Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

SKKN gây hứng thú học tập và phát triển trí tuệ cho học sinh qua các bài tập hóa học lớp 10 liên quan đến thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.58 MB, 26 trang )

MỤC LỤC
STT

NỘI DUNG SÁNG KIẾN

TRANG

1
2
3
4
5
6
7
8
9
10

A. Mở đầu
I. Lí do chọn đề tài
II. Mục đích nghiên cứu.
III. Đối tượng nghiên cứu.
IV. Phương pháp nghiên cứu.
V. Những điểm mới của sáng kiến kinh nghiệm.
B. Nội dung đề tài.
I. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm.
1. Vì sao có thể xác định tuổi thọ của một mảnh gỗ ?
2. Vì sao ở các công viên, khách sạn lớn thường xây dựng
các giếng phun nước nhân tạo ?
3. Tại sao nước máy thường dùng ở các thành phố lại có
mùi khí clo ?


4. Axit clohiđric có vai trò như thế nào đối với cơ thể ?
5. Vì sao trước khi luộc rau muống cần cho thêm một ít
muối ăn NaCl ?
6. Tại sao không dùng bình thủy tinh đựng dung dịch HF ?
7. Làm thế nào có thể khắc được thủy tinh ?
8. Vì sao chất Florua lại bảo vệ được răng ?
9. Vì sao “chảo không dính” khi chiên ráng thức ăn lại
không bị dính chảo?
10. Vì sao bạc bromua được dùng để tráng lên phim ảnh?
11. Tại sao phải ăn muối iot ?
12. Sherlock Homes đã phát hiện cách lấy vân tay của tội
phạm lưu trên đồ vật ở hiện trường như thế nào chỉ sau ít
phút thí nghiệm ?
13. Vì sao than chất thành đống lớn có thể tự bốc cháy ?
14. Vì sao sau những cơn mưa giông, không khí trở nên
trong lành, mát mẻ hơn ?
15. Vì sao khi sử dụng máy photocopy phải chú ý đến việc
thông gió ?
16. Tại sao khi đánh rơi nhiệt kế thủy ngân thì không được
dùng chổi quét mà nên rắc bột S lên trên?
17. Tại sao hiđrosunfua lại độc đối với người?

3
3
4
5
5
5
6
6

6
7

11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26

8
8
9
10
10
11
12
13
14
14

15
16
16
17
17
18

27
28

18. Vì sao ta hay dùng bạc để “đánh gió” khi bị bệnh
cảm ?
19. “Hiện tượng mưa axit” là gì ? Tác hại như thế nào ?
20. Loại đá có thể… ăn?

29

21. Vì sao để ngỏ bình axit sunfuric đặc, khối lượng sẽ

20

18
19

1


30
31
32

33
34

ngày càng tăng?
II. Thực trạng của đề tài trước khi áp dụng sáng kiến kinh
nghiệm.
III. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề.
IV. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm .
C. Kết luận và kiến nghị
D. Tài liệu tham khảo.

21
21
22
23
24

A. Mở đầu
2


I. Lí do chọn đề tài:
Ngày nay, cả thế giới và Việt Nam đang tiến vào cuộc cách mạng công
nghiệp 4.0. Cuộc cách mạng này sẽ biến đổi cách sống, làm việc và giao tiếp
của toàn nhân loại theo cách hoàn toàn mới. Do đó, các quốc gia muốn tiến
vào cuộc cách mạng công nghiệp này đòi hỏi phải có một nguồn nhân lực chất
lượng cao có khả năng ứng dụng những tiến bộ khoa học công nghệ của cuộc
cách mạng vào thực tiễn sản xuất để có thể đáp ứng được yêu cầu phát triển
đặt ra. Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 sẽ tạo ra sự thay đổi vô cùng lớn trong
đời sống, kinh tế xã hội và đây chính là thách thức của ngành giáo dục trong

việc đào tạo nguồn nhân lực theo nhu cầu mới của thời đại, thúc đẩy sự phát
triển kinh tế bền vững của đất nước. Để tạo ra được nguồn nhân lực đó thì giáo
dục phải đặt trọng tâm vào việc khơi dậy sự say mê, hứng thú trong học tập,
kích thích sự tò mò và phát huy tính sáng tạo, tư duy lôgic của học sinh, mang
đến cho học sinh niềm khao khát được vươn tới những chân trời mới của tri
thức với một niềm tin mãnh liệt rằng mình có thể thực hiện được khát vọng đó,
giúp các em nhận ra được những năng lực trí tuệ của mình để đi tìm tiếp những
lời giải cho những vấn đề chưa hẳn hoàn toàn đã biết theo con đường phù hợp
nhất với năng lực trí tuệ của cá nhân, để các em thực sự thấy rằng mỗi ngày
đến trường là một ngày có ích, một ngày vui.
Sự hiện diện của một nền giáo dục như vậy phụ thuộc vào nhiều yếu tố,
nhưng yếu tố quyết định nhất là vai trò của người thầy. Lấy khả năng sáng tạo
kiến thức mới và tạo hứng thú học tập cho người học làm mục tiêu của giáo
dục. Không có học trò sáng tạo nếu không có những người thầy sáng tạo.
Trong quá trình dạy học nói chung và dạy hóa học nói riêng, người thầy dạy
hóa sáng tạo là người thầy biết chia sẻ những vui buồn trong quá trình cùng
kiến tạo các tri thức, biết hướng dẫn người học phát hiện vấn đề, đặt ra các giả
thuyết và so sánh để đánh giá các giả thuyết đó, từ đó chọn ra một giả thuyết
thích hợp, sử dụng những kiến thức và hiểu biết tổng hợp từ nhiều môn học, từ
nhiều phương pháp để đưa ra một giải pháp mới cho vấn đề cần nghiên cứu.
Biết khai thác các yếu tố tích cực trong từng phương pháp, biện pháp, kỹ thuật
dạy học hóa học được sử dụng để thực hiện yêu cầu tạo điều kiện cho học sinh
được hoạt động nhiều hơn, tích cực hơn, chủ động hơn trong giờ học. Đồng
thời, học sinh được đặt vào những tình huống của đời sống thực tế, học sinh
trực tiếp quan sát, thảo luận giải quyết vấn đề đặt ra theo suy nghĩ của mình, từ
đó vừa nắm được kiến thức, kĩ năng mới, vừa nắm được phương pháp chiếm
lĩnh kiến thức và kĩ năng đó, không rập khuôn theo những khuôn mẫu sẵn có,
được bộc lộ và phát huy tiềm năng sáng tạo sẽ giúp học sinh hiểu được rõ về
cuộc sống, những biến đổi vật chất trong cuộc sống hàng ngày, học sinh khỏi
bỡ ngỡ trong các tình huống gặp phải trong tự nhiên, cũng như trong cuộc

sống, lý giải được các hiện tượng kỳ bí, suy nghĩ ấp ủ câu hỏi vì sao lại có hiện
tượng đó, thậm chí hiểu được những dụng ý khoa học hoá học trong cuộc
sống. Từ đó, học sinh sẽ có hứng thú hơn trong việc tiếp thu và khám phá kiến
thức trong mỗi chương, mỗi bài học hoá học cụ thể, hơn thế nữa còn giúp các

