Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

SKKN một số kinh nghiệm giúp học sinh lớp 3 học tốt dạng toán có liên quan đến rút về đơn vị

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (137.45 KB, 20 trang )

MỤC LỤC
Nội dung

Trang

1. MỞ ĐẦU……………...........................................................................1
1.1. Lí do chọn đề tài..................................................................................1
1.2. Mục đích nghiên cứu...........................................................................2
1.3. Đối tượng nghiên cứu..........................................................................2
1.4. Phương pháp nghiên cứu.....................................................................2
1.5.Những điểm mới của SKKN................................................................3
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM..........................................3
2.1. Cơ sở lí luận của SKKN......................................................................3
2.2. Thực trạng vấn đề nghiên cứu.............................................................4
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề.............. ……………7
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm ................................................15
3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ………………………………………........16
3.1. Kết luận……………………………………………………………..16
3.2. Kiến nghị……………………………………………………………17


1.MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài:
Giáo dục trẻ em là một nhiệm vụ vô cùng quan trọng mà cả xã hội quan tâm,
bởi “ Trẻ em hôm nay, thế giới ngày mai ”. Để ngày mai có những người chủ xứng
đáng, xã hội có những công dân tốt, là nhờ công lớn của ngành Giáo dục, nhất là
trong thời đại 4.0 ngày nay. Nền GD – ĐT cần phải đáp ứng kịp thời nguồn nhân
lực, có sức khỏe, có kiến thức khoa học kỹ thuật phục vụ cho đất nước. Nguồn lực
đó chính là con người. Hiện nay, sự nghiệp giáo dục đào tạo ở Việt Nam nói chung
và việc giảng dạy ở Tiểu học nói riêng được mọi tầng lớp nhân dân quan tâm, bởi
Tiểu học là bậc học đặt nền móng cho các bậc học tiếp theo. Trong đó cùng với các


môn học khác ở bậc Tiểu học, môn Toán có vai trò vô cùng quan trọng trong việc
hình thành nhân cách cho học sinh, vì môn Toán là môn học mang tính khoa học,
nghiên cứu một số mặt của thế giới hiện thưc. Nó giúp học sinh nhận biết được số
lượng và hình dạng không gian của thế giới hiện thực, nhờ đó mà học sinh có
những phương pháp, kỹ năng cơ bản để nhận thức một số mặt của thế giới xung
quanh. Môn toán còn góp phần rèn luyện phương pháp suy luận logic, suy nghĩ đặt
vấn đề và giải quyết vấn đề; góp phần phát triển óc thông minh, tư duy độc lập, linh
động, sáng tạo cho học sinh. Điều đó rất cần thiết cho đời sống sinh hoạt và lao
động. Đồng thời cần thiết để học các môn học khác và học tiếp Toán ở bậc Trung
học.
Như chúng ta đã biết, căn cứ vào sự phát triển tâm, sinh lí của học sinh Tiểu
học mà cấu trúc nội dung môn Toán rất phù hợp với từng giai đoạn phát triển của
học sinh. Ở lớp 3, các em được học các kiến thức, kĩ năng ở thời điểm kết thúc của
giai đoạn 1, chuẩn bị học tiếp giai đoạn sau, cho nên các em phải nắm chắc được tất
cả các cơ sở ban đầu về giải toán nói riêng, tất cả các kĩ năng khác nói chung. Đặc
biệt, ở lớp 3 sang học kì II, các em bắt đầu được làm quen với các dạng toán hợp
cơ bản, trong đó có dạng toán liên quan rút về đơn vị. Dạng toán này có vị trí rất
quan trọng trong chương trình Toán ở trường tiểu học, bởi nó bộc lộ mối quan hệ
qua lại với các môn học khác và mạch kiến thức toán ở các lớp 4,5. Nó góp phần
vào hình thành và phát triển nhân cách của học sinh, giúp học sinh củng cố, khắc
sâu kiến thức, phát triển tư duy tổng hợp và ứng dụng cao trong thực tế. Nó đòi hỏi
các em phải có kĩ năng giải toán tốt, kĩ năng ứng dụng trong thực tế hàng ngày.
Qua thực tế giảng dạy ở các khối lớp, đặc biệt nhiều năm giảng dạy khối 3, tôi
thấy: hầu hết các em nắm được kĩ năng giải toán của giáo viên truyền đạt tới như là
một văn bản của lí thuyết, và nó có ứng dụng vào thực tế như thế nào thì chưa cần
biết. Đó là điều băn khoăn, suy nghĩ cho mỗi giáo viên chúng ta. Có những bài toán
các em làm xong, không cần thử lại, không cần xem áp dụng vào thực tế có đúng
không, cứ để kết quả như vậy mặc dù có thể sai. Ví dụ : khi giải bài toán tính tuổi
mà tuổi bố hoặc mẹ lại ít hơn tuổi con, hay tính số đơn vị còn lại mà nhiều hơn
tổng đơn vị lúc ban đầu…Một số em làm đúng nhưng là học vẹt, nhớ vẹt, không

2


hiểu bản chất của dạng toán, bài toán, nên nhanh quên. Đó là những tác hại lớn khi
học toán. Mặt khác một số giáo viên khi dạy toán còn chưa trú trọng phát huy tính
tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh. Chưa giúp học sinh tập nêu các nhận xét
hoặc các quy tắc ở dạng khái quát nhất định mà đây chính là cơ hội phát triển năng
lực trừu tượng hóa, khái quát hóa trong học toán cuối giai đoạn 1 ở Tiểu học, một
số còn ngại đổi mới phương pháp dạy học.
Xuất phát từ tình hình thực tế như vậy nên qua quá trình giảng dạy ở lớp 3
nhiều năm, tôi nghĩ việc hướng dẫn học sinh lớp 3 giải tốt các bài toán có liên quan
đến rút về đơn vị là việc làm cần thiết nhằm góp phần nâng cao hiệu quả giải toán
cho học sinh và góp phần tích cực trong phong trào đổi mới PPDH nâng cao chất
lượng dạy và học. Vì vậy tôi đã tập trung nghiên cứu, thực hành và rút ra “Một sô
kinh nghiệm giúp các em học sinh lớp 3 học tôt dạng toán liên quan đến rút vê
đơn vị ”. Kính mong đồng nghiệp và các cấp lãnh đạo góp ý, để SKKN được hoàn
thiện hơn!
1.2. Mục đích nghiên cứu :
Dựa trên thực trạng dạy và học môn toán ở lớp 3 nói chung, bài toán liên quan
đến rút về đơn vị nói riêng, tôi đã tích lũy được một số kinh nghiệm muốn giúp
giáo viên nắm vững quy trình giải bài toán liên quan đến rút về đơn vị. Từ đó giúp
cho việc giảng dạy dạng toán này đạt hiệu quả cao hơn, góp phần hình thành cho
học sinh kỹ năng tính toán chính xác trong cuộc sống, tránh những sai sót có thể
xảy ra. Tạo cho các em có tác phong học tập và làm việc có suy nghĩ, có kế hoạch,
có kiểm tra, có tinh thần hợp tác, độc lập và sáng tạo, có ý chí vượt khó khăn, cẩn
thận, kiên trì, tự tin. Giúp các em yêu thích Toán học, cũng như tích lũy kiến thức
cho các lớp học trên.
1.3. Đối tượng nghiên cứu:
- Nội dung và phương pháp dạy học Toán 3, Dạng toán giải bài toán liên quan đến
rút về đơn vị,

- Giáo viên và học sinh lớp 3A trường Tiểu học Phú Lộc.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu và thực hiện đề tài này tôi đã sử dụng một số
phương pháp sau:
- Phương pháp nghiên cứu, lí luận: Nghiên cứu các tài liệu có liên quan.Tìm hiểu
sách giáo khoa; sách giáo viên; chương trình bồi dưỡng giáo viên; sách tham
khảo…
- Phương pháp điều tra khảo sát: Điều tra khảo sát học sinh thông qua làm bài tập.
- Phương pháp phân tích tổng hợp: Kiểm tra chất lượng qua mỗi giai đoạn. Phân
tích tổng hợp kết quả ở từng giai đoạn.
- Phương pháp luyện tập thực hành: giáo viên ra bài tập để học sinh luyện tập thực
hành.

