Tải bản đầy đủ (.pdf) (81 trang)

Trình tự thủ tục, giải thể doanh nghiệp theo pháp luật doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (687.37 KB, 81 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

PHẠM NAM GIANG

TRÌNH TỰ THỦ TỤC, GIẢI THỂ DOANH NGHIỆP
THEO PHÁP LUẬT DOANH NGHIỆP Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ

HÀ NỘI, 2019


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

PHẠM NAM GIANG

TRÌNH TỰ THỦ TỤC, GIẢI THỂ DOANH NGHIỆP
THEO PHÁP LUẬT DOANH NGHIỆP Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Chuyên ngành: Luật kinh tế
Mã số: 8 38 01 07

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. NGUYỄN THỊ THU HƯƠNG

HÀ NỘI, 2019


LỜI CAM ĐOAN


Tôi là Phạm Nam Giang, Học viên cao học đợt 1 -2017 chuyên
ngành Luật Kinh tế tại Học viện Khoa học xã hội, xin cam đoan luận văn
“Trình tự thủ tục, giải thể doanh nghiệp theo pháp luật doanh nghiệp ở
Việt Nam hiện nay” là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của cá nhân
tôi. Kết quả nghiên cứu trong luận văn là do tác giả thực hiện.
Các tài liệu, số liệu, kết quả nghiên cứu của các tổ chức, cá nhân
khác được tham khảo, sử dụng, trích dẫn trong luận văn đều đã được ghi rõ
nguồn gốc một cách trung thực. Tôi xin chịu trách nhiệm về những nội
dung đã cam đoan ở trên.
Tác giả luận văn

Phạm Nam Giang


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ................................................................................................... 1
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ TRÌNH TỰ
THỦ TỤC .................................................. GIẢI THỂ DOANH NGHIỆP
1.1. Khái niệm về doanh nghiệp và giải thể doanh nghiệp .......................... 9
1.2. Các hình thức giải thể doanh nghiệp.................................................. 22
1.3. Trình tự thủ tục giải thể doanh nghiệp ............................................... 24
Chương 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ TRÌNH TỰ THỦ TỤC
GIẢI THỂ DOANH NGHIỆP Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ................... 30
2.1. Pháp luật Việt Nam về trình tự thủ tục giải thể doanh nghiệp ............ 30
2.2. Thực tiễn áp dụng pháp luật về trình tự thủ tục giải thể doanh nghiệp
tại Việt Nam hiện nay .............................................................................. 39
2.3. Đánh giá thực trạng pháp luật và thực tiễn ........................................ 46
Chương 3. GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO
HIỆU QUẢ TRONG THỰC HIỆN THỦ TỤC GIẢI THỂ DOANH
NGHIỆP TẠI VIỆT NAM ..................................................................... 62

3.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật về giải thể doanh nghiệp ở Việt Nam
hiện nay.................................................................................................... 62
3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về giải thể doanh nghiệp ở Việt Nam
hiện nay.................................................................................................... 63
3.3. Giải pháp nâng cao hiệu quả trong thực hiện thủ tục giải thể doanh
nghiệp tại Việt Nam ................................................................................. 69
KẾT LUẬN ............................................................................................. 73
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................ 74

9


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong thời gian gần đây, hoạt động của doanh nghiệp Việt Nam đã
có bước phát triển đột phá, tác động tích cực đến sự phát triển kinh tế xã
hội, góp phần quyết định vào phục hồi tăng trưởng kinh tế và hội nhập
quốc tế.
Tuy nhiên, trong một vòng đời của mình, doanh nghiệp sẽ phải trải
qua nhiều giai đoạn khác nhau từ khi ra đời, phát triển tới lúc chấm dứt
hoạt động. Khi gặp khó khăn, doanh nghiệp có thể tạm ngưng hoạt động
sản xuất, kinh doanh để tìm kiếm các biện pháp khôi phục “năng lực sản
xuất”, cải thiện tình trạng xấu. Đến một thời điểm, khi không thể tiếp tục
hoạt động kinh doanh, doanh nghiệp phải chấm dứt sự tồn tại bằng hai hình
thức chủ yếu là giải thế hoặc phá sản.
Khi rơi vào tình trạng buộc phải giải thể, bản thân doanh nghiệp sẽ
phải đối mặt với nhiều khó khăn cần phải giải quyết như: đảm bảo thanh
toán các nghĩa vụ trả nợ, mối quan hệ giữa doanh nghiệp và người lao
động, mối quan hệ giữa các thành viên trong doanh nghiệp. Trong diễn
biến thị trường kinh tế thế giới có nhiều biến động bất thường, nền kinh tế

Việt Nam sẽ chịu ảnh hưởng không nhỏ, đồng nghĩa với áp lực duy trì sự
tồn tại và phát triển doanh nghiệp ngày càng lớn và nhu cầu thực hiện thủ
tục giải thể tăng lên đáng kể.
Năm 2014 là một năm của cải cách thể chế với hàng loạt thay đổi
khác nhau đối với môi trường kinh doanh và sự phát triển cộng đồng doanh
nghiệp trong năm 2015. Trong đó, sự hoàn thiện các quy định của Luật
Doanh nghiệp số 68/2014/QH13 (Luật Doanh nghiệp 2014), Luật Đầu tư số
67/2014/QH13 (Luật Đầu tư 2014) là vô cùng quan trọng, có ý nghĩa lớn

