Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

SKKN nâng cao hiệu quả dạy học một số bài lịch sử việt nam trong chương trình lớp 11 bằng phương pháp sử dụng tài liệu văn học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (114.13 KB, 22 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ

TRƯỜNG THPT NHƯ THANH
=======****======

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

NÂNG CAO HIỆU QUẢ DẠY HỌC MỘT SỐ BÀI LỊCH SỬ
VIỆT NAM TRONG CHƯƠNG TRÌNH LỚP 11 BẰNG
PHƯƠNG PHÁP SỬ DỤNG TÀI LIỆU VĂN HỌC

Người thực hiện: Vi Thị Khoa
Chức vụ: Giáo viên
SKKN thuộc lĩnh vực môn: Lịch sử

THANH HOÁ, NĂM 2017


1. Mở đầu
1.1. Lí do chọn đề tài
Trong nhà trường phổ thông, bộ môn lịch sử là một trong những bộ môn
có tầm quan trọng và có tính giáo dục rất lớn, nó cung cấp cho học sinh một bức
tranh sinh động về lịch sử loài người và lịch sử dân tộc. Trong quá trình giảng
dạy môn lịch sử, ở các bài học nội dung truyền đạt cho học sinh chỉ là những
kênh chữ, một vài bài có cung cấp thêm hình ảnh. Trong các tiết dạy lịch sử đa
số giáo viên chỉ chú ý bám sát nội dung kiến thức trong sách giáo khoa mà chưa
chú ý sử dụng những hình thức khác để bổ trợ làm cho tiết học thêm sinh động.
Ví dụ như cung cấp thêm những hình ảnh ngoài sách giáo khoa hoặc
những mẫu chuyện kể về những con người đã góp phần xây dựng đất nước để có
được những thành tựu của hôm nay mà trong sách giáo khoa không đề cập đến.
Qua tiết dạy không đem lại hứng thú cho học sinh, tiết học trở nên khô khan đôi


lúc học sinh lại có những suy nghĩ lệch lạc về những nhân vật lịch sử hoặc
những sự kiện lịch sử quan trọng. Từ yêu cầu và thực tế trên đòi hỏi chúng ta
phải đổi mới phương pháp dạy học lịch sử nhằm giúp học sinh hứng thú học tập,
phát huy tính tích cực của học sinh, giúp học sinh tư duy và nắm được nội dung
kiến thức trọng tâm đã học. Vì vậy người giáo viên phải biết sử dụng đến kiến
thức các môn học khác như địa lí, giáo dục công dân, văn học,… Những bộ môn
đó làm cho giờ học lịch sử sinh động hơn, hấp dẫn học sinh hơn. Trong đó nếu
giáo viên biết vận dụng một số câu trích dẫn, câu văn, câu thơ, đoạn trích để
miêu tả tường thuật một sự kiện, một cuộc đời hoạt động của nhân vật, một cuộc
cách mạng…sẽ làm phong phú tri thức cho học sinh, giúp học sinh yêu thích,
hứng thú say mê học tập môn lịch sử và sẽ làm bớt đi sự khô khan của giờ học
môn lịch sử
Để góp phần vào việc đổi mới phương pháp dạy học nói chung, dạy học lịch sử
nói riêng, tôi xin trình bày đề tài: “Nâng cao hiệu quả dạy- học một số bài
Lịch sử Việt Nam trong chương trình lớp 11 bằng phương pháp sử dụng tài
liệu văn học”. Với việc nghiên cứu đề tài này, tôi mong muốn sẽ góp phần giúp
1


giáo viên có một giờ dạy học lịch sử có hiệu quả tốt hơn, học sinh lĩnh hội kiến
thức tự giác, chủ động, ngày càng yêu thích môn học.
1.2. Mục đích nghiên cứu.
- Đánh giá thực trạng của việc dạy và học môn Lịch sử ở trường THPT hiện nay.
- Nhằm góp phần đổi mới phương pháp dạy – học Lịch sử ở trường THPT Như
Thanh.
1.3. Đối tượng nghiên cứu.
Trong đề tài “Nâng cao hiệu quả dạy- học một số bài Lịch sử Việt Nam
trong chương trình lớp 11 bằng phương pháp sử dụng tài liệu văn học ”.
Đối tượng nghiên cứu mà tôi áp dụng cho đề tài này là lớp học sinh khối 11 của
trường THPT Như Thanh

1.4. Phương pháp nghiên cứu.
- Thao giảng, dự giờ đồng nghiệp trao đổi rút kinh nghiệm qua từng tiết
dạy.
- Nghiên cứu các tài liệu về phương pháp dạy học lịch sử.
- Sử dụng sách giáo khoa, sách bài tập, sách giáo viên lịch sử lớp 11
- Sưu tầm các tác phẩm văn học có liên quan
- Sử dụng các câu hỏi điều tra có thể đáp ứng được đầy đủ các yêu cầu
của việc đánh giá khả năng lĩnh hội kiến thức của học sinh trong việc giảng dạy
môn lịch sử lớp 11, để khắc phục nhược điểm trong phương pháp kiểm tra đánh
giá cần phối hợp các phương pháp hiện đại, trong đó có phương pháp kiểm tra
bằng câu hỏi trắc nghiệm khách quan.
- Kiểm tra đánh giá kết quả học sinh học và làm bài để từ đó có điều chỉnh
và bổ sung hợp lí

