh để cả học
sinh tiếp thu chậm cũng được làm việc, được tham gia vào cá hoạt động học
tập để tránh tình trạng học sinh tiếp thu chậm không được hoạt động dễ gây ra
nhàm chán, thụ động.
- Sử dụng phương pháp trực quan trong giảng dạy kết hợp hài hoà với các
phương pháp dạy học khác.
- Để tạo hứng thú cho các em học tập, tôi tạo ra không khí lớp học thoải
mái, nhẹ nhàng, không để học sinh sợ giáo viên và tạo ra nhiều trò chơi Toán
học như: giải đố toán; thi giải toán đúng, nhanh; lựa chọn các phép tính đúng
giải toán tiếp sức; chữ số bí ẩn; . . . tạo không khí vui vẻ, cởi mở mà vẫn học
tập tốt.
- Giúp học sinh tự tin rằng mình có thể học giỏi Toán như các bạn bằng

cách thường xuyên gọi học sinh báo cáo trước lớp kết quả làm việc của bản
thân hay của nhóm mình.
- Trong mỗi giờ học, hướng dẫn và kèm cặp các em thật tỉ mỉ, kĩ những
kiến thức kĩ năng cơ bản. Yêu cầu các em làm từng bài tập cho thật hoàn
chỉnh rồi mới chuyển sang bài sau, không ôm đồm đòi các em theo kịp các
bạn trong lớp.
- Xác nhận và động viên sự tiến bộ của học sinh dù là nhỏ nhất.
- Chú ý đôn đốc, nhắc nhở, dùng tập thể để động viên cổ vũ, giúp đỡ để
các em tự nhận biết và cố gắng học tập.
- Không lạm dụng trách phạt, sử dụng phương pháp kỉ luật tích cực đối
với những học sinh này. Nêu những tấm gương sáng về người nghèo nhưng
hiếu học và đã trở thành những người nổi tiếng để các em noi theo.

5


- Thường xuyên gần gũi, tìm hiểu, quan tâm lắng nghe mong muốn của
học sinh, tạo điều kiện cho học sinh nói lên những suy nghĩ của mình để giáo
viên nắm bắt được tâm sự, nguyện vọng, sở thích thái độ học tập của học sinh
từ đó sẽ có tác động đúng hướng kích thích các en học tập.
- Động viên kịp thời học sinh làm đúng, trả lời gần đúng bằng các câu nói
khích lệ, khuyến khích: Có cố gắng, gần đúng rồi, . . . Dùng phương pháp
nêu gương mỗi khi các em làm đúng bài tập, phép tính.
- Trực tiếp gặp gỡ gia đình để tìm hiểu hoàn cảnh của gia đình. Cùng gia
đình các em trao đổi, tháo gỡ khó khăn, tạo điều kiện cho các em học tập.
Trao đổi, kết hợp với phụ huynh học sinh chọn phương pháp thích hợp nhất
để thúc đẩy các em ham thích học tập và quản lí việc học ở nhà, từng bước
đưa các em vào nền nếp học tập.
- Trao phần thưởng cho từng học sinh có tiến bộ sau mỗi đợt thi đua.
- Khen ngợi, động viên kịp thời các em. Không chê và phân tích tỉ mỉ

những chỗ sai, chỗ yếu của từng em để các em biết cách khắc phục và tự tin
hơn trong học tập
- Thường xuyên kiểm tra việc làm bài tập của các em: ở lớp, ở nhà. Gọi
học sinh tiếp thu chậm lên bảng chữa bài, phát biểu và nhận xét bài nhiều lần.
- Trong khi báo cáo kết quả của hoạt động nhóm thường xuyên gọi các bạn
tiếp thu chậm đại diện nhóm phát biểu ý kiến trước lớp để tạo cho các bạn tự
tin trước tập thể, mạnh dạn trong học tập ; học sinh tiếp thu chậm có điều kiện
thể hiện mình trước lớp bằng những câu trả lời ngắn, những bài tập dễ chỉ áp
dụng công thức, quy tắc để học sinh tiếp thu chậm được cuốn hút vào các
hoạt động học tập.
2.3.5. Bù lấp chổ hổng kiến thức ; hướng dẫn một số thủ thuật tính toán,
phương pháp học Toán
– Kiến thức toán học được cấu trúc theo hướng đồng tâm xoáy trôn ốc.
Như vậy chỉ cần một chỗ hổng hay một vùng kiến thức nào của học sinh bị
thiếu đồng nghĩa với việc học sinh khó có thể tiếp thu được cái kiến thức tiếp
theo và đó là một nguyên nhân quan trọng dẫn đến học sinh học yếu môn
Toán. Như vậy trong quá trình giảng dạy môn Toán ngay từ đầu năm tôi