3


- Phương pháp thống kê: giáo viên thống kê dạng bài và tình hình thực trạng học
tập của học sinh.
1.5. Những điểm mới của SKKN.
- SKKN được trình bầy khoa hoc, logic, dễ hiểu hơn.
- Trên cơ sở của SKKN trước, SKKN lần này có tính đột phá, phù hợp và nâng cao
được hiệu quả, chất lượng hơn trong quá trình thực hiện giảng dạy dạng toán; có
liên quan đến rút về đơn vị cho HS lớp 3.
- Các giải pháp đưa ra trong SKKN lần này cụ thể, tường minh, chi tiết và có hiệu
quả sử dụng cao.
- Thiết thực đối với giáo viên, nhằm nâng cao chất lượng dạy và học nói chung và
dạy khối 3 nói riêng.
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm.
Quá trình dạy học Toán 3 phải góp phần thiết thực vào việc hình thành

phương pháp suy nghĩ, phương pháp học tập và làm việc tích cực, chủ động, khoa
học, sáng tạo cho học sinh. Cho nên, giáo viên cần tổ chức hoạt động học tập
thường xuyên tạo ra các tinh huống có vấn đề, tìm các biện pháp lôi cuốn học sinh
tự phát hiện và giải quyết vấn đề bằng cách hướng dẫn học sinh tìm hiểu kĩ vấn đề
đó, huy động các kiến thức và các công cụ đã có để tìm ra con đường hợp lí nhất
giải đáp từng câu hỏi đặt ra trong qua trình giải quyết vấn đề, diễn đạt các bước đi
trong cách giải, tự mình kiểm tra lại các kết quả đã đạt được. Tuy nhiên, để tổ chức
được các hoạt động học tập, giáo viên cần xác định được: Nội dung dạng toán, bài
toán cần cho học sinh lĩnh hội là gì? Cần tổ chức các hoạt động như thế nào? Dạy
học giải toán có lời văn là một trong những con đường hình thành và phát triển
trình độ tư duy của học sinh. Các em biết phát hiện và tự giải quyết vấn đề, tự nhận
xét so sánh, phân tích , tổng hợp, rút ra quy tắc ở dạng khái quát nhất định. Mặt
khác, người giáo viên phải thường xuyên chia sẻ, thảo luận cùng các đồng nghiệp
để rút kinh nghiệm về phương pháp giảng dạy sao cho hiệu quả nhất.
Nội dung dạy giải toán ở lớp 3 được sắp xếp hợp lí, đan xen và tương hợp
với mạch kiến thức khác, phù hợp với sự phát triển nhận thức của học sinh lớp 3.
Nên giáo viên phải chủ động tổ chức, hướng dẫn học sinh hoạt động theo chủ đích
nhất định với sự trợ giúp đúng mức của giáo viên, của sách giáo khoa và đồ dùng
dạy học, để mỗi cá nhân học sinh tự “ khám phá” phát hiện và tự giải quyết bài toán
thông qua việc biết thiết lập mối quan hệ giữa kiến thức mới, với các kiến thức liên
quan đã học, với kinh nghiệm của bản thân. Đây là các cơ sở để các em giải tốt
dạng toán rút về đơn vị nói riêng, học giải dạng toán hợp nói chung.

4


Phương pháp dạy học môn Toán có liên quan chặt chẽ với khoa học toán học.
Phương pháp dạy học Toán ở Tiểu học là sự vận dụng các phương pháp dạy học
toán nói chung cho phù hợp với mục tiêu, nội dung, các điều kiện dạy học ở
Tiểu học. Do đặc điểm nhận thức của học sinh Tiểu học, trong quá trình dạy học

Toán giáo viên thường phải vận dụng linh hoạt các phương pháp trực quan, thực
hành, gợi mở, vấn đáp, giảng giải,…tùy theo mức độ ở từng lớp. Nội dung dạy bài
toán có liên quan đến rút về đơn vị ở lớp 3 được chia thành 2 kiểu bài đó là: Bài
toán có liên quan đến rút về đơn vị bằng 2 phép tính chia, nhân ( Kiểu bài 1 ), bài
toán có liên quan đến rút về đơn vị bằng 2 phép tính chia, chia ( Kiểu bài 2 ) được
sắp xếp hợp lý, đan xen phù hợp với quá trình học tập của học sinh. Vì thế việc
hình thành và rèn luyện kỹ năng giải bài toán có liên quan đến rút về đơn vị cho
học sinh lớp 3 là hết sức cần thiết. Nó có tác dụng mạnh mẽ trong việc rèn luyện kỹ
năng giải toán ngày một nâng cao đồng thời bồi dưỡng phẩm chất đạo đức cho học
sinh. Nhìn lại quá trình giảng dạy dạng toán liên quan đến rút về đơn vị, về cơ bản
thì ai cũng cho rằng các em dễ tiếp thu, dễ làm bài, dễ nhớ ít sai. Nhưng đi sâu hơn
nữa, theo cái nhìn chủ quan của tôi, với dạng toán này các em cũng có những nhầm
lẫn đáng tiếc nếu như các em không nắm chắc đặc điểm cơ bản, phương pháp giải
cơ bản của hai kiểu bài trong dạng toán này. Nếu hướng dẫn học sinh từng kiểu bài
một trong một tiết thì các em làm bài gần như theo khuôn mẫu, ít sai sót. Nếu
hướng dẫn học sinh luyện tập song song cả hai kiểu bài hoặc học xong cả hai kiểu
bài rồi, mà các em không nắm vững sẽ sai, nhầm dễ dàng. Điều này sẽ xảy ra với
các em lực học trung bình, trung bình yếu. Cho nên, việc nghiên cứu phương pháp
giúp các em giải tốt dạng toán này ở lớp 3 sẽ phải dần từng bước được khắc phục,
đổi mới, kích thích học tập theo nhận thức chủ đạo của học sinh thì chất lượng mới
cao, phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo ở tất cả học sinh.
2.2. Thực trạng vấn đề nghiên cứu:
+ Thực trạng chung:
Đơn vị trường Tiểu học Phú Lộc nơi tôi ở đa số người dân làm nghề nông.
Nhiều gia đình cả bố mẹ đi làm ăn xa để kiếm sống, rồi để con ở nhà với ông bà.
Có nhiều phụ huynh chưa thực sự quan tâm đến việc học của các em, phụ huynh
học sinh phó mặc con mình cho thầy cô giáo. Chính vì vậy việc dạy học gặp không
ít khó khăn song với lương tâm trách nhiệm của một nhà giáo tôi cố gắng theo dõi
và kèm cặp truyền đạt kiến thức cho các em.
Năm học 2018-2019, tôi được Ban giám hiệu phân công chủ nhiệm lớp 3A.

