Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

SKKN phương pháp sử dụng đồ dùng trực quan nhằm nâng cao hiệu quả trong dạy học lịch sử và vận dụng vào dạy bài 21

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (545 KB, 20 trang )

MỤC LỤC
PHẦN
TRANG
1. MỞ ĐẦU……………………………………………………………….
2
1.1. Lí do chọn đề tài………………………………………………..
2
1.2. Mục đích nghiên cứu………………………………………...…
3
1.3. Đối tượng nghiên cứu……………………………………….….
3
1.4. Phương pháp nghiên cứu……………………………..……...…
3
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM…………………………
4
2.1. Cơ sở lí luận …………………………………………..……….
4
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm ….
4
2.3. Các giải pháp…………………………………….……………...
5
2.3.1. Vị trí và ý nghĩa của đồ dùng trực quan trong dạy học Lịch
sử………..…………………………..………………………………….…
5
2.3.2. Các loại đồ dùng trực quan trong dạy học Lịch sử…………..
5
2.3.3. Các bước tiến hành sử dụng đồ dùng trực quan………...…....
5
2.3.4. Những lưu ý khi sử dụng đồ dùng trực quan ……….…….…
5
2.3.5. Sử dụng đồ dùng trực quan trong bài 21: Phong trào yêu nước


chống Pháp của nhân dân Việt Nam trong những năm cuối thế kỉ XIX …
5
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo
dục, với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường ……….…………………...
17
3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ…………………………………………….
19
3.1. Kết luận…………………………………..……………….…….
19
3.2. Kiến nghị………………………………..…………………..…..
19
TÀI LIỆU THAM KHẢO……………………………………………….
20

1


1. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài:
Ngành giáo dục đang từng bước đổi mới, tập trung vào đổi mới phương
pháp dạy học nhằm thực hiện được mục tiêu giáo dục hiện nay là giáo dục con
người Việt Nam phát triển toàn diện.
Môn Lịch sử đóng vai trò quan trọng trong việc đào tạo con người Việt
Nam phát triển toàn diện. Trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay, những chủ
nhân tương lai của đất nước cần trang bị cho mình đầy đủ những kiến thức, kỹ
năng, đặc biệt kiến thức về Lịch sử dân tộc, Lịch sử thế giới là hết sức cần thiết.
Tuy nhiên trong những năm gần đây chúng ta thấy có những nhận thức sai
lệch về vị trí, chức năng của bộ môn Lịch sử trong đời sống xã hội. Một thực
trạng đáng buồn diễn ra đó là đa số học sinh chỉ tập trung vào những môn tự
nhiên, coi nhẹ những môn xã hội trong đó có môn Lịch sử. Có nhiều nguyên

nhân nhưng chủ yếu là do nhu cần thực tế về việc lựa chọn ngành nghề, lợi ích
công việc, cuộc sống, …; do phương pháp truyền thụ của người dạy chưa tạo
được hứng thú cho học sinh.
Vì vậy nhiệm vụ của giáo viên là ngoài cung cấp kiến thức cho học sinh,
còn phải có phương pháp đúng đắn để giúp học sinh thêm yêu Lịch sử.
Có ai đã từng thắc mắc: Tại sao lứa tuổi thanh thiếu niên rất ham mê
truyện tranh? Ngoài nội dung truyện cuốn hút còn phải kể đến đó là hình ảnh.
Chính những hình ảnh đã giúp cho truyện thêm sinh động, in dấu ấn trong tâm
trí các em.
Trong học tập cũng vậy, việc sử dụng đồ dùng trực quan giúp tiết học sinh
động hơn, học sinh hình dung được tốt hơn, giúp cụ thể hóa kiến thức.
Môn Lịch sử không giống với các môn học như Vật lí, Hóa học có thể
làm thí nghiệm trực tiếp. Vì vậy, để các em hình dung tốt hơn về những gì đã
diễn ra trong quá khứ thì ngoài ngôn ngữ của giáo viên, đồ dùng trực quan đóng
một vai trò quan trọng.
Do đặc trưng của nhận thức Lịch sử, việc “trực quan sinh động” trong dạy
học Lịch sử được xây dựng trên cơ sở các sự kiện khoa học, cơ bản, tạo biểu
tượng chân xác, có hình ảnh về quá khứ đang học. Tạo biểu tượng để tái tạo
hình ảnh lịch sử, khôi phục bức tranh về những sự kiện, nhân vật đã qua là yêu
cầu cần thiết đầu tiên của học tập Lịch sử. Chỉ trên cơ sở biểu tượng mới hình
thành được khái niệm và như vậy mới hiểu biết Lịch sử một cách khoa học. Một
biện pháp quan trọng để tạo biểu tượng Lịch sử là sử dụng đồ dùng trực quan.
Đồ dùng trực quan trong dạy học Lịch sử góp phần không nhỏ vào tạo
biểu tượng, hình thành khái niệm, phát triển tư duy, cung cấp kiến thức bồi
dưỡng tình cảm, nâng cao nhận thức lịch sử, khả năng thực hành.
Bản thân tôi qua nhiều năm đứng lớp giảng dạy, tôi nhận thấy sử dụng đồ
dùng trực quan trong dạy học giúp tiết học sinh động, học sinh hứng thú trong
học tập, hiểu bài nhanh và nhớ kiến thức lâu, đồng thời phát triển được khả năng
tư duy, phân tích, đánh giá, nhận xét và bồi dưỡng được tư tưởng cần thiết của
bài học.