2


2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
2.1. Cơ sơ lí luận
Bất cứ giáo viên bộ môn nào đều phải có tư tưởng, tình cảm đúng đắn
lành mạnh, trong sáng, có lòng nhiệt thành đối với nghề nghiệp, có thế giới
khách quan khoa học và nhân sinh quan tiến bộ để góp phần hình thành thế hệ
trẻ theo mục tiêu đào tạo của Đảng. Một thế hệ người Việt Nam có năng
lực,trình độ, có phẩm chất đạo đức để góp phần vào sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Mỗi người giáo viên phải không ngừng nâng cao sự hiểu biết kiến thức bộ
môn, có phương pháp dạy tốt, không ngừng hoàn thiện cải tiến phương pháp
giảng dạy và nghiệp vụ sư phạm. Dạy – học là quá trình đưa đến cho thế hệ trẻ,
giúp thế hệ trẻ tiếp nhận những giá trị quí báu của loài người về phương diện tri
thức cũng như về phương diện tình cảm, tư tưởng góp phần bồi dưỡng phẩm

chất, năng lực cho thế hệ trẻ.
Giảng dạy lịch sử là giảng về quá khứ của xã hội loài người, quá khứ của
dân tộc, quá khứ của địa phương. Những quá khứ đó lại có quan hệ mật thiết với
hiện tại và tương lai. Trong bài giảng, bài học lịch sử tư duy, tình cảm của giáo
viên và học sinh hướng về những gì rất gần gũi đó là những con người thật
những con người cụ thể chứ không phải là những con người hư cấu. Trong lịch
sử dân tộc địa phương những con người đó là lại càng gần gũi hơn đó là tổ tiên,
ông bà, cha mẹ, anh chị của những người đang giảng dạy và học tập lịch sử. Để
giáo dục tư tưởng chính trị, đạo đức giáo viên bắt đầu từ việc giúp học sinh hiểu
biết cụ thể, nắm được kiến thức lịch sử. Đó là nhiệm vụ giáo dưỡng và giáo dục.
Có câu: “Lời khen của sử còn vinh dự hơn áo đẹp vua ban, lời chê của sử còn
nghiêm khắc hơn búa rìu, sử thực sự là cái cân, cái gương của muôn đời.”
Qua đó ta thấy được môn lịch sử vô cùng quan trọng không những cung
cấp những kiến thức cơ bản về lịch sử dân tộc và lịch sử thế giới mà còn góp
phần quan trọng vào việc hình thành nhân cách cho học sinh

3


2.2. Thực trạng dạy và học bộ môn Lịch sử ở trường THPT Như Thanh
2.2.1. Thuận lợi
Giáo viên có nhiều cố gắng thay đổi phương pháp giảng dạy của mình
theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh thông qua các phương pháp dạy
học như: sử dụng dồ dùng trực quan, phương pháp giải quyết vấn đề, miêu tả, kể
chuyện, nêu đặc điểm nhân vật ….
Giáo viên tích cực hướng dẫn học sinh thảo luận nhóm, hỗ trợ kiến thức
cho nhau, thông qua hoạt động này những học sinh yếu kém sẽ được sự hướng
dẫn của giáo viên và các học sinh khá giỏi, học sinh sẽ nắm chắc kiến thức và
hiểu sâu hơn về bản chất của sự kiện, hiện tượng lịch sử.
Trong quá trình giảng dạy, giáo viên kết hợp và khai thác triệt để các đồ

dùng và phương tiện dạy học như tranh ảnh, bản đồ, sơ đồ, mô hình, ứng dụng
công nghệ thông tin…
Đa số các em học sinh có chú ý nghe giảng, tập trung suy nghĩ trả lời các
câu hỏi giáo viên đặt ra, một số em có chuẩn bị bài mới ở nhà. Trong tiết học các
em học sinh tham gia tích cực trong việc thảo luận nhóm và đã đưa hiệu quả cao
trong quá trình lĩnh hội kiến thức. Học sinh yếu, kém đã và đang nắm bắt kiến
thức trọng tâm cơ bản thông qua các hoạt động như thảo luận nhóm, đọc sách
giáo khoa, vấn đáp… các em đã mạnh dạn trả lời các câu hỏi ghi nhớ các sự
kiện, nhân vật, một quá trình cách mạng trong việc chiếm lĩnh kiến thức của
mình.
2.2.2. Khó khăn
Vẫn còn một số ít giáo viên chưa tích cực hóa hoạt động của học sinh tạo
điều kiện cho các em suy nghĩ, nắm vững kiến thức, vẫn còn sử dụng phương
pháp dạy học “thầy nói, trò nghe’, “thầy đọc, trò chép”. Do đó nhiều học sinh
chưa nắm kiến thức mà chỉ học thuộc một cách máy móc, trả lời câu hỏi thì nhìn
sách giáo khoa hoàn toàn.
Một số câu hỏi giáo viên đặt ra khó, học sinh không trả lời được nhưng lại
không có câu hỏi gợi ý nên nhiều khi phải trả lời thay cho học sinh. Một số tiết
giáo viên chỉ nêu vài câu hỏi và chỉ gọi một số học sinh khá, giỏi trả lời, chưa có
4


câu hỏi dành cho đối tượng học sinh yếu, kém, làm cho đối tượng này ít được
chú ý và không được tham gia hoạt động đều này làm cho các em tự ti về năng
lực của mình, các em cảm thấy chán nản và không yêu thích môn học.
Học sinh chưa có tinh thần học tập, một số em vừa học vừa làm, việc tiếp
thu bài chậm, đặt câu hỏi phải cụ thể, lặp lại nhiều lần. Các em chưa xác định
được động cơ học tập, học như thế nào? học cho ai? học để làm gì? Vì thế các
em chưa phát huy hết vai trò và trách nhiệm của người học sinh. Học sinh chưa
xác định nội dung của bài học, tiếp thu bài một cách máy móc, các em luôn có

tư tưởng lịch sử là môn phụ nên không cần thiết.
2.3. Giải pháp thực hiện
2.3.1. Đối với học sinh
Để nâng cao hiệu quả tiết học lịch sử với mục tiêu lấy học sinh làm trung tâm,
thì một số yêu cầu đặt ra cho học sinh đó là:
Học sinh phải đọc trước bài mới trong sách giáo khoa, chuẩn bị tất cả các
câu hỏi trong SGK phần sẽ học trong bài.
Trong giờ học phải chú ý nghe giảng bài, tích cực phát biểu ý kiến, xây
dựng bài, không tiếp thu máy móc phải có suy nghĩ.
Biết cách làm việc theo nhóm, hợp tác với bạn để hoàn thành nhiệm vụ
giáo viên giao cho.
Học sinh tự giác học tập, dựa vào kiến thức giáo viên truyền thụ học sinh
phải biết tự mình tìm tòi, sáng tạo, phân tích sự kiện hoặc so sánh sự kiện này
với sự kiện khác.
Học sinh cần có quyển sổ tay để ghi những vấn đề, những thông tin giáo
viên cung cấp mà không có trong sách giáo khoa.
Học sinh phải biết sử dụng bản đồ, lược đồ trình bày diễn biến một cuộc
khởi nghĩa hoặc một giai đoạn lịch sử.

