Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

SKKN một số biện pháp nâng cao chất lượng phân môn chính tả lớp 3

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (474.97 KB, 24 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA
PHÒNG GD & ĐT THÀNH PHỐ THANH HÓA
____________________________________________

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

“ BIỆN PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG PHÂN MÔN
CHÍNH TẢ LỚP 3”

Người thực hiện : Nguyễn Thị Thi
Chức vụ
:
Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Hoằng Long
SKKN thuộc lĩnh vực (môn): Tiếng Việt

THANH HÓA NĂM 2018

MỤC LỤC


1. Mở đầu............................................................................................................ 1
1.1 Lí do chọn đề tài.........................................................................................

1

1.2 Mục đích nghiên cứu..................................................................................

1

1.3 Đối tượng nghiên cứu................................................................................



1

1.4 Phương pháp nghiên cứu........................................................................ ..

2

2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm .................................................................... 2
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm...................................................... 2
2.2. Thực trạng của việc dạy - học chính tả………………………..................... 3
2.3. Các giải pháp để năng cao chất lượng phân môn chính tả lớp 3 ...........

4

2.4. Hiệu quả của biện pháp năng cao chất lượng phân môn chính tả lớp 3…... 17
3. Kết luận, kiến nghị ....................................................................................... 18
3.1. Kết luận...................................................................................................... 18
3.2. Kiến nghị .................................................................................................... 18
Tài liệu tham khảo…………………………………………………… ……

21


1. PHẦN MỞ ĐẦU.
1.1. Lí do chọn đề tài.
Chữ viết là một công cụ dùng để giao tiếp và trao đổi thông tin, là
phương tiện để ghi chép và tiếp nhận những tri thức văn hoá, khoa học và đời
sống…Việc dạy cho học sinh biết chữ và từng bước làm chủ được công cụ chữ
viết để phục vụ cho học tập và giao tiếp là một yêu cầu và việc làm quan trọng
hàng đầu của môn Tiếng Việt.

Biết đọc thông, viết thạo là ước mơ của mọi học sinh khi được cắp sách
đến trường. Đọc thông và viết thạo có quan hệ mật thiết với nhau. Viết đúng
mẫu, rõ ràng và nhanh, học sinh sẽ có điều kiện ghi chép bài học của tất cả các
môn học được tốt hơn.
Chính tả là một trong những phân môn có đóng góp một phần không nhỏ
trong quá trình rèn chữ viết và rèn luyện cho học sinh những phẩm chất đạo đức
tốt như tính cẩn thận, tinh thần kỷ luật, óc thẩm mĩ như lời cố vấn Phạm Văn
Đồng đã nói: “Chữ viết cũng là một biểu hiện của nết người. Dạy chữ cho học
sinh viết đúng, viết cẩn thận, viết đẹp là góp phần rèn luyện cho học sinh tính
cẩn thận, tính kỷ luật cũng chính là dạy cho học sinh biết về lòng tự trọng của
bản thân mình cũng như đối với thầy cô và các bạn đọc, làm mọi người cảm
thấy hài lòng khi đọc bài vở của mình”.
Tuy nhiên, thực tế hiện nay ở nhiều trường Tiểu học, đa số học sinh viết
đúng mẫu chữ theo quy định, cách trình bày sạch đẹp, viết đúng chính tả. Song
bên cạnh đó vẫn còn tình trạng học sinh chữ viết chưa đẹp, chưa đúng mẫu, còn
sai lỗi chính tả....Trong các kì thi, vẫn còn học sinh bị điểm kém do nguyên nhân
chữ viết và trình bày tuỳ tiện, cẩu thả. Bên cạnh đó, tình hình viết sai lỗi chính tả
của các em còn khá phổ biến. Điều đó ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng
học tập của các em. Vấn đề này có thể do nhiều nguyên nhân, nguyên nhân chủ
yếu là do giáo viên và học sinh đôi khi còn phát âm theo tiếng địa phương (chưa
nói chuẩn theo tiếng phổ thông). Hơn nữa một số giáo viên chữ viết chưa đẹp,
chưa chuẩn mực, còn lúng túng trong việc giảng dạy luật chính tả cho học sinh.
Mặt khác do gia đình các em chưa thực sự quan tâm, sát sao đến việc học tập
của con em mình. Phần nữa là ý thức học tập của các em còn hạn chế, không có
sự tự giác ....Vậy làm thế nào để dạy chữ viết - rèn nết người cho học sinh ? Qua
quá trình giảng dạy, từ thực trạng dạy và học chính tả trong trường học ở địa
phương mình tôi thấy: Nếu hiện tượng viết sai chính tả kéo dài sẽ ảnh hưởng rất
lớn đến chất lượng học tập của các em. Do đó để góp phần nâng cao chất lượng
chữ viết cho học sinh tôi đã chọn đề tài:“Biện pháp nâng cao chất lượng phân
môn chính tả lớp 3” làm đề tài nghiên cứu của mình trong năm học này.

1.2. Mục đích nghiên cứu:
Dựa trên cơ sở lí luận và cơ sở thực tiễn, đề tài sẽ chỉ rõ những loại lỗi
chính tả cơ bản mà học sinh thường mắc phải. Đồng thời chỉ ra những nguyên
nhân mắc lỗi và những biện pháp khắc phục.
1.3. Đối tượng nghiên cứu:
1


Sáng kiến kinh nghiệm đưa ra những biện pháp nâng cao chất lượng phân
môn chính tả cho học sinh lớp 3A- Trường tiểu học Hoằng Long- thành phố
Thanh Hóa - Năm học 2017 – 2018.
1.4. Phương pháp nghiên cứu:
Phương pháp thực nghiệm và đối chứng kết quả
Phương pháp luyện tập - thực hành
Phương pháp khảo sát thực tế thu thập thông tin
Nghiên cứu tài liệu, tổng kết kinh nghiệm
Phương pháp thống kê xử lí số liệu
Điều tra phỏng vấn dự giờ thăm lớp.
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
Chữ viết hiện nay của người Việt là chữ viết ghi lại theo phát âm. Do đó
việc viết đúng phải dựa trên đọc đúng, đọc đúng là cơ sở của viết đúng. Vì vậy,
phân môn chính tả có vị trí đặc biệt quan trọng, nhằm thực hiện mục tiêu của
môn Tiếng Việt là rèn và phát triển tiếng mẹ đẻ cho học sinh, trong đó có năng
lực chữ viết. Trong những năm gần đây, các nhà trường tiểu học luôn quan tâm
đến chữ viết qua các phong trào thi “Viết chữ đẹp”. Đây là một hình thức để
tuyên truyền lan tỏa cho toàn dân trong việc giáo dục con em viết chữ đẹp. Viết
chữ đẹp không phải chỉ đẹp về hình thức mà còn đúng cả về luật chính tả. Bởi
vậy,chính tả luôn luôn là những chuẩn mực của ngôn ngữ viết, và được thừa
nhận trong ngôn ngữ toàn dân. Mục đích của nó làm phương tiện thuận lợi cho

việc giao tiếp bằng chữ viết bảo đảm cho người viết và người đọc đều hiểu
thống nhất những điều đã viết. Chính tả trước hết là sự quy định có tính chất xã
hội, một sự quy định có tính chất bắt buộc gần như tuyệt đối, nó không cho phép
vận dụng quy tắc một cách linh hoạt hay có tính chất sáng tạo cá nhân.
Tuy nhiên do yếu tố vùng miền, cách phát âm mỗi nơi mỗi khác. Mặc dù
những quy tắc, quy ước về chính tả được thống nhất theo ngữ pháp chung.
Nhưng việc “viết đúng chính tả” trong học sinh tiểu học nói chung và học sinh
lớp tôi nói riêng còn nhiều khó khăn, tồn tại mà mỗi giáo viên và học sinh cần
phải nỗ lực để khắc phục tồn tại trên.
Hiện nay có nhiều phương án dạy - học Tiếng Việt khác nhau ở Tiểu học.
Đó là một xu hướng lành mạnh - điều đáng nói là các phương án này đều hướng
tới một mục tiêu chung đó là giáo dục một cách toàn diện hình thành và phát
triển cho học sinh những tri thức và kĩ năng cơ sở thiết thực với cuộc sống cộng
đồng, lòng tự tin, tính hồn nhiên, sự năng động và linh hoạt. Giúp học sinh có
đầy đủ phẩm chất, ý chí và ước mơ đem sức mình đáp ứng được những nhu cầu
phù hợp với xã hội trong thời đại mới.
Người giáo viên muốn đánh giá kết quả học tập của học sinh cũng phải
thông qua năng lực viết đúng chính tả của các em. Vì vậy mỗi thầy, cô giáo cần
phải nhiệt tình trong công tác giảng dạy: rèn cho học sinh viết đúng chính tả
ngay từ đầu, dần dần các em ham thích trong mỗi giờ học chính tả cũng như các
môn học khác.
2