1


về mặt lý luận và thực tiễn. Luật Doanh nghiệp 2014 chính thức có hiệu lực
với những quy định mới đã góp phần tạo ra một môi trường kinh doanh
thuận lợi hơn nữa cho doanh nghiệp từ các thủ tục gia nhập thị trườngcho
đến trình tự thủ tục giải thể doanh nghiệp.
Tuy nhiên thực tiễn áp dụng các quy định này trong hoạt động giải
thể doanh nghiệp vẫn tồn tại những hạn chế và gặp phải một số khó khăn,
vướng mắc nhất định. Cần phải được xem xét, nghiên cứu để tìm ra giải
pháp khắc phục và hoàn thiện trong thời gian tới. Xuất phát từ thực tiễn
cùng với quá trình tìm hiểu, nghiên cứu, tác giả quyết định lựa chọn đề tài
“Trình tự thủ tục, giải thể doanh nghiệp theo pháp luật doanh nghiệp ở
Việt Nam hiện nay” làm đề tài nghiên cứu để thực hiện luận văn thạc sỹ.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Pháp luật về vấn đề giải thể doanh nghiệp Việt Nam và những nội
dung liên quan tuy đã được một số học giả nghiên cứu nhưng với số lượng
không nhiều. Có thể kể đến một số nhóm công trình nghiên cứu như:
Luận văn thạc sĩ: Ths. Hoàng Thị Huế, “Giải thể doanh nghiệp theo
pháp luật Việt Nam và thực tiễn áp dụng tại công ty cổ phần JM”, (2013),
Đại học Quốc gia Hà Nội: Tập trung nghiên cứu về cơ sở lý luận về giải

thể doanh nghiệp, các quy định của pháp luật Việt Nam về giải thể doanh
nghiệp và thực tiễn áp dụng tại một công ty cổ phần [2]. Nội dung của luận
văn không nghiên cứu sâu về trình tự thủ tục giải thể doanh nghiệp theo
quy định của pháp luật Việt Nam và chỉ nghiên cứu trên phạm vi nhỏ hẹp
là tại một công ty cổ phần. Tuy nhiên, những cơ sở lý luận của luận văn,
cách tiếp cận nghiên cứu của luận văn trên rất có ích đối với công trình
nghiên cứu của tác giả.
-

Chuyên đề nghiên cứu: Đỗ Tiến Thịnh, Chuyên đề Giải thể

doanh nghiệp – Thực trạng và kiến nghị (2014), Cục quản lý kinh doanh,

2


Bộ Kế hoạch và Đầu tư: Tập trung nghiên cứu về vấn đề giải thể doanh
nghiệp, đặc biệt chú trọng đến thực trạng và kiến nghị. Tuy nhiên, chỉ dừng
lại ở hình thức chuyên đề nên nội dung không nghiên cứu sâu về các quy
định pháp luật cũng như trình tự thủ tục, thực tiễn áp dụng mà chỉ tập trung
và thực trạng giải thể và kiến nghị. Những ý kiến, nội dung của kiến nghị
trong chuyên đề là nguồn tài liệu tham khảo hữu ích đối với luận văn của
tác giả.
Một số bài viết: TS Nguyễn Thị Dung, Bài viết Thực trạng pháp luật
về giải thể doanh nghiệp, một số đánh giá và kiến nghị, Tạp chí Luật học
số 10 (2012) [1]; Nguyễn Thị Diễm Hường, Pháp luật về giải thể doanh
nghiệp, thực trạng và kiến nghị, Tạp chí Công thương số 7-tháng
7(2016)…Các bài viết của các tác giả chủ yếu đánh giá về thực trạng pháp
luật giải thể doanh nghiệp và nêu ra các kiến nghị nhằm nâng cao chất
lượng áp dụng pháp luật. Phạm vi đánh giá hoạt động áp dụng pháp luật

của các bài viết là rất rộng, đối với toàn bộ hoạt động giải thể doanh
nghiệp. Những nội dung đánh giá này và các kiến nghị được đề xuất trong
các bài viết rất có ích đối với luận văn của tác giả khi đánh giá việc áp
dụng pháp luật về trình tự, thủ tục giải thể doanh nghiệp.
Bên cạnh đó, một số đề tài phân tích và giáo trình các trường đại học
đã đề cập tới đề tài này như:
- Giáo trình Luật thương mại – Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình
Luật kinh tế - Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội: Trình bày các nội
dung khái quát về luật thương mại Việt Nam, pháp luật về doanh nghiệp tư
nhân và hộ kinh doanh cá thể, pháp luật về công ty, pháp luật về doanh
nghiệp nhà nước, tổ chức quản lý công ty nhà nước, quyền và nghĩa vụ của
chủ sở hữu doanh nghiệp nhà nước đối với công ty nhà nước và đối với vốn
nhà nước ở các doanh nghiệp khác. Khái quát về mua bán hàng hóa, hợp

3


đồng mua bán hàng hóa, mua bán hàng hóa qua sở giao dịch, pháp luật về
dịch vụ trung gian thương mại, pháp luật về xúc tiến thương mại của
thương nhân, đấu giá hàng hóa và đấu thầu hàng hóa dịch vụ, pháp luật về
vận chuyển giao nhận và giám định hàng hóa. Pháp luật về sở hữu công
nghiệp trong hoạt động thương mại, khái quát về phá sản và pháp luật phá
sản, thủ tục phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã, các phương thức giải quyết
tranh chấp thương mại, giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài
thương mại [12], [13].
Như vậy, vấn đề về giải thể doanh nghiệp được nghiên cứu trong
giáo trình luật thương mại là rất ít, chỉ mang tính khái quát, tổng quát,
không chuyên sâu về nhiều nội dung, về trình tự thủ tục giải thể doanh
nghiệp. Tuy nhiên, với các nội dung cơ bản của giáo trình, sẽ góp phần
giúp tác giả có cơ sở lý luận khi nghiên cứu và thực hiện luận văn.

Luật thương mại Việt Nam dẫn giải (tác giả Lê Tài Triển) và một số
bài báo, công trình nghiên cứu khác trên các tạp chí, trang web của Bộ tư
pháp, Cục Quản lý đăng ký kinh doanh...
Về mặt lý luận và thực tiễn, là nguồn tài liệu tham khảo phong phú
và có giá trị lớn đối với luận văn của bản thân tác giả, đối với các học giả,
các doanh nghiệp, tổ chức và các cơ quan nhà nước có thẩm quyền tại Việt
Nam.
Luật Doanh nghiệp 2014 mới có hiệu lực từ ngày 01/07/2015, các
công trình nghiên cứu hiện nay vẫn chưa đi sâu vào những đổi mới của thủ
tục giải thể doanh nghiệp hiện tại. Do đó, luận văn là những cập nhập, đánh
giá những mặt tích cực và hạn chế của những quy định pháp luật được ghi
nhận trong Luật Doanh nghiệp 2014 nhằm bổ sung, hoàn thiện thủ tục giải
thể doanh nghiệp trên quan điểm cá nhân.