2


Tuy nhiên sử dụng đồ dùng trực quan như thế nào để mang lại hiệu quả
tốt nhất thì phải có phương pháp đúng đắn. Điều này thì không phải giáo viên
nào cũng có hiểu biết sâu sắc.
Trong dạy học bộ môn Lịch sử nói chung cần phải sử dụng đồ dùng trực
quan, đặc biệt bài 21 – Lịch sử lớp 11 ban cơ bản là bài cần phải sử dụng nhiều
đồ dùng trực quan và những đồ dùng trực quan đó gắn liền với đời sống hiện tại.
Vì vậy tôi chọn đề tài “Phương pháp sử dụng đồ dùng trực quan nhằm
nâng cao hiệu quả trong dạy học Lịch sử và vận dụng vào dạy bài 21: Phong
trào yêu nước chống Pháp của nhân dân Việt Nam trong những năm cuối thế
kỉ XIX” - Lịch sử 11 ban cơ bản.
1.2. Mục đích nghiên cứu:
Mục đích nghiên cứu của đề tài là nghiên cứu các phương pháp sử dụng đồ
dùng trực quan trong dạy bài 21: Phong trào yêu nước chống Pháp của nhân dân
Việt Nam trong những năm cuối thế kỉ XIX – Lịch sử lớp 11 ban cơ bản, nhằm
làm cho tiết học nhẹ nhàng, sinh động, học sinh lĩnh hội được kiến thức tốt hơn,
rèn luyện được kĩ năng cần thiết, có tinh thần, thái độ phù hợp với nội dung bài
học, có hứng thú học tập hơn.
1.3. Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các phương pháp sử dụng đồ dùng trực
quan trong dạy bài 21: Phong trào yêu nước chống Pháp của nhân dân Việt Nam
trong những năm cuối thế kỉ XIX – Lịch sử lớp 11 ban cơ bản.
1.4. Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lý thuyết: Phân tích, tổng hợp,
hệ thống hóa, khái quát hóa nguồn tài liệu có liên quan đến vấn đề nghiên cứu.
- Phương pháp điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin: Thông qua dự
giờ để thu thập thông tin liên quan đến việc sử dụng đồ dùng trực quan.
- Phương pháp thống kê, xử lí số liệu: Sử dụng phương pháp này để xử lý

kết quả thu thập được phục vụ cho quá trình nghiên cứu.

3


2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm:
Dạy học trực quan (hay còn gọi là trình bày trực quan) là phương pháp
dạy học sử dụng những phương tiện trực quan, phương tiện kĩ thuật dạy học
trước, trong và sau khi nắm tài liệu mới, khi ôn tập, khi củng cố, hệ thống hóa và
kiểm tra tri thức, kĩ năng, kĩ xảo.
Trực quan là một trong những nguyên tắc cơ bản của lí luận dạy học nhằm
tạo cho học sinh những biểu tượng và hình thành các khái niệm trên cơ sở trực
tiếp quan sát hiện vật đang học hay đồ dùng trực quan minh họa sự vật. Đồ dùng
trực quan là chỗ dựa để hiểu sâu sắc bản chất kiến thức, là phương tiện có hiệu
lực để hình thành các khái niệm, giúp học sinh nắm vững các quy luật của sự
phát triển xã hội.
Đồ dùng trực quan có vai trò rất lớn trong việc giúp học sinh nhớ kĩ, hiểu
sâu những hình ảnh, những kiến thức lịch sử. Vì vậy, cùng với việc góp phần tạo
biểu tượng và hình thành khái niệm lịch sử, đồ dùng trực quan còn phát triển khả
năng quan sát, trí tưởng tượng, tư duy và ngôn ngữ của học sinh. Đây là phương
pháp không thể thiếu trong dạy học Lịch sử.
Đồ dùng trực quan trong dạy học không chỉ có tác dụng giúp học sinh tiếp
thu kiến thức nhanh hơn, hiệu quả hơn mà còn có tác dụng giáo dưỡng và rèn
luyện kĩ năng cho học sinh. Vì vậy sử dụng đồ dùng trực quan trong dạy học góp
phần nâng cao chất lượng dạy học bộ môn nói chung và chất lượng giáo dục của
nhà trường nói chung.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm:
Xu thế chung của các em học sinh hiện nay là tập trung vào học những
môn tự nhiên còn những môn xã hội các em không chú trọng lắm. Chính tâm lí