5


2.3.2. Đối với giáo viên
Với vai trò là người hướng dẫn, tổ chức học sinh hoạt động, để giờ học đạt hiệu
quả cao nhất, người giáo viên phải đảm bảo những yêu cầu như sau:
Chuẩn bị tất cả đồ dùng dạy học khi lên lớp: giáo án (hoặc giáo án điện
tử), bản đồ, tranh ảnh, sơ đồ, phiếu học tập…
Hạn chế giảng giải, thuyết trình, hạn chế đưa ra những câu hỏi vụn vặt
nên tập hợp các câu hỏi thành gợi ý, hướng giải quyết vấn đề.
Khi giảng bài mới phải kết hợp nhiều phương pháp và kết hợp với liên hệ

kiến thức cũ.
Khi học sinh làm việc theo nhóm, giáo viên cần theo dõi, giải đáp ngay
các thắc mắc của học sinh.
Không nên đưa ra những câu hỏi quá đơn giản như: có, không, đúng, sai.
Nếu đặt câu hỏi như vậy phải kèm theo vế sau như vì sao? Hoặc tại sao?
Câu hỏi phải đi từ dễ đến khó, nếu đặt câu hỏi khó sẽ làm cho học sinh
căng thẳng. Nếu câu hỏi khó giáo viên nên gợi ý cho học sinh trả lời, không nên
cho học sinh suy nghĩ quá lâu làm không khí lớp nặng nề.
Trong lúc học sinh suy nghĩ trả lời, giáo viên không nên hối thúc học sinh,
có thể nêu gợi ý tạo cho học sinh không khí thoải mái.
Khi học sinh trả lời giáo viên phải nhận xét câu trả lời của học sinh, nếu
thiếu có thể cho một học sinh khác bổ sung hoặc giáo viên trình bày cụ thể.
Khi dạy những bài có các danh nhân, vị anh hùng dân tộc nên sơ lược
thân thế sự nghiệp, kết hợp giáo dục tư tưởng đạo đức. Xây dựng nhân vật điển
hình cho học sinh ghi nhớ được lâu.
Nội dung bài giảng phải thật ngắn gọn, cô động nhưng phải đảm bảo nội
dung cơ bản, cần nhấn mạnh ý chính của bài.

6


2.4. Một số giải pháp cụ thể gây hứng thú học tập lịch sử cho học sinh bằng
sử dụng tài liệu văn học
2.4.1. Sử dụng tài liệu văn học trong dạy học lịch sử nói chung
Trong thực tiễn dạy học, các tác phẩm văn học của dân tộc cũng như thế
giới có vai trò to lớn đối với việc dạy học lịch sử ở trường phổ thông. Trước hết
các tác phẩm văn học bằng những hình tượng cụ thể có tác động mạnh mẽ đến
tư tưởng, tình cảm người đọc, trình bày những nét đặc trưng điển hình của các
hiện tượng kinh tế, chính trị những qui luật của của đời sống xã hội. Trong khi
sáng tác một tác phẩm nhà văn phải nghiên cứu các tài liệu lịch sử, không ít tác

phẩm văn học tự nó đã là tư liệu lịch sử . Ví dụ như “Cáo bình Ngô” của
Nguyễn Trãi, “Lục Vân Tiên” của Nguyễn Đình Chiểu, tập thơ “Nhật kí trong
tù” của Hồ Chí Minh…..Những tác phẩm này gắn liền với những sự kiện lịch sử
nhất định, vì vậy khi dạy học đến sự kiện lịch sử đó giáo viên nên đưa những tác
phẩm văn học đó vào để học sinh hiểu rõ hơn bức tranh về lịch sử thời kì đang
học.
Trong quá trình giảng dạy bộ môn lịch sử, giáo viên thường sử dụng các
loại tài liệu văn học chủ yếu như: văn học dân gian, những tác phẩm ra đời vào
thời kì xảy ra sự kiện lịch sử tiêu biểu như truyện, tiểu thuyết, thơ….
Văn học dân gian ra đời sớm với nhiều thể loại như : thần thoại, truyền
thuyết, cổ tích dân ca, ca dao, tuyện trạng, truyện cười…. Đây là tài liệu phản
ánh nhiều sự kiện quan trọng trong lịch sử dân tộc. Ví dụ như truyện Thánh
Gióng, qua câu chuyện ta xác định được những yếu tố hiện thực của lịch sử là
thời Hùng Vương thứ 6 (tương ứng với thời nhà Ân ở Trung Quốc), đồ sắt phát
triển với vũ khí công cụ dùng đều bằng sắt (nón sắt, giáp sắt, gậy sắt, ngựa sắt),
đồng thời nêu cao truyền thống đoàn kết chống giặc ngoại xâm, bảo vệ lãnh thổ
(cả làng góp gạo thổi cơm cho Gióng ăn) hay truyện Sơn Tinh – Thủy Tinh là
biểu tượng đoàn kết, đồng lòng của dân tộc ta đắp đê chống bão, lũ lụt đặc trưng
rất rõ của cư dân trồng lúa nước của nhân dân ta trong buổi đầu lịch sử vừa dựng
nước và giữ nước.
7