4


3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Giải thể doanh nghiệp là việc các chủ doanh nghiệp chấm dứt hoạt
động kinh doanh và sự tồn tại của doanh nghiệp; đồng thời tiến hành làm
các thủ tục pháp lý với cơ quan quản lí có thẩm quyền về việc giải thể,
nhằm mục đích chấm dứt tư cách pháp nhân và các quyền, nghĩa vụ liên
quan đến doanh nghiệp đó.
Xét từ một khía cạnh khác, giải thể doanh nghiệp là việc chấm dứt sự
tồn tại của doanh nghiệp theo ý chí của doanh nghiệp hoặc cơ quan có thẩm
quyền với điều kiện doanh nghiệp phải đảm bảo thanh toán hết các khoản
nợ và nghĩa vụ tài sản khác.
Bằng việc tìm hiểu các quy định pháp luật doanh nghiệp hiện hành,
kết hợp với quá trình nghiên cứu những điểm đổi mới từ hướng dẫn trong

các văn bản pháp lý, tác giả sẽ hệ thống được cáctrình tự thủ tục giải thể
doanh nghiệp theo quy định pháp luật doanh nghiệp Việt Nam hiện nay tại
công trình nghiên cứu này.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Với mục đích nêu trên, những nhiệm vụ cần được triển khai xuyên
suốt trong quá trình thực hiện luận văn như sau:
-

Nghiên cứu cơ sở lý luận chung về doanh nghiệp, giải thể doanh

nghiệp, trình tự thủ tục giải thể doanh nghiệp.
-

Những điểm đổi mới của Luật Doanh nghiệp 2014 đối với trình

tự thủ tục giải thể doanh nghiệp.
-

Thực tiễn triển khai trình tự thủ tục giải thể doanh nghiệp tại Việt

Nam theo quy định của pháp luật hiện hành.
-

Đánh giá và kiến nghị đối với những bất cập khi thực thi quy

định Pháp luật với trình tự thủ tục giải thể doanh nghiệp.

5



4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận và thực
tiễn của trình tự thủ tục giải thể doanh nghiệp theo pháp luật Việt Nam
hiện nay.
Ngoài ra, các kinh nghiệm về trình tự thủ tục giải thể doanh nghiệp
tại một số quốc gia trên thế giới cũng được sử dụng để làm bài học khi áp
dụng tại Việt Nam.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu các vấn đề thuộc phạm vi như sau:
-

Các quy định về trình tự thủ tục giải thể doanh nghiệp của Luật

doanh nghiệp Việt Nam sửa đổi bổ sung 2014 và các quy định, văn bản
pháp luật có liên quan.
-

Thực tiễn giải thể doanh nghiệp của một số doanh nghiệp Việt

-

Về thời gian: Kể từ khi Luật doanh nghiệp 2014 có hiệu lực thi

Nam.
hành đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Phương pháp luận sử dụng sự kết hợp triết học duy vật biện chứng
và duy vật lịch sử của triết học Mác - Lê Nin làm cơ sở. Đồng thời phải

dựa vào các chủ trương, chính sách của Đảng trong từng thời kỳ.
Tất cả các điểm của phương pháp chung nêu trên chỉ được thực hiện
khi kết hợp nó với việc sử dụng một phương pháp cụ thể. Ngược lại các
phương pháp cụ thể muốn phát huy tác dụng phải quán triệt yêu cầu của
phương pháp chung.

6


Luận văn được nghiên cứu chủ yếu dựa trên phương pháp luận của
Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, kết hợp với hệ thống các
văn bản, quy định pháp luật Việt Nam về thủ tục giải thể doanh nghiệp.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu cụ thể như: các
phương pháp luận logic, phương pháp phân tích, các phương pháp bình
luận, đối chiếu, so sánh, thống kê, hệ thống, phương pháp chứng minh,
phương pháp lịch sử...đã được sử dụng nhiều trong nghiên cứu về thực
trạng pháp luật về trình tự trình tự thủ tục giải thể doanh nghiệp theo pháp
luật Việt Nam hiện nay.
- Thực hiện thống kê số liệu các doanh nghiệp tiến hành thủ tục giải
thể và các chỉ số thông tin liên quan. So sánh, đối chiếu các thông tin cùng
một vấn đề. Từ đó có sự đánh giá khách quan về tính khả thi của việc áp
dụng quy định pháp luật và những bất cập trên thực tế.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Luận văn trình bày đầy đủ những thông tin về trình tự thủ tục hành
chính trong thủ tục giải thể doanh nghiệp của Việt Nam hiện nay. Đồng
thời, luận văn chỉ ra những điểm mới đã được cải cách, sửa đổi trong Luật
doanh nghiệp 2014 và những vấn đề còn tồn tại cần phải tiếp tục sửa đổi
bổ sung.
Hiện nay, trình tự thủ tục giải thể doanh nghiệp ở nước ta được khối

doanh nghiệp đánh giá là có chuyển biến đáng kể và đã đạt được những
điểm sáng so với trước đây. Tuy vậy, một số vấn đề còn tồn tại trong các
quy định về giải thể doanh nghiệp cũng như trong thực tiễn thi hành cần
được tiếp tục nghiên cứu xem xét, sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện, đặc biệt
là trong bối cảnh hiện nay, khi Việt Nam đang trong quá trình hội nhập sâu
rộng vào nền kinh tế thế giới. Hội nhập kinh tế quốc tế đòi hỏi Việt Nam