Sĩ số 26 học sinh(có 11 nữ). Đối tượng học sinh của lớp là yếu và trung bình khá,
có hoàn cảnh khó khăn 3 em. Tôi thấy có những thuận lợi và khó khăn sau:
+ Thuận lợi:
- Môn Toán là môn học mà phần đông học sinh hiện nay ham học.
- Phần lớn các em là những học sinh mạnh dạn, tự tin trong giao tiếp.

5


- Nội dung chương trình môn Toán lớp 3 phù hợp với khả năng tiếp thu của học
sinh. Đây là một trong những điều kiện thuận lợi cho việc học tốt môn Toán lớp 3
của các em.
- Bản thân giáo viên có nhiều năm công tác, có kinh nghiện trong giảng dạy, tận tụy
với học sinh, luôn tìm tòi và tự học hỏi để nâng cao trình độ chuyên môn, đặc biệt
giáo viên đã có nhiều năm liền dạy lớp 3 nên phần nào có những kinh nghiệm trong
giảng dạy.
+ Khó khăn:
- Do đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi, các em học rất nhanh nhớ nhưng cũng mau
quên, mức độ tập trung thực hiện yêu cầu của bài học chưa cao.
- Học sinh chủ yếu là con nhà nông thôn, có một số học sinh bố (mẹ) đi làm ăn xa,
- Việc tự giác học bài của học sinh còn hạn chế, gia đình chưa quan tâm kèm cặp
bảo ban cho các em học bài, Bên cạnh đó còn có đối tượng là học sinh mồ côi
cha/mẹ, học sinh nghèo,…nên cũng ảnh hưởng đến kết quả học tập của các em.
- Học lực môn Toán của các em ở những năm học trước không đồng đều, một số
em chưa nắm vững kiến thức Toán lớp 2, chưa có kỹ năng trình bày bài làm, có học
sinh đọc còn chậm hoặc chưa thuộc các bảng nhân, chia.
- Học sinh còn hạn chế về khả năng tự phát hiện vấn đề, tự sửa sai và tự nhận xét
đánh giá. Nhiều học sinh còn ngại học, không chú ý suy nghĩ làm bài, dựa dẫm vào
bạn và giáo viên.
- Toán là môn học nhiều học sinh hứng thú nhưng lại cũng khó khăn đối với những

học sinh tiếp thu chậm. Vì vậy đòi hỏi giáo viên phải biết kết hợp các phương pháp
giảng dạy, biết gợi mở óc tò mò, khả năng sáng tạo, độc lập của học sinh,…thì tiết
dạy mới đạt hiệu quả cao.
- Chính vì vậy mà ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng học tập của các em. Cụ thể là
khi học sinh làm một bài toán giải có liên quan đến rút về đơn vị thường mắc
những lỗi sau :
- Khi làm bài học sinh đọc đề chưa kỹ, sau đó giải bài toán ngay, làm xong không
kiểm tra kết quả cho nên khi giáo viên chữa bài thì các em mới biết mình làm sai.
- Một vài GV vần chưa thực sự đầu tư, đi sâu nghiên cứu đổi mới phương pháp
phát huy tính tích cực học tập của học sinh.
+ Thực trạng việc dạy và học giải dạng toán liên quan đến rút về đơn vị lớp 3:
* Thực trạng việc dạy của giáo viên:
Khi dạy dạng toán liên quan đến rút về đơn vị, giáo viên vẫn còn một số
tồn tại sau:
- Phân bố thời gian chưa hợp lí, phương pháp dạy học còn nhiều thiếu sót, chưa phù
hợp với trình độ, tâm sinh lí của học sinh, phương pháp dạy học còn cứng nhắc,
chưa phát huy được tính sáng tạo của học sinh, cách thức tổ chức dạy học chưa phù
hợp, tinh thần trách nhiệm của giáo viên đối với học sinh chưa cao.

6


- Bên cạnh đó còn có một số giáo viên rất lúng túng trong việc hướng dẫn cụ thể
từng bước của dạng toán, mà chỉ dừng lại ở chỗ học sinh giải được bài toán là
xong.Dẫn đến một lúc nào đó học sinh không nhớ được từng bước giải cơ bản của
dạng toán, học sinh sẽ lúng túng trước một bài toán có dạng bài toán liên quan đến
rút về đơn vị.
* Thực trạng của việc học của HS khi học dạng toán “Giải bài toán rút về đơn
vị”:
Trong nhiều năm theo dõi học sinh học toán, đặc biệt là trực tiếp theo dõi

các em học sinh lớp 3 giải toán, tôi thấy các em có một thói quen không tốt đó là:
Đọc đầu bài qua loa, sau đó giải bài toán ngay, làm xong không cần kiểm tra lại kết
quả. Thế nên, khi được chữa bài, các em mới biết là mình sai. Đối với dạng bài toán
liên quan đến rút về đơn vị, khi giáo viên hướng dẫn xong kiểu bài 1, các em làm
bài khá tốt, ít nhầm lẫn, nhưng còn sai nhiều trong tính toán, đến khi dạy xong kiểu
bài 2, các em làm bài có phần nhầm lẫn nhiều hơn, nhiều em thực hiện ở bước 2
đáng lẽ là phép chia thì các em lại làm phép nhân (giống ở kiểu bài 1). Học sinh
làm bài hay có sự nhầm lẫn khi giải dạng toán này.
Để đánh giá đúng thực trạng việc giải bài toán liên quan đến rút về đơn vị,
cuối năm học 2017-2018, tôi đã tiến hành khảo sát học sinh lớp 3A. Kết quả cụ thể
như sau:
Kiểu bài 1
Kiểu bài 2:
- Tìm giá trị 1 phần: Đây là bước rút -Tìm giá trị của 1 phần: Đây là bước
rútvề đơn vị (Phép chia).
Tổng về
đơn vị (phép chia).
- Tìm số phần: Lấy giá trị các phần
số
- Tìm giá trị của các phần: Lấy giá trị chia
học
sinh 1 phần nhân với số phần (Phép nhân). cho giá trị 1 phần (phép chia).
khảo Điểm
Điểm
Điểm
Điểm Điểm
Điểm
Điểm Điểm
sát
<5

5-6
7-8
9 - 10 < 5
5-6
7-8
9 - 10
26
em

SL

TL

SL

TL

S
L

TL

S
L

T
L

S
L


TL

SL

TL

S
L

TL

SL

TL

11

42.3

9

34.6

6

23.1 0

0


14

53.8

7

26.9 5

19.
3

0

0

Sau khi chấm bài, theo kết quả tổng hợp như trên tôi nhận thấy:
- Có nhiều em làm đúng cả 2 bài.
- Một số em làm nhầm ở bước 2 từ kiểu bài 1 sang kiểu bài 2 và ngược lại.
- Một số em có phép tính sai.
- Còn một vài em sai cả hai bài.
* Nguyên nhân:

7


Qua thực tế giảng dạy kết hợp với việc điều tra khảo sát, thống kê về thực
trạng cách giải dạng toán “giải bài toán liên quan đến rút về đơn vị”của học sinh
lớp 3A. Tôi nhận thấy rằng các em học sinh giải sai dạng trên là do:
- Học sinh chưa nắm vững được bản chất các bước giải đặc trưng để giải dạng toán
liên quan đến rút về đơn vị.