3


em học hóa có niềm tin vào chân lí khoa học, các em ngày càng yêu và thích
môn hóa hơn...
Mặt khác, trong quá trình dạy học hoá học trên lớp, nhất là dạy kiến
thức lớp 10, việc sử dụng các phương pháp dạy học hoá học đặc thù trong mỗi
bài dạy cũng khác nhau, khả năng tiếp thu cũng như hứng thú học tập của học
sinh cũng không giống nhau. Một số học sinh lớp 10 nghĩ rằng, kiến thức các
thầy, cô dạy đều có trong sách vở hết, không cần phải học nữa, từ đó dẫn đến
tình trạng học sinh lười học, chỉ lo đua đòi theo chúng bạn mà quên mất nhiệm
vụ chính của mình là học tập, bị bạn bè lôi kéo, không xác định rõ con đường
tiếp theo mà mình bước đến, chưa có lí tưởng và tư tưởng vững chắc, không có
ước mơ để làm mục tiêu phấn đấu, Có nhiều học sinh bỏ tiết, trốn học đi chơi,
vào các quán nét để chơi điện tử, để giết thời gian thay vì lên lớp....Bên cạnh
đó, cha mẹ quá nuông chiều con cái, chưa có sự quan tâm cần thiết với quá
trình học tập của học sinh, tạo áp lực quá nhiều cho con trong việc học hành
mà không quan tâm đến cảm giác và suy nghĩ của con mình. Một số thầy cô ít
đam mê với chuyên môn, chưa tạo được sự thu hút học sinh vào học tập, chưa
đánh trúng tâm lí học sinh, còn áp dụng cách dạy truyền thống dẫn tới học
sinh không có hứng thú trong học tập, nếu có học chẳng qua chỉ để đối phó
với các thầy, các cô hoặc chỉ dùng để kiểm tra, thi cử.
Xuất phát từ những lí do nêu trên, đồng thời muốn khai thác các năng
lực trí tuệ cũng như tạo hứng thú, say mê học tập, yêu thích môn hóa
học cho học sinh, nhất là học sinh lớp 10 , tôi đã chọn đề tài :" Gây hứng

thú học tập và phát triển trí tuệ cho học sinh qua các bài tập hoá học lớp 10
liên quan đến thực tiễn"

II. Mục đích nghiên cứu.
Trong chương trình hóa học lớp 10, các bài tập hóa 10 liên quan đến thực
tiễn cuộc sống rất phong phú và đa dạng. Những bài tập về vấn đề của thực
tiễn ở lớp 10 đặt ra luôn buộc học sinh phải suy nghĩ và tìm cách trả lời sẽ đem
lại nhiều hứng thú cho học sinh vì các em thấy rằng, các kiến thức sẽ rất hữu
ích cho đời sống chứ không phải chỉ dùng để thi cử. Khi đó, việc học tập thực
sự có hiệu quả, khi kiến thức thu được trong quá trình học tập học sinh có thể
tự mình giải quyết được những vấn đề mình chưa bao giờ được học.
Thông qua việc giải bài tập thực tiễn sẽ làm cho ý nghĩa việc dạy và học
hoá học tăng lên, học sinh sẽ thấy hứng thú, say mê và dễ ghi nhớ bài hơn
trong quá trình học tập . Đồng thời các bài tập có nội dung liên quan đến thực
tiễn còn có thể dùng để tạo tình huống có vấn đề trong dạy học hoá học và phát
triển trí tuệ học sinh.
Mặt khác, kết hợp và giải thích giữa kiến thức trong sách vở và các hiện
tượng hoá học trong tự nhiên, học sinh sẽ có một cách nhìn đúng đắn, tránh
việc mê tín dị đoan, thậm chí hiểu được những dụng ý khoa học hoá học trong
những câu ca dao, tục ngữ mà thế hệ trước để lại và có thể ứng dụng trong
thực tiễn đời sống thường ngày chỉ bằng những kiến thức rất cơ bản, phổ
4


thông. Từ đó, giáo dục cho các em có ý thức bảo vệ môi trường, bảo vệ chính
mình và bảo vệ cộng đồng xã hội .
Chính vì vậy, tôi viết đề tài này nhằm giới thiệu và cho học sinh thấy được
các hiện tượng trong tự nhiên có liên quan đến nội dung kiến thức trong sách
vở, vận dụng kiến thức trong sách vở để giải thích các hiện tượng đó, sự phối
hợp giữa lí thuyết và thực tế sẽ giúp cho quá trình giảng dạy và học tập hóa

học được thuận lợi hơn, hiệu quả hơn, học sinh sẽ yêu và thích môn hóa hơn,
đồng thời trí tuệ của học sinh cũng phát triển tốt hơn.

III. Đối tượng nghiên cứu.
Đề tài này được viết dựa trên các cơ sở sau:
- Sử dụng một số bài tập hóa học lớp 10 điển hình, minh họa cho kiến thức
trong sách vở có nội dung kiến thức liên quan đến thực tế cuộc sống xung
quanh các em ở mỗi bài học hóa học cụ thể trong phạm vi chương trình hoá
học lớp 10. Trong mỗi bài dạy, giáo viên sẽ đặt các câu hỏi để học sinh trả
lời thông qua các kiến thức vừa học, đang học hoặc để dẫn dắt vào bài
giảng...
- Căn cứ vào tình hình thực tế của học sinh ở trường THPT Tống Duy Tân,
cũng như tình hình thực tiễn ở các xã gần địa bàn trường đóng.
- Căn cứ vào các phương pháp dạy học tích cực và kĩ thuật tổ chức hoạt
động học cho học sinh.

IV. Phương pháp nghiên cứu.
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở thu thập các thông tin kiến thức
thông qua nghiên cứu lí thuyết các sách giáo khoa hóa học THPT 10, 11, 12;
các sách tham khảo có nội dung kiến thức liên quan đến đề tài; các tranh
ảnh, tài liệu trên internet, các sáng kiến kinh nghiệm của bản thân đạt giải
trong các năm học trước …
Điều tra khảo sát thực tế, khả năng tiếp thu và hứng thú học tập môn hóa
của các em học sinh lớp 10 thuộc các lớp bản thân giáo viên giảng dạy trong
năm học 2017 - 2018.
Ngoài ra, còn vận dụng các phương pháp, kĩ thuật giải bài tập hóa học
của giáo viên vào thực tế giảng dạy, cũng như thu thập ý kiến phản hồi từ học
sinh và đồng nghiệp để từ đó rút kinh nghiệm, sữa chưa, bổ sung và hoàn thiện
đề tài.


V. Những điểm mới của sáng kiến kinh nghiệm:
- Sáng kiến kinh nghiệm năm học 2017 - 2018 chỉ viết trong phạm vi kiến thức
thuộc chương trình hóa học lớp 10. So với sáng kiến kinh nghiệm năm học
2009 viết trong cả chương trình hóa học THPT: Hóa 10, 11 và 12.
- Bổ sung thêm các bài tập hóa học 10 có nội dung kiến thức liên quan đến
thực tiễn và cuộc sống hàng ngày.

5


- Trong mỗi bài tập hóa học có thêm tranh ảnh minh họa, chứng minh cho kiến
thức trong sách vở hiện các em đang học có nội dung liên quan đến cuộc sống
hàng ngày và các hiện tượng xảy ra trong tự nhiên.
B. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm.
I. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm.
Hóa học là môn khoa học vừa lí thuyết, vừa thực nghiệm, là môn học
liên quan đến cuộc sống hàng ngày, đến các hiện tượng của tự nhiên. Học hóa
học, ngoài những kiến thức, kỹ năng cơ bản mà học sinh cần đạt được, còn
giúp cho học sinh - những chủ nhân tương lai của đất nước hiểu biết những
ứng dụng của hóa học trong thực tế , đưa những ứng dụng của hóa học phục vụ
cho đời sống con người, cải tạo thiên nhiên phục vụ cho nhu cầu ngày càng
nhiều của con người đồng thời cũng giúp cho con người nhận ra những tác hại
mà chính con người đang gây ra cho thiên nhiên để rồi cũng chính con người
phải gánh chịu hậu quả đó ( ví dụ như: Hiện tượng mưa axit, hiện tượng thủng
tầng ozon, hiệu ứng nhà kính, mưa đá…) . Từ đó, phát huy tính sáng tạo và
quan trọng hơn nữa là hình thành những kỹ năng vận dụng và sử dụng kiến
thức một cách độc lập, nhận diện thế giới quan một cách đúng đắn và hoàn
chỉnh, đánh giá các sự việc, hiện tượng mới khi gặp trong học tập, trong cuộc
sống, trong lao động và trong quan hệ với mọi người, chứ không phải học hóa
chỉ dùng để kiểm tra, thi cử.