7


phải tiếp tục đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính liên quan đến doanh
nghiệp, trong đó có thủ tục hành chính về giải thể doanh nghiệp.
Các quy định về trình tự thủ tục giải thể doanh nghiệp không chỉ tạo
cơ sở pháp lý để chấm dứt tồn tại của doanh nghiệp, mà quan trọng hơn là
còn bảo vệ quyền lợi của những chủ thể có liên quan, đặc biệt là quyền lợi
của chủ nợ và người lao động khi doanh nghiệp chấm dứt tồn tại. Tuy
nhiên, trên thực tế khâu triển khai thủ tục giải thể của doanh nghiệp hiện
nay còn những bất cập hoặc vướng mắc đòi hỏi cần được nghiên cứu, đề
xuất những giải pháp nhằm giải quyết khó khăn vướng mắc, để hoàn thiện
các văn bản luật, tạo hành lang pháp lý kinh doanh thông thoáng, thuận lợi
và minh bạch hơn.
Kết quả nghiên cứu của luận văn là nguồn tham khảo hữu ích cho
việc nghiên cứu về thủ tục giải thể nói chung và quá trình triển khai thực tế
khi áp dụng Luật doanh nghiệp 2014 nói riêng.
7. Kết cấu của luận văn
Luận văn được sắp xếp rất cụ thể:
Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về trình tự thủ tục, giải thể
doanh nghiệp
Chương 2: Thực trạng pháp luật về trình tự thủ tục, giải thể doanh
nghiệp ở Việt Nam hiện nay.

Chương 3: Giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả
trong thực hiện thủ tục giải thể doanh nghiệp tại Việt Nam

8


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ TRÌNH TỰ THỦ TỤC,
GIẢI THỂ DOANH NGHIỆP

1.1. Khái niệm về doanh nghiệp và giải thể doanh nghiệp
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm doanh nghiệp
Trong quá trình hình thành và phát triển kinh tế của một quốc gia thì
vị trí và vai trò của doanh nghiệp là vô cùng quan trọng. Doanh nghiệp góp
phần tạo ra của cải vật chất cho xã hội. Cùng với quá trình phát triển mạnh
mẽ của khoa học kỹ thuật và công nghệ thông tin thì các hình thức tổ chức
doanh nghiệp cũng ngày càng đa dạng với nhiều hình thức sở hữu, do đó
cách tiếp cận và định nghĩa về khái niệm doanh nghiệp cũng có sự khác
nhau nhất định.
Dưới góc độ kinh tế, doanh nghiệp được hiểu là một tổ chức kinh tế
được thành lập nhằm mục đích tìm kiếm lợi nhuận và lấy hoạt động kinh
doanh làm nghề chính.
Thực chất thì doanh nghiệp là khái niệm chung nhất để chỉ các loại
hình doanh nghiệp, trong đó công ty là một loại hình doanh nghiệp và nó
rất phổ biến. Trên thế giới, so với các loại hình doanh nghiệp khác, thì
công ty xuất hiện muộn hơn, vào khoảng giữa thế kỷ 19và đặc biệt trong
nửa đầu thế kỷ 20, công ty là loại hình kinh doanh phát triển mạnh mẽ nhất.
Nhiều nước trên thế giới hiện nay, thay vì thiết lập luật doanh nghiệp, đã
thiên về quy định tổ chức và hoạt động của các loại hình công ty.
Theo quan điểm của các nước tư bản, công ty là một tổ chức kinh tế

được thành lập theo vốn, thành viên góp vốn chỉ chịu trách nhiệm về trái
vụ của công ty trong phạm vi số vốn mà thành viên đó góp vào công ty.
Công ty được thành lập dựa trên một thỏa thuận về quản lý điều hành,

9


thường gọi là điều lệ, có thể phát hành các loại chứng khoán để huy động
vốn và được thừa nhận là pháp nhân ở hầu hết các nước. Như vậy, dù định
nghĩa ở góc độ mở rộng là doanh nghiệp hoặc xem xét ở góc độ hẹp là
công ty, thì hình thức thể hiện phổ biến nhất của doanh nghiệp là một tổ
chức kinh tế và mục đích chủ yếu nhất của nó là kinh doanh.
Theo luật doanh nghiệp của Việt Nam thì “doanh nghiệp là tổ chức
kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký
kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt
động kinh doanh”. Như vậy,doanh nghiệp được xác lập bằng thủ tục thành
lập và đăng ký kinh doanh, có năng lực chủ thể để tham gia các quan hệ
pháp luật và có quyền tự chủ trong các hoạt động kinh doanh.
Từ các cách hiểu trên, có thể khái niệm về doanh nghiệp như sau:
Doanh nghiệp là đơn vị sản xuất kinh doanh được tổ chức nhằm tạo
ra sản phẩm và dịch vụ đáp ứng nhu cầu tiêu thụ trên thị trường, thông qua
đó để tối đa hoá lợi nhuận trên cơ sở tôn trọng luật pháp của nhà nước và
quyền lợi chính đáng của người tiêu dùng.
Từ khái niệm trên, ta thấy doanh nghiệp bao gồm các đặc trưng cơ
bản sau:
Thứ nhất, doanh nghiệp có chức năng sản xuất và kinh doanh, hai
chức năng này liên hệ hết sức chặt chẽ với nhau và tạo thành chu trình
khép kín trong hoạt động của doanh nghiệp. Các hoạt động lẻ tẻ và mang
tính cá biệt không phải là đặc trưng của doanh nghiệp. Chỉ khi một tổ chức
kinh tế thực hiện hoạt động kinh doanh, cung ứng dịch vụ cho người tiêu

dùng một cách chuyên nghiệp, liên tục, thường xuyên, lâu dài thì tổ chức
đó mới có thể được coi là một doanh nghiệp.
Thứ hai, doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, là một mô hình
nhất định do các thương nhân, nhà đầu tư lập ra trên cơ sở sự liên kết, tổ