- Các em chưa có tính toán cẩn thận, kiên trì trong giải toán, tư duy logic của các
em còn chưa phát triển đó là:
+ Chưa chịu khó đọc kĩ đề bài để nhớ các yếu tố của bài toán.
+ Học sinh chưa có thói quen tóm tắt đề bài trước khi giải.
+ Chưa xác định được bài toán thuộc dạng toán nào, cách giải ra sao.
+ Chưa nắm bắt được cách giải dạng toán điển hình.
+ Trình bày bài chưa đẹp, chưa khoa học.
+ Chưa có thói quen kiểm tra lại bài khi giải xong.
Mặt khác, cũng có thể là các em chưa được củng cố rõ nét về sự khác nhau
giữa hai kiểu bài trong dạng toán này nên việc sai đó không tránh khỏi.Còn nữa,
đây là các bài toán áp dụng rất thực tế mà các em quên mất phương pháp thử lại
nên kết quả đưa ra chưa chính xác.Vì vậy cần có biện pháp tích cực để làm bớt đi
những sai lầm mà các em đang mắc phải. Với dạng bài này các em hay mắc phải
phần lớn là ở dạng bài 2 qua đó mà kết quả điểm thấp. Vậy cần phải có biện pháp
hữu hiệu để góp phần làm giảm điểm yếu cho các em.
Xuất phát từ tình hình thực tế trên, năm 2018-2019, tôi tiếp tục đổi mới
phương pháp dạy dạng toán này cho học sinh lớp 3A tôi chủ nhiệm. Mục đích
chính giúp các em có phương pháp giải Toán nói chung, phương pháp giải dạng
toán có liên quan đến rút về đơn vị nói riêng. Các em chủ động thực hiện giải Toán
không máy móc mà phải dựa vào tư duy, phân tích tổng hợp dựa trên phương pháp
giải và thực tế đề bài.
2.3. Các giải pháp thực hiện:
Từ thực trạng trên, để đạt hiệu quả tốt hơn trong việc giải bài toán dạng toán
rút về đơn vị, giúp các em học sinh có hứng thú trong học tập, nâng cao chất lượng
giáo dục trong lớp và trong nhà trường, tôi đã mạnh dạn cải tiến nội dụng, tôi càng
bám sát vào các phương pháp, hình thức tổ chức dạy học toán ở Tiểu học nói
chung, của lớp 3 nói riêng sao cho phù hợp và nhận thức của học sinh, các em có
hứng thú tốt khi học tốt, tạo không khí lớp học sôi nổi, chất lượng cao. Và muốn
cho học sinh giải tốt bài toán liên quan đến rút về đơn vị, tôi đã đưa ra các giải pháp
trong giảng dạy như sau:

* Giải pháp 1: Hướng dẫn học sinh nắm chắc phương pháp chung để giải các
bài toán.
Để giải một bài toán bất kì đã học, đều phụ thuộc vào các phương pháp giải
toán được vận dụng ở mỗi bước giải bài toán đó. Giáo viên cần hướng dẫn học sinh
nắm được các bước cơ bản để giải một bài toán như sau:
8


* Bước 1: Đọc kĩ đề toán.
* Bước 2: Tóm tắt đề toán.
* Bước 3: Phân tích bài toán.
* Bước 4: Viết bài giải.
* Bước 5: Kiểm tra lời giải và đánh giá cách giải.
- Đôi với bước 1: Đọc kĩ đề toán.Yêu cầu học sinh đọc ít nhất 3 lần đề toán, mục
đích để giúp các em nắm được ba yếu tố cơ bản. Những “dữ kiện” là những cái đã
cho, đã biết trong đầu bài, “những ẩn số” là những cái chưa biết và cần tìm và
những “điều kiện” là quan hệ giữa các dữ kiện với ẩn số. Cần tập cho học sinh có
thói quen và từng bước có kĩ năng suy nghĩ trên các yếu tố cơ bản của bài toán,
phân biệt và xác định được các dữ kiện và điều kiện cần thiết liên quan đến cái cần
tìm, gạt bỏ các tình tiết không liên quan đến câu hỏi, phát hiện được các dữ kiện và
điều kiện không tường minh để diễn đạt một cách rõ ràng hơn. Tránh thói quen xấu
là vừa đọc xong đề đã làm ngay.
- Đôi với bước 2: Tóm tắt đề toán: Mục đích của “tóm tắt” bài toán là phân tích đề
toán để làm rõ giả thiết (bài toán cho biết gì? và kết luận bài toán hỏi gì ?) của bài
toán, thu gọn bài toán theo giả thiết, kết luận của bài toán, làm rõ mối quan hệ giữa
“cái đã cho” và “cái phải tìm” rồi từ đó tìm ra cách giải bài toán một cách hợp lí.
Bởi vậy, dạy tóm tắt bài toán trước khi giải bài toán là rất cần thiết. Vậy, không
nhất thiết bắt buộc phải viết “tóm tắt” vào phần trình bày bài giải (tùy theo yêu cầu
của bài toán, theo từng giai đoạn học tập của học sinh, giáo viên có thể cho học
sinh viết tóm tắt vào bài giải hoặc không).

Đối với những em học sinh yếu, sau khi tóm tắt xong tôi yêu cầu các em
diễn đạt lại nội dung bài toán thông qua tóm tắt để các em nắm vững hơn nội dung
bài toán.
Thực tế có rất nhiều cách tóm tắt bài toán, nếu các em càng nắm được
nhiều cách tóm tắt thì các em sẽ càng giải toán giỏi. Cho nên, khi dạy tôi đã truyền
đạt các cách sau tới học sinh:
+ Cách 1: Tóm tắt bằng chữ.
+ Cách 2: Tóm tắt bằng chữ và dấu.
+ Cách 3: Tóm tắt bằng sơ đồ đoạn thẳng.
+ Cách 4: Tóm tắt bằng hình tượng trưng.
+ Cách 5: Tóm tắt bằng lưu đồ.
+ Cách 6: Tóm tắt bằng sơ đồ Ven.
+ Cách 7: Tóm tắt bằng kẻ ô.
Thông thường, ở dạng toán liên quan đến rút về đơn vị, tóm tắt bằng lời
được lựa chọn nhiều hơn.Trong khi tóm tắt, học sinh cần lưu ý đến tên của mỗi đơn
vị (đại lượng), có mấy đơn vị, mối quan hệ giữa các đơn vị đó.
Ví dụ 1: Một cửa hàng có 6 bao gạo chứa được 42kg gạo. Hỏi 4 bao gạo như
thế có thể chứa được bao nhiêu ki lô gam gạo?
9