Vì thế, trong dạy học hóa học cho học sinh trên lớp nhất là các em học
sinh lớp 10, bản thân tôi đã đưa các bài tập hóa 10 có nội dung liên quan đến thực
tế, các hiện tượng xảy ra trong tự nhiên và những bài tập về bảo vệ môi trường có
liên quan đến bài học không chỉ làm cho bài học trở nên sinh động hơn, hay hơn,
gây hứng thú và sức hút cho học sinh hơn mà còn giúp các em có ý thức hơn
trong việc bảo vệ môi trường, các em thích và yêu môn hóa nhiều hơn nữa.
Sau đây là một số bài tập hóa học lớp 10 điển hình minh họa cho kiến
thức trong sách vở có nội dung liên quan đến thực tiễn cuộc sống ở mỗi bài
học hóa học cụ thể :
1.

Vì sao có thể xác định tuổi thọ của một mảnh gô ?

6


Các nhà khảo cổ thường dùng “ đồng hồ cacbon” để xác định xem tuổi
thọ của các mãnh gổ là bao nhiêu?
14
14
Hàm lượng C trong khí quyển luôn được cân bằng không đổi. C
trong khí quyển kết hợp với oxi mà tồn tại dưới dạng khí

14

CO 2

. Thông qua

14


quá trình quang hợp, khí CO 2 này bị thực vật hấp thụ tạo thành tinh bột,
14
xenlulozơ. Sau khi động vật ăn thực vật, C lại chuyển vào cơ thể động vật.
14
12
Tỷ lệ giữa C ( có tính phóng xạ) và C ( một đồng vị ổn định) ở trong khi
quyển cũng như ở trong thực vật, động vật đều bằng nhau.Chỉ sau khi động
thực vật chết đi, chúng mới đình chỉ sự chuyển đổi vật chất với thế giới bên
14
14
ngoài, sự cung ứng C cũng sẽ bị ngừng. Do C không ngừng phát ra tia xạ
14
nên hàm lượng của C sẽ giảm dần. Quy luật của sự giảm đó là: “Cứ qua
14
quãng thời gian 5660 năm, thì lượng C sẽ giảm đi một nửa”. Điều này gọi là
“chu kì bán ra” của chất đồng vị phóng xạ.
Do vậy nếu muốn biết niên đại của miếng gỗ cổ thì chỉ cần đo hàm
14
lượng C của mãnh gỗ đó là có thể tính toán ra.
Vận dụng: Đây là một trong những ứng dụng quan trọng của các đồng
vị phóng xạ. Giáo viên có thể cung cấp cho học sinh biết cách tính tuổi thọ cây
14
cối dựa vào đồng vị C trong bài “Đồng vi” ( tiết 4-5 lớp 10- CB và tiết 5 - lớp
10 nâng cao).
2. Vì sao ở các công viên, khách sạn lớn thường xây dựng các giếng phun
nước nhân tạo ?

7



Có lẽ ai cũng biết rằng xây dựng các giếng phun nước để làm đẹp cảnh
quan và mát mẻ. Nhưng xét về phương diện hóa học thì việc xây dựng các
giếng phun nước nhân tạo nhằm mục đích là sinh ra ion âm.
Người ta đã chứng minh, các ion âm sau khi được người hấp thụ có thể
điều tiết công năng hệ thần kinh trung ương, tăng sức miễn dịch, cảm giác dễ
chịu, tinh lực sung mãn. Các thí nghiệm lâm sàng cũng đã chứng minh nồng
độ ion âm trong không khí có hiệu quả chửa bệnh viêm phế quản, hen, đau
đầu, mất ngủ, suy nhược thần kinh,…
Vì sao ion âm trong không khi có lợi cho sức khỏe? Theo các chuyên gia
y học thì các tế bào gây bệnh thường tích điện âm, nếu tế bào trong cơ thể tích
điện âm, thì do ion âm cùng tên đẩy nhau nên vi trùng gây bệnh khó có thể tấn
công tế bào. Ngoài ra ion âm thông qua con đường hô hấp và phổi có thể
xuyên qua phế nang nên có tác dụng tổng hợp đối với cơ năng sinh lí bảo vệ
sức khỏe.
Trong phòng có điều hòa không khi, phòng sử dụng máy tinh thì nồng
độ ion âm trong không khí thì rất thấp, thậm chí gần bằng không. Sống và làm
việc trong điều kiện này trong một thời gian dài sẽ cảm thấy tức thở, tâm thần
bất an, dễ sinh bệnh tật.
Vận dụng: Giáo viên có thể kể cho học sinh nghe tác dụng của ion âm
đối với sức khỏe con người sau khi dạy xong phần “Ion âm” (Tiết 22 lớp 10 cơ
bản hoặc tiết 25, 26 lớp 10 nâng cao). Mục đích giúp học sinh hiểu được việc
xây dựng các giếng nước phun có ý nghĩa như thế nào đến cảnh quan cũng như
bảo vệ sức khỏe cộng đồng. Một vấn đề mà ít ai biết hay không chú ý.
3. Tại sao nước máy thường dùng ở các thành phố lại có mùi khí clo ?

8


Trong hệ thống nước máy ở thành phố, người ta cho vào một lượng nhỏ

khí clo vào để có tác dụng diệt khuẩn. Một phần khí clo gây mùi và một phần
tác dụng với nước:
��
� HCl + HClO
Cl 2 + H 2O ��

Axit hipoclorơ HClO sinh ra có tính oxi hóa rất mạnh nên có tác dụng
khử trùng, sát khuẩn nước.
Vận dụng: Vấn đề này đang được sử dụng làm sạch nước hiện nay ở các
nhà máy nước cung cấp nước cho các thành phố, thị xã, thị trấn. Giải thích
được hiện tượng này giúp học sinh hiểu được vai trò và ứng dụng của clo trong
cuộc sống mà học sinh có thể kiểm nghiệm thật dể dàng. Giáo viên có thể đặt
câu hỏi này cho học sinh suy nghĩ để trả lời trong phần ứng dụng của clo trong
bài “Clo” (Tiết 38-lớp 10-CB và tiết 48, 49- lớp 10 nâng cao).
4. Axit clohiđric có vai trò như thế nào đối với cơ thể ?

Axit clohiđric có vai trò rất quan trọng trong quá trình trao đổi chất của cơ
thể. Trong dịch dạ dày của người có axit clohiđric với nồng độ khoảng chừng
0,0001M ( pH = 4) đến 0,001 M (có pH = 3). Ngoài việc hòa tan các muối khó
tan, nó còn là chất xúc tác cho các phản ứng phân hủy các chất gluxit (chất
9


đường, tinh bột) và chất protein (đạm) thành các chất đơn giản hơn để cơ thể
có thể hấp thụ được. Lượng axit trong dịch dạ dày nhỏ hơn hay lớn hơn mức
bình thường đều gây bệnh cho người. Khi trong dịch dạ dày có nồng độ axit
nhỏ hơn 0,0001M (pH > 4,5) người ta mắc bệnh khó tiêu, ngược lại nồng độ
axit lớn hơn 0,001M (pH < 3,5) người ta mắc bệnh ợ chua. Một số thuốc chữa
đau dạ dày chứa muối NaHCO3 (còn gọi là thuốc muối) có tác dụng trung hòa
bớt lượng axit trong dạ dày:

NaHCO3 + HCl → NaCl + CO2 + H2O
Vận dụng: Nhu cầu ngày càng cao của con người kéo theo nhu cầu ăn uống
ngày càng đa dạng, phong phú. Vấn đề ăn uống ảnh hưởng đến dạ dày ngày
càng tăng. Giáo viên có thể đưa vấn đề này trong phần ứng dụng của axit
clohiđric (Tiết 39,40-lớp 10 CB và tiết 50 lớp 10 nâng cao).
5. Vì sao trước khi luộc rau muống cần cho thêm một ít muối ăn NaCl ?