học tập của các em đã ảnh hưởng không nhỏ đến một bộ phận giáo viên dạy các
môn xã hội.
Một số giáo viên cho rằng các em không chú trọng học môn xã hội thì
cũng lên lớp dạy qua loa cho hết bài, hết giờ. Vì vậy mà học sinh đã không có
hứng thú nhiều lại càng thêm chán học các môn xã hội, trong đó có môn Lịch
sử.
Bên cạnh đó, vẫn còn nhiều giáo viên tâm huyết muốn truyền lửa cho học
sinh qua các bài học, giúp các em thêm yêu Lịch sử, có hiểu biết về Lịch sử dân
tộc và Lịch sử thế giới là hành trang để các em tiếp tục học lên những bậc cao
hơn. Nhiều giáo viên đã sử dụng nhiều phương pháp khác nhau trong đó có
phương pháp sử dụng đồ dùng trực quan.
Tuy nhiên, không phải giáo viên nào cũng có phương pháp tốt để sử dụng
đồ dùng trực quan có hiệu quả.
Nhiều giáo viên có chuẩn bị đồ dùng trực quan nhưng khi sử dụng chưa
hợp lí dẫn đến hiệu quả tiết học không cao, học sinh chỉ xem những đồ dùng
trực quan đó có tính chất giải trí, làm thay đổi không khí tiết học trong chốc lát
chứ không khai thác hết được giá trị của đồ dùng trực quan đó.

4


2.3. Các giải pháp:
2.3.1. Vị trí và ý nghĩa của đồ dùng trực quan trong dạy học Lịch sử:
Trong dạy học Lịch sử, phương pháp trực quan góp phần quan trọng tạo
biểu tượng cho học sinh, cụ thể hóa các sự kiện và khắc phục tình trạng hiện đại
hóa Lịch sử của học sinh.
Đồ dùng trực quan có vai trò rất lớn trong việc giúp nhớ lâu, hiểu sâu hình
ảnh, những kiến thức Lịch sử. Phát triển khả năng quan sát, trí tưởng tượng, tư
duy và ngôn ngữ của học sinh. Nhìn vào bất cứ loại đồ dùng trực quan nào, học
sinh cũng thích nhận xét, phán đoán hình dung quá khứ Lịch sử được phản ánh,

minh họa như thế nào.
Có thể nói, đồ dùng trực quan góp phần to lớn nâng cao chất lượng dạy
học Lịch sử, gây hứng thú học tập cho học sinh. Là chiếc “cầu nối” giữa quá
khứ với hiện tại.
2.3.2 Các loại đồ dùng trực quan trong dạy học Lịch sử:
a. Loại đồ dùng trực quan hiện vật: Bao gồm những di tích lịch sử và cách
mạng (thành nhà Hồ, hang Pắc Bó, …), những di vật khảo cổ và di vật thuộc các
thời đại lịch sử (công cụ đồ đá, trống đồng Đông Sơn, …)
b. Loại đồ dùng trực quan tạo hình: Gồm mô hình, sa bàn và các đồ dùng
phục chế, hình vẽ, phim, ảnh lịch sử
c. Đồ dùng trực quan quy ước: Gồm bản đồ lịch sử, đồ thị, sơ đồ, niên
biểu …
2.3.3. Các bước tiến hành sử dụng đồ dùng trực quan:
Bước 1: Giáo viên giới thiệu đồ dùng trực quan và cho học sinh quan sát.
Bước 2: Giáo viên đặt câu hỏi nêu vấn đề, tổ chức hướng dẫn học sinh tìm
hiểu về đồ dùng trực quan đó.
Bước 3: Giáo viên nhận xét học sinh trả lời, hoàn thiện nội dung khai thác
đồ dùng trực quan.
2.3.4. Những lưu ý khi sử dụng đồ dùng trực quan:
- Phải căn cứ vào nội dung, mục tiêu của bài học để lựa chọn đồ dùng trực
quan tương ứng thích hợp.
- Giáo viên phải xác định được thời điểm sử dụng đồ dùng trực quan.
- Đồ dùng trực quan phải phù hợp với nội dung kiến thức cần tìm hiểu.
- Phải đảm bảo được sự quan sát đầy đủ đồ dùng trực quan của học sinh.
- Có phương pháp thích hợp đối với việc sử dụng mỗi loại đồ dùng trực quan.
2.3.5. Sử dụng đồ dùng trực quan trong bài 21: Phong trào yêu nước
chống Pháp của nhân dân Việt Nam trong những năm cuối thế kỉ XIX –
Lịch sử lớp 11 ban cơ bản
Mục I. Phong trào Cần vương bùng nổ
Khi giảng về mục này giáo viên có thể sử dụng các hình ảnh sau: Tranh

vua Hàm Nghi, tranh Tôn Thất Thuyết, lược đồ những địa điểm diễn ra các cuộc
khởi nghĩa trong phong trào Cần vương (1885 – 1896).
* Đối với hình ảnh vua Hàm Nghi
Thời điểm sử dụng: Khi giáo viên giảng về vua Hàm Nghi
Các bước tiến hành:
Bước 1: Giáo viên giới thiệu hình ảnh cho học sinh quan sát
5