42kg
Tóm tắt:
6 bao gạo: 42kg
4 bao gạo: ….kg ?

hoặc

? kg
Ví dụ 2: có 36 lít dầu đựng vào 6 thùng. Hỏi có 54 lít dầu thì cần có bao

nhiêu thùng như thế để đựng ? (biết số dầu ở mỗi thùng như nhau).
Tóm tắt:
36 l dầu : 6 thùng
hoặc :
54 l dầu : …thùng ?
36l dầu
54l dầu : …thùng ?
- Đôi với bước 3: Phân tích bài toán. Phân tích mối quan hệ giữa các dữ liệu đã cho
với kết luận để tìm ra cách giải bài toán.Sau khi tóm tắt đề bài xong, các em tập
viết phân tích đề bài để tìm ra cách giải bài toán. Cho nên, ở bước này, giáo viên
cần sử dụng phương pháp phân tích và tổng hợp, thiết lập cách tìm hiểu, phân tích
bài toán theo sơ đồ dưới dạng các câu hỏi thông thường:
+ Bài toán cho biết gì?
+ Bài toán hỏi gì?
+ Muốn tìm cái đó ta cần biết gì?
+ Cái này biết chưa? Còn cái này thì sao?
+ Muốn tìm cái chưa biết ta cần dựa vào đâu? Làm như thế nào?
Hướng dẫn học sinh phân tích xuôi rồi tổng hợp ngược lên, từ đó các em
nắm bài kĩ hơn, tự các em giải được toán. Cần cho học sinh được rèn luyện khả
năng diễn đạt bằng lời nói và bằng chữ viết khi phải giải thích các vấn đề liên quan
đến phân tích đề toán, tìm cách giải bài toán và nhất là khi diễn tả câu trả lời, trình
bày bài giải của bài toán. Có thể lúc đầu học sinh tự thực hiện các hoạt động diễn
đạt này còn khó khăn, nhưng đây là “cơ hội” thuận lợi để các em được phát triển tư
duy, khả năng giải quyết vấn đề.
- Đôi với bước 4: Viết bài giải: Dựa vào sơ đồ phân tích, quá trình tìm hiểu bài,
các em sẽ dễ dàng viết được bài giải một cách đầy đủ, chính xác. Giáo viên chỉ việc
yêu cầu học sinh trình bày đúng, đẹp, cân đối ở vở là được, chú ý câu trả lời ở các
bước phải đầy đủ, không viết tắt, chữ và số phải đẹp.
- Đôi với bước 5: Kiểm tra lời giải và đánh giá cách giải: Qua quá trình quan sát
học sinh giải Toán, chúng ta dễ dàng thấy rằng học sinh thường coi bài toán đã giải

xong khi tính ra đáp số hay tìm được câu trả lời. Khi giáo viên hỏi: “Em có tin chắc
kết quả là đúng không?” thì nhiều em lúng túng. Vì vậy việc kiểm tra, đánh giá kết

10


quả là không thế thiếu khi giải toán và phải trở thành thói quen đối với học sinh.
Cho nên khi dạy giải toán, chúng ta cần hướng dẫn các em thông qua các bước:
+ Đọc lại lời giải.
+ Kiểm tra các bước giải xem đã hợp lí yêu cầu của bài chưa, các câu văn
diễn đạt trong lời giải đúng chưa.
+ Thử lại các kết quả vừa tính từ bước giải đầu tiên.
+ Thử lại kết quả đáp số xem đã phù hợp với yêu cầu của đề bài chưa.
Đối với học sinh giỏi, giáo viên có thể hướng các em nhìn lại toàn bộ bài
giải, tập phân tích cách giải, động viên các em tìm các cách giải khác, tạo điều kiện
phát triển tư duy linh hoạt, sáng tạo, suy nghĩ độc lập của học sinh.
* Giải pháp 2: Hướng dẫn học sinh nắm chắc cách giải bài toán liên quan đến
rút vê đơn vị bằng phép tính chia, nhân (kiểu bài 1)
Để học sinh nắm chắc phương pháp giải kiểu bài toán này, tôi đã tiến hành
dạy ngay ở trên lớp theo phương pháp và hình thức sau:
+ Hoạt động 1: Yêu cầu học sinh giải hai bài toán :
a} Bài toán 1:
Có 35 l mật ong chia đều vào 7 can. Hỏi mỗi can có mấy lít mật ong?
(Bài toán 1-Trang 128 SGK Toán 3)
Giáo viên yêu cầu học sinh đọc đề bài, đọc thành tiếng và đọc thầm. Hướng
dẫn học sinh tóm tắt bài toán (sử dụng phương pháp hỏi đáp):
+ Bài toán cho biết gì? (35 lít mật ong đổ đều vào 7 can).
+ Bài toán hỏi gì? (1 can chứa bao nhiêu lít mật ong)
+ Giáo viên yêu cầu học sinh nêu miệng phần tóm tắt để giáo viên ghi bảng:
7 can: 35 l mật ong

1 can: ? l mật ong
- Hướng dẫn học sinh phân tích bài toán để tìm phương pháp giải bài toán.
- Giáo viên yêu cầu học sinh làm vào bảng con.
- Giáo viên đưa bài giải đối chiếu.
Bài giải:
Số lít mật ong có trong mỗi can là:
35 : 7 = 5 (l)
Đáp số: 5 l mật ong.
- Giáo viên củng cố cách giải: Để tìm 1 can chứa bao nhiêu lít mật ong ta làm thế
nào ? (Làm tính chia. Lấy 35 : 7 ).
- Giáo viên giới thiệu: Bài toán cho ta biết số lít mật ong có trong 7 can, yêu cầu
chúng ta tìm số lít mật ong trong 1 can, để tìm được số lít mật ong trong 1 can,
chúng ta thực hiện phép tính chia.( Lấy 35 : 7 ) Bước này gọi là rút vê đơn vị, tức
là tìm giá trị của một phần trong các phần.
b) Bài toán 2:
11


Mỗi can chứa được 5 lít mật ong. Hỏi 7 can như vậy chứa được bao
nhiêu lít mật ong.
Với bài này, học sinh dễ dàng giải được như sau:
Bài giải.
7 can như vậy chứa được số lít mật ong là:
5 x 7 = 35 (l)
Đáp số: 35 l mật ong.
* Giáo viên chốt : - Muốn tìm số dầu trong 7 can ta phải làm thế nào ?
- Học sinh trả lời được : Ta lấy số dầu ở 1 can nhân với 7
* GV nhấn mạnh : Để tìm số dầu ở 7 can cần làm phép nhân ( lấy số dầu ở 1 can
nhân với 7 )
Sau đó, tôi yêu cầu học sinh nhận dạng 2 bài toán đã học đó là: Giảm đi một