Thế kỉ XVI – XVIII, thể loại văn học dân gian phát triển, các tác phẩm đã
kích chế sự thối nát và lạc hậu của chế độ phong kiến đồng thời nói lên mơ ước
của người dân có cuộc sống tốt đẹp hơn. Chẳng hạn như truyện “Trê Cóc”, một
câu chuyện ngụ ngôn chủ ý bày tỏ cái thói "tranh hơi tức khí" gây nên những
cuộc kiện tụng và chỉ trích cái tệ nhũng lạm của bọn sai nha cùng cái bọn thầy
cò. Ở truyện Trê Cóc còn có ý nghĩa về luân lý, bởi tác giả đã phô bày lắm nét
hủ bại và nực cười ở xã hội xưa, xoay quanh những vụ kiện tụng trước cửa quan,

người ta thấy trở đi trở lại những chữ “lo lót, lễ vật, lễ mọn, phí tổn”. Chung quy
thì chỉ người dân là phải chịu thiệt hại, thua cũng thiệt mà được cũng thiệt. Cóc
sù sì, thô kệch giống như là những người dân chất phác hiền lành. Trê nhẵn nhụi,
trơn tru hay chui luồn, có thể tiêu biểu cho những người có nết láu lĩnh, hay làm
việc mờ ám...
Sử dụng tài liệu văn học dân gian, không chỉ góp phần làm cho bài giảng
sinh động, tạo được không khí gần gủi với bối cảnh lịch sử, sự kiện đang học mà
giáo viên tiến hành có thể đạt được kết quả giáo dục tư tưởng đạo đức nói chung
giáo dục truyền thống dân tộc nói riêng.
Các tác phẩm văn học ra đời vào thời kì diễn ra các sự kiện lịch sử, có ý
nghĩa quan trọng đối với việc khôi phục hình ảnh quá khứ. Khi nói đến cuộc
sống khốn khổ của tầng lớp nông dân Việt Nam đầu thế kỉ XX dưới chế độ thực
dân nửa phong kiến thì không thể không kể đến tác phẩm “Tắt đèn” của nhà văn
Ngô Tất Tố. Tác phẩm xoay quanh nhân vật chính là chị Dậu và gia đình chị,
một điển hình của cuộc sống bần cùng hóa do sưu cao thuế nặng mà chế độ thực
dân áp đặt lên xã hội Việt Nam. Tác phẩm này là một bản án đã vạch trần bộ mặt
tàn ác, bất nhân của xã hội thực dân nửa phong kiến đương thời. Đỉnh điểm của
cơn cùng cực là việc chị Dậu phải bán con, khoai và bán cả bầy chó để lấy tiền
nộp sưu thuế cho chồng và cảnh chị Dậu chạy ra giữa màn trời đêm tối đen như
mực và như cái tiền đồ của chị.
“Văn học là hiện thực của cuộc sống”. Vì vậy khi sử dụng tài liệu văn học
phải đảm bảo tiêu chuẩn cơ bản là giá trị giáo dục – giáo dưỡng và giá trị văn
học, các tài liệu đó phải giúp học sinh khôi phục lại bối cảnh lịch sử, hình ảnh
8


các sự kiện, nhân vật lịch sử của quá khứ một cách chính xác, chân thực. Nhằm
mục đích phục vụ được yêu cầu của nội dung bài học, phù hợp trình độ nhận
thức của học sinh, không làm loãng nội dung bài học lịch sử.
2.4.2. Sử dụng tài liệu văn học trong dạy học một số bài lịch sử Việt Nam

trong chương trình lớp 11 cơ bản.
Đưa một đoạn thơ, một đoạn văn ngắn, một câu nói nổi tiếng hoặc một
nhận định nhằm minh họa những sự kiện đang học làm cho nội dung bài học
thêm phong phú, giờ học thêm sinh động. Qua đó giúp học sinh hiểu được sự
kiện lịch sử mà không thấy khô khan, nặng về kiến thức.
2.4.2.1. Sử dụng tài liệu văn học trong bài dạy 19.
Khi dạy bài 19 “Nhân dân Việt Nam kháng chiến chống xâm lược (từ năm
1858 đến trước năm 1873)”, đây là bài mở đầu cho phần Lịch sử Việt Nam thời
cận đại. Trong bối cảnh triều Nguyễn lâm vào khủng hoảng, suy yếu, đứng trước
nguy cơ bị thực dân Pháp xâm lược, để khắc họa cho học sinh thấy được tình
hình Việt Nam trước khi thực dân Pháp xâm lược thì chế độ phong kiến khủng
hoảng trầm trọng kéo theo khủng hoảng về kinh tế, xã hội như nông nghiệp sa
sút, đất đai khai khẩn được lại rơi vào tay địa chủ, dân phiêu tán khắp nơi. Giáo
viên có thể trích một bài vè nói về tình cảnh của nhân dân, nhất là người nông
dân Việt Nam ở giai đoạn này:
“Cơm thì chẳng có
Rau cháo cũng không
Đất trắng xóa ngoài đồng
Nhà giàu niêm kín cổng
Còn một bộ xương sống
Vơ vất đi ăn mày”
Sau khi thất bại tại mặt trận Đà Nẵng, quân Pháp chuyển hướng tấn công
xâm lược Việt Nam ở Gia Định. Ngày 17/2/1859, quân Pháp nổ súng đánh thành
Gia Định, quân triều đình nhanh chóng tan rã, nhân dân hoảng loạn trước sự
xâm lược của kẻ thù. Thông qua bài thơ “Chạy giặc” của nhà thơ Nguyễn Đình
9


Chiểu, giáo viên cho học sinh thấy được sự bi thảm của nhân dân trước nguy cơ
bị mất nước.

“Tan chợ vừa nghe tiếng súng Tây,
Một bàn cờ thế phút sa tay.
Bỏ nhà lũ tẻ lơ xơ chạy,
Mất ổ đàn chim dáo dát bay.
Bến Nghé của tiền tan bọt nước,
Đồng Nai tranh ngói nhuốm màu mây.
Hỡi trang dẹp loạn rày đâu vắng,
Nỡ để dân đen mắc nạn này”
“Chạy Tây” – Nguyễn Đình Chiểu
Trong cuộc kháng chiến chống Pháp xâm lược của nhân dân Nam Bộ, không thể
không nhắc đến người anh hùng dân tộc Trương Định. Người được nhân dân
phong chức “Bình Tây đại nguyên soái”, phất cao lá cờ yêu nước chống Pháp.
Cuộc khởi nghĩa của Ông đã gây cho giặc Pháp nhiều khó khăn, ông đã chiến
đấu hi sinh dũng cảm khi mới 44 tuổi. Thương tiếc người anh hùng dân tộc, nhà
thơ Nguyễn Đình Chiểu đã làm 12 bài thơ và một bài văn tế khóc khóc người
anh hùng.
“Trời Bến Nghé mây mưa sùi sụt,
thương đấng anh hùng gặp lúc gian truân
Đất Gò Công cây cỏ ủ ê
Cảm niềm thần tử, hết lòng trung ái
Xưa còn làm tướng, giốc rạng ngời hai chữ Bình Tây
Nay thác theo thần , xin dựng hộ một câu phúc thán…”
(Nguyễn Đình Chiểu)
Qua bài văn tế, giáo viên khắc họa cho học sinh hình ảnh cao đẹp , trở thành
điểm sáng ngời trong lịch sử dựng nước, giữ nước và chống ngoại xâm của dân
tộc ta. Ông đã trở thành người thủ lĩnh vĩ đại của nghĩa quân chống giặc Pháp
xâm lược.
10