2.2. Thực trạng của việc dạy - học chính tả:
2.2.1. Thuận lợi:
Học sinh có đầy đủ sách giáo khoa, vở chính tả, vở bài tập Tiếng Việt
( ghi đầy đủ nội dung bài tập chính tả ). Về nhà trường trong những năm học gần
đây, luôn quan tâm đến chữ viết qua các phong trào thi “Viết chữ đẹp”. Đây là
một hình thức để tuyên truyền cho các bậc phụ huynh học sinh trong việc giáo

dục con em viết chữ đẹp. Ngay từ đầu năm học 2017 -2018 này, qua học tập,
tiếp thu chuyên đề “ Nói chuẩn, viết chuẩn tiếng phổ thông” của Ủy ban nhân
dân; Phòng Giáo dục và Đào tạo thành phố Thanh Hóa, được nhà trường tiếp tục
triển khai thực hiện và nghiên cứu Thông tư 22. Tôi đã định hướng cho bản thân
là tìm hiểu, theo dõi sáng kiến của mình về nâng cao chất lượng phân môn chính
tả lớp 3, cụ thể là lớp 3A. Lớp học gồm 30 em: 14 nữ, 16 nam. Các em đều
ngoan ngoãn, biết nghe lời thầy cô dạy bảo. Về cơ sở vật chất cũng như các thiết
bị đồ dùng dạy hoc…Đã được nhà trường quan tâm và trang bị tương đối đầy
đủ. Mặt khác với chương trình mới này học sinh đươc tham gia học tập một cách
thoải mái và giảm bớt áp lực, nhờ đó các em đã có nhiều cơ hội để bộc lộ khả
năng của mình hơn. Vì vậy có sự thuận lợi cho giáo viên dạy học.
2.2.2. Khó khăn:
- Lớp 3A là lớp học có phần đa gia đình làm nông nghiệp và một số gia
đình có bố mẹ làm công nhân, một số em có bố mẹ đi làm ăn xa gửi con lại cho
ông bà …nên việc quan tâm chăm lo đến học tập của các bậc phụ huynh đối với
con em mình còn hạn chế. Có nhiều em đi học còn hay quên đồ dùng học tập,
không có sự chuẩn bị bài trước khi đến lớp….
- Các em chưa hiểu rõ mục đích và tầm quan trọng của việc giữ vở sạch
viết chữ đẹp, Đa số các em ngại viết, không có hứng thú và lòng say mê khi viết
chữ mà chủ yếu chỉ dừng lại ở mức độ viết đúng như em Quỳnh, Trang, Hà
Linh. Một số em khác không nắm được cấu tạo các con chữ và kỹ năng viết
đúng dẫn đến sai ngay từ những giờ Tiếng Việt đầu tiên của cấp học.
2.2.3. Thực trạng chữ viết của học sinh:
Tình trạng chung của học sinh trường Tiểu học Hoằng Long nói riêng,
học sinh Tiểu học nói chung khi học xong Tiểu học một số em viết chữ còn xấu,
cẩu thả, sai nhiều lỗi chính tả, viết không đúng kích cỡ, đúng mẫu ... tất cả
những lỗi này do nhiều nguyên nhân: Một phần là do sự thiếu cẩn thận của học
sinh khi viết, một phần do thiếu sự quan tâm của giáo viên chủ nhiệm, chưa sâu
sát với từng đối tượng học sinh và còn nhiều lí do khách quan khác.. Song, một
nguyên nhân chủ yếu và rất thực tế đối với học sinh lớp3 là vốn từ của các em

còn hạn chế. Các em chỉ hiểu nghĩa của các từ ngữ ở mức độ đơn giản trong khi
từ ngữ Tiếng Việt vô cùng phong phú.
Để xây dựng được kế hoạch thực hiện nghiên cứu các biện pháp: “ Nâng
cao chất lượng phân môn chính tả ” cho học sinh của lớp, tôi đã tiến hành khảo
sát tình hình thực tế việc viết chính tả của học sinh ngay từ đầu năm học.
Cụ thể kết quả khảo sát chữ viết của học sinh như sau:
3


Lớp
3A

Số HS
30 em

Xếp loại
Loại A
Loại B
Loại C

SL(em)
7
15
8

Tỷ lệ
23,1
50,5
26,4


Ghi chú

Qua khảo sát đầu năm tôi thống kê học sinh còn mắc lỗi chính tả rất nhiều,
chữ viết chưa đẹp, còn sai kích cỡ.Điều đó cho thấy kĩ năng viết của các em còn
hạn chế làm ảnh hưởng tới kết quả học tập ở môn Tiếng Việt cũng như các môn
học khác.
2.2.4. Nguyên nhân:
- Học sinh viết sai chính tả chủ yếu do các em bị mất căn bản từ lớp dưới,
chưa nắm vững âm, vần, chưa phân biệt được cách phát âm của giáo viên, chưa
hiểu rõ nghĩa của từ, chưa có ý thức tự học, tự rèn ở nhà, chưa chú ý khi viết
chính tả.
- Học sinh viết sai chính tả do một số lỗi sau:
+ Lỗi do vô ý, chưa cẩn thận (như thiếu dấu phụ, thiếu dấu thanh).
+ Lỗi về các vần khó dễ lẫn (oa, ao, oe, eo, uya, uyu, uênh, oang, oeo, ươu,
uyên, uyêt, uêch, …).
+ Lỗi do phát âm sai do nói tiếng địa phương (s/x,tr/ch, r/d, ân/ưn, an/ang,
anh/ang in/inh, it/ich, iu/iêu, iêc/iêt, ươc/ươt, iên, uyên…).
+ Lỗi do không nắm được quy tắc chính tả (g chỉ được ghép với a, ă, â, o, ô, ơ,
u, ư và gh, ngh chỉ ghép với e, ê, i ).
+ Lỗi do không hiểu nghĩa của từ nên các em khó phân biệt được các từ như (để
dành/tranh giành, dở dang/giang sơn, …).
Là một giáo viên được phân công trực tiếp giảng dạy lớp 3 với những
tình hình thực tế và yêu cầu của chương trình đã khiến tôi trăn trở và rút ra một
số kinh nghiệm nhằm “Nâng cao chất lượng phân môn chính tả cho học sinh
lớp 3 ”.
2.3. Các giải pháp để nâng cao chất lượng phân môn chính tả lớp 3
2.3.1. Biện pháp 1: Luyện phát âm theo chuẩn tiếng phổ thông
Muốn học sinh viết đúng chính tả, trước hết giáo viên phải chú ý luyện
phát âm cho mình và cho học sinh để phân biệt các thanh, các âm đầu, âm chính,
âm cuối. Vì chữ quốc ngữ là chữ ghi âm, giữa cách đọc và cách viết thống nhất

với nhau. Nếu giáo viên chưa phát âm chuẩn, do ảnh hưởng của cách phát âm ở
địa phương. Hoặc với học sinh, các em được sinh ra và lớn lên trong môi trường
phát âm như vậy nên các em cũng có thói quen phát âm sai dẫn đến hiện tượng
viết sai chính tả.
Hoằng Long là một xã ven thành phố Thanh Hóa,là một vùng nông thôn
thuần túy nên phần lớn người dân ở đây nói tiếng địa phương. Học sinh trường
Tiểu học Hoằng Long cũng mắc phải một số lỗi phát âm địa phương ( những lỗi
phát âm sai này đã dẫn đến viết sai ).Những lỗi sai chủ yếu là :
- Phát âm sai về thanh điệu:
Thanh hỏi -> Thanh ngã
VD : thỉnh thoảng -> thĩnh thoãng
4