Dưới áp suất khí quyển 1atm thì nước sôi ở 100 oC. Nếu cho thêm một ít
muối ăn vào nước thì nhiệt độ sôi cao hơn 100 oC. Khi đó luộc rau sẽ mau
mềm, xanh và chín nhanh hơn là luộc bằng nước không. Thời gian rau chín
nhanh nên ít bị mất vitamin.
Vận dụng: Đây là một vấn đề rất quen thuộc mà nếu không chú ý thì
học sinh sẽ không biết. Học sinh dễ dàng làm thí nghiệm ngay khi nấu ăn. Từ
đó góp phần tạo nên kinh nghiệm nấu ăn cho học sinh, rất thiết thực trong cuộc
sống. Giáo viên có thể nêu vấn đề trên sau khi kết thúc bài “Clo” (Tiết 38 lớp
10CB hoặc tiết 49-lớp 10 nâng cao) hoặc bài “Các hợp chất của natri” (Tiết 46
lớp 12).
6. Tại sao không dùng bình thủy tinh đựng dung dịch HF ?

10


Tuy dung dịch axit HF là một axit yếu nhưng nó có khả năng đặc biệt là
ăn mòn thủy tinh. Do thành phần chủ yếu của thủy tinh là silic đioxit SiO 2 nên
khi cho dung dịch HF vào thì có phản ứng xảy ra:
SiO2 + 4HF → SiF4 + 2H2O
Vận dụng: Đây là phần kiến thức mà bất kì học sinh nào cũng phải biết
được sau khi học bài Flo và hợp chất của nó. Học sinh biết giải thích và vận
dụng trong thực tiễn tránh việc dùng bình thủy tinh đựng dung dịch HF. Giáo
viên có thể hỏi học sinh sau khi dạy xong bài dạy “Flo” (Tiết 43 - lớp 10 -CB

hoặc tiết 55- lớp 10 nâng cao) hay “Hợp chất silic”(Tiết 25- lớp 11- CB).
7. Làm thế nào có thể khắc được thủy tinh ?

Muốn khắc thủy tinh người ta nhúng thủy tinh vào sáp nóng chảy, nhấc
ra cho nguội, dùng vật nhọn khắc hình ảnh cần khắc nhờ lớp sáp mất đi, rồi
nhỏ dung dịch HF vào thì thủy tinh sẽ bị ăn mòn ở những chổ lớp sáp bị cào đi
11


SiO2 + 4HF → SiF4↑ + 2H2O
Nếu không có dung dịch HF thì thay bằng dung dịch H 2SO4 đặc và bột
CaF2. Làm tương tự như trên nhưng ta cho bột CaF 2 vào chỗ cần khắc,sau đó
cho thêm H2SO4 đặc vào và lấy tấm kính khác đặt trên chỗ cần khắc. Sau một
thời gian, thủy tinh cũng sẽ bị ăn mòn ở những nơi cạo sáp.
CaF2 + 2H2SO4 → CaSO4 + 2HF↑ ( dùng tấm kính che lại)
Sau đó:
SiO2 + 4HF → SiF4↑ + 2H2O
Vận dụng: Đây là một vấn đề rất thực tế khi mà nghề khắc thủy tinh
đang phát triển ở nước ta. Sau bài học này học sinh không những biết được
phương pháp khắc thủy tinh mà còn có thể giải thích được vấn đề này. Thậm
chí đây là cơ sở cho việc học nghề, khơi gợi niềm đam mê học tập, học sinh có
thể tự làm thí nghiệm này trong tiết thực hành. Giáo viên có thể lồng vào bài
“Flo”(Tiết 43- lớp- 10- CB hoặc tiết 55- lớp 10 nâng cao) khi dạy phần tính
chất hóa học
8. Vì sao chất Florua lại bảo vệ được răng ?

Răng được bảo vệ bởi lớp men cứng, dày khoảng 2mm. Lớp men này là
hợp chất Ca5(PO4)3OH và được tạo thành bằng phản ứng:
��



� Ca5(PO4)3OH (1)
5Ca2+ + 3PO43- + OH- ��
Quá trình tạo lớp men này là sự bảo vệ tự nhiên của con người chống lại
bệnh sâu răng.
Sau các bữa ăn, vi khuẩn trong miệng tấn công các thức ăn còn lưu lại
trên răng tạo thành các axit hữu cơ như axit axetic và axit lactic. Thức ăn với
hàm lượng đường cao tạo điều kiện tốt cho việc sản sinh ra các axit đó.
Lượng axit trong miệng tăng làm cho pH giảm, làm cho phản ứng sau
xảy ra:
H+ + OH- → H2O
Khi nồng độ OH- giảm, theo nguyên lí Lơ-Sa-tơ-li-ê, cân bằng (1)
chuyển dịch theo chiều nghịch và men răng bị mòn, tạo điều kiện cho sâu răng
phát triển.

12


Biện pháp tốt nhất phòng sâu răng là ăn thức ăn ít chua, ít đường và
đánh răng sau khi ăn.
Người ta thường trộn vào thuốc đánh răng NaF hay SnF 2, vì ion F- tạo
điều kiện cho phản ứng sau xảy ra:
5Ca2+ + 3PO43- + F- → Ca5(PO4)3F
Hợp chất Ca5(PO4)3F là men răng thay thế một phần Ca5(PO4)3OH
Ở nước ta, một số người có thói quen ăn trầu, việc này rất tốt cho việc
tạo men răng theo phản ứng (1), vì trong trầu có vôi tôi Ca(OH) 2, chứa các ion
Ca2+
và OH- làm cho cân bằng (1) chuyển dịch theo chiều thuận.
Vận dụng: Vấn đề sâu răng và phòng ngừa sâu răng được mọi người
quan tâm. Nhưng ít ai biết rằng vì sao răng bị sâu và cơ chế phòng ngừa như

thế nào. Học sinh sẽ rất tò mò về vấn đề này. Giáo viên có thể đề cập vấn đề
này trong phần ứng dụng của flo ( Tiết 43-lớp 10 - CB hoặc tiết 55- lớp 10
nâng cao) nhằm giúp cho học sinh có thói quen bảo vệ răng bằng cách đánh
răng sau các bửa ăn.
9. Vì sao “chảo không dính” khi chiên ráng thức ăn lại không bị dính
chảo?

Nếu dùng chảo bằng gang, nhôm thường để chiên cá, trứng không khéo
sẽ bị dính chảo. Nhưng nếu dùng chảo không dính thì thức ăn sẽ không dính
chảo. Thực ra mặt trong của chảo không dính người ta có trải một lớp hợp
CF2
CF2
chất cao phân tử. Đó là politetra floetylen
được tôn vinh là
n
“vua chất dẻo”
thường gọi là “teflon”. Politetra floetilen chỉ chứa 2 nguyên tố C và F nên liên
kết với nhau rất bền chắc. Khi cho teflon vào axit vô cơ hay axit H 2SO4 đậm
đặc, nước cường thủy( hỗn hợp HCl và HNO 3 đặc), vào dung dịch kiềm đun
sôi thì teflon không hề biến chất. Dùng teflon tráng lên đáy chảo khi đun với
nước sôi không hề xảy ra bất kì tác dụng nào. Các loại dầu ăn, muối, dấm,…
cũng xảy ra hiện tượng gì. Cho dù không cho dầu mở mà trực tiếp rán cá,
trứng trong chảo thì cũng không xảy ra hiện tượng gì.
13


Một điều chú ý là không nên đốt nóng chảo không trên bếp lửa vì teflon
ở nhiệt độ trên 250oC là bắt đầu phân hủy và thoát ra chất độc. Khi rửa chảo
không nên chà xát bằng các đồ vật cứng vì có thể gây tổn hại cho lớp chống
dính.