Khi Pháp đánh chiếm 3 tỉnh miền Đông Nam Kì, rồi chiếm luôn 3 tỉnh
miền Tây Nam Kì, Nguyễn Trung Trực đã đấu tranh anh dũng qua hai trận đánh
là: đánh chìm tàu Ét-pê-răng của địch trên sông Vàm Cỏ Đông (10/12/1861),
tiêu diệt đồn Kiên Giang (16/6/1868), ông đã được danh sĩ Huỳnh Mẫn Đạt khen
ngợi qua 2 câu thơ sau:
“Lửa bừng Nhựt Tảo rêm trời đất
Kiếm tuốt Kiên Giang rợn quỷ thần”
Hay giáo viên có thể sử dụng câu nói nổi tiếng của Nguyễn Trung Trực
khi ông bị giặc đem đi hành hình: “Bao giờ người Tây nhổ hết cỏ nước Nam thì
mới hết người Nam đánh Tây”. Qua câu nói của ông đã thể hiện ý chí, quyết tâm
chống giặc đến cùng của ông, cũng đồng thời là ý chí chống giặc của toàn dân
Việt Nam.
2.4.2.2. Sử dụng tài liệu văn học học trong bài dạy 20
Trong bài 20 “Chiến sự lan rộng ra cả nước. Cuộc kháng chiến của nhân
dân ta từ năm 1873 đến 1884. Nhà Nguyễn đầu hàng”. Chiến thắng tiêu biểu
trong cuộc đấu tranh của quân dân Bắc Kì là chiến thắng Cầu Giấy lần nhất
(21/12/1873) và chiến thắng Cầu Giấy lần hai (19/5/1883), chiến thắng này công
lớn thuộc về đội quân cờ đen của Lưu Vĩnh Phúc, để khắc họa về tài cũng như
tinh thần chống Pháp của Lưu Vĩnh Phúc như sau:
“Cung kiếm tài cao ít kẻ lường
Đáo để anh hùng lòng bất khuất
Về Tàu còn nguyện giết Tây dương”
Trong khi phong trào chống Pháp của nhân dân ta diễn ra khắp nơi thì
triều đình nhà Nguyễn lại lần lượt kí với Pháp từ hiệp ước Nhâm Tuất đến các
hiệp ước Giáp Tuất, cuối cùng là Hác măng và Pa-tơ-nốt làm cho nhân dân vô
cùng phẫn nộ, giáo viên có thể minh họa bằng những câu thơ sau:
“Tan nhà cám nổi câu ly hận
Cắt đất thương thay cuộc giảng hòa
Gió bụi đòi cơn xiêu ngã cỏ
Ngậm cười hết nói nổi quan ta”

11


( Cảm khái – Phan Văn Trị
Sau hiệp ước Giáp Tuất 1874, nhân dân phản đối mạnh mẽ, nhân dân
không chỉ đánh Tây mà chống cả triều đình nhà Nguyễn.
“Dập dìu trống đánh cờ xiêu
Phen này quyết đánh cả Triều lẫn Tây”
Cuộc kháng chiến chống Pháp xâm lược của nhân dân Việt Nam diễn ra anh
dũng, kiên cường. Nhiều nghĩa sĩ đã chiến đấu, hi sinh không sợ cái chết, để nói
lên tinh thần đó giáo viên nên sử dụng đoạn trích của Gosselin người Pháp nói
về tinh thần chiến đấu của nhân dân Việt Nam vì độc lập dân tộc:
“Đứng trước vũ khí của chúng ta, những người An Nam chỉ có một
phương sách duy nhất là hi sinh cho sự bảo vệ các quyền tự do của họ. Họ đã
bình tĩnh đương đầu cái chết với một sự can đảm tột đỉnh và trong số rất đông
những người ngã xuống vì những viên đạn của các đơn vị hành hình hay dưới
làn gươm của các tên đao phủ, chúng tôi không bao giờ ghi nhận được một sự
yếu đuối nào”.
2.4.2.3. Sử dụng tài liệu văn học trong bài dạy 21
Khi dạy bài 21 “Phong trào yêu nước chống Pháp của nhân dân Việt Nam
trong những năm cuối thế kỉ XIX”. Trong bối cảnh triều đình nhà Nguyễn đã
hoàn toàn đầu hàng Pháp, thì phong trào yêu nước chống Pháp của của các văn
thân, sĩ phu yêu nước và nhân dân vẫn tiếp tục diễn ra sôi nổi. Tiêu biểu nhất
trong phong trào yêu nước đó là cuộc khởi nghĩa Hương Khê, lãnh tụ của cuộc
khởi nghĩa là Phan Đình Phùng. Nhắc đến cụ Phan giáo viên nên đưa câu nói nổi
tiếng của cụ vào bài giảng. Đó là “ngôi mộ to nhất nên giữ là Tổ quốc Việt Nam,
người thân, rất thân nhất là cả mấy triệu đồng bào”
Để đàn áp cuộc khởi nghĩa của ông, thực dân Pháp đã dùng đến thủ đoạn
hèn hạ là khai quật mồ mả tổ tiên của ông, bắt và dọa giết người anh ruột của cụ.
Câu nói trên của Cụ thực sự đã trở thành bất hủ để thế hệ trẻ hôm nay sống cần

có phẩm chất khí tiết, có trách nhiệm hơn với đất nước và lợi ích dân tộc, không
chỉ nghĩ đến lợi ích riêng của bản thân mình.
12