Thanh ngã -> Thanh hỏi
VD : những bông hoa -> nhửng bông hoa
- Phát âm lệch chuẩn về phụ âm đầu quặt lưỡi r/d ,tr/ch ,s/x
hoa sen/ hoa xen , hái rau / hái dau
- Lệch chuẩn về phần vần :
+ Nguyên âm đôi thường bị triệt tiêu : VD : hiểu biết / hỉu bít
VD : quả chuối / quả chúi
VD : quả xoài / quả xòi
+Biến thành nguyên âm khác : ươ thành iê VD : chai rượu /chai riệu
+ Phát âm sai nguyên âm đơn:
â biến thành ư VD : cái chân -> cái chưn
u thành ô VD : cái bụng -> cái bộng
o thành ua VD : bó hoa -.> búa hoa
- Lệch chuẩn về âm cuối vần :
VD :Một nghìn đồng ->Một nghình đồng
Ăn cơm với thịt -> Ăn cơm với thịch

Ảnh hưởng từ phát âm tiếng địa phương dẫn đến các em viết dễ sai chính tả
trong bài viết .Thực tế có rất nhiều em học sinh trong lớp tôi đã viết từ địa
phương vào trong bài viết chính tả .Vì thế tôi rất chú trọng luyện phát âm chuẩn
cho các em trong mọi hoạt động giao tiếp. Nếu học sinh nào phát âm sai ,đọc sai
,yêu cầu em đó nói lại ,đọc lại theo cô giáo hoặc theo bạn thật đúng chuẩn .Việc
rèn phát âm được thực hiện thường xuyên trong các tiết Tập đọc và một số môn
học khác. Để thực hiện được, bản thân giáo viên phải phát âm chuẩn, rõ ràng,
tốc độ vừa phải và cho các em luyện phát âm đúng, đọc đi đọc lại nhiều lần mới
có thể giúp học sinh viết đúng chính tả . Không những chú trọng rèn phát âm
chuẩn tiếng phổ thông cho học sinh ở lớp ,tôi còn phổ biến đến phụ huynh trong
cuộc họp phụ huynh đầu năm để phụ huynh lưu ý luyện phát âm chuẩn tiếng phổ
thông cho con em mình ở nhà.
2.3.2. Biện pháp 2: Phân tích so sánh.
Song song với việc luyện phát âm cho học sinh, khâu phân tích so sánh
tiếng, từ cũng rất quan trọng trong giờ học chính tả: với những tiếng khó, giáo
viên áp dụng biện pháp phân tích cấu tạo tiếng rồi so sánh những tiếng dễ lẫn
lộn ,luyện viết bảng con trước khi viết vào vở. Với những tiếng dễ lẫn lộn, giáo
viên cần nhấn mạnh những điểm khác để học sinh ghi nhớ.
* Ví dụ : Dạy bài Chính tả (Tập chép): Cậu bé thông minh – TV3 -Tập 1, tr.4
Cho học sinh nhìn bảng viết đoạn 3: từ “Hôm sau …đến xẻ thịt
chim”.Trước khi viết bài, giáo viên phân tích cho học sinh hiểu nghĩa một số
tiếng dễ lẫn lộn như:
+ sắc ≠ sắt: sắc là sắc bén còn sắt là thanh sắt (vật kim loại).
+ xẻ (thịt chim) ≠ sẻ: xẻ là mổ xẻ, bổ ra còn sẻ là chim sẻ, san sẻ.
Qua phần bài tập: Điền vào chỗ trống vần an hay ang?
- đ .`… hoàng.
- đ .`… ông.
- s...…loáng.
5



Học sinh tiến hành làm bài tập, sau đó giáo viên sửa bài và cho học sinh
phân tích từ:
- đàng hoàng ≠ đàn (tiếng đàn)
- đàn ông ≠ đàng (đường)
- sáng loáng ≠ sán (sán: là kí sinh
giống giun; nghĩa khác là tiến đến gần.)
* Dạy bài: Nghe – viết: Ông ngoại - (TV3 - Tập 1, tr.34) – Chép đoạn 3
Trong đoạn viết có câu: “Trong cái vắng lặng của ngôi trường cuối hè,
…trong đời đi học của tôi sau này”.
Khi viết tiếng “lặng” học sinh dễ lẫn lộn với tiếng “lặn”, giáo viên yêu
cầu học sinh phân tích cấu tạo hai tiếng này:
- Lặng = L + ăng + thanh nặng
- Lặn = L + ăn + thanh nặng
So sánh để thấy sự khác nhau, tiếng “lặng” có âm cuối là “ng” còn tiếng
“lặn” có âm cuối là “n”. Học sinh ghi nhớ cách phát âm và cách viết sẽ không
viết sai.
2.3.3. Biện pháp 3: Giải nghĩa từ.
Do phương ngữ của từng vùng miền khác nhau, cách phát âm đôi khi
chưa thống nhất với chữ viết nên học sinh cần nắm rõ nghĩa của từ để viết cho
đúng.
* Dạy Chính tả (Tập chép): Chị em - (TV3 – Tập1, tr.27)
Học sinh viết: Để chị trải chiếu, buông màn cho em.
Học sinh đọc “buông màn‘ nhưng viết “buôn màn”,do đó học sinh cần
hiểu “buông” có nghĩa là thả màn xuống, còn “buôn” là buôn bán vì vậy phải
viết là “buông màn”.
* Dạy Chính tả ( Nghe – viết): Người mẹ (TV3 – Tập 1, tr.30)
Nội dung viết: Nhờ Thần Đêm Tối chỉ đường, bà vượt qua bao nhiêu khó
khăn, hi sinh cả đôi mắt của mình để giành lại đứa con đã mất.
Học sinh đọc“giành” nhưng viết “dành”. Giáo viên giúp học sinh hiểu

nghĩa: giành là tranh giành, giành phần hơn về mình còn dành là để dành (dành
dụm, dỗ dành).
Việc giải nghĩa từ thường được thực hiện trong tiết Tập đọc, Luyện từ và
câu, Tập làm văn, nhưng nó cũng là việc làm rất cần thiết trong tiết chính tả khi
mà học sinh không thể phân biệt từ khó dựa vào phát âm hay phân tích cấu tạo
tiếng. Có nhiều cách để giải nghĩa từ cho học sinh. Giáo viên chú giải từ mới ở
phân môn Tập đọc kết hợp đặt câu. Nếu học sinh đặt câu đúng tức là học sinh
đã hiểu nghĩa từ; tìm từ cùng nghĩa, trái nghĩa, miêu tả đặc điểm hoặc sử dụng
vật thật, mô hình, tranh ảnh,… Với những từ nhiều nghĩa giáo viên phải đặt từ
đó trong văn cảnh cụ thể để giải nghĩa từ.
2.3.4. Biện pháp 4: Luyện viết đúng tiếng có vần khó.
Sau khi các em đã hiểu được nghĩa của một số từ ngữ trong bài, giáo viên
kết hợp cho học sinh luyện viết đúng những tiếng, từ có vần khó thường gặp
trong bài. (uyu, uôn, oang, uyết....) một số tiếng có vần dễ lẫn lộn (oe/eo;
6


êu/uê; /oa/ao ...) một số từ khó "khuỷu tay" trong bài " Ai có lỗi", " Luống rau"
trong bài " Chị em"...., "khoát tay" trong bài " Người lính dũng cảm"...
Để rèn luyện đúng các lỗi này, trước khi viết bài tôi gọi học sinh phân biệt
từng tiếng, cho học sinh khác nhau nhận xét và thống nhất cách viết tiếng có vần
khó.
Ví dụ :
kh + uyu + thanh hỏi = khuỷu
kh + oai + thanh sắc = khoái
kh + oat + thanh sắc = khoát ( khoát tay )
ng +oăn + thanh huyền = ngoằn (ngoằn ngoèo )
m + uông + thanh sắc = muống (rau muống)
m + uôn + thanh sắc = muốn ( ước muốn )
Cụ thể trong bài chính tả nghe –viết “ Tiếng đàn” ( SGK Tiếng Việt 3 –