6


thường phát hiện những chỗ hổng mà học sinh mắc phải và kịp thời bù lấp
những chỗ hổng đó như:
2.3.6. Với chổ hổng về bảng cửu chương
- Cho học sinh ôn lại các bảng: Bảng nhân, bảng chia, cách cộng, trừ, . .
- Kiểm tra bảng cửu chương hàng ngày - có thể mỗi ngày thuộc một
bảng (đọc - viết ra giấy).
Ví dụ: Thứ hai thuộc bảng nhân 4.
Thứ ba thuộc bảng chia 4.
- Kiểm tra thường xuyên các bảng chủ yếu là bẳng nhân và chia của học

sinh tiếp thu chậm trong từng tiết học.
- Thực hành rèn luyện các kĩ năng nhân, chia thường xuyên.
2.3.7. Với chổ hổng về các dạng toán cơ bản (Học sinh quên cách giải
các dạng toán cơ bản ).
- Liệt kê lại các dạng toán của các lớp dưới ( Ví dụ đối với học sinh lớp
5 tôi liệt kê lại các dạng toán cơ bản của lớp 4).
Dạng toán trung bình cộng.
Dạng toán Tìm hai số khi biết tổng và hiệu của hai số đó.
Dạng toán Tìm hai số khi biết hiệu và tỉ của hai số đó.
Dạng toán Tìm hai số khi biết tổng và tỉ của hai số đó.
Dạng toán về hình học; Hình chữ nhật, hình vuông, hình bình hành,
hình thoi.
Hoặc một số dạng toán cơ bản của lớp 5 (Toán về tỷ số phần trăm, toán
tỷ lệ..)
- Nhắc lại cho học sinh cách giải từng dạng toán, phân biệt sự khác
nhau giữa các dạng toán và yêu cầu học sinh học thuộc.
Ví dụ: Ở lớp 5 học sinh thường nhầm lẫn 2 dạng toán về tỉ số phần
trăm: dạng tìm một số khi biết số phần trăm của nó và dạng toán tìm số phần
trăm của một số. Tôi cho học sinh giải đồng thời 2 bài toán sau:
Bài 1: Tìm 25 % của 120.
Bài 2: Tìm một số khi biết 50 % của nó là 120.
Học sinh đưa ra cách giải:
Bài 1:
25% số đó là: 120: 100 x 25 = 30
7


Bài 2:
Số phải tìm là: 120: 50 x 100 = 240
Tôi cho học sinh phân tích để học sinh tự thấy sự khác nhau của 2 dạng

toán ngay trong khi thực hiện bước chia cho 100 (bài 1) là để tìm 1% của 120
rồi mới nhân với 25 để tìm 25% của 120; và chia cho 50 (dạng 2) cũng để tìm
1% của 120 rồi nhân với 100 để tìm số phải tìm (vì số phải tìm là 100%).
Phân tích kỹ như vậy học sinh mới hiểu được bản chất của 2 dạng Toán và
không bị nhầm lẫn dạng 2 và dạng 3 của Toán tỷ số phần trăm.
- Cho học sinh giải đi giải lại nhiều bài tập có liên quan đến các dạng
toán đó.
- Thường xuyên kiểm tra bài làm của học sinh về các dạng Toán cơ bản
trong đó có so sánh đối chiếu các dạng toán; chấm chữa tỉ mỉ, chỉ ra chỗ sai
của học sinh đồng thời giải thích em đã sai do đâu, yêu cầu học sinh đó làm
lại nếu cần.
- Với những bài toán lời văn cần cho học sinh hiểu đề bài, phân tích tỉ
mỉ đưa ra hệ thống câu hỏi gợi mở để giúp học sinh biết cách giải.
2.3.8. Với chỗ hổng về kỹ năng và một số thủ thuật tính (thủ thuật nhân,
chia các số có nhiều chữ số) giáo viên cần hướng dẫn tỉ mỉ như :
+ Kĩ năng cộng, trừ các số có nhiều chữ số:
- Đặt tính đúng (các hàng phải thẳng cột với nhau).
- Thực hành tính từ phải sang trái, lần lượt từ trên xuống dưới.
- Thử lại để kiểm tra kết quả.
+ Kĩ năng nhân:
- Đặt tính.
- Thực hiện nhân: Viết các tích riêng thật đúng, thật thẳng hàng với
nhau. Mỗi tích riêng sau lùi sang trái một hàng so với tích riêng trước.
+ Kĩ năng chia:
Yêu cầu:
- Học sinh phải nắm thật chắc cách cộng, trừ, nhân các số có nhiều chữ
số.
- Học sinh có khả năng cộng, trừ, nhân nhẩm và biết ước lượng thương.
- Đặc biệt, các em còn hạn chế nhiều về kĩ năng tính toán nhất là phép
chia vì kĩ năng chia là tổng hợp kĩ năng tính toán (trong phép chia có cả cộng,