Vua Hàm Nghi
Bước 2: Giáo viên đặt câu hỏi nêu vấn đề: Em hãy nêu hiểu biết của em
về vua Hàm nghi?
Bước 3: Giáo viên nhận xét học sinh trả lời và hoàn thiện nội dung khai
thác:
Vua Hàm nghi tên thật Nguyễn Phúc Ưng Lịch. Năm 1884 Hàm Nghi
được các phụ chính đại thần Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết đưa lên
ngôi ở tuổi 13.
Sau khi cuộc phản công tại kinh thành Huế thất bại năm 1885, Tôn Thất
Thuyết đưa ông ra ngoài và phát chiếu Cần Vương chống thực dân Pháp.
Nhân danh ông, Tôn Thất Thuyết đã phát động phong trào Cần Vương,
kêu gọi văn thân, nghĩa sĩ giúp vua, giúp nước. Phong trào này kéo dài đến
năm 1888 thì Hàm Nghi bị bắt. Sau đó, ông bị đem an trí ở Alger (thủ
đô xứ Algérie) và qua đời tại đây năm 1943.
Tác dụng: Qua bức ảnh trên cùng với kiến thức giáo viên giảng về vua
Hàm nghi giúp học sinh thấy được lòng yêu nước, vượt khó vượt khổ mong
muốn khôi phục độc lập đất nước, tinh thần bất khất của vua Hàm Nghi, bồi
dưỡng thêm lòng yêu nước, nghị lực vươn lên trong cuộc sống cho học sinh.
* Đối với hình ảnh: Tôn Thất Thuyết
Thời điểm sử dụng: Khi giáo viên giảng về Tôn Thất Thuyết
Các bước tiến hành:

Bước 1: Giáo viên giới thiệu hình ảnh cho học sinh quan sát

6


TÔN THẤT THUYẾT
Bước 2: Giáo viên đặt câu hỏi nêu vấn đề: Em hãy cho biết hiểu biết của
em về Tôn Thất Thuyết?
Bước 3: Giáo viên nhận xét học sinh trả lời và hoàn thiện nội dung khai
thác:
Tôn Thất Thuyết sinh năm 1835, quê ở Xuân Long, thành phố Huế, tỉnh
Thừa Thiên Huế. Ông xuất thân võ tướng, năm 1873 giúp Hoàng Kế Viên và
Lưu Vĩnh Phúc đánh thắng trận Cầu Giấy. Năm 1875, trong chiến thắng ở Tây
Sơn, ông bắt sống tướng giặc Cờ Vàng được phong làm Hữu Tham tri bộ
Binh. Năm 1881, ông làm Thượng thư bộ Binh. Sau khi vua Tự Đức mất ông
làm phụ chính đại thần.
Đêm 4 – 7 – 1885, ông truyền lệnh tấn công doanh trại Pháp và tòa
khâm sứ Pháp nhưng bị thất bại, ông đưa vua Hàm Nghi rời khỏi Hoàng
Thành, phát động phong trào Cần Vương kháng Pháp cứu nước.
Năm 1888, vua Hàm Nghi bị Pháp bắt, ông sang Trung Quốc với ý định
cầu viện nhưng không thành. Ông mất năm 1913 ở Trung Quốc.
Tác dụng: Qua bức ảnh trên cùng với kiến thức giáo viên giảng, học sinh
thấy được lòng yêu nước, nhiệt huyết của Tôn Thất Thuyết, mong muốn khôi
phục lại độc lập của đất nước
* Đối với Lược đồ những địa điểm diễn ra các cuộc khởi nghĩa trong
phong trào Cần Vương (1885 – 1896)
Thời điểm sử dụng: Khi giáo viên giảng về các giai đoạn phát triển của
phong trào Cần Vương.
Các bước tiến hành:
Bước 1: Giáo viên giới thiệu lược đồ cho học sinh quan sát

7


Lược đồ những địa điểm diễn ra các cuộc khởi nghĩa
trong phong trào Cần Vương (1885 – 1896)
Bước 2: Giáo viên đặt câu hỏi nêu vấn đề: Em hãy quan sát lược đồ và
tóm lược diễn biến 2 giai đoạn của phong trào Cần vương chống Pháp cuối thế
kỉ XIX?
Bước 3: Giáo viên nhận xét học sinh trả lời và hoàn thiện nội dung khai
thác:
Phong trào Cần vương chống Pháp cuối thế kỉ XIX phát triển qua hai giai
đoạn:
- Từ năm 1885 đến năm 1888. Thời gian này phong trào đặt dưới sự chỉ
huy của vua Hàm nghi và Tôn Thất Thuyết với hàng trăm cuộc khởi nghĩa lớn
nhỏ nổ ra trên phạm vi rộng lớn, nhất là ở Bắc Kì và Trung Kì. Năm 1888, vua
Hàm nghi bị Pháp bắt. Phong trào chuyển sang một giai đoạn mới.
- Từ năm 1888 đến năm 1896. Ở giai đoạn này không còn sự chỉ đạo của
vua Hàm nghi và Tôn Thất Thuyết nhưng phong trào vẫn tiếp tục phát triển, quy
tụ dần thành các trung tâm lớn và ngày càng lan rộng. Cuối năm 1895 – đầu năm
1896, khi tiếng súng kháng chiến đã im trên núi Vụ Quang (Hương Khê – Hà
Tĩnh), phong trào Cần Vương chấm dứt.
8