tập 2- trang 55 ) có những từ học sinh dễ viết sai như : rượi (mát rượi ), lưới
( tung lưới ), lướt (lướt nhanh ),thuyền .Trước khi viết bài ,tôi gọi 1 -2 học sinh
đánh vần ,nhận xét các tiếng khó,từ khó mà cô giáo viết trên bảng :
Tiếng “rượi” = r + ươi + thanh nặng (đặt trên con chữ “ ơ ”
Tiếng “ thuyền” = th +uyên + thanh huyền (đặt trên con chữ “ê”
Tiếng “ lướt”
= l + ươt + thanh sắc ( đặt trên con chữ “ơ”
Sau đó tôi sẽ xóa bảng và yêu cầu học sinh dưới lớp nghe cô giáo phát
âm và viết lại.Từ đó hình thành cho các em thói quen nghe và viết đúng chính tả
các tiếng có vần khó. Khi phân tích tôi chú ý nhấn giọng vào phần vần, sau đó
cho học sinh viết bảng con, lớp nhận xét, lớp tự sửa sai. Với những bài viết có ít
những vần khó tôi có thể lấy thêm một số tiếng có vần khó, đọc cho học sinh
viết, để khắc sâu vần cần chú ý.Trong các tiết chính tả tôi thường chọn các dạng
bài tập khác nhau cho các em được làm nhiều, luyện viết nhiều để các em nhớ
cách viết đúng.
2.3.5. Biện pháp 5 : Sử dụng các kĩ thuật đánh giá thường xuyên trong khi
dạy –học chính tả
Để nâng cao chất lượng giờ chính tả,tôi luôn sử dụng các kĩ thuật đánh giá
thường xuyên ( theo hướng dẫn của thông tư 22) . Các kĩ thuật đánh giá thường
xuyên mà tôi sử dụng trong phân môn chính tả là : Quan sát ,vấn đáp nhanh
,đánh giá bài viết của học sinh ,học sinh tự đánh giá lẫn nhau .Ví dụ : sau khi
học sinh viết bài xong ,tôi thực hiện hoạt động chấm chữa bài . Có nhiều hình
thức chấm chữa bài, nhưng khi dạy tôi thường sử dụng biện pháp như sau: Sau
khi viết bài xong, cô đọc chậm cho các em tự soát bài sau đó cho các em tự đổi
vở cho nhau ( 2 em ngồi cạnh nhau) theo sự chỉ đạo của giáo viên. Nếu phát
hiện ra lỗi sai của bạn, kịp thời bảo bạn sửa lại ngay( kĩ thuật đánh giá bài viết
của nhau ). Sau khi các em thực hiện xong, tôi cho các em nêu kết quả mình đã
được kiểm tra vở bạn. Tôi hỏi sau khi các bạn kiểm tra bài bạn xong, em thấy
có bài nào không viết sai lỗi nào hoặc bài nào sai 2; 3 lỗi không ? bài nào còn sai
rất nhiều lỗi ?( đây là kĩ thuật vấn đáp nhanh ).Cuối cùng giáo viên kịp thời

tuyên dương những bạn không sai lỗi nào.
Từ việc học sinh tự sửa lỗi theo tôi có những đặc điểm tích cực sau đây:
7


- Các em được tiếp xúc có ý thức với văn bản viết một lần nữa, qua đó
góp phần củng cố những kiến thức vừa được hướng dẫn.
- Với sự hướng dẫn của giáo viên, học sinh tự phát hiện ra những lỗi
chính tả.Từ đó, các em có điều kiện để tái hiện lại quy tắc viết đúng chính tả cho
mỗi trường hợp. Nên góp phần củng cố, khắc sâu hơn cho học sinh những khả
năng chính tả.
- Trường hợp, những em học sinh chuyên viết sai lỗi chính tả thì không
tự phát hiện được lỗi của bạn. Đối với những em này, giáo viên đi đến từng em
để hướng dẫn cách sửa lỗi. Từ đó giúp các em có thể nắm bắt được luật chính tả
một cách thuận tiện.
- Thông qua việc tự sửa lỗi của các em, tôi đã giáo dục các em tính cẩn
thận, chính xác, không để sai sót đồng thời cũng kết hợp lòng trung thành cho
các em, sai lỗi nào bảo bạn sữa lỗi ấy.
- Hình thành ý nghĩa giữ gìn đồ dùng của bạn cũng như của mình (giữ vở
sạch, viết chữ đẹp), không được làm rách, bẩn vở của bạn trong quá trình chữa
soát lỗi.
- Hình thành ở các em ý thức nhiệm vụ được giao(tính tự giác).
Sau khi tổ chức cho các em chữa lỗi theo nhóm ,Gv thu khoảng 10 bài để
nhận xét ,chữa lỗi trực tiếp vào vở của học sinh ( hoặc gọi học sinh đó lên để
chữa tay đôi ) hoặc chữa chung trên bảng nếu nhiều học sinh cùng mắc lỗi sai đó
( đây là kĩ thuật quan sát và kĩ thật đánh giá sản phẩm của học sinh.)
Các kĩ thuật đánh giá thường xuyên này tôi luôn sử dụng thường xuyên
đối với các tiết chính tả. Từ đó đã tạo cho các em thói quen và giữ trật tự khi
trao đổi bài.Tôi luôn tuyên dương và khuyến khích những em viết đúng, viết
đẹp. Với biện pháp trên, học sinh rất thích viết đúng và đẹp để cho bạn không

tìm ra lỗi sai của mình và được cô khen trước lớp. Chính vì thế chỉ một thời gian
không lâu tôi đã thu được kết quả đáng khả quan.
2.3.6. Biện pháp 6: Giúp học sinh ghi nhớ mẹo luật chính tả.
Ngay từ lớp Một, các em đã được làm quen với luật chính tả đơn giản như
các âm đầu : k, gh, ngh chỉ kết hợp với âm i, e, ê và âm g chỉ kết hợp với : a, ă,
â, o, ô, ơ, u, ư. Giáo viên còn có thể cung cấp thêm cho học sinh một số mẹo luật
khác như sau:
a) Phân biệt âm đầu s/x : Đa số các từ chỉ tên cây và tên con vật đều bắt đầu
bằng s (sắn, sung, sầu riêng, sứ, sả, sim, sậy; sáo, sên, sâu, sán, sóc, sói, sư tử,
…).
b) Phân biệt âm đầu tr/ch : Đa số các từ chỉ đồ vật trong nhà và tên con vật
đều bắt đầu bằng ch (chổi, chum, chén, chảo, chai, chày, chăn, chiếu,…; chó,
chuột, châu chấu, chuồn chuồn, chào mào, chiền chiện,…).
c) Luật trầm – bổng ( luật hỏi – ngã trong từ láy) :
Có thể cho học sinh học thuộc hai câu thơ sau:
Chị Huyền mang Nặng Ngã đau
Anh Ngang, Sắc thuốc Hỏi đau chỗ nào.
Nghĩa là: Thanh Huyền, Nặng, Ngã kết hợp với dấu Ngã.
8


Thanh Ngang, Sắc, Hỏi kết hợp với dấu Hỏi.
* Ví dụ: Âm trầm
+ Huyền – Ngã: vững vàng, vẽ vời, vồn vã, lững lờ, sẵn sàng,…
+ Nặng – Ngã: đẹp đẽ, nhẹ nhõm, mạnh mẽ, lạnh lẽo, vội vã,…
+ Ngã – Ngã: dễ dãi,, nhõng nhẽo, lỗ lãi, nghễnh ngãng,…
* Ví dụ: Âm bổng
+ Ngang – Hỏi: vui vẻ, nho nhỏ, lẻ loi, trong trẻo,…
+ Sắc – Hỏi: vắng vẻ, mát mẻ, nhắc nhở, trắng trẻo, sắc sảo, vất vả,…
+ Hỏi – Hỏi: hổn hển, lỏng lẻo, thỏ thẻ, thủ thỉ, rủ rỉ,…