8


trừ, nhân, chia). Để rèn luyện thành thạo các kĩ năng cho học sinh, tôi luôn
hướng dẫn và yêu cầu học sinh nắm vững: Mối quan hệ giữa các phép tính
(giữa phép cộng và phép trừ, giữa phép nhân và phép chia, ....).
Để cho học sinh dễ tính toán và làm bài nhanh, cần cung cấp cho học sinh
thủ thuật che bớt hoặc làm tròn để các em ước lượng được nhanh hơn.
Ví dụ 2: Tính
628 : 49
Ta có thể hướng dẫn học sinh như sau:
- Làm tròn số bị chia và số chia (628 làm tròn thành 630; 49 làm tròn
thành 50 ).
- Nêu phép chia với các số vừa làm tròn ( 630 : 50 )
- Che chữ số 0 rồi ước lượng thương (che chữ số 0 còn 63 : 5, vậy
thương là 12).
- Thử vào phép chia.
628 49
138 12
40
Vậy 628 : 49 = 12 ( dư 40 ).
Với các phép tính với các số thập phân, cách tính tương tự các số tự
nhiên, khi các em đã thực hiện tốt các phép tính với số tự nhiên, giáo viên chỉ
cần lưu ý các em cách xử lí dấu phẩy cho phù hợp.
Các phép tính cộng, trừ với số thập phân: Lưu ý các em đặt các chữ số cùng
hàng thẳng cột với nhau, dấu phẩy ở tổng (hiệu) thẳng cột với dấu phẩy của
các số hạng (số bị trừ, số trừ).
- Phép nhân: Dấu phẩy được đánh bằng cách đếm các chữ số ở phần
thập phân của hai thừa số rồi dùng dấu phẩy tách ở tích ra bấy nhiêu chữ số
kể từ phải sang trái.

- Phép chia: Lưu ý học sinh xác định phần thập phân của số chia có bao
nhiêu chữ số, dịch chuyển dấu phẩy ở số bị chia sang phải bấy nhiêu chữ số
rồi bỏ dấu phẩy ở số chia.
- Thường xuyên kiểm tra các quy tắc tính trong từng bài, từng tiết học.
- Cho học sinh làm các bài tập giống các bài mẫu để học sinh nắm thật
chắc các kĩ năng tính toán. Sau đó cho học sinh vận dụng giải các bài có độ

9


khó cao hơn đòi hỏi sự so sánh, đối chiếu, . . . để học sinh nắm kĩ hơn về các
dạng toán.
2.3.9. Với kĩ năng ghi nhớ kém giáo viên cần cho học sinh thực hành
luyện tập nhiều lần một đơn vị kiến thức.
- Học sinh yếu kém thường chậm nhớ nhanh quên. Vì vậy nếu một kiến
thức mà học sinh chưa thành thạo thì học sinh rất dễ quên do đó tôi thường
tăng các bài tập cùng loại. Cho học sinh thực hành nhiều lần một kiến thức
dựa trên các bài mẫu (có thể thay số) nhằm tạo thành đường mòn thì học sinh
sẽ nhớ lâu, tăng các bài tập vào các giờ tự học, buổi hai,..
Ví dụ: Khi học toán tỷ lệ với học sinh yếu tôi cho giải bài toán “10
người làm xong một công việc hết 7 ngày. Nay muốn làm xong công việc đó
trong 5 ngày thì cần bao nhiêu người? (mức làm của mỗi người như nhau)”
Bài thứ 2 tôi chỉ cần cho học sinh tự thay số khác ra một đề toán mới và gải
như: “10 người làm xong một công việc hết 14 ngày. Nay muốn làm xong
công việc đó trong 7 ngày thì cần bao nhiêu người? (mức làm của mỗi người
như nhau)”
- Cho các em làm các bài toán gắn với thực tế cuộc sống, các bài toán
vui để các em dễ liên tưởng và hình dung. Sau đó cho học sinh thực hành làm
các bài tập dạng khác nhau đòi hỏi có sự tư duy cao hơn như: so sánh, đối
chiếu, phân tích nhưng phải đảm bảo tính vừa sức.