Cũng trong phong trào yêu nước chống Pháp cuối thế kỉ XIX, ngoài hoạt
động yêu nước trong phong trào Cần Vương thì cuộc đấu tranh nổi dậy của nông
dân cũng diễn ra sôi nổi khắp cả nước. Tiêu biểu nhất là cuộc khởi nghĩa nông
dân Yên Thế do Đề Thám lãnh đạo kéo dài gần 30 năm. Để khắc họa hình ảnh
của người nông dân Việt Nam trong cuộc đấu trang chống Pháp cuối thế kỉ XIXđầu thế kỉ XX, giáo viên có thể dẫn chứng qua bài “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc”
của Nguyễn Đình Chiểu.
“Côi cút làm ăn, lo toan nghèo khó…
…Chỉ biết ruộng trâu, ở trong làng bộ
Việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy tay vốn quen làm
Tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ mắt chưa từng ngó…”
“Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” – Nguyễn Đình Chiểu
Qua đoạn trích trên học sinh sẽ thấy được hình ảnh chân thực về người nông dân
Việt Nam. Họ vốn rất nghèo,quanh năm chỉ biết đến đồng ruộng, chưa từng ra
khỏi lũy tre làng, nhưng khi thực dân Pháp đến xâm lược, cướp bóc họ đã đứng
lên chiến đấu và hi sinh dũng cảm. Và chính họ không ai khác đã trở thành
những chiến sĩ vô danh, “tượng đài bi tráng của những người anh hùng thất thế”.
2.4.2.4. Sử dụng tài liệu văn học trong bài dạy 22
Trong bài 22 “Xã hội Việt Nam trong cuộc khai thác lần thứ nhất của thực
dân Pháp”, dưới tác động của chính sách khai thác thuộc địa lần thứ nhất của
thực dân Pháp đã làm cho kinh tế cũng như xã hội Việt Nam có nhiều chuyển
biến, khi phân tích cuộc sống của người công nhân Việt Nam lao động trong các
đồn điền cao su cho thực dân Pháp, giáo viên có thể nhấn mạnh sự bóc lột, vắt
kiệt sức lao động của người công nhân Việt Nam bằng các nội dung sau:
“Cao su đi dễ khó về
Khi đi trai tráng khi về bủn beo”

Hay:
“Cao su xanh tốt lạ đời
Mỗi cây bón một xác người công nhân”
13


2.4.2.5. Sử dụng tài liệu văn học trong bàì dạy 23
Vào đầu thế kỉ XX, các sĩ phu yêu nước đã tiếp thu tư tưởng dân chủ tư
sản, thực hiện phong trào cách mạng theo khuynh hướng mới mà tiêu biểu là hai
nhà nho yêu nước Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh
Phan Bội Châu với xu hướng bạo động, thành lập hội Duy Tân với chủ
trương đánh đuổi giặc Pháp, giành độc lập, ngày 24/12/1913, Phan Bội Châu bị
giới quân phiệt Trung Quốc bắt giam tại nhà tù Quảng Đông (Trung Quốc). Để
khắc họa hình ảnh Phan Bội Châu giáo viên trình bày nội dung ngắn gọn tác
phẩm “Những trò lố hay là Varen và Phan Bội châu” của Nguyễn Ái Quốc:
“Trước khi Va-ren từ Pháp sang Đông Dương nhận chức Toàn quyền y
hứa sẽ chăm sóc cụ Phan Bội Châu. Khi gặp cụ Phan, Va-ren ra sức dụ dỗ,
thuyết phục, nhưng vẫn không mua chuộc được Phan Bội Châu, cụ Phan thì tỏ
thái độ im lặng, dửng dưng. Anh lính dõng thì quả quyết rằng có thấy đôi ngọn
râu mép của cụ Phan nhếch lên một chút. Nhân chứng thứ 2 lại quả quyết cụ
Phan đã nhổ vào mặt Va-ren”.
Cụ Phan Bội Châu được biết đến không chỉ là một sĩ phu, bậc tiền bối yêu nước
chống Pháp tiêu biểu ở đầu thế kỉ XX. Cụ còn là một nhà thơ lớn, thơ của Cụ là
tiếng lòng, là khát khao của một người anh hùng mang trong mình hoài bão lớn.
Bài thơ “Xuất Dương Lưu Biệt” của Cụ là một tác phẩm thể hiện rõ nét nhất tư
tưởng ấy.
“Làm trai phải lạ ở trên đời
Há để càn khôn tự chuyển dời
Trong khoảng trăm năm cần có tớ
Sau này muôn thuở há không ai?

Non sông đã mất, sống thêm nhục
Hiền thánh còn đâu, học cũng hoài
Muốn vượt bể Đông theo cánh gió
Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi”
(Bản dịch của Tôn Quang Phiệt)
14


Phan Châu Trinh theo xu hướng cải cách với nội dung chủ yếu là cải cách
về văn hóa – xã hội gắn liền với giáo dục lòng yêu nước, mở trường Đông Kinh
nghĩa thục tại Hà Nội, các buổi diễn thuyết hay bình văn thu hút được nhiều tầng
lớp tham gia như có quan lại, binh lính, viên chức, nông dân … một bài văn thời
đó đã viết:
“Buổi diễn thuyết, người đông như hội
Kì bình văn, khách đến như mưa”
Cũng như cụ Phan Bội Châu, nhà nho yêu nước Phan Châu Trinh cũng là một
nhà thơ lớn, tư tưởng yêu nước chống Pháp của Cụ được thể hiện trong bài thơ
“Đập Đá Ở Côn Lôn”.
“Làm trai đứng giữa đất Côn Lôn,
Lừng lẫy làm cho lở núi non.
Xách búa đánh tan năm bảy đống
Ra tay đập bể mấy trăm hòn.
Tháng ngày bao quản thân sành sỏi,
Mưa nắng càng bền dạ sắt son.
Những kẻ vá trời khi lỡ bước,
Gian nan chi kể sự con con.”
( Phan Châu Trinh- Làm ở Côn Lôn năm Đinh Mùi 1907 )
2.4.2.6. Sử dụng tài liệu văn học trong bài dạy 24
Trong bài 24 “Việt Nam trong những năm chiến tranh thế giới thứ nhất
(1914 – 1918). Trong mục III của bài - phần buổi đầu hoạt động cứu nước của