Vận dụng: “Chảo không dinh” hiện nay được các bà nội trợ sử dụng
khá nhiều. Công dụng của chảo đã làm hài lòng tất cả các đầu bếp khó tính.
Nhưng ít ai hiểu được vì sao chảo không dính lại ưu việt đến vậy. Giáo viên có
thể nêu vấn đề này khi dạy về “Ứng dụng flo” (Tiết 43 lớp 10 CB) hoặc bài
“Dẫn suất halogen” (Tiết 55 lớp 11CB) cũng như lưu ý học sinh về cách sử
dụng chảo không dính.
10. Vì sao bạc bromua được dùng để tráng lên phim ảnh?
Một lượng lớn brom dùng để sản xuất AgBr, là chất nhạy cảm với ánh sáng,
dùng để tráng lên phim.
Người ta thường dùng AgBr và một ít AgCl kém nhạy còn AgI thì lại quá
nhạy. Phim ảnh và giấy ảnh gồm chủ yếu một lớp mỏng khoảng 20 micro mét
huyền phù AgBr được phân tán trong gelatin tráng trên nền chất dẻo nền chất
dẻo trong suốt và được giữ trong bóng tối.

Dưới tác dụng của ánh sáng, AgBr phân hủy thành kim loại bạc (ở dạng bột
màu đen) và brom (ở dạng hơi) theo phương trình:
2AgBr → 2Ag + Br2
Brom tạo thành hóa hợp với gelatin còn bạc được tạo thành tinh thể mầm rất
bé, những tinh thể này càng nhiều tại những chỗ chiếu sáng càng mạnh. Sau
khi được chiếu sáng, tuy bề ngoài phim ảnh không có gì thay đổi nhưng bên
trong đã có hình ảnh ẩn của vật được chụp.
Vận dụng: Đây là một trong những ứng dụng quan trọng của brom, giáo
viên có thể đặt câu hỏi này cho học sinh khi dạy học phần ứng dụng của brom
( Tiết 43,44 - lớp 10 cơ bản hoặc tiết 56- lớp 10 nâng cao)
11. Tại sao phải ăn muối iot ?

14


Trong cơ thể con người có tồn tại một lượng iot tập trung ở tuyến giáp

trạng. Ở người trưởng thành lượng iot này khoảng 20-50mg.
Hàng ngày ta phải bổ sung lượng iot cần thiết cho cơ thể bằng cách ăn
muối iot. Iôt có trong muối ăn dạng KI và KIO 3. Nếu lượng iot không cung cấp
đủ thì sẽ dẫn đến tuyến giáp trạng sưng to thành bướu cổ, nặng hơn là đần độn,
vô sinh và các chứng bệnh khác.
Vận dụng: Giáo viên có thể đặt câu hỏi trên khi kết thúc bài giảng “Iot”
(Tiết 44 - lớp 10-CB hoặc tiết 55- lớp 10 nâng cao) nhằm giúp cho học sinh
hiểu được ích lợi của việc ăn muối iot và tuyên truyền cho mọi người, cộng
đồng.
12. Sherlock Homes đã phát hiện cách lấy vân tay của tội phạm lưu trên
đồ vật ở hiện trường như thế nào chỉ sau ít phút thí nghiệm ?

Lấy một trang giấy sạch, ấn một đầu ngón tay lên trên mặt giấy rồi nhấc
ra, sau đó đem phần giấy có dấu vân tay đặt đối diện với mặt ống nghiệm có
15


chứa cồn iốt và dùng đèn cồn để đun nóng ở phần đáy ống nghiệm. Khi xuất
hiện luồng khí màu tím bốc ra từ ống nghiệm, bạn sẽ thấy trên phần giấy trắng
(bình thường không nhận ra dấu vết gì) dần dần hiện lên dấu vân tay màu nâu,
rõ đến từng nét. Nếu bạn ấn đầu ngón tay lên một trang giấy trắng rồi cất đi,
mấy tháng sau mới đem thực nghiệm như trên thì dấu vân tay vẫn hiện ra rõ
ràng.
Trên đầu ngón tay chúng ta có dầu béo, dầu khoáng và mồ hôi. Khi ấn
ngón tay lên mặt giấy thì những thứ đó sẽ lưu lại trên mặt giấy, tuy mắt thường
rất khó nhận ra.
Khi đem tờ giấy có vân tay đặt đối diện với mặt miệng ống nghiệm chứa
cồn iôt thì do bị đun nóng iôt “thăng hoa” bốc lên thành khí màu tím ( chú ý là
khí iôt rất độc), mà dầu béo, dầu khoáng và mồ hôi là các dung môi hữu cơ mà
khí iôt dễ tan vào chúng, tạo thành màu nâu trên các vân tay lưu lại. Thế là vân

tay hiện ra.
Vận dụng: Đây là một ứng dụng quan trọng của iot trong ngành điều
tra tội phạm. Giáo viên có thể đề cập ở phần tính chất vật lí trong bài “Iot”
(Tiết 44 lớp 10 CB hoặc tiết 55- lớp 10 nâng cao) hoặc bài “Lipit (chất
béo)”( Tiết 18-19 lớp 12).
13. Vì sao than chất thành đống lớn có thể tự bốc cháy ?

Do than (C) tác dụng với O2 trong không khí tạo CO2, phản ứng này tỏa nhiệt.
Nếu than chất thành đống lớn phản ứng này diễn ra nhiều, nhiệt tỏa ra được
tích góp dần khi đạt tới nhiệt độ cháy của than thì than sẽ tự bốc cháy theo
t
� CO2
phương trình hóa học: C + O2 ��
Vận dụng: Giáoviên có thể nêu vấn đề này khi dạy bài oxi ( Tiết 49- lớp
10 cơ bản hoặc tiết 60-lớp 10 nâng cao) hoặc bài cacbon (Tiết 23- lớp 11 cơ
bản)
14. Vì sao sau những cơn mưa giông, không khí trở nên trong lành, mát
mẻ hơn ?
0

16


Hình ảnh bầu trời trước cơn mưa

Hình ảnh bầu trời sau cơn mưa

Sau những cơn mưa, nếu dạo bước trên đường phố, đồng ruộng, người
ta cảm thấy không khí trong lành, sạch sẽ. Sở dĩ như vậy là có hai nguyên
nhân:

- Nước mưa đã gột sạch bụi bẩn làm bầu không khí được trong sạch.
- Trong cơn giông đã xảy ra phản ứng tạo thành ozon từ oxi:
tia l�

a�
ie�
n
3O 2 ����
� 2O3
Ozon sinh ra là chất khí màu xanh nhạt, mùi nồng, có tính oxi hóa mạnh.
Ozon có tác dụng tẩy trắng và diệt khuẩn mạnh. Khi nồng độ ozon nhỏ, người
ta cảm giác trong sạch, tươi mát.
Do vậy sau cơn mưa giông trong không khí có lẫn ít ozon làm cho
không khí trong sạch, tươi mát.
Vận dụng: Đây là một hiện tượng tự nhiên không xa lạ với học sinh.
Một số học sinh cho rằng đây là điều hiển nhiên vì “ sau cơn mưa trời lại
sáng”. Tuy nhiên nhìn dưới góc độ hóa học thì ta có thể giải thích được rõ
ràng vấn đề này. Giáo viên có thể đề cập trong phần ứng dụng của ozon hay
đặt câu hỏi trên sau khi dạy xong bài giảng về “Ozon” ( Tiết 50- lớp -10 CB
hoặc tiết 64-lớp 10 NC).
15. Vì sao khi sử dụng máy photocopy phải chú ý đến việc thông gió ?