Ví dụ: Khi học toán tỷ lệ tôi cho học sinh đề bài “Lớp 5A trường Tiểu
học Thanh Sơn có 36 học sinh quét xong sân trường hết 40 phút. Nếu bổ
sung thêm 4 bạn học sinh nữa thì lớp 5A quét xong sân trường hết bao nhiêu
thời gian.(Mức làm của mỗi bạn là như nhau)”
- Trên lớp, giảng thật chậm, kĩ và hướng dẫn tỉ mỉ khi gặp những dạng
toán mới, khó, kiên trì không nóng vội.
2.3.10. Tận dụng ngay học sinh hoàn thành bài tốt, nhóm trưởng để
kèm cặp học sinh tiếp thu chậm, tăng cường hoạt động của hội đồng tự quản.
Trong một tiết học với thời lượng từ 35 đến 40 phút một giáo viên ngoài việc
tổ chức các hoạt động học tập cho học sinh cả lớp còn phải chú ý đến tất cả
các đối tượng học sinh trong lớp đặc biệt là học sinh hoàn thành tốt và học
sinh tiếp thu chậm, tuy nhiên thời gian có hạn nên lớp có quá nhiều học sinh
10


tiếp thu chậm thì giáo viên không có đủ thời gian để hướng dẫn tỷ mỷ đến tất
cả các em học sinh do đó đôi khi một số học sinh tiếp thu chậm bị bỏ rơi. Tôi
đặc biệt chú ý việc kiểm soát của nhóm trưởng và sự hướng dẫn của nhóm
trưởng với học sinh tiếp thu chậm.
- Giao cho hội đồng tự quản, trưởng ban học tập, nhóm trưởng thường
xuyên kèm cặp hướng dẫn, kiểm tra việc học của các học sinh này.
- Nhóm trưởng thường xuyên kiểm tra việc chuẩn bị của các bạn học
sinh yếu qua giờ truy bài, hoặc trong mỗi giờ học, chỉ ra chỗ sai hoặc giảng
lại chỗ bạn chưa hiểu, yêu cầu bạn tự làm bài hoặc làm lại bài khi sai. Nhóm
trưởng, trưởng ban học tập có thể trao đổi lại với giáo viên chủ nhiệm về bạn
mình được phân công kèm cặp khi cần.
- Trong hoạt động nhóm tôi tư vấn cho nhóm trưởng thường xuyên gọi
các bạn tiếp thu chậm đại diện cho nhóm báo cáo ý kiến thảo luận của nhóm
mình. Phân cho nhóm trưởng kiểm tra, giúp đỡ việc chuẩn bị bài, hướng dẫn
các bạn còn chậm trong quá trình làm bài tập, vận dụng lí thuyết vào thực

hành.
2.3.11. Thường xuyên theo dõi, kiểm tra học sinh tiếp thu chậm.
- Thường xuyên theo dõi ý thức, thái độ học tập của các em phát hiện
kịp thời những học sinh có biểu hiện lười học, chán học để có biện pháp giáo
dục phù hợp.
- Hàng tháng, hàng tuần phải theo dõi sát sao kiến thức mà các em lĩnh
hội, nếu đơn vị kiến tức nào học sinh chưa hiểu giáo viên bù lấp và hướng dẫn
ngay tránh trường hợp giáo viên buông lỏng việc theo dõi học sinh tiếp thu
chậm dể học sinh chồng chất những kiến thức chưa hiểu thì học sinh không
thể học những kiến thức mới được.
- Thường xuyên tự ra đề để khảo sát học sinh tiếp thu chậm, chấm, chữa tỷ
mỷ, chỉ ra lỗi sai và yêu cầu học sinh làm lại khi cần.
2.3.12. Kết hợp với cha mẹ học sinh, tổ chức học ở nhà cho học sinh.
Qua các buổi họp phụ huynh học sinh, các buổi thăm nhà học sinh giáo
viên chủ nhiệm cùng cha mẹ các em trang trí lại góc học tập, lên thời gian
biểu cho các em học ở nhà, giáo dục cho các em tự giác học bài ở nhà.