10


chức để tìm kiếm lợi nhuận.Phần lớn doanh nghiệp được thành lập nhằm
mục đích kinh doanh, mua bán hàng hóa tạo lợi nhuận hoặc cung ứng dịch
vụ hoặc cả hai để phục vụ lợi ích người tiêu dùng. Tuy nhiên, cũng có một
số doanh nghiệp đặc thù, thành lập và hoạt động không vì mục tiêu lợi
nhuận. Các doanh nghiệp này đa phần là doanh nghiệp công ích hoặc
doanh nghiệp xã hội, do Nhà nước thành lập và chủ sở hữu, thực hiện các
hoạt động vì lợi ích của cộng đồng và xã hội.
Thứ ba, doanh nghiệp có mục tiêu kinh tế cơ bản là lợi nhuận tối đa,
muốn đạt được điều đó doanh nghiệp phải tìm cách thoả mãn nhu cầu
người tiêu dùng ngày càng tốt hơn. Chỉ có tìm các biện pháp đáp ứng được
các nhu cầu của người tiêu dùng tốt hơn, tối đa hóa được chi phí mà vẫn
đảm bảo được chất lượng của sản phẩm, hàng hóa thì mới có thể đạt được
mục tiêu là lợi nhuận tối đa. Có như vậy, doanh nghiệp mới tồn tại và phát
triển lâu dài.
Thứ tư, doanh nghiệp làm ăn kinh doanh trong cơ chế thị trường,
chấp nhận cạnh tranh tồn tại và phát triển. Đây là quy luật khách quan
trong sự vận động và phát triển của doanh nghiệp. Doanh nghiệp muốn tồn
tại và phát triển thì hoạt động cạnh tranh là điều tất yếu.
Thứ năm, doanh nghiệp có tính tổ chức và có tính hợp pháp được thể
hiện ở chỗ doanh nghiệp được thành lập luôn có cơ cấu nhân sự, có bộ máy
tổ chức điều hành, có trụ sở giao dịch hoặc đăng ký và có tài sản riêng để
quản lý. Trụ sở của doanh nghiệp là nơi đặt cơ quan điều hành của doanh

nghiệp, nơi tiến hành hoạt động kinh doanh, nơi doanh nghiệp giao dịch
với các bên có liên quan và để xác định các mối quan hệ với cơ quan Nhà
nước. Trụ sở doanh nghiệp cũng là nơi để các cơ quan quản lý thực hiện
chức năng kiểm tra, giám sát. Để có thể tổ chức kinh doanh, doanh nghiệp
cần có tài sản. Do vậy, các thành viên phải bỏ ra một số tài sản để góp vào

11


doanh nghiệp. Số tài sản của các thành viên góp vào tạo thành tài sản của
doanh nghiệp.
Doanh nghiệp muốn được thừa nhận là một pháp nhân, tham gia hoạt
động kinh doanh và chịu trách nhiệm bằng tài sản của mình thì đều phải
đăng ký một cách hợp pháp. Pháp luật nhiều nơi quy định về trình tự, thủ
tục đăng ký hoặc công nhận một tổ chức là doanh nghiệp. Việc đăng ký
thực hiện thông qua thủ tục “hai chiều”, tức là chủ sở hữu khi muốn thành
lập doanh nghiệp phải nộp hồ sơ xin cấp phép, và cơ quan quản lý nhà
nước, khi chấp thuận bộ hồ sơ ấy thì ban hành giấy phép thành lập doanh
nghiệp. Một khi doanh nghiệp được “cấp phép”, nó đương nhiên được thừa
nhận ra đời, được pháp luật bảo hộ và phải chịu sự ràng buộc bởi các quy
định pháp lý có liên quan. Tính hợp pháp không chỉ thể hiện ở việc doanh
nghiệp xin phép đăng ký và được cấp phép thành lập và hoạt động, để nhà
nước ghi nhận sự hình thành hay tồn tại của doanh nghiệp, mà còn thể hiện
ở việc, khi tham gia vào các quan hệ xã hội, doanh nghiệp cũng là một thực
thể độc lập và phải chịu trách nhiệm cho các hoạt động của mình, bằng tài
sản riêng của mình.
1.1.2. Khái niệm, bản chất và đặc điểm của giải thể doanh nghiệp
Trong quá trình sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp có thể gặp phải
những khó khăn khiến doanh nghiệp phải ngừng hoạt động sản xuất kinh
doanh hoặc chấm dứt sự tồn tại của mình. Việc ngừng hoạt động sản xuất

kinh doanh trong một thời gian nhất định chỉ là dạng tạm thời rút lui khỏi
thị trường. Còn việc doanh nghiệp không thể tiếp tục hoạt động sản xuất
kinh doanh và chấm dứt sự tồn tại của mình là việc doanh nghiệp hoàn toàn
rút lui khỏi thị trường. Giải thể doanh nghiệp chính là một dạng chấm dứt
sự tồn tại của doanh nghiệp vĩnh viễn. Thường thì doanh nghiệp bị giải thể
khi hoạt động kinh doanh đã đạt được những mục tiêu đã đặt ra hoặc bị giải

12


thể theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy, các doanh
nghiệp bị giải thể thường là do gặp phải khó khăn khiến doanh nghiệp
không thể tiếp tục sản xuất kinh doanh mà phải lựa chọn bị giải thể. Đó là
điều mà không người chủ doanh nghiệp nào mong muốn, bởi mỗi doanh
nghiệp đều là những đứa con tinh thần của họ, nhưng do những khó khăn,
hoặc do quy định pháp luật mà buộc phải thực hiện giải thể.
Vậy, giải thể doanh nghiệp có thể được hiểu là việc doanh nghiệp
tiến hành các thủ tục pháp lý về giải thể, nhằm chấm dứt tư cách pháp
nhân và các quyền, nghĩa vụ liên quan của doanh nghiệp.
Hay nói cách khác, giải thể doanh nghiệp là việc doanh nghiệp chấm
dứt hoạt động kinh doanh do đã đạt được những mục tiêu mà các thương
nhân kinh doanh đã đặt ra hoặc bị giải thể theo quy định của pháp luật.
Nghĩa là bản thân doanh nghiệp có thể tự mình quyết định việc giải thể
doanh nghiệp hoặc bị buộc phải tiến hành giải thể theo yêu cầu của cơ quan
Nhà nước có thẩm quyền khi vi phạm một trong các quy định pháp luật đặt
ra.
Đối với trường hợp doanh nghiệp tự mình chấm dứt sự tồn tại của
mình, lí do giải thể phụ thuộc vào ý chí và sự lựa chọn của doanh nghiệp.
Điều này đảm bảo quyền tự do kinh doanh và sở hữu của chủ doanh
nghiệp. Giải thể doanh nghiệp trước hết là quyền của các chủ sở hữu doanh