17


Chúng ta đều biết khi máy photocopy làm việc thường xảy ra hiện tượng
phóng điện cao áp, do đó có thể sinh ra khí ozon theo phản ứng:
tia l�

a�

ie�
n
3O 2 ����
� 2O3
Với một lượng ít ozon trong không khí thì có tác dụng diệt khuẩn, diệt
vi trùng. Nhưng nếu lượng ozon lại vượt qua giới hạn cho phép sẽ gây tổn hại
cho đại não, phá hoại khả năng miễn dịch bệnh, gây mất trí nhớ, biến đổi
nhiễm sắc thể, gây quái thai ở phụ nữ mang thai, v.v..Thậm chí ozon còn là
chất gây ung
thư nên tác hại của ozon không thể kể hết được.
Hiển nhiên là lượng ozon do máy photocopy sinh ra rất bé nên nếu ngẫu
nhiên mà tiếp xúc với nó cũng chưa có thể gây nguy hại cho cơ thể. Nhưng
nếu tiếp xúc với ozon trong thời gian dài và nếu không chú ý làm thông gió
căn phòng thì do ozon tập hợp nhiều trong phòng đến mức vượt tiêu chuẩn an
toàn thì sẽ có ảnh hưởng đến sức khỏe con người.
Cho nên khi sử dụng máy photocopy cần chú ý đến việc thông gió cho
phòng máy.
Vận dụng: Giáo viên có thể đề cập vấn đề trên khi nói về tác hại của
ozon trong bài giảng về “Ozon” (Tiết 50- lớp 10 CB hoặc tiết 64-lớp 10 NC ).
Sau bài học học sinh sẽ biết được sự nguy hiểm khi photocopy tài liệu và biết
cách tránh được sự nguy hại này.
16. Tại sao khi đánh rơi nhiệt kế thủy ngân thì không được dùng chổi quét
mà nên rắc bột S lên trên?
Thủy ngân (Hg) là kim loại ở dạng lỏng, dễ bay hơi và hơi thủy ngân là một
chất độc. Vì vậy khi làm rơi nhiệt kế thủy ngân nếu như ta dùng chổi quét thì
thủy ngân sẽ bị phân tán nhỏ, làm tăng quá trình bay hơi và làm cho quá trình
thu gom khó khăn hơn. Ta phải dùng bột S rắc lên những chỗ có thủy ngân, vì
S có thể tác dụng với thủy ngân tạo thành HgS dạng rắn và không bay hơi:
Hg + S → HgS
Vận dụng: Đây là hiện tượng thực tế luôn xảy ra xung quanh cuộc sống

hàng ngày của học sinh, giáo viên có thể đặt câu hỏi này khi dạy phần tính chất
hóa học của S (Tiết 52-lớp 10 cơ bản hoặc tiết 67-lớp 10 nâng cao), qua đó,
giáo dục các em ý thức bảo vệ sức khỏe và môi trường
17. Tại sao hiđrosunfua lại độc đối với người?
18


Khí H 2S độc với người vì khi vào máu, máu hóa đen do tạo ra FeS làm
cho hemoglobin của máu chứa Fe2+ bị phá hủy:
H2S + Fe2+ (trong hemoglobin) → FeS↓ + 2H+
Vận dụng: Giáo viên có thể đặt câu hỏi này trong phần tính chất vật lí của
H2S ( Tiết 53 - lớp 10 cơ bản hoặc tiết 69-lớp 10 nâng cao)
18. Vì sao ta hay dùng bạc để “đánh gió” khi bị bệnh cảm ?

Khi bị bệnh cảm, trong cơ thể con người sẽ tích tụ một lượng khí H 2S
tương đối cao. Chính lượng H2S sẽ làm cho cơ thể mệt mỏi. Khi ta dùng Ag để
đánh gió thì Ag sẽ tác dụng với khí H 2S. Do đó, lượng H2S trong cơ thể giảm
và dần sẽ hết bệnh. Miếng Ag sau khi đánh gió sẽ có màu đen xám:
4Ag + 2H2S + O2 → 2Ag2S↓ + 2H2O
(đen)
Vận dụng: Hiện tượng “đánh gió” đã được ông bà ta sử dụng từ rất xa
xưa cho đến tận bây giờ để chữa bệnh cảm. Cách làm này rất có cơ sở khoa
học mà mọi người cần phải biết. Giáo viên có thể nêu hiện tượng trên khi dạy
phần trạng thái tự nhiên của hiđro sunfua ( Tiết 53- lớp 10 -CB hoặc tiết 69lớp 10 nâng cao) cho học sinh biết cách chữa bệnh “dân gian” này.
19. “Hiện tượng mưa axit” là gì ? Tác hại như thế nào ?

19


Khí thải công nghiệp và khí thải của các động cơ đốt trong ( ô tô, xe

máy...) có chứa các khí SO2, NO, NO2,…Các khí này tác dụng với oxi O 2 và
hơi nước trong không khí nhờ xúc tác oxit kim loại ( có trong khói, bụi nhà
máy) hoặc ozon tạo ra axit sunfuric H2SO4 và axit nitric HNO3, theo các
phương trình sau:
2SO2 + O2 + 2H2O → 2H2SO4
2NO + O2 → 2NO2
4NO2 + O2 + 2H2O → 4HNO3
Axit H2SO4 và HNO3 tan vào nước mưa tạo ra mưa axit. Vai trò chính
của mưa axit là H2SO4 còn HNO3 đóng vai trò thứ hai.
Hiện nay mưa axit là nguồn ô nhiễm chính ở một số nơi trên thế giới.
Mưa axit làm mùa màng thất thu và phá hủy các công trình xây dựng, các
tượng đài làm từ đá cẩm thạch, đá vôi, đá phiến (các loại đá này thành phần
chính là CaCO3):
CaCO3 + H2SO4 → CaSO4 + CO2↑ + H2O
CaCO3 + 2HNO3 → Ca(NO3)2 + CO2↑ + H2O
Vận dụng: Ngày nay hiện tượng mưa axit và những tác hại của nó đã
gây nên những hậu quả nghiêm trọng, đặc biệt là ở những nước công nghiệp
phát
triển. Vấn đề ô nhiễm môi trường luôn được cả thế giới quan tâm. Việt Nam
chúng ta đang rất chú trọng đến vấn đề này. Do vậy mà giáo viên phải cung
cấp cho học sinh những hiểu biết về hiện tượng mưa axit cũng như tác hại của
nó nhằm nâng cao ý thức bảo vệ môi trường. Cụ thể giáo viên có thể đặt câu
hỏi trên cho học sinh trả lời sau khi dạy xong phần Sản xuất axit sunfuric trong
bài “Axit sunfuric. Muối sunfat”(Tiết 55-56 lớp 10 CB hoặc tiết 72,73-lớp 10
nâng cao) hoặc áp dụng trong bài“Axit nitric” (tiết 14-15 lớp 11CB).
20. Loại đá có thể… ăn.