Tác dụng: Qua lược đồ trên giáo viên giúp học sinh thấy được lòng dũng
cảm, tinh thần bất khuất, quyết tâm kháng chiến để khôi phục lại nhà nước độc
lập của nhân dân ta.
Mục II. Một số cuộc khởi nghĩa tiêu biểu trong phong trào Cần Vương và
phong trào đấu tranh tự vệ cuối thế kỉ XIX
Khi giảng mục này, giáo viên có thể sử dụng các đồ dùng trực quan sau:

Lược đồ địa bàn hoạt động của nghĩa quân Bãi Sậy, hình ảnh Nguyễn Thiện
Thuật, lược đồ căn cứ Ba Đình, hình ảnh Phan Đình Phùng, lược đồ khởi nghĩa
Hương Khê, hình ảnh Hoàng Hoa Thám, lược đồ khởi nghĩa Yên Thế.
* Đối với lược đồ địa bàn hoạt động của nghĩa quân Bãi Sậy
Thời điểm sử dụng: Khi giáo viên giảng về khởi nghĩa Bãi Sậy
Các bước tiến hành:
Bước 1: Giáo viên giới lược đồ cho học sinh quan sát

Lược đồ địa bàn hoạt động của nghĩa quân Bãi Sậy
Bước 2: Giáo viên đặt câu hỏi nêu vấn đề: Em hãy quan sát lược đồ và
trình bày về địa bàn hoạt động của nghĩa quân Bãi Sậy?
Bước 3: Giáo viên nhận xét học sinh trả lời và hoàn thiện nội dung khai thác:
Bãi Sậy là vùng lau sậy rậm rạp thuộc các huyện Văn Lâm, Văn Giang,
Khoái Châu, Yên Mĩ của tỉnh Hưng Yên.
Trong những năm 1883 – 1885, tại đây có phong trào kháng Pháp do Đinh
Gia Quế lãnh đạo. Địa bàn hoạt động của nghĩa quân chỉ hạn chế trong vùng Bãi
Sậy. Từ năm 1885, vai trò lãnh đạo thuộc về Nguyễn Thiện Thuật.
Bãi Sậy có vị trí rất trọng yếu, án ngữ những tuyến đường giao thông thủy
bộ quan trọng của vùng tả ngạn sông Hồng.
Ngoài căn cứ Bãi Sậy, nghĩa quân còn xây dựng căn cứ ở Kinh Môn (Hải
Dương) và Hai Sông (Quảng Ninh).
9


Hưởng ứng chiếu Cần vương, nông dân khắp vùng tả ngạn sông Hồng đã
nổi dậy theo Nguyễn Thiện Thuật rất đông
Năm 1888, Pháp huy động một lực lượng quân rất lớn mở cuộc càn quét.
Kết quả cuộc càn quét này gây cho nghĩa quân những tổn thất nghiêm trọng.
Nguyễn Thiện Thuật phải lánh sang Trung Quốc. Năm 1889, Pháp tấn công
quyết liệt căn cứ Hai Sông, trong thế cùng Đốc Tít phải ra hàng. Những tướng

lĩnh còn lại cố duy trì một cuộc khởi nghĩa thêm một thời gian. Đến năm 1892,
họ về với nghĩa quân Đề Thám ở Yên Thế.
Tác dụng: Qua lược đồ trên, học sinh thấy được tinh thần yêu nước của
nhân dân ta nói chung và nhân dân đồng bằng sông Hồng nói riêng, giúp học
sinh thấy được mưu trí của nhân dân ta trong việc chọn địa bàn, căn cứ khởi
nghĩa chống giặc. Cuộc khởi nghĩa này đã để lại nhiều bài học bổ ích, nhất là về
phương thức hoạt động và các hình thức tác chiến (du kích) của nghĩa quân ở
một vùng đồng bằng đất hẹp, người đông.
* Đối với hình ảnh Nguyễn Thiện Thuật
Thời điểm sử dụng: Khi giáo viên giảng về khởi nghĩa Bãi Sậy
Các bước tiến hành:
Bước 1: Giáo viên giới thiệu các hình ảnh cho học sinh quan sát

Nguyễn Thiện Thuật (1844 – 1926)
Bước 2: Giáo viên đặt câu hỏi nêu vấn đề: Em hãy quan sát hình ảnh và
nêu hiểu biết của em về Nguyễn Thiện Thuật?
Bước 3: Giáo viên nhận xét học sinh trả lời và hoàn thiện nội dung khai
thác:
10