Cũng có thể cung cấp thêm cho học sinh mẹo luật sau:
Từ có âm đầu là M, N, Nh, V, L, D, Ng thì viết là dấu ngã (Mình Nên Nhớ
Viết Là Dấu Ngã).
*Ví dụ: M: mĩ mãn, mã lực, từ mẫu, cần mẫn,…
N: nỗ lực, trí não, truy nã, nữ giới,…
Nh: nhẫn nại, nhẵn bóng, quấy nhiễu, nhõng nhẽo,…
V: vĩnh viễn, vỗ về, vũ trang, võ nghệ, vũ trụ,…
L: lễ phép, lữ hành, kết liễu, thành lũy, lạnh lẽo, …
D: dã man, dã tràng, dũng cảm, dỗ dành, hướng dẫn, diễm lệ,…
Ng: ngưỡng mộ, hàng ngũ, ngữ nghĩa, ngôn ngữ, ngỡ ngàng, ngã
(té),..
Ngoài 7 âm đầu trên các từ Hán Việt đều viết dấu hỏi:
* Ví dụ: ảm đạm, ẩm thực, ủy ban, quỷ quyệt, xả thân, kỉ niệm, tỉ mỉ,..
Ngoại lệ: quỹ đạo, thủ quỹ, xã hội, kĩ thuật, mĩ thuật,…
2.3.7 . Biện pháp 7 : Biện pháp giúp học sinh viết đúng chính tả qua các
bài tập.
Các dạng bài tập chính tả thường gặp ở lớp3 trong HK I là các dạng bài:
Bài tập điền vào chỗ trống (Bài tập điền khuyết); Bài tập tìm từ; Bài tập tìm
tiếng; Bài tập giải câu đố; Bài tập lựa chọn. Sang HK II có thêm dạng Bài tập
đặt câu (Bài tập phân biệt hai từ trong từng cặp từ).
Mỗi bài viết chính tả giáo viên cần luyện học sinh phát âm từ khó, phân
tích so sánh tiếng, từ khó, giải nghĩa từ, ghi nhớ mẹo luật chính tả. Ngoài nhiệm
vụ trên giáo viên còn hướng dẫn học sinh làm các bài tập khác nhau để giúp học
sinh tập tận dụng các kiến thức đã học, làm quen với việc sử dụng từ trong văn
cảnh cụ thể. Sau mỗi bài tập, giáo viên giúp các em rút ra các quy tắc chính tả để
ghi nhớ.
2.3.7.1.Bài tập điền vào chỗ trống.
Với dạng bài tập này thường giúp học sinh điền đúng âm đầu, vần vào
chỗ chấm:
* Ví dụ: Bài tập 2 a) – TV3, Tập 1, tr. 22

Điền vào chỗ trống tr hay ch ?
- Cuộn …òn, …ân thật, chậm …ễ
* Bài tập 3a) –TV3, Tập 1, tr.48
9


x

Điền vào chỗ trống s hay
?
Giàu đôi con mắt, đôi tay
Tay …iêng làm lụng, mắt hay kiếm tìm
Hai con mắt mở, ta nhìn
Cho sâu, cho …áng mà tin cuộc đời.
* Dạy Chính tả (Nghe – viết) : Ông ngoại (đoạn 3) - TV3, Tập 1, tr. 35
Nội dung viết: Ông còn nhấc bổng tôi trên tay, cho gõ thử vào mặt da loang lổ
của chiếc trống trường.
Một số học sinh viết sai lỗi “da” viết là “gia”, cũng có em viết là “ra”. Tôi
phân biệt cho các em biết nghĩa của hai từ da và gia: da viết là d – với các nghĩa
có liên quan tới “da thịt”, trong “da diết”; còn gia viết là gi trong các trường hợp
còn lại, với các nghĩa là “nhà” (ví dụ: gia đình), chỉ người có học vấn, chuyên
môn (ví dụ: chuyên gia), nghĩa khác (gia vị, gia súc,…) Sau phần bài viết tôi tự
ra bài tập để các em hiểu thêm. Nội dung bài tập như sau:
* Điền vào chỗ trống r, d hay gi ?
- …a vào; …a dẻ;…a đình.
- …a rả; …a thịt, tham …a.
* Điền vào chỗ trống en hay eng ? (BT 2b – TV 3, tập 1, tr. 41)
Tháp Mười đẹp nhất bông s…
Việt Nam đẹp nhất có tên Bác Hồ.
Bước tới Đèo Ngang bóng xế tà

Cỏ cây ch…đá lá ch…hoa .
* Điền vào chỗ trông iên hay iêng ? (Bài tập 2b – TV3, Tập 1, tr. 56)
Trên trời có g….. nước trong.
Con k….. chẳng lọt, con ong chẳng vào.
* Điền vào chỗ trống en hay oen ? (Bài tập 2 – TV3, Tập 1, tr. 60)
- nhanh nh..., nh….. miệng cười, sắt h….gỉ, h.... nhát.
2.3.7.2. Bài tập tìm từ:
Học sinh tìm từ ngữ chứa âm, vần dễ lẫn qua gợi ý nghĩa của từ, qua gợi ý từ
cùng nghĩa, trái nghĩa:
* Bài tập 3a) - TV3, Tập 1, tr. 52

x

Tìm các từ chứa tiếng bắt đầu bằng s hoặc
có nghĩa như sau:
- Cùng nghĩa với chăm chỉ : …..( siêng năng )
- Trái nghĩa với gần : …..( xa )
- (Nước) chảy rất mạnh và nhanh : …..(xiết )
* Bài tập 3b) - TV3, Tập 1 tr. 31
Tìm các từ chứa tiếng có vần ân hoặc âng có nghĩa như sau:
- Cơ thể của người: …..( cơ thể )
- Cùng nghĩa với nghe lời: ….( vâng lời ).
- Dụng cụ đo trọng lượng (sức nặng) : …..( cái cân )
2.3.7.3.Bài tập tìm tiếng :
* Bài tập 2b) - TV3,Tập 1, tr. 18
10


Tìm những tiếng có thể ghép với mỗi tiếng sau:
- gắn, gắng

- nặn, nặng
- khăn, khăng
Giúp học sinh ghép đúng:
- gắn: gắn bó, hàn gắn, gắn kết,…
- gắng: cố gắng, gắng sức, gắng lên,…
- nặn: nặn tượng, nặn óc nghĩ, nhào nặn,….
- nặng: nặng nhọc, nặng nề, nặng cân,…
- khăn: khăn tay, khăn quàng, cái khăn,…
- khăng: khăng khăng, khăng khít,…
Ngoài ra giáo viên phải kết hợp cho học sinh biết xây dựng cái đúng, loại bỏ
cái sai. Bên cạnh việc cung cấp cho học sinh những quy tắc chính tả, hướng dẫn
học sinh thực hành, luyện tập nhằm hình thành kĩ xảo chính tả, cần đưa ra những
trường hợp viết sai để hướng dẫn học sinh phát hiện sửa chữa rồi từ đó hướng
học sinh đi đến cái đúng.
2.3.7.4.Bài tập lựa chọn:
* Bài tập 3b) - TV3, Tập 1, tr. 132
Chọn từ thích hợp trong ngoặc đơn điền vào chỗ trống trong các câu sau:
- (bão, bảo) : Mọi người ….. nhau dọn dẹp đường làng sau cơn …..
- (vẽ, vẻ) : Em ….. mấy bạn …..mặt tươi vui đang trò chuyện.
- (sữa, sửa): Mẹ em cho em bé uống ….. rồi …..soạn đi làm.
2.3.7.5.Bài tập đặt câu (Bài tập phân biệt):
Với dạng bài tập này sang HKII, học sinh làm quen với bài tập: tập đặt câu để
phân biệt hai từ trong từng cặp từ để hiểu nghĩa của từng cặp từ.
* Ví dụ:
Đặt câu phân biệt hai từ trong từng cặp từ sau:
+ trút – trúc; lụt – lục
* Ví dụ: + trút: Trời mưa như trút nước.
+ trúc: Bố em có cây sáo trúc.
+ lụt: Năm nay ở nước ta có nhiều lũ lụt.
+ lục: Bé lục tung đồ đạt trong nhà.