20



Khi bạn bị bệnh đau dạ dày cần phải chụp X quang. Trước khi chụp
phim thì bác sỹ thường cho bạn ăn một thứ thức ăn ở dạng hồ trắng. Thành
phần chủ yếu của thức ăn là một loại đá BaSO4.
Nguyên do là thầy thuốc chẩn đoán bệnh đau dạ dày cho người bệnh
thường phải chụp X quang. Chụp X quang đối với dạ dày không dễ như với
các bộ phận xương cốt, bởi vì tỷ trọng của xương lớn, tia X khó xuyên qua,
trên phim chụp có thể lưu lại những hình ảnh đậm còn tỷ trọng của dạ dày và
các tổ chức xung quanh tương đối mềm nên ảnh chụp không rõ nét.
Khi bệnh nhân ăn xong, BaSO4 đã vào tới dạ dày thì tiến hành chụp X
quang bởi vì BaSO4 ngăn cản tia X rất tốt. Từ đó Thầy thuốc có thể chẩn đoán
chính xác tình trạng dạ dày.
Vận dụng: Giáo viên có thể đưa vào phần bài giảng “Muối sunfat” ( Tiết
56 lớp 10- CB hoặc tiết 73-lớp 10 nâng cao ) khi kể cho học sinh biết thêm
một số ứng dụng của muối sunfat.
21. Vì sao để ngỏ bình axit sunfuric đặc, khối lượng sẽ ngày càng tăng?

Nếu bạn mua 1 kg axit sunfuric đặc, để ngỏ bình và mang về nhà, cân
lại bạn sẽ thấy không phải chỉ có 1kg mà lớn hơn 1kg. Thế liệu có phải cân sai
không? Không phải. Đó là do trên đường về, axit sunfuric đã ăn mảnh.
Axit sunfuric đặc giống như một bãi xa mạc khô hạn, nó có tính háo
nước, rất rễ hấp thụ nước. Nó đã dùng bàn tay vô hình của mình để tóm lấy hơi
nước trong không khí. Vì vậy khối lượng của axit tự nhiên sẽ tăng lên :
H2SO4 + n H2O → H2SO4 . n H2O
21


Vận dụng: Đây là một tính chất hóa học quan trọng của axit sunfuric
đặc, đó là tính hóa nước. Giáo viên có thể nêu vấn đề trên khi dạy về tính háo
nước của axit sunfuric đặc trong bài axit sunfuric ( Tiết 55-56 lớp 10 CB hoặc
tiết 72, 73-lớp 10 nâng cao ).


II. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.
Từng có câu: "Ngọc không mài không sáng, người không học không hiểu
lí lẽ", việc học có ảnh hưởng rất lớn đến tương lai của mỗi người. Một con
người nếu không được học tập thì khó mà đứng vững trên con đường đời. Bởi
thế mà, từ xưa ông cha ta luôn nhắc nhở con cháu phải cố gắng học hành, phấn
đấu rèn luyện thật tốt vì " Biển học là vô bờ"
Thực tế giảng dạy cho thấy: Môn hoá học trong trường phổ thông là một
trong những môn học khó, là một môn có ảnh hưởng không nhỏ đến môi
trường sống, học tập và làm việc. Nhiều em học sinh nhất là các em học sinh
lớp 10 mới vào THPT có tâm lí sợ học môn hóa học, chán nản, có ý thức ỷ lại,
nếu có học chẳng qua chỉ để đối phó với các thầy, các cô hoặc chỉ dùng để
kiểm tra, thi cử, coi môn hóa là môn phụ. Kỹ năng vận dụng kiến thức hóa lớp
10 vào thực tế, bảo vệ môi trường, giải thích các hiện tượng xảy ra xung quanh
còn rất hạn chế. Do vậy, nếu giáo viên không có những bài giảng và phương
pháp giảng dạy hợp lý, phù hợp thì sẽ trở thành người truyền thụ tri thức một
chiều, dễ làm cho học sinh thụ động trong việc tiếp thu kiến thức, có thể có
hiện tượng một số bộ phận học sinh không muốn học hoá học hoặc lạnh nhạt
với giá trị thực tiễn của hoá học. Bên cạng đó, trong đề thi THPT quốc gia , đề
thi học sinh giỏi tỉnh luôn có 1 hoặc 2 câu liên quan đến các vấn đề của cuộc
sống và thực tiễn.
Vì thế, việc đưa các vấn đề thực tiễn vào bài học một phần giúp học sinh
học tập say mê, hứng thú và yêu thích môn hoá hơn đồng thời qua đó giúp học
sinh có cách nhìn nhận đúng về hóa học - Môn học có liên quan đến cuộc sống
là cần thiết. Từ đó phát huy tốt các năng lực tư duy của học sinh . Vì vậy, tôi
đã viết đề tài :" Gây hứng thú học tập và phát triển trí tuệ cho học sinh qua các
bài tập hoá học lớp 10 liên quan đến thực tiễn"

III. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề.
" Gây hứng thú học tập và phát triển trí tuệ cho học sinh qua các bài tập hoá

học lớp 10 liên quan đến thực tiễn" bằng cách giáo viên lồng ghép, đan xen
các hiện tượng xảy ra trong tự nhiên, trong cuộc sống hàng ngày vào mỗi bài
học, mỗi tiết học cụ thể để cho học sinh tìm cách giải thích khi thay cho lời
giới thiệu vào bài dạy mới (đặt vấn đề), khi kết thúc bài dạy hoặc khi đang dạy.
Những vấn đề của thực tiễn, của cuộc sống đặt ra luôn buộc học sinh phải suy
nghĩ và tìm cách trả lời sẽ đem lại nhiều hứng thú cho học sinh vì họ thấy rằng,
các kiến thức sẽ rất hữu ích cho đời sống chứ không phải chỉ dùng để kiểm tra,
thi cử. Khi đó, việc học tập thực sự có hiệu quả, khi kiến thức thu được trong
22


quá trình học tập học sinh có thể tự mình giải quyết được những vấn đề mình
chưa bao giờ được học.
Bên cạnh đó, để học sinh hứng thú hơn trong học tập, giáo viên có thể sử
dụng các phương tiện trực quan như: Tranh ảnh, máy chiếu, làm thí nghiệm,
mô hình, các phương trình hóa học, các bài toán hóa có nội dung thực tiễn, các
câu thơ, câu chuyện, bài hát… Tùy thuộc vào điều kiện của từng trường, từng
lớp học, từng đối tượng học sinh mà giáo viên có những cách dạy học, phương
pháp và biện pháp sử dụng cũng khác nhau. Khi giải thích các bài tập hóa có
nội dung liên quan đến thực tiễn phải giải thích một cách ngắn gọn, dễ hiểu,
hài hước, đảm bảo kiến thức liên quan và phù hợp với từng đối tượng học sinh
làm cho học sinh thích, yêu và hứng thú với môn hóa hơn.

IV. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm .
" Gây hứng thú học tập và phát triển tri tuệ cho học sinh qua các bài tập
hoá học lớp 10 liên quan đến thực tiễn" có tác dụng rất lớn và mang lại hiệu
quả rất cao trong quá trình học tập của học sinh và giảng dạy, giáo dục của
giáo viên.
Trong năm học 2017 – 2018 này tôi được giao nhiệm vụ giảng dạy 3 lớp
khối 10 là 10A(học nâng cao), 10E và 10G (học cơ bản với chất lượng đầu vào

thấp) và tôi đã trực tiếp áp dụng đề tài vào 3 lớp này. Kết quả cụ thể ở học kì I
của 3 lớp như sau:
Kết
LỚP
MỨC ĐỘ
Quả
Trung
Giỏi
Khá
bình
Yếu
Kém
Thường xuyên
10 A áp dụng
53,33 % 40,0% 6,670%
0
0
10 G Có áp dụng
4,88% 19,41% 53,86%
19,41% 2,44
5,72
10 E rất ít áp dụng
0%
17,14% 51,43%
25,71%
Như vậy:
- Với học sinh: + Đối với những lớp học mà giáo viên thường xuyên đặt
các câu hỏi có nội kiến thức liên quan đến thực tiễn trong các bài học cụ thể
thì hầu hết các em rất chú ý lắng nghe, hăng say phát biểu ý kiến và sôi nổi
trao đổi, thảo luận... để xây dựng bài mới trên lớp, niềm hứng thú, say mê