số lần hoặc tìm giá trị một phần trong các phần ( bài toán 1 ) và gấp một số lên
nhiều lần ( bài toán 2 ) đồng thời yêu cầu học sinh giải thích cách làm.
Hai bài toán này là bước đệm để các em giải bài toán: Rút về đơn vị bằng
phép tính chia, nhân ( kiểu bài 1) trong tiết học. Nên khi học sinh giải xong tôi
củng cố cách giải để học sinh nắm vững cách làm, đó là : Muốn tìm được số lít mật
ong trong 1 can ( bài toán 1 ) ta thực hiện phép tính chia ( Bước này gọi là bước rút
về đơn vị) Để tìm được số lít mật ong trong 7 can ( bài toán 2) ta làm phép nhân
( Lấy số lít mật ong trong 1 can nhân 7 )
- Cho nhiều học sinh nhắc lại để ghi nhớ
+ Hoạt động 2: Hướng dẫn học sinh giải bài toán liên quan đến rút về đơn vị
bằng phép tính chia, nhân (kiểu bài 1)
Ví dụ: Có 35 lít mật ong chia đều vào 7 can. Hỏi 2 can như thế có mấy lít
mật ong?
(Bài toán 2-Trang 128 SGK Toán 3)
- Giáo viên yêu cầu học sinh đọc kĩ đầu bài (3 lần)
- Yêu cầu học sinh nêu tóm tắt bài toán
- Giáo viên ghi bảng và sử dụng (Phương pháp hỏi đáp).
7 can: 35 lít
2 can: ? Lít
Do đã được hiểu rõ các khái niệm, các bước giải ở 2 bài toán trong Hoạt
động 1, nên khi tìm hiểu bài toán trên tôi đã hướng dẫn học sinh giải bài toán bằng
các câu hỏi gợi mở:
- Hướng dẫn học sinh phân tích bài toán:
+ Muốn tính được số lít mật ong có trong hai can ta phải biết gì?
( 1 can chứa được bao nhiêu lít mật ong)
+ Làm thế nào để tìm được số lít mật ong có trong 1 can?
( Lấy số lít mật ong trong 7 can chia cho số can)
+ Yêu cầu học sinh nhẩm ngay 1 can: ?l.
12



+ Yêu cầu học sinh nêu cách tính số lít của 2 can khi biết số lít của 1 can.
(Lấy số lít mật ong có trong 1 can nhân với số can cần tìm)
- Một học sinh nêu lần lượt bài giải.
- Giáo viên ghi bảng
Bài giải
Số lít mật ong có trong mỗi can là:
35 : 7 = 5 (l)
Số lít mật ong có trong hai can là:
5 x 2 = 10 (l)
Đáp số: 10 lít mật ong.
- Học sinh giải xong bài toán tôi cho học sinh tìm các câu lời giải khác cho bài
toán.
- Tôi lưu ý cho học sinh trong bài toán không chỉ có một câu lời giải mà có thể có
nhiều câu lời giải khác nhau ta có thể chọn câu lời giải ngắn gọn và phù hợp nhất.
- Yêu cầu học sinh nêu bước nào là bước rút về đơn vị: Bước tìm số lít mật ong
trong 1 can gọi là bước rút về đơn vị.
Sau đó tôi giúp học sinh củng cố và nêu quy tắc giải về dạng toán rút về đơn vị
( kiểu bài 1 ).
- Cho học sinh thảo luận nhóm đôi để cùng rút ra quy tắc giải bài toán rút về đơn vị
( kiểu bài 1 ).
Bài toán có liên quan đến rút về đơn vị kiểu bài 1 thường được giải bằng 2
bước:
+ Bước 1: Tìm giá trị một đơn vị (giá trị một phần trong các phần bằng nhau).
Thực hiện phép chia.
+ Bước 2: Tìm giá trị của nhiêu đơn vị cùng loại (giá trị của nhiều phần bằng
nhau). Thực hiện phép nhân.
- Học sinh nhẩm thuộc, nêu lại các bước.
- Hướng dẫn học sinh làm bài tập áp dụng.
+ Giáo viên nêu miệng và ghi tóm tắt lên bảng, học sinh nêu kết quả và giải thích

cách làm như:
8 túi : 56 quả
hoặc:
5 bao : 40 kg
3 túi : ? quả
9 bao : ? kg
Sau khi học sinh nắm chắc cách giải bài toán ở kiểu bài này, chúng ta cần
tiến hành hướng dẫn học sinh luyện tập.
+ Hoạt động 3: Hướng dẫn HS luyện tập
Khi học sinh đã hình thành được cách giải bài toán liên quan đến việc rút
về đơn vị ở phần hình thành kiến thức mới, sang luyện tập học sinh tiếp tục được
luyện tập củng cố để các em nắm vững hơn về cách giải dạng toán này.
Trước khi khi tiến hành hướng dẫn học sinh luyện tập tôi cho học sinh nhắc
lại các bước cơ bản để giải một bài toán.
13


Khi tiến hành hướng dẫn học sinh luyện tập qua từng bài, giáo viên cần thay
đổi hình thức luyện tập.
* Bài 1: ( SGK Toán 3 – Trang 129 . Luyện tập tiết 2 )
- Hướng dẫn học sinh thảo luận chung cả lớp, sau đó 1 học sinh tóm tắt và giải bài
toán trên bảng, cả lớp làm vào vở.
- Củng cố bước rút về đơn vị.
- Củng cố các bước giải bài toán này.
* Bài 2: ( SGK Toán 3 – Trang 129. Luyện tập tiết 2 )
- Học sinh thảo luận và làm việc theo nhóm đôi.
- Yêu cầu 1 cặp học sinh trình bày bảng.
- Giáo viên kiểm tra các kết quả của cả lớp.
- Yêu cầu học sinh nêu bước rút về đơn vị.
- Củng cố cách thực hiện 2 bước giải bài toán.

+ Hoạt động 4: Củng cố dặn dò
- Học sinh tự nêu các bước, cách thực hiện giải bài toán có liên quan đến rút về đơn
vị (kiểu bài 1)
- Yêu cầu học sinh về nhà trao đổi với người thân về dạng toán hôm nay mới học.
Qua mỗi lần luyện tập xen kẽ ở các tiết học sau, giáo viên đều yêu cầu HS
nêu lại cách làm ở kiểu bài 1 là: Bài giải được thực hiện qua 2 bước:
+ Bước 1: (Bước rút về đơn vị) Tìm giá trị 1 đơn vị (giá trị 1 phần). (Phép chia)
+ Bước 2: Tìm nhiều đơn vị (từ 2 đơn vị trở lên – phép nhân).
- Nhấn mạnh kiểu bài 1 là tìm giá trị của nhiều đơn vị (nhiều phần).
Khi học sinh đã nắm chắc kiểu bài 1 các em dễ dàng giải được kiểu bài 2.
* Giải pháp 3: Hướng dẫn học sinh nắm chắc cách giải bài toán liên quan đến
rút vê đơn vị giải bằng 2 phép tính chia (kiểu bài 2)
Để giúp học sinh nắm chắc kiến thức kiểu bài 2 này, tôi cũng dạy các bước
tương tự như ở kiểu bài 1.Song để học sinh dễ dàng nhận dạng, so sánh phương
pháp giải 2 kiểu bài. Phần hoạt động củng cố kiến thức cũ, tôi đưa ra đề bài lập lại
của kiểu bài 1: (Có 35 l mật ong rót đều vào 7 can. Hỏi 2 can như thế có bao nhiêu
lít mật ong”. Mục đích là vừa để kiểm tra, củng cố cách giải ở kiểu bài 1 cũng là để
tôi dựa vào đó hướng các em tới cách giải ở kiểu bài 2 (giới thiệu bài).
Bài toán ở kiểu bài 2 có dạng sau:
Ví dụ : “ Có 35 l mật ong đựng đều vào 7 can. Nếu có 10 l mật ong thì đựng
đều vào mấy can như thế?” (Bài toán trang 166 SGK Toán 3).
- Cách tổ chức, hướng dẫn học sinh cũng như ở kiểu bài 1.
- Khi củng cố, tôi giúp học sinh nêu được ở bước 1 là bước rút về đơn vị và là bước
thực hiện chung ( giống nhau ) của 2 kiểu bài này.
+ Bước 1: Tìm giá trị 1 đơn vị (giá trị 1 phần).
(Đây là bước rút về đơn vị). (phép chia)
+ Bước 2: Tìm số phần (số đơn vị) (phép chia).
14