11


Ví dụ: Chủ nhật tuần này đến thăm gia đình em A (là học sinh yếu
Toán) sau khi trao đổi, bàn bạc với phụ huynh, giáo viên cùng phụ huynh sắp
xếp lại góc học tập cho các em, góc học tập là nơi có đủ ánh sáng, không gần
ti vi và nơi tiếp khách của bố mẹ, Sau đó lên lịch cho các em tự học.
* Một số công việc cho học sinh ôn tập ở nhà Khi hướng dẫn học tập ở
nhà tôi cân nhắc giao việc phù hợp cho từng đối tượng học sinh: - Bài tập
dành cho học sinh hoàn thành tốt. Bài tập dành cho học sinh trung bình, cần
cố gắng. Ở nhà, tôi cũng tổ chức cho học sinh hoàn thành bài tốt thường
xuyên giúp đỡ các bạn tiếp thu chậm. Tôi sắp xếp các em gần nhà nhau thành
một nhóm, cử nhóm trưởng. Nhóm trưởng có nhiệm vụ nhắc nhở, kiểm tra

việc học bài, làm bài của các bạn và báo cáo với giáo viên chủ nhiệm vào đầu
mỗi buổi học. Tôi kiên trì uốn nắn, sửa sai cho các em từ chữ viết, cách trình
bày bài làm đến việc không làm nháp, cẩu thả, làm bài xong không thử lại.
Mỗi tuần một vài lần tôi chọn nhà của một học sinh tiếp thu chậm để đến
thăm phụ huynh nhờ sự hỗ trợ của gia đình và giúp đỡ các em học nhóm sao
cho có hiệu quả. Bên cạnh đó, trong buổi họp phụ huynh đầu năm tôi cũng
trình bày rõ các mặt yếu của các em qua tìm hiểu giáo viên chủ nhiệm năm
trước khi nhận bàn giao chất lượng học sinh; hoặc qua bài kiểm tra chất lượng
đầu năm, qua theo dõi học sinh vào những tuần đầu để nhờ sự quan tâm giúp
đỡ của phụ huynh. Đồng thời đề nghị các phụ huynh tạo cho các em một góc
học tập và lập cho các em một thời gian biểu học ở nhà. Đối với các em có
hoàn cảnh, điều kiện gia đình khó khăn. Do thiếu thốn vật chất lẫn tinh thần,
các em hay nghỉ học dẫn học dẫn đến yếu. Sau khi tìm hiểu hoàn cảnh gia
đình của học sinh, tôi đã vận động các em trong lớp quyên góp sách vở, một
số dụng cụ học tập để giúp đỡ các em. Mặt khác, tôi đề nghị với Ban giám
hiệu nhà trường hỗ trợ cho các em. Đồng thời đến thăm gia đình em để gây
thiện cảm và đề nghị phụ huynh tạo điều kiện cho em đi học đều và được
tham gia học phụ đạo.
Đối với các em do ham chơi, chây lười, không được phụ huynh quan
tâm dẫn đến yếu. Bước đầu tôi gần gũi, khuyên bảo, nêu những gương học tập
tốt cho các em thấy. Bố trí thời gian kèm cặp, luôn khích lệ động viên để các
em vươn lên; đồng thời hình thành dần phương pháp học toán cho các em.
12