Nguyễn Ái Quốc, từ rất sớm Người đã có chí đánh đuổi thực dân Pháp giải
phóng đồng bào. Người rất khâm phục tinh thần yêu nước của các chí sĩ bậc tiền
bối như Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh nhưng không tán thành con đường cứu
nước của họ nên Người đã quyết định tìm con đường cứu nước mới cho dân tộc.
Người quyết định sang phương Tây, đến nước Pháp để tìm hiểu xem nước Pháp
và các nước khác làm thế nào, rồi trở về giúp đồng bào mình. Giáo viên có thể
sử dụng một đoạn trong bài thơ “Người đi tìm hình của nước” của nhà thơ Chế
Lan Viên để nhấn mạnh về hành trình tìm đường cứu nước của Bác Hồ.
15


“Hiểu sao hết “Người đi tìm hình của Nước”
Không phải hình một bài thơ đã tạc nên người
Một góc quê hương nửa đời quen thuộc
Hay một đấng vô hình sương khói xa xôi
Mà hình đất nước hoặc còn hoặc mất
Sắc vàng nghìn xưa, sắc đỏ tương lai
Thế đi đứng của toàn dân tộc
Một cách vinh hoa cho hai mươi lăm triệu con người”
“Người đi tìm hình của nước” – Chế Lan Viên
Ngoài ra tài liệu văn học được sử dụng để tổ chức những buổi hoạt động
ngoại khóa cho môn lịch sử và cách dễ thực hiện, đạt hiệu quả cao là đọc sách,
nhằm cung cấp thêm kiến thức và phát triển tư duy cho học sinh. Muốn đưa tài
liệu văn học vào dạy lịch sử, trong hoạt động ngoại khóa có hiệu quả thì giáo
viên phải giúp học sinh lập danh mục sách cần đọc, nêu một số tác phẩm truyện
hoặc thơ có liên quan để học sinh tìm dễ dàng. Giáo viên có thể khơi dậy tính
hiếu kì và lòng ham hiểu biết của học sinh bằng cách tóm tắt sơ lược nội dung
trong sách, kể một vài chi tiết, những đoạn nhỏ trong sách để kích thích học sinh
tiếp tục đọc để tìm hiểu
2.5. Kết quả đạt được

Tôi đã sử dụng kinh nghiệm này vào các tiết dạy cho học sinh khối 11 và
đạt được kết quả khả quan, khi sử dụng một bài thơ, câu văn, câu trích dẫn…
minh họa cho một sự kiện lịch sử, bài học lịch sử làm giờ học sinh động hơn,
hấp dẫn học sinh hơn, giờ học đạt hiệu quả cao.
Trong quá trình dạy học sử dụng thơ văn làm cho học sinh hứng thú hơn,
chủ động trong việc học tập, qua đó các em chủ động tìm những kiến thức đã
học để hiểu sâu, toàn diện một sự kiện lịch sử, đồng thời học sinh còn ôn tập,
củng cố, tổng hợp kiến thức ở mức độ cao hơn
Qua một năm trực tiếp giảng dạy học sinh khối 11, với phương pháp sử
dụng tài liệu văn học vào bài dạy lịch sử ở trường THPT Như Thanh, tôi nhận
16


thấy kết quả đạt được rất khả quan. Đa số học sinh tiếp thu kiến thức một cách
dễ dàng. Các em đều nắm được kiến thức cơ bản của bài học, từ đó hình thành
được cho học sinh ý thức và thái độ nghiêm túc trong học tập, khắc phục được
sự tản mạn, khó hiểu của môn học.
Sau một thời gian tiến hành dạy - học bằng phương pháp sử dụng tài liệu
văn học ở khối lớp 11 trường THPT Như Thanh, với các mức độ khác nhau ở các lớp. Tôi
đã thu được kết quả so sánh cụ thể như sau:

Các mức độ
Hứng thú học
tập

Khối lớp thường xuyên sử
dụng tài liệu văn học trong
bài học lịch sử

Khối lớp ít sử dụng tài liệu

văn học trong bài học lịch
sử

Đa số học sinh hứng thú trong Học sinh chưa được hứng thú
giờ học lịch sử.
trong giờ học

Mức độ tiếp thu Học sinh hiểu bài nhanh hơn ,
kiến thức
nắm vững kiến thức, hiểu biết
sự kiên lịc sử sâu sắc.

Học sinh tiếp thu kiến thức
của bài còn chậm, thụ động,
hiểu kiến thức bài học còn sơ
sài, qua loa

Kĩ năng thực
hành, vận dụng
kiến thức để
làm bài tập

Học sinh linh hoạt, biết vận
dụng kiến thức để phân tích
sự kiện, nhân vật lịch sử, bài
làn có chiều sâu.

Học sinh chủ yếu học thuộc
lòng, ghi nhớ các sự kiện một
cách máy móc


Giáo dục tư
tưởng đạo đức
cho học sinh

Học sinh có tình cảm, thái độ
đúng đắn với môn học

Học sinh chưa thực sự chủ
động, và chưa tích cực trong
học tập.

Chiều hướng
phát triển.

Phát triển tư duy độc lập, tự
học, có tính sáng tạo trong
học tập bộ môn.