nghiệp, bởi họ tự nguyện góp vốn thành lập doanh nghiệp thì họ cũng là
người có quyền tự thoả thuận việc giải thể doanh nghiệp. Các chủ sở hữu
doanh nghiệp với tư cách là người “khai sinh” ra doanh nghiệp thì cũng có
quyền “khai tử” cho doanh nghiệp khi cần. Các chủ sở doanh nghiệp cùng
nhau bàn bạc, thỏa thuận và đi đến quyết định chấm dứt sự tồn tại của
doanh nghiệp. Nó có hiệu lực bắt buộc thực hiện đối với tất cả các thành

13


viên, cổ đông trong doanh nghiệp, kể cả những người không tham gia giao
kết, không biểu quyết tán thành.
Với trường hợp doanh nghiệp bị buộc phải chấm dứt sự tồn tại của
mình theo yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền bằng hình thức giải thể thì
được hiểu là khi doanh nghiệp rơi vào một trong các trường hợp pháp luật
quy định, cơ quan Nhà nước sẽ yêu cầu chủ sở hữu doanh nghiệp phải ra
quyết định giải thể. Như vậy, việc chấm dứt sự tồn tại của doanh nghiệp
trong trường hợp này là phụ thuộc vào ý chí của cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền. Ý chí đó được thể hiện thông qua việc yêu cầu chủ sở hữu doanh
nghiệp thực hiện thủ tục giải thể.
Tóm lại, về bản chất thì giải thể doanh nghiệp chính là một sự thỏa
thuận hoặc hành vi pháp lý đơn phương trước pháp luật và nhà nước để
chấm dứt sự tồn tại của doanh nghiệp, việc chấm dứt sự tồn tại này phụ
thuộc vào ý chí của bản thân doanh nghiệp hoặc ý chí của cơ quan có thẩm
quyền.
Từ khái niệm giải thể doanh nghiệp, ta có thể rút ra một số các đặc
trưng cơ bản sau:
Một là, giải thể doanh nghiệp là quá trình diễn ra với các hoạt động
thanh lý tài sản, thanh toán nợ và hoạt động pháp lý thực hiện thủ tục hành
chính để "xóa tên” doanh nghiệp tại cơ quan đăng ký kinh doanh, là một

quá trình với những hoạt động nhằm chấm dứt sự tồn tại của doanh nghiệp,
để doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường.
Hai là, nguyên nhân giải thể doanh nghiệp khá đa dạng, có thể xuất
phát từ vi phạm pháp luật của doanh nghiệp hoặc ý chí tự nguyện của chủ
doanh nghiệp. Nhưng thường thì doanh nghiệp giải thể khi chủ đầu tư
không có nhu cầu tiếp tục kinh doanh hoặc kinh doanh thua lỗ nhưng chưa
đến mức độ mất khả năng thanh toán nợ đến hạn. Hoặc lý do vi phạm pháp

14


luật của doanh nghiệp cùng với việc bị áp dụng chế tài đình chỉ hoạt động
và rút giấy phép sẽ dẫn đến trường hợp giải thể bắt buộc, ví dụ như trường
hợp khai man hồ sơ đăng ký doanh nghiệp,kinh doanh trái phép, số lượng
thành viên giảm dưới mức tối thiểu mà không xử lý khắc phục trong thời
gian luật định...
Ba là, doanh nghiệp chỉ thực hiện thủ tục giải thể để rút khỏi thị
trường khi đảm bảo thanh toán hết các khoản nợ, thực hiện xong các nghĩa
vụ tài sản. Nếu mất khả năng thanh toán khoản nợ đến hạn, doanh nghiệp
thuộc trường hợp áp dụng Luật Phá sản để chấm dứt hoạt động. Như vậy,
có thể nói, khả năng thanh toán của doanh nghiệp là yếu tố quyết định việc
doanh nghiệp rút khỏi thị trường thông qua thủ tục giải thể hay phá sản.
Bốn là, chủ sở hữu doanh nghiệp là người quyết định việc giải thể
doanh nghiệp. Cơ quan đăng ký kinh doanh không có thẩm quyền đồng ý
hay phản đối việc giải thể mà chỉ xem xét tính hợp lệ của hồ sơ giải thể khi
không có khiếu nại về việc giải thể thì sẽ quyết định cập nhật tình trạng “đã
giải thể” của doanh nghiệp trên cổng thông tin quốc gia đăng ký doanh
nghiệp (trước đây gọi là chấp thuận hồ sơ giải thể và xoá tên doanh nghiệp
trong sổ đăng ký kinh doanh).
Đối với các trường hợp giải thể bắt buộc, chủ sở hữu doanh nghiệp

buộc phải quyết định giải thể doanh nghiệp trên cơ sở quyết định đình chỉ
hoạt động, thu hồi giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp của cơ quan có
thẩm quyền hay quyết định của Toà án. Trong trường hợp này, mặc dù
không trực tiếp ra quyết định giải thể nhưng về bản chất, có thể coi cơ quan
nhà nước có thẩm quyền là chủ thể quyết định giải thể doanh nghiệp, vì
chủ sở hữu doanh nghiệp ra quyết định giải thể mà không xuất phát từ tự
do ý chí của mình.