Tóm lại: Đối với đối tượng này cần có sự kết hợp chặt chẽ với phụ
huynh học sinh nhằm quản lí việc học ở nhà; cộng với sự kiểm tra nhắc nhở
việc học ở lớp để dần dần đưa các em vào nền nếp học tập. Ngoài ra, sau mỗi
đợt kiểm tra định kì tôi đã dùng phiếu liên lạc để thông tin kết quả học tập của
học sinh và nhận lại sự phản hồi của phụ huynh học sinh; sau đó tôi tìm cách

giúp học sinh rèn luyện thêm.
Công tác phói hợp: Các em học tiếp thu chậm là do nhiều nguyên nhân
khác nhau. Do đó, học sinh tiếp thu chậm không phải chỉ nhờ sự rèn cặp của
giáo viên chủ nhiệm mà cần phải có sự cộng tác hỗ trợ của các bạn học sinh
trong và ngoài lớp, của cha mẹ học sinh và của cả một số ban ngành, đoàn thể
trong nhà trường nữa. Bạn bè giúp đỡ các em khi học tổ, học nhóm; phụ
huynh chăm sóc, động viên và quan tâm đến việc học của con em mình khi ở
nhà. Còn đối với ban ngành đoàn thể trong trường thì tôi đã đề nghị và kết
hợp với tổng phụ trách Đội tạo sân chơi cho các em học bằng cách tổ chức
các cuộc thi dành cho các em (Ví dụ như: Thi bông hoa tiến bộ thay cho bông
hoa điểm 9,10. Hoặc tổ chức đố vui học tập trong giờ sinh hoạt). Từ đó, gây
hứng thú cho học sinh để các em thích học toán hơn. Đồng thời, tôi đã kết
hợp với Ban giám hiệu , các giáo viên trong khối bàn biện pháp giúp đỡ học
sinh tiếp thu chậm. Tổ chức thi đua học tập giữa các em học sinh này với
nhau để giúp các em phấn đấu vươn lên trong học tập. Sau những lần tổng kết
các cuộc thi tôi đã báo cáo kết với Ban giám hiệu, Công đoàn và Đội để tuyên
dương, động viên vào những buổi sinh hoạt dưới cờ.
* Một số công việc ở lớp: Trong lớp, rèn luyện xuyên suốt trong các tiết
toán ở lớp. Lấy một số hoạt động tập thể để sinh hoạt vui chơi toán học.
Trong mỗi tiết dạy ở lớp, tôi chú ý đến học sinh tiếp thu chậm, quan tâm
và giúp đỡ các em đó nhiều hơn bằng cách điều chỉnh các bài tập sao cho sát
đối tượng, dành cho học sinh một số bài tập khác với học sinh Hoàn thành
tốt; tuy nhiên việc chọn bài cũng phải dựa vào chuẩn kiến thức. Hoặc một số
câu hỏi và bài tập ứng dụng kiến thức cơ bản thường gọi học sinh tiếp thu
chậm trả lời và làm bài tập, tuy thời gian có kéo dài hơn một tí. Khi các em
trả lời đúng, làm bài tập đúng, giáo viên khen ngợi động viên và các bạn trong
lớp vỗ tay tán thưởng. Những công thức, ghi nhớ không có trong sách giáo
13



khoa mà được rút ra từ những bài tập mẫu, tôi đề nghị các em ghi chép vào sổ
tay để học thuộc.
* Một số công việc khi dạy phụ đạo ngoài giờ Trong các buổi dạy phụ
đạo ngoài giờ, hoàn toàn là do giáo viên chủ nhiệm phụ trách, các em được ôn
tập lại một số kiến thức cũ ở các lớp dưới và một số kiến thức mới đã học
trong tuần; sau đó làm bài tập áp dụng. Ngoài ra, để gây hứng thú cho các em
học tập, tôi thường xuyên tổ chức “Hội vui học tập” vào các tiết hoạt động tập
thể. Trong đó có các tiết mục như: hái hoa dân chủ, đố em, tổ chức trò chơi có
lồng nội dung toán học Ví dụ:
- Cho học sinh chuẩn bị câu đố toán học trước ở nhà với nội dung nằm
trong kiến thức đã học để đố bạn. Hoặc bốc thăm câu hỏi và trả lời dưới dạng
hái hoa dân chủ do giáo viên chuẩn bị.
-Tổ chức trò chơi “Ai nhanh hơn” đi tìm chỗ sai, giải nhanh bài toán hay
trò chơi “Đi tìm ngọc quý” mà ngọc quý chính là số chưa biết hay một kết
quả của bài toán.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến.
Qua khảo sát lần 2 ở lớp 5A ( cuối học kì II kết quả so với đầu năm thì các
em tiến bộ rất nhiều. Cụ thể như sau:
Tổng số Hoàn thành tốt
%
học sinh SL
23
10
43%