Nguyễn Thiện Thuật là một nhà yêu nước, một trong những người lãnh
đạo nổi tiếng trong phong trào Cần vương chống Pháp, quê ở làng Xuân Dục,
Bạch Sam, huyện Mĩ Hào, tỉnh Hưng Yên.
Năm 1852 ông đỗ Tú tài được bổ làm Bang tá ở Hưng Yên. Năm 1871,
ông đậu Cử nhân, làm Tri phủ Từ Sơn, Bắc Ninh. Thời gian này ông cầm quân
tiễu trừ giặc cướp, được phong làm Tán vương quân vụ.
Năm 1885, kinh thành Huế thất thủ, Tôn Thất Thuyết đưa vua Hàm Nghi
rời Hoàng thành xuống chiếu Cần Vương. Nguyễn Thiện Thuật đang lánh ở
Long Châu (Trung Quốc) trở về nước, thành lập căn cứ địa Bãi Sậy, tiếp tục sự

nghiệp của thủ lĩnh Đinh Gia Quế. Vua Hàm Nghi phong cho ông làm Bắc Kỳ
hiệp thống quân vụ đại thần, gia trấn Trung tướng quân, nên nhân dân còn gọi
ông là quan Hiệp Thống. Dưới sự lãnh đạo của Nguyễn Thiện Thuật, khởi nghĩa
Bãi Sậy lan ra khắp tỉnh Hưng Yên và một số tỉnh lân cận như: Hải Dương, Thái
Bình.
Năm 1889, Nguyễn Thiện Thuật phải lánh sang Trung Quốc tìm gặp Tôn
Thất Thuyết bàn cách tăng viện, nhưng việc không thành. Ông mất ở Trung
Quốc năm 1926.
Tác dụng: Qua bức ảnh trên cùng kiến thức giáo viên giảng học sinh hiểu
hơn về Nguyễn Thiện Thuật, về một nhà yêu nước tiêu biểu của nước ta cuối thế
kỉ XIX, là tấm gương cho các em học sinh về ý chí, lòng yêu nước
* Đối với lược đồ căn cứ Ba Đình
Thời điểm sử dụng: Khi giáo viên giảng về khởi nghĩa Ba Đình (1886 –
1887)
Các bước tiến hành:
Bước 1: Giáo viên giới thiệu lược đồ cho học sinh quan sát

Lược đồ căn cứ Ba Đình

11


Bước 2: Giáo viên đặt câu hỏi nêu vấn đề: Em hãy quan sát lược đồ và
cho biết căn cứ Ba Đình có điểm mạnh và điểm yếu gì?
Bước 3: Giáo viên nhận xét học sinh trả lời và hoàn thiện nội dung khai
thác:
Căn cứ Ba Đình là căn cứ chính của khởi nghĩa Ba Đình được xây dựng ơ
ba làng Mậu Thịnh, Thượng Thọ, Mĩ Khê thuộc huyện Nga Sơn, Thanh Hóa, do
Phạm Bành và Đinh Công Tráng chỉ huy.
Nghĩa quân đã xây dựng một căn cứ vững chắc. Bao bọc xung quanh căn

cứ là lũy tre dày đặc và một hệ thống hào rộng, rồi đến lớp thành đất cao đến 3
mét, chân thành rộng từ 8 mét đến 10 mét, trên thành có các lỗ châu mai. Phía
trong thành có hệ thống giao thông hào dùng để vận động và tiếp tế khi chiến
đấu.
Ở những nơi xung yếu đều có công sự vững chắc. Các ngôi đình của ba
làng được biến thành các chốt đóng quân, nối với nhau bằng hệ thống giao thông
hào, có thể hỗ trợ nhau.
Từ Ba Đình, nghĩa quân có thể tỏa đi các nơi, kiểm soát các tuyến giao
thông quan trọng trong vùng, tổ chức phục kích các đoàn xe vận tải của đối
phương đi lại trên con đường Bắc-Nam...Chính vì vậy, mà quân Pháp rất quyết
tâm đánh dẹp.
Điểm mạnh của căn cứ Ba Đình: Ba làng Mậu Thịnh, Thượng Thọ, Mĩ
Khê tạo thành thế chân kiềng, có thể phối hợp hỗ trợ nhau trong chiến đấu. Hệ
thống giao thông thuận lợi, dễ dàng đi lại. Địa thế thuận lợi để xây dựng một
chiến tuyến phòng thủ kiên cố: phía ngoài là ruộng lúa, lũy tre dày, vùng ngập
nước, bên trong là làng xóm, công sự. Là cứ điểm được xây dựng công phu, có
khả năng phòng thủ tốt, đảm bảo cho nghĩa quân có thể tác chiến linh hoạt và
hạn chế đến mức thấp nhất tổn thất có thể xảy ra.
Điểm yếu: căn cứ Ba Đình dễ bị cô lập, khó ứng cứu, không thể sử dụng
cách đánh du kích, chỉ có thể đánh công kiên.
Ngày 6/1/1887, Pháp lại huy động khoảng 2500 quân, dưới sự chỉ huy của
Đại tá Brít – xô tấn công vào Ba Đình. Cuộc chiến đấu diễn ra ác liệt cả hai bên
đều bị thương vong rất nhiều.
Trước sức tấn công áp đảo của địch, đêm 20/1/1887, nghĩa quân đã mở
đường máu rút lên Mã Cao. Sáng ngày 21/1/1887, khi chiếm được căn cứ, thực
dân Pháp điên cuồng đốt phá và sau đó ra lệnh xóa tên ba làng Thượng Thọ,
Mậu Thịnh, Mĩ Khê.
Nghĩa quân phải rút về Ma Cao, cầm cự một thời gian, rồi bị đẩy vào
miền Tây Thanh Hóa và sát nhập vào đội quân của Cầm Bá Thước.
Tác dụng: Qua lược đồ căn cứ Ba Đình giúp các em thấy được lòng yêu

nước của nhân dân ta nói chung và nhân dân Thanh Hóa nói riêng, giúp các em
khâm phục trí thông minh trong việc xây dựng căn cứ kháng chiến chống Pháp;
đồng thời rèn luyện kĩ năng quan sát, miêu tả, phân tích, nhận định đánh giá cho
học sinh.
* Đối với lược đồ khởi nghĩa Hương Khê
Thời điểm sử dụng: Khi giáo viên giảng về khởi nghĩa Hương Khê (1885 –
1896)
12