2.3.7.6.Một số bài tập ngoài giờ học chính khóa :
Ngoài các bài tập trên, tôi còn tổ chức cho học sinh tham gia trò chơi viết
đúng chính tả qua các tiết học phụ đạo với các dạng bài tập ngoài bài. Nội dung
các bài tập đưa ra, tôi đã lựa chọn phù hợp với từng đối tượng học sinh nhằm
gây sự hứng thú trong giờ học, cụ thể các bài tập sau:
● Bài tập trắc nghiệm :
Khoanh tròn vào chữ cái trước từ ngữ viết đúng chính tả:
a - suy nghỉ
b - nghĩ hè
c - nghỉ phép
d - im lặn
e - lặn lội
g - vắng lặn
h - muối cam
i - hạt múi
k - sương muối
Đáp án: khoanh vào c, e, k
11


● Bài tập điền Đúng – Sai :
Điền chữ Đ vào ô trống trước những chữ viết đúng chính tả và chữ S vào ô
trống trước những chữ viết sai chính tả:
a chim xẻ
mổ xẻ
Đáp án:
S chim xẻ
Đ mổ xẻ
dìu dắt
dìu biếc

mải miết
mãi mãi
Đ dìu dắt
S dìu biếc
Đ

mải miết

Đ mãi mãi

● Bài tập nối tiếng :
Nối các tiếng ở cột A với các tiếng ở cột B để tạo thành những từ viết đúng
chính tả:
A
B
a. mong
tròn
(1)
b. rau
khổ
(2)
c. cuộn
muốn (3)
d. khuôn
cau
(4)
e. buồng
muống (5)
Đáp án: a - 3 ; b - 5 ; c - 1; d - 2 ; e - 4
● Bài tập phát hiện:

Tìm từ sai chính tả trong các câu sau và sửa lại cho đúng:
- Dẫu các cháu không dúp gì được, nhưng ông cũng thấy lòng nhẹ hơn.
- Một ngôi xao chẳng sáng đêm.
- Chỉ có vần trăng vẫn thao thức như canh gát trong đêm.
- Anh cảm thấy dễ chiệu và đầu óc bớt căng thẳng.
Dưới đây là hình ảnh buổi học ngoại khóa môn chính tả của học sinh.

12


Buổi học ngoại khóa của học sinh lớp 3A – Tiểu học Hoằng Long
Tóm lại: Biện pháp giúp học sinh viết đúng chính tả qua các bài tập cũng là
một trong những biện pháp quan trọng và cần thiết. Khi tổ chức các hoạt động
thực hành luyện tập, giáo viên cần lựa chọn hình thức luyện tập phù hợp với
từng đối tượng học sinh và phù hợp với từng nội dung bài tập nhằm tạo hứng
thú, phát huy tính tích cực của học sinh trong giờ học. Trong quá trình học sinh
làm bài, giáo viên quan sát kĩ từng cá nhân học sinh, nhóm học sinh để đôn đốc
hướng dẫn và biết được những bài làm sai để tổ chức cho học sinh nhận xét và
sửa chữa. Đối với các dạng bài tập khó, giáo viên cần tổ chức cho học sinh luyện
tập dưới hình thức trò chơi hoặc thảo luận nhóm để đạt hiệu quả cao..
- Qua mỗi bài tập, giáo viên tổng kết ý kiến và chốt lại nội dung kiến thức cần
ghi nhớ và kĩ năng cần rèn luyện.
- Giáo viên tuyên dương, khen thưởng, động viên kịp thời tạo hứng thú cho các
em say mê sau khoảng thời gian được luyện tập thực hành.
2.3.8. Biện pháp 8: Luyện viết chữ đúng, đẹp .
Đây cũng là một trong những biện pháp quan trọng và cần thiết trong việc
nâng cao chất lượng phân môn chính tả . Như chúng ta đã biết, viết đẹp nó còn
thể hiện được tính cách của con người "nét chữ - nết người". Trong lớp tôi dạy
có rất nhiều em viết chữ chưa đẹp vì nhiều lý do. Đó là cách viết chưa đúng kích
cỡ: độ cao, rộng của các con chữ. Khoảng cách giữa các chữ và cự li giữa các

con chữ chưa đều, các nét chữ chưa liền mạch... Để giúp các em khắc phục
những tình trạng trên tôi đã lập kế hoạch sử dụng các biện pháp khác nhau áp
dụng đến từng đối tượng.
Tôi hướng dẫn các em cách ghi nhớ độ cao con chữ bằng cách chia độ cao
các chữ cái thành 5 nhóm (đối với chữ viết thường).
+ Nhóm 1:nhóm chữ cao 1 đơn vị như: i, e, ê,n, m.,u,ư,o,ô, ơ,….
+ Nhóm 2:nhóm chữ cao 1,25 đơn vị như chữ r,s….
+ Nhóm 3:nhóm chữ cao 1,5 đơn vị như: chữ t,…
+ Nhóm 4:nhóm chữ cao và dài 2 đơn vị như: d, đ, p, q…
+ Nhóm 5:nhóm chữ cao và dài 2,5 đơn vị như chữ h, l, b, k, y, g....
Khi học sinh học thuộc các độ cao của các chữ cái trên tôi tiến hành
hướng dẫn viết trên dòng kẻ bảng lớp trong khi viết giáo viên nhắc nhở các em
viết với độ rộng của chữ, muốn viết đẹp thì các con chữ cần phải có độ cao bằng
nhau rồi, mà độ rộng của các con chữ cũng phải bằng nhau, khoảng cách của các
chữ với nhau không rộng lắm mà cũng không hẹp lắm, khoảng bằng nửa con
chữ là vừa. Các nét hắt trong một chữ phải được nối liền nhau, trong khi viết
một chữ hạn chế nhấc bút mà thường viết liền các con chữ với nhau, chữ viết
thẳng giáo viên viết mẫu (ngay ngắn, không ngã ngửa chữ mà không cúi rạp
chữ).
Sau khi học sinh nắm được cách hướng dẫn cách viết đẹp tôi cho các em
được luyện chữ con theo đúng các dòng kẻ cô hướng dẫn, giáo viên kịp thời sửa
lại những nét các em viết chưa đúng, tuyên dương những em viết đúng độ cao
từng con chữ, thẳng dòng kẻ, viết đẹp.
13


Luyện viết vào vở, giáo viên đọc cho học sinh một hoặc hai câu thơ với
tốc độ chậm để các em tập viết đúng li trong khi học sinh viết, giáo viên đi lần
lượt từng bàn quan sát các em viết, em nào viết chưa đúng chưa đẹp cô viết mẫu
cho em đó một, hai chữ vào vở để các em bắt chước viết cho đẹp. Khi các em đã

biết viết đúng kích cỡ tôi tập cho các em viết nhanh dần đưa tốc độ viết đối với
các học sinh lớp 3.
Ngoài việc rèn chữ đẹp ở lớp, tôi còn gặp gỡ gia đình các em trao đổi với
phụ huynh, nhờ phụ huynh kèm cặp thêm viết ở nhà và cứ như vậy, sau một thời
gian lớp tôi có nhiều em viết chữ đẹp như em (Ánh Dương, Thùy Trang, Nhã
Uyên, Như Quỳnh, Đức Giang...) và nhiều em từ loại C lên B như em (An,
Hùng, Hải, Đình Đức..) và từ loại B lên loại A như em (Khánh Ngọc,Văn Linh,
Đỗ Chung ) Đây là một thành công lớn của tôi và sự tiến bộ của các em là nguồn
động viên, khuyến khích tôi càng hăng say thực hiện mong muốn của mình.
Ảnh chụp bài viết chính tả có nhiều tiến bộ của học sinh lớp tôi

Bài viết chính tả của em Đỗ Thị Ánh Dương – Học sinh lớp 3A- Trường Tiểu
học Hoằng Long.
14


2.3.9 . Biện pháp 9 : Giúp học sinh viết dúng chính tả qua các môn học
khác.
Ngoài những việc luyện viết chữ đúng đẹp ở tiết chính tả, tôi luôn quan
tâm nhắc nhở các em cần phải viết đúng, nắn nót chữ viết ở những môn học
khác như Tập làm văn, Tập viết, Luyện từ và câu,Toán,.Đạo đức, Tự nhiên và xã
hội,Thủ công,… Đối với các môn học ghi tên bài vào vở, học sinh thường viết
sai, vì vậy tôi thường xuyên theo dõi cách trình bày vở học hằng ngày để phát
hiện lỗi sai và sửa sai kịp thời.
* Ví dụ: + Đạo đức: Tự làm lấy việc của mình
Học sinh lại viết: Tự làm lấy việt của mình
+ Tự nhiên và xã hội: Hoạt động nông nghiệp
Có nhiều học sinh đã viết: Hoạt động nông ngiệp
+ Dạy Thủ công: Gấp, cắt, dán bông hoa
Học sinh lại viết: Gấp, cắt, gián bông hoa