15


Như vậy, giải thể doanh nghiệp thể hiện được tính chủ động cho mỗi
doanh nghiệp trước tình hình kinh doanh của doanh nghiệp mình vì giải thể
doanh nghiệp có yếu tố tự quyết của chủ doanh nghiệp. Thủ tục giải thể
doanh nghiệp bản chất lại là thủ tục hành chính nên thời gian giải quyết
một vụ giải thể có thể sẽ ngắn và đơn giản hơn.
Doanh nghiệp giải thể chỉ đơn thuần là giải quyết dứt điểm tình trạng
công nợ, thanh lý tài sản chia cho các cổ đông, trả giấy phép. Giám đốc
doanh nghiệp giải thể có thể đứng ra thành lập, điều hành công ty mới.
Doanh nghiệp giải thể sau khi thực hiện xong các nghĩa vụ tài sản vẫn có
thể chuyển sang một ngành nghề kinh doanh khác nếu có thể. Đối với nền
kinh tế, giải thể có tác dụng tích cực sắp xếp lại sản xuất theo hướng có
hiệu quả hơn. Điều này đòi hỏi các doanh nghiệp phải luôn luôn tìm tòi,
sáng tạo, thích ứng với môi trường kinh doanh thường xuyên biến động
hiện nay.
1.1.3. Phân biệt giải thể doanh nghiệp với các trường hợp chấm dứt
hoạt động của doanh nghiệp
Doanh nghiệp chấm dứt hoạt động, chấm dứt sự tồn tại khi được tổ
chức lại doanh nghiệp hoặc bị phá sản. Đối với mỗi trường hợp, bản chất
chung là chấm dứt sự tồn tại của doanh nghiệp, nhưng vẫn có những đặc

trưng riêng cơ bản, giúp phân biệt giữa các trường hợp với nhau, những ưu
điểm, nhược điểm cụ thể để doanh nghiệp có thể lựa chọn, quyết định cho
mình hình thức phù hợp trong trường hợp được quyền quyết định. Cụ thể:
- Phân biệt giải thể doanh nghiệp với chấm dứt tồn tại khi tổ chức
lại doanh nghiệp
Các trường hợp tổ chức lại doanh nghiệp bao gồm: chia, tách, sáp
nhập, hợp nhất và chuyển đổi loại hình doanh nghiệp.

16


Chia doanh nghiệp, là trường hợp một doanh nghiệp (công ty TNHH
hoặc công ty cổ phần) được chia thành một số doanh nghiệp cùng loại. Khi
chia doanh nghiệp, công ty bị chia chấm dứt tồn tại sau khi các công ty mới
được đăng ký kinh doanh.
Tách doanh nghiệp, là trường hợp một doanh nghiệp (công ty trách
nhiệm hữu hạn hoặc công ty cổ phần) thành lập một hoặc một số doanh
nghiệp mới cùng loại (bằng cách chuyển một phần tài sản của doanh
nghiệp hiện có hoặc chuyển một phần quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp
bị tách sang doanh nghiệp được tách). Khi tách doanh nghiệp thì một hoặc
một số doanh nghiệp mới được thành lập nhưng không chấm dứt tồn tại của
doanh nghiệp bị tách.
Hợp nhất doanh nghiệp, là trường hợp hai hoặc một số doanh nghiệp
(công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh) cùng
loại hợp nhất thành một doanh nghiệp mới bằng cách chuyển toàn bộ tài
sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp sang doanh nghiệp hợp nhất. Khi
hợp nhất doanh nghiệp thì một doanh nghiệp mới được thành lập, đồng thời
chấm dứt tồn tại của các doanh nghiệp bị hợp nhất.
Sáp nhập doanh nghiệp, là trường hợp một hoặc một số doanh nghiệp
(công ty cổ phần, công ty trách nhiện hữu hạn, công ty hợp danh) cùng loại

có thể sáp nhập vào một doanh nghiệp khác bằng cách chuyển toàn bộ tài
sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp sang doanh nghiệp nhận sáp nhập.
Khi sáp nhập doanh nghiệp thì doanh nghiệp mới không được thành lập
(doanh nghiệp được sáp nhập vẫn tồn tại) nhưng các doanh nghiệp bị sáp
nhập sẽ chấm dứt sẽ tồn tại. Doanh nghiệp nhận sáp nhập được hưởng các
quyền và lợi ích hợp pháp, chịu trách nhiệm về các khoản nợ chưa thanh
toán, hợp đồng lao động và nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp bị sáp
nhập.

17


Chuyển đổi doanh nghiệp, là trường hợp chuyển đổi qua lại giữa các
loại hình doanh nghiệp: Công ty trách nhiệm hữu hạn có thể được chuyển
đổi thành công ty cổ phần hoặc ngược lại; doanh nghiệp tư nhân có thể
được chuyển đổi thành công ty trách nhiệm hữu hạn (chuyển đổi hình thức
pháp lý). Sau khi đăng ký kinh doanh, doanh nghiệp được chuyển đổi chấm
dứt tồn tại; doanh nghiệp chuyển đổi được hưởng các quyền và lợi ích hợp
pháp, chịu trách nhiệm về các khoản nợ chưa thanh toán, hợp đồng lao
động và nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp được chuyển đổi.
Như vậy, các trường hợp tổ chức lại doanh nghiệp về bản chất là do
chính chủ sở hữu doanh nghiệp thực hiện nhằm nâng cao hiệu quả trong
hoạt động kinh doanh.
Thứ nhất, về chủ thể quyết định.
Đối với giải thể doanh nghiệp thì chủ thể quyết định là chủ doanh
nghiệp hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền thông qua quyết định thu hồi
Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp. Khi doanh nghiệp bị thu hồi Giấy
chứng nhận đăng ký doanh nghiệp thì buộc phải tiến hành giải thể. Đối với
tổ chức lại doanh nghiệp thì chủ thể quyết định là chủ doanh nghiệp. Như
vậy, chủ thể quyết định đối với trường hợp giải thể doanh nghiệp ngoài chủ

doanh nghiệp trong trường hợp tự nguyện thì còn có thể là cơ quan Nhà
nước có thẩm quyền theo quy định của pháp luật.
Thứ hai, về nguyên nhân quyết định.
Nguyên nhân của việc tổ chức lại doanh nghiệp chỉ duy nhất xuất
phát do ý chí của chủ doanh nghiệp, nhà nước không có thẩm quyền can
thiệp buộc doanh nghiệp phải tổ chức lại, mà Nhà nước chỉ đóng vai trò
quản lý về mặt thủ tục hành chính khi doanh nghiệp có nhu cầu thực hiện
tổ chức lại doanh nghiệp.
Thứ ba, mục đích khi tiến hành thủ tục.