Chưa rèn luyện cho học sinh
tư duy độc lập

2.6. Bài học kinh nghiệm
Hướng dẫn học sinh đọc và sưu tầm các loại tài liệu tham khảo là những
tác phẩm văn học cho phù hợp, giúp học sinh chọn, xác định những tác phẩm
nào phục vụ cho yêu cầu của dạy học lịch sử, tránh sử dụng những tác phẩm bịa
đặt ảnh hưởng xấu đến nhận thức lịch sử của học sinh
Giáo viên lịch sử phải luôn tìm tòi sáng tạo và đổi mới trong phương pháp
dạy học. Có kế hoạch cụ thể trong việc tìm kiếm và thiết kế các đồ dùng dạy học
17



đẹp chính xác phù hợp với nội dung bài dạy.
Giáo viên cần nghiên cứu kĩ sách giáo khoa, thường xuyên nghiên cứu
thêm tài liệu tham khảo để cung cấp thêm thông tin và kiến thức ở mỗi bài học.
kết hợp các phương tiện dạy học khác nhau như đồ dùng trực quan, hình ảnh,
tranh vẽ, hệ thống thao tác sư phạm khi lên lớp.. để góp phần phát huy tính tích
cực chủ động của học sinh trong mỗi tiết học, nâng cao hiệu quả giờ dạy.
Giáo viên phải biết hướng dẫn tổ chức cho học sinh tự mình khám phá
kiến thức mới, dạy cho học sinh không chỉ có kiến thức mà cả phương pháp học
trong đó, cốt lõi là tự học. Chính trong các hoạt động tự lực được giao cho từng
cá nhân hoặc nhóm nhỏ tiềm năng sáng tạo của mỗi học sinh được bộc lộ và
phát huy, Giáo viên phải biết luyện tập cho các em có thói quen nhìn nhận sự
kiện dưới những góc độ khác, biết đặt ra nhiều giả thuyết khi lí giải một hiện
tượng. Biết đề xuất những giải pháp khác nhau khi xử lí một tình huống. Phải
giáo dục cho học sinh không vội vã bằng lòng với giải pháp đầu tiên được nêu
ra, không suy nghĩ cứng nhắc theo những qui tắc đã học trước đó, không máy
móc áp dụng những mô hình hành động đã gặp trong các bài học, trong sách vở
để ứng xử trước những tình huống mới.
Người giáo viên lịch sử cần bồi dưỡng năng khiếu vẽ bản đồ, lược đồ
khoa học chính xác, sử dụng các phương pháp dạy học tích cực nhằm thu hút sự
chú của học sinh làm cho học sinh yêu thích môn học.

18


3. Kết luận
3.1. Kết luận
Tài liệu văn học được vận dụng trong các tiết dạy sẽ giúp học sinh đạt
được kết quả cao nhất về các mặt giáo dưỡng, giáo dục và phát triển, giúp học

sinh hứng thú học tập, lĩnh hội kiến thức nhanh và vận dụng một cách sáng tạo
vào thực tế. Giáo viên không chỉ đóng vai trò tổ chức, hướng dẫn để học sinh có
cơ hội tìm hiểu, chiếm lĩnh kiến thức mà còn phải biết vận dụng vốn kiến thức
đã biết để hiểu kiến thức mới, có như vậy mới phát huy tính tích cực và chủ
động của học sinh trong học tập.
Trên đây là kinh nghiệm của bản thân tôi, phần lớn dựa vào tình hình học
tập của các em học sinh trường THPT Như Thanh nên khả năng áp dụng thực
tiễn không rộng rãi và chắc chắn còn nhiều hạn chế, kính mong quí thầy cô đóng
góp ý kiến thêm. Tôi chân thành cảm ơn!
3.2. Kiến nghị:
Hiện nay trong nhà trường đã được cấp nhiều thiết bị dạy học tuy vậy đối
với môn lịch sử thì đồ dùng còn quá ít, vì vậy muốn đạt kết quả cao trong bộ
môn này cần có thêm những yêu cầu sau:
- Cần có đủ tranh ảnh về các di tích lịch sử và di sản văn hóa, các chân dung
nhân vật lịch sử
- Cần tổ chức các cuộc thi sáng tạo và sử dụng đồ dùng dạy học
- Nên có những buổi học ngoại khóa, tham quan các di tích, bảo tàng lịch sử
- Cung cấp nhiều tư liệu để giảng dạy tốt phần lịch sử địa phương.
Như Thanh, ngày 21 tháng 5 năm 2017
Người viết sáng kiến

Vi Thị Khoa

19


MỤC LỤC
Mục

Nội dung


1.

Mở đầu........................................................................................

1.1

Lý do chọn đề tài................................................................................

1.2

Mục đích nghiên cứu.........................................................................

1.3

Đối tượng nghiên cứu của đề tài.........................................................

1.4

Phương pháp nghiên cứu…………………………………………….

2.

Nội dung sáng kiến kinh nghiệm......................................................

2.1.

Cơ sở lí luận của Sáng kiến………………………………………….

2.2.


Thực trạng của vấn đề ………………………………………………

2.3.

Các biện pháp tiến hành…………………………………………….

2.3.1.

Đối với học sinh………………………………………

2.3.2

Đối với giáo viên…….

2.4.

Một số giải pháp cụ thể để .........................

2.4.1

Sử dụng tài liệu văn học trong dạy học lịch sử.................................

2.4.2

Sử dụng tài liệu văn học trong dạy học một số bài lịch sử việt Nam…..

Trang

2.4.2.1

2.4.2.2
2.4.2.3
2.4.2.4
2.4.2.5
2.4.2.6
2.5.

Kết quả đạt được…………

2.6.

Bài học kinh nghiệm……………..

3.

Kết luận và kiến nghị ……………………………………………..

3.1

Kết luận……………………………………………………………..

3.2

Kiến nghị…………………………………………………………….

20


TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Sách giáo khoa, sách giáo viên, bài tập lịch sử 11– Nhà xuất bản Giáo dục.

- Tài liệu hội thảo tập huấn : Đổi mới nội dung và phương pháp dạy lịch sử
- Hoạt động dạy học ở trường THPT – Nhà xuất bản Giáo dục.
- Phương pháp dạy học lịch sử của - Nhà xuất bản Giáo dục.
- Lý luận dạy học lịch sử (Giáo trình của trường Đại học Cần Thơ)
- Giáo dục học (lý luận dạy học tập II) Nhà xuất bản Giáo dục Hà Nội
- Đại cương lịch sử Việt Nam (tập II) Nhà xuất bản giáo dục.
- Tinh Tuyển Văn học Việt Nam Nhà xuất bản khoa học xã hội

21



×