+ Dạy Toán : Trang trí hình tròn
Nhiều em đã viết: Chang chí hình chòn.
Hoặc khi giải bài toán học sinh thường viết sai tên đơn vị như: “tuổi” lại viết
“tủi”, “mét” lại viết “mết". Giáo viên cần sửa chữa kịp thời để các em không
mắc lại lần nữa
Khi chấm bài, tôi luôn chú trọng sửa chữa lỗi sai trong các vở : Toán, Tập
viết, Bài tập Luyện từ và câu và nhất là phân môn Tập làm văn, tôi đã chú ý
nhiều hơn vì nếu các em viết văn sai âm, vần, dấu thanh thì nghĩa sẽ khác đi, bài
văn đó sẽ không hoàn chỉnh và người đọc sẽ không hiểu ý bài văn viết gì.
Bằng những phương pháp riêng của mình, tôi đã dần hình thành cho học
sinh của mình một thói quen cứ đặt bút viết là các em phải viết cẩn thận và nắn
nót như đang trong giờ luyện viết chữ đẹp, có như vậy các em mới tạo thành nề
nếp và có ý thức trong việc: ‘ Viết chữ đẹp – Giữ vở sạch ‘ được. Mặt khác tôi
luôn sát sao để phát hiện xem em nào có bài viết đẹp, đúng cỡ chữ, trình bày bài
sạch sẽ là tôi cho khen thưởng bằng những phần thưởng nho nhỏ như: cục tẩy,
cái bút, hoặc quyển vở, truyện tranh,… nhằm khuyến khích các em viết đẹp hơn.
Với những em được xếp vở loại A cuối mỗi tháng, tôi đã dùng phương pháp
tuyên dương các em trước tập thể lớp nhằm thúc đẩy phong trào trong lớp và
làm động lực của mỗi em.

Trích giáo án chính tả nghe-viết lớp 3
Sau khi thực soạn và dạy tôi thấy đây là một tiết dạy thành công và đã thu
được kết quả cao.. Cụ thể nội dung tiết dạy như sau:
CHÍNH TẢ (TIẾT 1 – TUẦN 4)
A. MỤC TIÊU: Giúp HS

- Nghe- viết đúng bài chính tả; trình bầy đúng hình thức bài văn xuôi
trong bài Người mẹ.
- Làm đúng các bài tập phân biệt các tiếng có âm đầu r/gi/d.
15



B. ĐỒ DÙNG DẠY HỌC:

- Bảng phụ viết sẵn bài tập 3a.
- Vở bài tập và những đồ dùng cần thiết như sách giáo khoa, bảng con,
phấn...
C. CÁC HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC:

HĐ 1. Củng cố kiến thức:
- Giáo viên gọi 3 học sinh lên bảng lớp viết theo lời đọc của giáo viên. Cả
lớp viết vào bảng: ngắc ngứ, ngoặc kép, trung thành.
- Giáo viên và học sinh nhận xét, bổ sung.
- Giáo viên tuyên dương những em viết đúng, đẹp. bằng một tràng vỗ tay
của cả lớp.
HĐ2: Giới thiệu bài. GV nêu ngắn gọn mục đích, yêu cầu tiết học.
HĐ3: Hướng dẫn học sinh nghe - viết:
a) Hướng dẫn chuẩn bị:
- Giáo viên đọc mẫu đoạn bài viết từ ‘ Một bà mẹ đến làm được tất cả.‘
- Một học sinh đọc lại, cả lớp đọc thầm theo.
- Giúp học sinh nắm nội dung đoạn văn.
- Hãy nêu nội dung đoạn viết (Học sinh nêu nội dung đoạn văn)
- Hướng dẫn học sinh nhận xét chính tả. Giáo viên hỏi:
+ Đoạn văn gồm mấy câu? (4 câu).
+ Tìm các tên riêng trong bài chính tả ? ( Thần Chết, Thần Đêm Tối)
+ Các tên riêng ấy được viết như thế nào ? (viết hoa các chữ cái đầu mỗi tiếng)
- Một học sinh đọc lại đoạn văn, cả lớp đọc thầm tìm những chữ ghi tiếng
khó viết hoặc dễ lẫn, nêu ra trước lớp.
- Giáo viên cho các em viết bảng con những chữ ghi tiếng khó đó. Đồng thời
gọi một số em lên bảng viết bài.: hi sinh, giành, ngạc nhiên …

- Giáo viên và học sinh nhận xét đúng, sai …
* Giáo viên phân tích nhấn mạnh giúp học sinh ghi nhớ và hiểu nghĩa của
từ: giành khác với dành :giành là tranh giành, giành phần hơn về mình còn
dành là để dành, dành dụm, dỗ dành..
hi = h + i + thanh ngang
giành = gi + anh + thanh huyền
ngạc = ng + ac + thanh nặng
nhiên = nh + iên + thanh ngang
b) Giáo viên đọc cho học sinh viết bài:
- Giáo viên cho học sinh soát bài
HĐ4: Nhận xét , chữa bài.
- Giáo viên hướng dẫn các em đổi vở cho nhau (hai bạn cạnh nhau) nếu
thấy bạn sai lỗi nào kịp thời bảo bạn sửa ngay sau đó các em xếp vở ra đầu bàn
để giáo viên chấm bài và nhận xét bài viết.

16


- GV chấm bài , sửa lỗi và nhận xét bài tay đôi đến từng học sinh ( khoảng
10 bài ), có khen, chê kịp thời và tuyên dương trước lớp với những em có bài
viết đẹp, trình bày bài cẩn thận
HĐ5: Hướng dẫn học sinh làm bài tập chính tả
a) Bài tập 2.a) Điền vào chỗ trống d hay r ? Giải câu đố.
- GV treo bảng phụ có nội dung bài tập, gọi HS đọc yêu cầu và nội dung
bài tập.

- GV mời 2 học sinh lên thi làm .
- Cả lớp cùng làm vào giấy nháp - Học sinh đọc kết quả.
- HS – GV nhận xét và nêu kết quả đúng : Giải câu đố: Là Hòn gạch
- Tuyên dương những em giải được câu đố nhanh nhất.

- HS đọc lại bài làm. GV sửa lỗi phát âm.
b ) Bài tập 3:(Lựa chọn ): Tôi chọn làm bài tập:3.a)
3.a) Tìm các từ chứa tiếng bắt đầu bằng d,gi hoặc r có nghĩa như sau:
- Hát nhẹ và êm cho trẻ ngủ.
- Có cử chỉ, lời nói êm ái , dễ chịu.
- Phần thưởng trong cuộc thi hay trong trò chơi.
- Một học sinh đọc thành tiếng yêu cầu của bài. Cả lớp đọc thầm theo.
- Học sinh trao đổi theo cặp ( 2 em ngồi gần nhau ).
- Giáo viên treo bảng phụ viết sẵn bài tập 3a, mỗi học sinh lên bảng thi
giải nhanh bài tập. Sau đó từng em đọc kết quả.
- Cả lớp và giáo viên nhận xét (về nội dung lời giải, chính tả, phát âm )
chốt lại lời giải đúng.
- Cả lớp viết vào vở bài tập
* Đáp án: Câu 3.a) ru – dịu dàng – giải thưởng
HĐ nối tiếp:
- GV hệ thống nội dung tiết học, tuyên dương những em viết chữ đẹp chú
ý trong giờ học.
- Dặn hs về nhà chuẩn bị tiết sau bài Ông ngoại.
2.4. Hiệu quả của biện pháp nâng cao chất lượng phân môn chính tả ở lớp3.
Sau một thời gian nghiên cứu và vận dụng linh hoạt các biện pháp trên,
đến thời điểm hiện tại (cuối tháng 3/ 2018) kết quả khảo sát đạt được như sau:
Lớp
3A

Số HS
30 em

Xếp loại
Loại A
Loại B

Loại C

SL(em)
24
6
0

Tỷ lệ
80
20
0

Ghi chú

Như vậy thông qua việc nghiên cứu và thực nghiêm các biện pháp nêu
trên, tôi thấy kết quả chữ viết của học sinh lớp tôi chuyển biến rõ rệt, nhiều em
trước đây viết chữ còn xấu, nết chữ rời rạc, sai chính tả nay đã viết đúng cỡ chữ
17


nối nét liền mạch đúng quy trình, đúng độ cao, đúng cự li khoảng cách, đúng
chính tả,… cụ thể như em Ánh Dương ;Khôi Nguyên ; Tùng Chi ; Thu Hồng
.Phan Anh ,.. và nhiều em khác đến nay đã có nhiều tiến bộ vượt bậc biết viết
chữ đúng mẫu, đúng cỡ, trình bày bài sạch đẹp, chữ viết của em Đỗ Chung được
xếp loại A từ tháng 11 , em Anh Quân đã được xếp loại A từ tháng 1 vừa qua.
Nhìn chung đa số học sinh trong lớp viết chữ nắn nót, trình bày cẩn thận và trở
thành thói quen đối với mỗi em. Các em luôn tự giác trong học tập, sách vở luôn
giữ sạch đẹp. Vở viết của học sinh đảm bảo chất lượng, trình bày bài khoa
học,...Bản thân tôi khi dạy cũng thấy hứng thú, say mê nâng cao chất lượng giờ
dạy tốt hơn. Dưới đây là bài viết chính tả có nhiều tiến bộ của học sinh lớp tôi .