Sau mỗi bài tập, chúng ta củng cố lại một lần, giúp học sinh nắm chắc cách
giải hơn. Khi học xong kiểu bài 2 này, các em dễ lẫn với cách giải ở kiểu bài 1. Cho
nên, chúng ta phải hướng dẫn học sinh cách kiểm tra, đánh giá kết quả bài giải (thử
lại theo yêu cầu của bài).
Ví dụ: Các em đặt kết quả tìm được vào phần tóm tắt của bài các em sẽ thấy
được cái vô lí khi thực hiện sai phép tính của bài giải:
35 lít : 7 can
35 lít : 7 can
10 lít : 2 can (đúng)
10 lít : 50 can (vô lí).
Từ đó các em nắm chắc cách giải kiểu bài 2 tốt hơn, có kĩ năng, kĩ xảo tốt
khi giải Toán.
Như vậy, thực tế giảng dạy cho thấy: Nếu giáo viên biết lựa chọn phương
pháp và hình thức tổ chức dạy học hợp lí sẽ giúp các em tiếp thu kiến thức một
cách chủ động vững chắc, giờ học đạt hiệu quả cao.
* Giải pháp 4: Hướng dẫn học sinh luyện tập, so sánh phương pháp giải 2 kiểu
bài.
Muốn học sinh luyện tập tốt 2 kiểu bài này, tôi đã hướng dẫn các em thảo
luận so sánh các bước giải và đặc điểm của mỗi kiểu bài.
Các
bước

Kiểu bài 1
(Tìm giá trị của các phần)

Kiểu bài 2
(Tìm số phần)

1


Tìm giá trị của 1 phần: Đây là bước Tìm giá trị của 1 phần: Đây cũng
rút về đơn vị (phép chia).
là bước rút về đơn vị (phép chia)

2

Tìm giá trị của các phần : Lấy giá Tìm số phần: Lấy giá trị các phần
trị 1 phần nhân với số phần (phép chia cho giá trị 1 phần. (phép chia).
nhân)

Cho học sinh nhận ra điểm giống và khác về cách giải của 2 dạng bài trên
để các em khắc sâu kiến thức .
Tiếp theo tôi yêu cầu học sinh học thuộc để áp dụng nhận dạng kiểu bài và
giải các bài toán đó. Khi luyện tập, tôi tiến hành cho học sinh luyện 2 bài tập song
song với nhau, mục đích là để các em vừa làm, vừa nhận dạng, so sánh.Sau mỗi lần
luyện tập như vậy, chúng ta lại củng cố kiến thức một lần cho các em, chắc các em
không còn nhầm lẫn nữa.
* Lần 1:
- Bài toán 1: Có 4 túi gạo chứa được 32 kg gạo. Hỏi 6 túi gạo thì chứa được bao
nhiêu kg gạo?
- Bài toán 2: Có 36 kg gạo đựng vào 6 túi. Hỏi có 24 kg gạo thì cần bao nhiêu túi
như thế để đựng?

15


Tiếp đến là củng cố cách giải, mối quan hệ giữa các phép tính trong 2 bài
toán này. Mặt khác học sinh dễ dàng nhìn nhận ra lỗi sai của mình, nếu như nhầm
phép tính (Bài toán 2 là bài toán ngược của bài toán 1)
* Lần 2:

- Bài toán 1: Có 5 cái áo như nhau thì cần 30 cúc áo. Hỏi có 42 cúc áo thì dùng cho
mấy cái áo như thế?
- Bài toán 2: Bảy thùng như nhau đựng được 49 l mật ong. Hỏi 4 thùng như thế
đựng được bao nhiêu lít mật ong?
Đổi thứ tự bài để học sinh củng cố được cách nhận dạng 2 kiểu bài và
phương pháp giải.
Tóm lại: Trong quá trình dạy học người giáo viên không chỉ chú ý đến rèn
luyện kĩ năng, truyền đạt kiến thức cho học sinh mà còn phải chú ý rèn kỹ năng
luyện tập thực hành giải toán ở 2 kiểu bài trên, đồng thời quan tâm chú ý đến việc
khuyến khích học sinh tự khám phá, tự tìm ra bản chất dạng toán, bài toán, tạo
hứng thú trong học tập cho học sinh, lấy học sinh làm trung tâm trong mọi hoạt
động của giờ học.
Trên đây là phương pháp hướng dẫn các em học sinh lớp 3 giải tốt dạng
toán: Bài toán liên quan vê rút vê đơn vị. Tôi tin rằng nếu chúng ta làm được như
vậy thì các em sẽ nắm được cách giải dạng toán này tốt hơn, chắc chắn hơn, tránh
được những sai sót có thể xảy ra. Các em sẽ có được tinh thần phấn khởi, tự tin khi
giải Toán.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
Trong suốt quá trình thực nghiệm giảng dạy, qua quan sát học sinh giải toán,
tôi thấy các em rất thích giải toán khi các em đã có đủ vốn kiến thức, phương pháp
giải toán.Các em giải toán đúng, chính xác hơn khi các em được thầy cô nhiệt tình
hướng dẫn với phương pháp dễ hiểu nhất, dễ nhớ nhất.Với phương pháp này tôi đã
trang bị cho các em vốn kiến thức phương pháp cơ bản để các em giải dạng toán
này không nhầm lẫn sai sót đến chất lượng học của các em được nâng lên rõ rệt. So
với kết quả trước khi thử nghiệm thì sau khi thử nghiệm các em làm bài tốt hơn
nhiều, chất lượng bài làm cũng cao, tỉ lệ nhầm lẫn hay làm bài sai chỉ chiếm số nhỏ.
Nhìn chung, các em được giải toán, so sánh cách giải của 2 kiểu bài này sẽ làm bài
chính xác cao, chất lượng khả quan.
Sau một thời gian nghiên cứu và thực nghiệm trên lớp 3A, tôi đã tiến hành
khảo sát ở hai kiểu bài, kết quả thu được cụ thể như sau:

Tổng
Kiểu bài 1
Kiểu bài 2:
số
- Tìm giá trị 1 phần: Đây là bước rút
-Tìm giá trị của 1 phần: Đây là bước
học
về đơn vị (phép chia).
rút về đơn vị (Phép chia).
sinh
- Tìm số phần: Lấy giá trị các phần
khảo - Tìm giá trị của các phần: Lấy giá trị
1 phần nhân với số phần (Phép nhân). chia cho giá trị 1 phần (phép chia).
sát