18


Việc chấm dứt sự tồn tại của doanh nghiệp trong trường hợp này sẽ
có lợi hơn đối với chủ doanh nghiệp.
Thứ tư, về thời điểm hoàn thành thủ tục.
Đối với tổ chức lại doanh nghiệp, trong trường hợp chia, hợp nhất,
sáp nhập doanh nghiệp thì doanh nghiệp cũng sẽ bị chấm dứt tồn tại nhưng
không thể xem đây là thời điểm hoàn thành thủ tục mà thủ tục này chỉ được
coi là hoàn thành khi các doanh nghiệp mới được thành lập.

19


Thứ năm, về hậu quả pháp lý.
Đối với giải thể doanh nghiệp, sau khi hoàn thành thủ tục thì doanh
nghiệp được xem là đã chấm dứt sự tồn tại của mình, các quyền và nghĩa
vụ của doanh nghiệp không được kế thừa, chủ doanh nghiệp chỉ phải chịu
trách nhiệm pháp lý nếu việc giải thể doanh nghiệp thực hiện không đúng
pháp luật.

-

Phân biệt giải thể doanh nghiệp với phá sản doanh nghiệp

Các văn bản pháp luật Việt Nam không đưa ra định nghĩa thế nào là
phá sản, phá sản doanh nghiệp mà chỉ giải thích khi nào thì doanh nghiệp/
hợp tác xã được coi là “lâm vào tình trạng phá sản”.
Như vậy, phá sản dù chưa định nghĩa thống nhất nhưng về cơ bản
được sử dụng để chỉ sự đổ vỡ trong hoạt động kinh doanh của một doanh
nghiệp hoặc cá nhân.
Giải thể doanh nghiệp thực chất đó là việc chấm dứt sự tồn tại, hoạt
động của doanh nghiệp theo ý chí của doanh nghiệp hoặc cơ quan có thẩm
quyền với điều kiện doanh nghiệp phải đảm bảo thanh toán hết các khoản
nợ và nghĩa vụ tài sản khác. Giải thể doanh nghiệp và phá sản doanh
nghiệp đều là thủ tục chấm dứt sự tồn tại của doanh nghiệp. Tuy nhiên,
giữa giải thể và phá sản doanh nghiệp về cơ bản là khác nhau:
Thứ nhất, về nguyên nhân của hiện tượng: Giải thể doanh nghiệp
xuất phát từ nhiều lý do như chủ doanh nghiệp không muốn tiếp tục kinh
doanh hoặc hết thời hạn kinh doanh hoặc đã hoàn thành được mục tiêu đã
định hoặc không thể tiếp tục kinh doanh vì làm ăn thua lỗ. Hoặc doanh
nghiệp phải tiến hành giải thể theo yêu cầu quản lý nhà nước khi mà doanh
nghiệp không còn đủ điều kiện tồn tại theo luật định hoặc có vi phạm pháp
luật. Trong khi đó, phá sản doanh nghiệp chủ yếu xuất phát từ việc doanh

20


nghiệp lâm vào tình trạng không có khả năng thanh toán được các khoản
nợ đến hạn khi chủ nợ có yêu cầu 2, tr.14.
Thứ hai, về chủ thể quyết định giải thể: Giải thể doanh nghiệp về cơ

bản là theo quyết định của chủ doanh nghiệp. Khi doanh nghiệp rơi vào các
trường hợp giải thể thì chủ doanh nghiệp trực tiếp hoặc thông qua người
đại diện theo ủy quyền đối với trường hợp chủ sở hữu là tổ chức tiến hành
thủ tục ra quyết định giải thể. Trên cơ sở quyết định giải thể này doanh
nghiệp sẽ tiến hành các thủ tục để giải thể. Đối với hình thức giải thể bắt
buộc theo ý chí của nhà nước thì sau đó chủ doanh nghiệp vẫn là chủ thể ra
quyết định giải thể và tiến hành thủ tục giải thể. Trong khi đối với phá sản
doanh nghiệp thì chỉ có Tòa án là cơ quan duy nhất có thẩm quyền quyết
định mở thủ tục phá sản và tuyên bố phá sản.
Thứ ba, về trình tự, thủ tục thực hiện: Giải thể doanh nghiệp là một
thủ tục hành chính, chủ yếu do cơ quan đăng ký kinh doanh thực hiện còn
phá sản là một thủ tục tư pháp do Tòa án thực hiện.
Thứ tư, về điều kiện tiến hành: Giải thể chỉ được tiến hành khi doanh
nghiệp phải đảm bảo thanh toán hết các khoản nợ của doanh nghiệp. Còn
phá sản được áp dụng khi doanh nghiệp khi mất khả năng thanh toán nợ.
Do mất khả năng trả nợ nên các khoản nợ chỉ được thanh toán trong phạm
vi giá trị tài sản còn lại của doanh nghiệp.
Thứ năm, về thủ tục thanh lý tài sản: Khi giải thể, doanh nghiệp sẽ
thanh toán tất cả các khoản nợ nên doanh nghiệp sẽ chủ động và có thể trực
tiếp đứng ra thanh toán các khoản nợ cho chủ nợ. Lúc này, cơ quan trung
gian là Tổ quản lý, thanh lý tài sản (do Tòa án quyết định thành lập) sẽ có
thẩm quyền quản lý phần tài sản còn lại của doanh nghiệp bị phá sản và
thực hiện thanh toán cho các chủ nợ 24.

21


×