3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận:
“Nét chữ là nết người” cho nên rèn chữ viết cho học sinh là một việc làm
hết sức quan trọng và cần thiết. Rèn chữ viết để học sinh có công cụ học các
môn học khác đồng thời cũng là quá trình rèn luyện một số đức tính cho học
sinh theo mục tiêu cấp học. Muốn cho học sinh ngày càng viết chữ đẹp, rõ ràng,
đúng mẫu, thì sự kết hợp giữa phụ huynh học sinh với giáo viên chủ nhiệm là
hết sức quan trọng, vì khi trình độ dân trí ngày càng cao, thì phụ huynh sẽ càng
quan tâm chăm sóc đến con em của họ nhiều hơn. Nếu biết phối hợp tốt sẽ giúp
rất nhiều cho việc nâng cao chất lượng chữ viết cho học sinh lớp 3 nói riêng và
học sinh Tiểu học nói chung.
Bởi vậy,dạy Chính tả là một hoạt động trí tuệ khó khăn và phức tạp. Do đó
khi giáo viên hướng dẫn đòi hỏi học sinh phải phát huy trí tuệ, tư duy một cách
tích cực cụ thể, linh hoạt chủ động và sáng tạo, đồng thời qua việc rèn chữ của
học sinh mà giáo viên dễ dàng phát hiện ra những ưu điểm và nhược điểm để
giúp các em khắc phục và phát huy.
Để dạy tốt người giáo viên cần phải không ngừng học hỏi, tham khảo ở
sách, báo và kinh nghiệm của anh chị đồng nghiệp; tự tìm hiểu, nghiên cứu để
nâng cao trình độ tay nghề, cần phải có kiến thức về ngữ âm học, từ vựng học,
ngữ nghĩa học, tra “từ điển” các từ có liên quan đến chính tả. Nắm vững phương
pháp đặc trưng của phân môn Chính tả, kết hợp linh hoạt các phương pháp giảng
dạy sao cho sát hợp với từng đối tượng học sinh của lớp mình.
Trên đây là một số biện pháp mà tôi đã vận dụng trong quá trình giảng
dạy thực tế ở lớp mình. Tuy kết quả bước đầu chưa cao, nhưng với sự nhiệt tình
và nỗ lực của bản thân truyền đạt cho học sinh, với những kinh nghiệm nho nhỏ
này, tôi hy vọng sau năm học này, học sinh lớp tôi sẽ có tiến triển tốt về viết
đúng chính tả và là hành trang cho các em một số vốn từ chính tả làm nền tảng
cho các năm học tới .
3.2. Kiến nghị:
* Đối với giáo viên:

- Cách phát âm của giáo viên phải thật chuẩn mực để giúp học sinh
nghe, viết đúng.
18


- Chữ viết của giáo viên là vật mẫu quan trọng nhất, vì vậy giáo viên
phải viết đúng, đẹp. Muốn vậy, giáo viên phải rèn luyện chữ viết.
- Để việc dạy học chính tả đạt hiệu quả ngay từ khi các em mới bắt đầu
làm quen với Tiếng Việt, giáo viên cần hướng dẫn các em thật tỉ mỉ về các quy
tắc chính tả, quy tắc kết hợp từ, quy tắc ghi âm chữ quốc ngữ và cung cấp cho
các em một số mẹo luật chính tả,…
- Nghiên cứu bài dạy trước khi lên lớp. Thực hiên đầy đủ các thao tác theo
quy trình bài soạn.
- Luôn uốn nắn, sửa lỗi chữ viết thường xuyên, liên tục, trực tiếp với
học sinh ở tất cả các môn học, trong từng tiết học. Phát hiện, thống kê lỗi
chính tả, tìm nguyên nhân mắc lỗi, từ đó đưa ra các biện pháp khắc phục là một
việc làm thường xuyên rất cần thiết không thể thiếu trong quá trình dạy học
Tiêng Việt.
- Biết sử dụng các phương pháp phù hợp với đối tượng học sinh lớp mình.
Biết giúp đỡ học sinh khi cần thiết. Không quên "xem học sinh là nhân vật trung
tâm".
- Không ngừng học hỏi, tham khảo ở sách, báo và kinh nghiệm của đồng
nghiệp; tự tìm hiểu, nghiên cứu để nâng cao trình độ tay nghề, cần phải có kiến
thức vững chắc về môn Tiếng Việt.
- Thường xuyên chấm bài chính tả cho các em theo đúng Thông tư mới để
có kế hoạch, hình thức giúp đỡ kịp thời, sát thực với từng đối tượng.
- Liên hệ với gia đình thường xuyên, để kết hợp gia đình, nhà trường một
cách chặt chẽ.
- Đối với giáo viên: Chúng ta cần phải thực sự quan tâm yêu thương, gần
gũi và nghiêm khắc. Tạo không khí vui tươi, phấn khởi trong các buổi học để

giúp các em thích đi học và yêu thích môn học hơn. Khen chê kịp thời đối với
từng học sinh vì mỗi bài viết của các em vừa là một phát minh vừa là một tác
phẩm nghệ thuật, mà học sinh Tiểu học lại thích được khen, hiểu được tâm lý
học sinh thì bài dạy sẽ đạt được kết quả cao.
* Đối với nhà trường:
- Nhà trường: cần bổ sung thêm nhiều tranh ảnh minh họa cho môn Tiếng
việt để giúp giáo viên có phương tiện dạy học tốt hơn.
- Cung cấp thêm nhiều tài liệu tham khảo phục vụ chuyên môn cho giáo
viên để giáo viên được học hỏi và nâng cao hơn về kiến thức chuyên môn
nghiệp vụ.
Trên đây là một số kinh nghiệm nhỏ của bản thân góp phần nâng cao
chất lượng phân môn chính tả cho học sinh lớp 3. Vì thời gian nghiên cứu,
trình độ, khả năng thâm nhập thực tế còn hạn hẹp nên đề tài không tránh khỏi
những thiếu sót. Rất mong nhận được sự đóng góp của các cấp lãnh đạo và các
bạn đồng nghiệp để đề tài được hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn !

19


XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Thanh Hóa, ngày10 tháng 4 năm2018
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung của
người khác.
(Ký và ghi rõ họ tên)

Nguyễn Thị Thi


20


Tài liệu tham khảo
1. Sách giáo khoa + Sách giáo viên Tiếng Việt 3 – Tập 1 và 2.
2. Một số phương pháp dạy Tiếng Việt - trong tập (Đổi mới phương pháp dạy
học ở Tiểu học) – Tài liệu Bồi dưỡng giáo viên.
3.. Mẫu chữ theo Quyết định 31/2002/QĐ - BGD & ĐT ngày 14/6/2006 của Bộ
GD & ĐT
4.. Dạy và học chính tả ở Tiểu học - Tác giả Trần Mạnh Hưởng - Nhà xuất bản
Giáo dục.
5. Từ điển chính tả Tiếng Việt – Hoàng Phê chủ biên (NXB Giáo dục, HN
1988).
6. Từ điển Tiếng Việt (NXB Giáo dục).
7. Mẹo luật chính tả (Lê Trung Hoa) - Sở Văn hóa-Thông tin Long An, XB:1984
8.Chữa lỗi chính tả cho học sinh của Phan Ngọc (NXB Giáo dục Hà Nội, 1982
9. Sổ tay chính tả Tiếg Việt Tiểu học - tác giả Nguyễn Đình Cao - Nhà xuất bản
Giáo dục.
10.Tài liệu tập huấn. Hướng dẫn đánh giá học sinh Tiểu học Môn Tiếng Việt –
TT 22/ 2016 ( Bộ giáo dục và đào tạo – Trường Đại học sư phạm Hà Nội

21


22



×