Hoàn thành
SL
%
13
57%


Cần cố gắng
SL
0

%
0

3. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT
3. 1. Những bài học kinh nghiệm : Từ kết quả đạt được sau khi áp dụng sáng
kiến trên, toàn bộ giáo viên trong tổ khối 5, trong trường đã rút ra bài học kinh
nghiệm bổ ích sau:
- Giáo viên phải nắm chắc chương trình, có kế hoạch giảng dạy phù hợp.
- Giáo viên cần phải nhiệt tình theo dõi sát học sinh để kịp thời bồi dưỡng, phụ
đạo.
- Giáo viên phải nắm rõ từng đối tượng học sinh, phát hiện những chỗ hổng kiến
thức của học sinh để có kế hoạch phụ đạo kịp thời
- Giáo viên cần có nhiều hình thức tổ chức dạy học để học sinh học tập nhẹ
nhàng.
14


- Giáo viên phải luôn luôn tự học tự rèn để có kiến thức vững vàng, giúp học
sinh học tập có kết quả.
- Giáo viên nên động viên, khen ngợi kịp thời các học sinh có tiến bộ nhằm
thúc đẩy tinh thần thi đua học tập của các em.
3.2. Kết luận : Tóm lại, đối với học sinh tiếp thu môn Toán chậm thì việc quan
tâm của giáo viên đến từng học sinh và phương pháp giảng dạy sát đối tượng, đáp
ứng đúng những thiếu sót của học sinh về kiến thức, kĩ năng sẽ giúp các em dần
dần đáp ứng được yêu cầu về chất lượng học tập môn Toán ở cấp Tiểu học. Mặt

khác, giáo viên còn phải luôn lưu tâm đến những em tiếp thu chậm môn toán, luôn
dành cho các em một sự ưu ái, một nguồn kích lệ, động viên, những lời chỉ bảo ân
cần. Có như thế, các em mới tiến bộ, “thoát yếu”. Và sự tiến bộ của các em trong
học tập là phần thưởng vô giá đối với tôi. Trên đây tôi đã giới thiệu một số biện
pháp trong việc phụ đạo hoc sinh tiếp thu chậm về môn Toán lớp 5A. Tôi rất mong
nhận được những ý kiến!
3. Đề xuất
Kiến nghị lãnh đạo Phòng giáo dục, sớm có chỉ đạo cho các cụm chuyên môn
tổ chức các chuyên đề về giáo dục học sinh tiếp thu bài chậm, đó cũng là cơ hội
cho giáo viên được trao đổi, học tập lẫn nhau những kinh nghiệm giáo dục học
sinh đạt hiệu quả .
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Xuân Bình, ngày 10 tháng 4 năm 2018
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết,
không sao chép nội dung của người khác.
Người viết

Lê Thị Lợi

DANH MỤC
CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG ĐÁNH
GIÁ XẾP LOẠI CẤP PHÒNG GD&ĐT, CẤP SỞ GD&ĐT VÀ CÁC CẤP
CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN

15


Họ và tên tác giả: Lê Thị Lợi
Chức vụ và đơn vị công tác: Giáo viên Trường Tiểu học Thanh Sơn

Cấp đánh giá
xếp loại
TT
Tên đề tài SKKN
(Phòng, Sở,
Tỉnh...)
1. Một số giải pháp nâng cao
PGD Huyện
hiệu quả dạy TN và XH lớp 4 Như Xuân
( Khoa học , Lịch sử, Địa lí)
2. Một số giải pháp nâng cao
PGD Huyện
hiệu quả dạy Luyện từ và câu Như Xuân
lớp 5
3. Một số giải pháp nâng cao
PGD Huyện
hiệu quả dạy môn đạo đức
Như Xuân
lớp 5
4. Một số biện pháp nâng cao
PGD Huyện
hiệu quả dạy số thập phân
Như Xuân
cho học sinh lớp 5
5. Một số biện pháp rèn kĩ năng PGD Huyện
sống cho học sinh lớp 5
Như Xuân

16


Kết quả
đánh giá
xếp loại (A,
B, hoặc C)
C

2005 - 2006

B

2009 - 2010

C

2011 - 2012

C

2013 - 2014

B

2015 - 2016

Năm học
đánh giá
xếp loại




×