16


26
em

Điểm
<5

Điểm
5-6

Điểm
7-8


Điểm
9 - 10

Điểm
<5

Điểm
5-6

Điểm
7-8

Điểm
9 - 10

S
L

T
L

S
L

TL

S
L

TL


S
L

TL

S
L

T
L

S
L

TL

S
L

TL

S
L

TL

0

0


7

26.9

12

46.2

7

46.2

0

0

7

26.9

11

42.
3

8

30.
8


Từ kết quả trên cho chúng ta thấy: Chất lượng học tập của học sinh không
tự dưng mà có được, đòi hỏi mỗi người giáo viên chúng ta phải biết phương pháp
truyền đạt tới từng đối tượng học sinh. Nếu chúng ta truyền đạt kiến thức, phương
pháp hời hợt, không đi sâu, rộng vấn đề thì các em dễ dàng nhầm lẫn ở bước 2 của
2 kiểu bài đó, cũng có khi nhầm lẫn cả sang dạng toán khác. Cho nên dạy toán ở
dạng này, chúng ta càng cẩn thận, chi tiết bao nhiêu thì chất lượng tiếp thu và làm
bài càng tăng, các em học Toán càng tự tin hơn bấy nhiêu. Do đó trong công tác
giảng dạy nếu chúng ta tích cực đổi mới phương pháp dạy học, phát huy tính tích
cực học tập của học sinh thì kết quả học tập của học sinh ngày càng tốt hơn.
3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận:
Sang học kỳ II của năm học 2018 – 2019 lúc học sinh bắt đầu học dạng toán
này tôi đã đổi mới phương pháp dạy học theo kinh nghiệm của tôi trong lớp chủ
nhiệm, và chia sẻ cho đồng nghiệp trong khối 3, được các đồng nghiệp ủng hộ và
thực hiện nhiệt tình. Chính vì thế, các em trong lớp chủ nhiệm cũng như các lớp
trong khối 3 đã nhanh chóng nắm được cách giải kiểu bài 1 rồi đến kiểu bài 2 của
dạng toán liên quan đến rút về đơn vị, các em biết phân tích để thấy được sự giống
nhau và sự khác nhau trong khi thực hiện bài giải, đặc biệt là các em biết nhận dạng
toán một cách thành thục, có kỹ năng, kỹ xảo tốt. Các em làm khá tốt. Đó là tất cả
những gì chúng ta mong muốn để có được khi dạy học sinh giải dạng toán này.
Dạy toán ở Tiểu học nói chung, ở lớp 3 nói riêng là cả một quá trình kiên trì
đầy sự sáng tạo, nhất là đối với dạng toán có liên quan đến rút về đơn vị, cho nên
khi hướng dẫn học sinh giải toán nói chung, giải dạng toán có liên quan đến rút về
đơn vị nói riêng chúng ta cần phải:
- Tạo niềm hứng thú, sự say mê giải toán, bởi các em có thích học toán thì các em
mới có sự suy nghĩ, tìm tòi các phương pháp giải bài toán một cách thích hợp.
- Hướng dẫn học sinh nắm đầy đủ các kỹ năng cần thiết khi giải bài toán bằng
phương pháp phù hợp, nhẹ nhàng, không gò bó.
- Tạo điều kiện để các em đươc khám phá, trải nghiệm, kích thích tư duy sáng tạo,

khả năng phân tích, tổng hợp trong khi tìm tòi, phát hiện đường lối trong giải toán.
- Thường xuyên thay đổi hình thức dạy học ở mỗi bài để tránh sự nhàm chán.
17


- Tập cho học sinh có kỹ năng tự phân tích bài toán, tự kiểm tra đáng giá kết quả
của bài toán, tập đặt các câu hỏi gợi mở cho các bước giải trong bài toán.
- Phải coi việc giải toán là cả một quá trình, không nóng vội mà phải kiên trì tìm và
phát hiện ra “ chỗ hổng” sau mỗi lần hướng dẫn để khắc phục, rèn luyện.
- Gần gũi, thân thiện, động viên những em tiếp thu chậm để các em có tiến bộ, giúp
đỡ nhẹ nhàng khi cần thiết.
3.2. Kiến nghị :
- Mong Sở Giáo Dục mỗi năm chọn những sáng kiến kinh nghiệm có giá trị cao, có
khả năng áp dụng rộng rãi trong thực tiễn in thành tập san phục vụ nghành giáo dục
tỉnh nhà.
- Mong Phòng Giáo Dục thường xuyên tổ chức các chuyên đề đổi mới phương
pháp dạy học ứng dụng các SKKN được xếp loại ở cấp Tỉnh về các môn học nói
chung và về môn Toán nói riêng để giáo viên chúng tôi được học hỏi kinh nghiệm
lẫn nhau nhằm nâng cao tay nghề của mình đáp ứng được nhu cầu giáo dục của
nước nhà.
- Nhà trường cần trang bị thêm nhiều Sách tham khảo, các tập san Toán tuổi thơ,
Văn học tuổi trẻ để giáo viên được học hỏi thêm, và mong Ban Giám hiệu Nhà
trường tích cực tham mưu với các cấp lãnh đạo địa phương đầu tư thêm các trang
thiết bị dạy học như: máy chiếu, tivi… tạo điều kiện thuận lợi cho việc ứng dụng
công nghệ thông tin vào giảng dạy góp phần nâng cao chất lượng dạy và học.
- Với giáo viên cần kết hợp vận dụng linh hoạt hệ thống phương pháp dạy học. Khi
dạy nội dung kiến thức mới, giáo viên nên đặt ra các tình huống có vấn đề để học
sinh tự phát hiện và chiếm lĩnh kiến thức.
Trên đây là một số kinh nghiệm của bản thân tôi rút ra từ thực tế giảng dạy
phần giải toán liên quan đến rút về đơn vị ở lớp 3. Rất mong các đồng chí, đồng

nghiệp góp ý kiến cho tôi để tôi có nhiều kinh nghiệm trong sự đổi mới phương
pháp dạy học hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn !
Xác nhận của thủ trưởng đơn vị.
Phú Lộc, ngày 19 tháng 5 năm 2019
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép của người
khác.
Người viết

Nguyễn Thị Năm

18


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Phương pháp dạy học môn Toán Tiểu học/ Đỗ Trung Hiệu – Đỗ Đình Hoan –
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội – 2005.
2. SGK Toán 3/ Đỗ Đình Hoan – Nguyễn Áng – Nhà xuất bản Giáo dục Việt
Nam.
3. Tài liệu bồi dưỡng giáo viên dạy lớp 3, NXB giáo dục.
4. Tài liệu bồi dưỡng giáo viên Tiểu học. Theo chương trình Tiểu học mới lớp 3.
Bộ giáo dục và đào tạo (2009)
5. Hướng dẫn thực hiện chuẩn kiến thức, kĩ năng các môn học ở Tiểu học lớp 3,
NXB Giáo dục.
6. Chương trình tiểu học (Ban hành kèm theo quyết định số 43/2001/QĐ –
BGD&ĐT ngày 9/11/2001 của Bộ giáo dục và Đào tạo).

19



20



×