trong học tập được thể hiện rõ trên gương mặt các em . Các em luôn có ý thức
tự suy nghĩ, tự tìm hiểu hoặc trao đổi với bạn bè để tìm ra câu trả lời, về nhà
các em chăm học bài hơn, thậm chí có những học sinh về nhà đã biết tự quan
sát, tái tạo lại các hiện tượng thực tế và vận dụng kiến thức hóa học để giải
thích. Khi tìm được lời giải đáp thì niềm vui và hứng thú học tập của học sinh
được tăng cường , khả năng tư duy lôgic, tư duy sáng tạo trong học tập được
tiến bộ rõ rệt, học sinh yêu và thích môn hoá hơn. Đặc biệt, là học sinh khá
giỏi.
+ Đối với những lớp học mà giáo viên ít đặt ra các câu hỏi có nội dung
kiến thức liên quan đến thực tế thì sự sôi nổi trong học tập, sự tranh luận để
nắm bắt kiến thức của học sinh yếu hơn, một số em thấy khó, chán nản, có ý
23


thức ỷ lại, đồng thời những tiết học đó tôi cũng cảm thấy khô khan hơn, nhìn
gương mặt các em học chẳng qua chỉ cố gắng học để thi , để kiểm tra hoặc để
đối phó với các thầy,các cô. Bản thân các em không thấy được tầm quan trọng
của môn hóa học - " Môn học liên quan đến cuộc sống".
- Với giáo viên: Đề tài có tác dụng nâng cao chất lượng và hiệu quả giảng
dạy các tiết học, bản thân giáo viên phải thường xuyên học tập và đổi mới
phương pháp giảng dạy. Qua đó, giáo dục học sinh ý thức bảo vệ cuộc sống và
môi trường xung quanh, khai thác được các năng lực trí tuệ học sinh, rèn luyện
cho học sinh khả năng tự học, chủ động, sáng tạo trong quá trình học tập và
làm chủ cuộc sống. Từ đó, các em học tập say mê, hứng thú và yêu thích môn
hoá hơn…
C. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
I. Kết luận:
Trong quá trình thực hiện đề tài ở trường THPT Tống Duy Tân tôi nhận
thấy: Để có những tiết dạy đạt hiệu quả cao nhất từ đó gây hứng thú học tập và
phát triển trí tụệ cho học sinh qua các bài tập hóa học liên quan đến thực tiễn

luôn là niềm trăn trở, suy nghĩ là mục đích hướng tới của từng người giáo viên
dạy hóa có lương tâm, có trách nhiệm và yêu nghề. Người thầy dạy hóa luôn
thắp lên "ngọn lửa tri thức" soi sáng, dẫn đường cho các em để các em có thể
khám phá, lĩnh hội và chiếm lĩnh được tri thức từ sách vở cho đến cuộc sống
hàng ngày, dùng kiến thức có được để vận dụng giải thích các hiện tượng đó…
Từ đó, học sinh hiểu được hóa học là một môn khoa học vừa lí thuyết, vừa
thực nghiệm, là môn học liên quan đến cuộc sống, đến thực tiễn.
II. Kiến nghị:
1 - Với giáo viên: Thường xuyên tự học, tự nghiên cứu kiến thức và phương
pháp giảng dạy để nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ. Biết khai thác
các năng lực tư duy tiềm ẩn của học sinh thông qua các bài tập hóa học liên
quan đến thực tiễn. Đánh giá học sinh chính xác, công bằng và phân loại được
học sinh trong quá trình học tập để từ đó điều chỉnh phương pháp dạy học cho
phù hợp với trình độ nhận thức của các em, giúp cho niềm hứng thú, say mê
trong học tập của học sinh càng được phát huy.
2 - Với nhà trường: Tăng cường cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ cho
môn hóa học. Có phòng học và tủ sách tham khảo riêng để giáo viên và học
sinh có thể trao đổi kiến thức và phương pháp giải bài tập hóa. Có phòng bộ
môn riêng để các giáo viên hóa có thể trao đổi riêng về chuyên môn và nghiệp
vụ.
Do năng lực có hạn, đề tài có thể còn có những vấn đề thực tiễn ở lớp 10 mà
cá nhân chưa đề cập đến, chưa liệt kê hết được ở mỗi bài học cụ thể, các ví dụ
đưa ra trong đề tài còn ít . Tuy nhiên, tôi cũng mạnh dạn viết và giới thiệu với
các thầy cô và học sinh được biết . Dù đã rất cố gắng, bài viết vẫn không tránh
khỏi những sai sót, rất mong sự đóng góp ý kiến quý báu của cán bộ quản lý
chuyên môn và đồng nghiệp bổ sung cho đề tài để đề tài này thực sự góp phần
giúp cho việc giảng dạy và học tập môn hóa trong nhà trường phổ thông ngày
24



càng tốt hơn, các em học sinh thích và yêu môn hoá nhiều hơn, là cơ sở để tôi
tiếp tục nghiên cứu, phát triển và mở rộng đề tài cho các khối 11 và khối 12.
Tôi xin chân thành cảm ơn !
XÁC NHẬN CỦA HIỆU
Thanh Hóa, ngày 28 tháng 05 năm 2018
TRƯỞNG
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình
viết, không sao chép nội dung của người
khác.
Người viết sáng kiến

Hà Thị Thường
D. TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] . SÁCH GIÁO KHOA VÀ SÁCH BÀI TẬP HÓA HỌC 10,11,12
( Nhà xuất bản Giáo Dục)
[2] . PHÂN PHỐI CHƯƠNG TRÌNH HÓA HỌC 10,11,12
( Vụ trung học phổ thông)
[3] . SÁCH GIÁO VIÊN HÓA HỌC 10,11,12
( Nhà xuất bản Giáo dục)
[4]. CÁC ĐỀ THI ĐẠI HỌC VÀ CAO ĐẲNG CÁC NĂM TỪ 2007-2017
CỦA BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO.
[5]. CHÌA KHÓA VÀNG HÓA HỌC.
(Người dịch: Từ Văn Mặc và Trần Thi Ái; NXB Đại Học Quốc Gia Hà Nội
năm 2002)
[6]. HÓA HỌC THẬT DIỆU KỲ ( Tập 1)
Vũ Bội Tuyền ( Chủ biên); NXB Thanh Niên 2001
[7]. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ ĐỔI MỚI GIÁO DỤC THPT MÔN
HOÁ HỌC (Nhà xuất bản giáo dục)
[8]. PHƯƠNG PHÁP VÀ KĨ THUẬT TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG HỌC THEO
NHÓM VÀ HƯỚNG DẪN HỌC SINH TỰ HỌC. ( Bộ giáo dục và đào tạo)

[9]. BÀI TẬP LÍ THUYẾT VÀ THỰC NGHIỆM HÓA HỌC.
( Cao Cự Giác - Nhà xuất bản giáo dục)
[10]. CÁC TRANH ẢNH VÀ MỘT SỐ KIẾN THỨC LIÊN QUAN ĐƯỢC
THAM KHẢO THÊM TRÊN INTERNET - GOOGLE.
[11]. CÁC SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM CỦA BẢN THÂN ĐƯỢC HỘI
ĐỒNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM NGÀNH GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TỈNH XẾP LOẠI C TRỞ LÊN:
ST
T

TÊN ĐỀ TÀI SKKN

CẤP ĐÁNH KẾT QUẢ NĂM ĐÁNH
GIÁ
XẾP XẾP
GIÁ VÀ XẾP
LOẠI
LOẠI
LOẠI

Gây hứng thú học tập
25


×