Các bước tiến hành:
Bước 1: Giáo viên giới thiệu lược đồ cho học sinh quan sát

Lược đồ khởi nghĩa Hương Khê
Bước 2: Giáo viên đặt câu hỏi nêu vấn đề: Em hãy quan sát lược đồ và
cho biết khởi nghĩa Hương Khê diễn ra ở những tỉnh nào?
Bước 3: Học sinh quan sát lược đồ và trả lời.
Bước 4: Giáo viên nhận xét học sinh trả lời và hoàn thiện nội dung khai
thác:
Địa bàn hoạt động của nghĩa quân bao gồm bốn tỉnh: Thanh Hóa, Nghệ
An, Hà Tĩnh, Quảng Bình; với địa bàn chính là Hương Khê (Hà Tĩnh), tồn tại
suốt 10 năm liên tục.
Ở bốn tỉnh này, Phan Đình Phùng đã chia địa bàn thành 15 quân thứ, đồng
thời dựa vào địa thế rừng núi hiểm yếu, ông cho xây dựng lực lượng và cơ sở
chiến đấu chính nằm ở hai huyện Hương Sơn và Hương Khê (Hà Tĩnh).
Nghĩa quân Hương Khê dựa vào địa thế núi rừng hiểm trở với hệ thống
công sự chằng chịt để tiến hành chiến tranh du kích. Nghĩa quân luôn phân tán
hoạt động, đánh quân Pháp bằng nhiều hình thức, như: công đồn, chặn đường
tiếp tế, dùng cạm bẫy, và dụ đối phương ra ngoài đồn để diệt họ..
Khởi nghĩa Hương Khê chia làm hai giai đoạn:

- Từ năm 1885 đến năm 1888, giai đoạn chuẩn bị lực lượng, xây dựng cơ
sở chiến đấu của nghĩa quân.
- Từ năm 1888 đến năm 1896, nghĩa quân bước vào giai đoạn chiến đấu
quyết liệt.
13


Năm 1895, trong một trận ác chiến, Phan Đình Phùng bị thương nặng và
hi sinh. Đến năm 1896, những thủ lĩnh cuối cùng của cuộc khởi nghĩa lần lượt
rơi vào tay Pháp. Cuộc khởi nghĩa Hương Khê sau hơn 10 năm tồn tại đến đây
kết thúc. Đây là cuộc khởi nghĩa tiêu biểu nhất trong phong trào Cần Vương
chống Pháp cuối thế kỉ XIX.
Tác dụng:
Qua quan sát lược đồ kết hợp với kiến thức giáo viên giảng, học sinh nắm
được nét chính của khởi nghĩa Hương Khê, thấy được lòng dũng cảm, kiên
cường của nhân dân ta, quyết tâm đấu tranh để khôi phục nhà nước độc lập,
hiểu được đây là cuộc khởi nghĩa tiêu biểu nhất trong phong trào Cần vương;
đồng thời rèn luyện học sinh kĩ năng quan sát lược đồ, phân tích lược đồ.
Đối với hình ảnh Phan Đình Phùng
Thời điểm sử dụng: Khi giáo viên giảng về khởi nghĩa Hương Khê (1885
– 1896)
Các bước tiến hành:
Bước 1: Giáo viên giới thiệu hình ảnh cho học sinh quan sát

PHAN ĐÌNH PHÙNG (1847 – 1895)
Bước 2: Giáo viên đặt câu hỏi nêu vấn đề: Em hãy quan sát hình ảnh Phan
Đình Phùng và nêu những hiểu biết của em về Phan Đình Phùng?
Bước 3: Học sinh quan sát hình ảnh và trả lời.
Bước 4: Giáo viên nhận xét học sinh trả lời và hoàn thiện nội dung khai
thác:

14


Phan Đình Phùng sinh ra và lớn lên tại làng Đông Thái, huyện La Sơn
(nay là xã Tùng Ảnh, huyện Đức Thọ), tỉnh Hà Tĩnh, trong một gia đình nho
học.
Năm 1876, Phan Đình Phùng đỗ Cử nhân. Năm 1877, ông đỗ Tiến sĩ làm
quan dưới triều Tự Đức. Năm 1878, Phan Đình Phùng được về kinh nhậm chức
Ngự sử Đô sát viện.
Năm 1883, ông thẳng thắn lên án Tôn Thất Thuyết về việc tự ý phế lập
vua Dục Đức nên bị đuổi về làng. Tuy nhiên khi vua Hàm Nghi ra Tân Sở xuống
chiếu Cần vương, ông sát cánh cùng Tôn Thất Thuyết tập hợp nghĩa quân kháng
chiến chống Pháp, lập căn cứ lâu dài ở vùng rừng núi Hương Sơn hiểm trở.
Sau ngót 10 năm kiên cường kháng chiến, ông lâm bệnh, mất 1895 tại núi
Quạt.
Tác dụng: Qua bức ảnh trên cùng kiến thức giáo viên giảng học sinh thấy
được một nhà yêu nước, một lãnh tụ của phong trào Cần vương. Bồi dưỡng học
sinh lòng yêu nước, khâm phục lãnh tụ, đồng thời giáo dục học sinh biết đoàn
kết, gạt bỏ hiềm khích cá nhân để chung sức vì đất nước.
* Đối với lược đồ khởi nghĩa Yên Thế
Thời điểm sử dụng: Khi giáo viên giảng về khởi nghĩa Yên Thế
Các bước tiến hành:
Bước 1: Giáo viên giới thiệu lược đồ cho học sinh quan sát

Lược đồ khởi nghĩa Yên Thế
Bước 2: Giáo viên đặt câu hỏi nêu vấn đề: Em hãy quan sát lược đồ và
nêu hiểu biết của em về khởi nghĩa Yên Thế?
Bước 3: Giáo viên nhận xét học sinh trả lời và hoàn thiện nội dung khai
thác:
15



Cuộc khởi nghĩa Yên Thế khởi nguồn tại vùng Yên Thế Thượng. Trước
khi thực dân Pháp đặt chân đến vùng này, nơi đây đã là một vùng đất có một cư
dân phức tạp, chủ yếu là nông dân lưu tán các loại. Họ chọn nơi đây làm nơi cư
trú và đã công khai chống lại triều đình. Khi thực dân Pháp đến bình định vùng
này, các toán vũ trang ở đây có thể cũng chống lại quân Pháp như đã từng chống
lại triều đình nhà Nguyễn trước đó để bảo vệ miền đất tự do của họ.Và vì Yên
Thế là bình địa của Pháp khi chúng mở rộng chiếm đóng Bắc Kì nên họ đã nổi
dậy đấu tranh để bảo vệ cuộc sống của mình.
Cuộc khởi nghĩa Yên Thế chia làm 4 giai đoạn:
- Từ năm 1884 đến năm 1892, nghĩa quân hoạt động riêng lẻ, chưa
có sự phối hợp và chỉ huy thống nhất.
- Từ năm 1893 đến năm 1897, nghĩa quân hai lần đình chiến với
Pháp, xây dựng lại căn cứ Hố Chuối và mở rộng hoạt động ra các vùng Bắc
Ninh, Bắc Giang.
- Từ năm 1898 đến năm 1908, nghĩa quân xây dựng căn cứ Phồn
Xương vững mạnh. Nghĩa quân vừa sản xuất, tự túc lương ăn, vừa tăng cường
sắm sửa vũ khí, luyện tập và lập thêm nhiều đồn khác.
- Từ năm 1909 đến năm 1913, quân Pháp tập trung lực lượng tấn
công căn cứ Yên Thế. Nghĩa quân vừa chống đỡ, vừa chuyển dần sang các vùng
lân cận. Đến 2 – 1913, khi Đề Thám bị sát hại, phong trào tan rã.
Tác dụng: Qua quan sát lược đồ kết hợp với kiến thức giáo viên giảng,
học sinh nắm được nét chính của khởi nghĩa Yên Thế, thấy được lòng dũng cảm,
kiên cường của những người nông dân Yên Thế, quyết tâm đấu tranh để bảo vệ
cuộc sống yên bình của họ; đồng thời rèn luyện học sinh kĩ năng quan sát lược
đồ, phân tích lược đồ.
* Đối với hình ảnh Hoàn Hoa Thám
Thời điểm sử dụng: Khi giáo viên giảng về khởi nghĩa Yên Thế
Các bước tiến hành:

Bước 1: Giáo viên giới thiệu hình ảnh cho học sinh quan sát

Hoàng Hoa Thám
(1858 – 1913)

16


Bước 2: Giáo viên đặt câu hỏi nêu vấn đề: Em hãy quan sát hình ảnh trên
và nêu hiểu biết của em về Hoàng Hoa Thám?
Bước 3: Giáo viên nhận xét học sinh trả lời và hoàn thiện nội dung khai
thác:
Hoàng Hoa Thám lúc trẻ có tên là Trương Văn Nghĩa, quê làng Dị Chiến,
huyện Tiên Lữ, tỉnh Hưng Yên.
Khi Đề Nắm bị sát hại (1892), ông tập hợp những toán nghĩa binh còn sót
lại, mở rộng địa bàn hoạt động, trở thành lãnh tụ nghĩa quân Yên Thế.
Cuộc khởi nghĩa Yên Thế do ông làm lãnh tụ đã gây tổn thất nặng cho
quân Pháp và toán quân tay sai. Đến 2 – 1913, ông bị sát hại
Tác dụng: Qua quan sát hình ảnh kết hợp với kiến thức giáo viên giảng
học sinh thấy được một lãnh tụ của phong trào đấu tranh tự vệ của nhân dân ta
cuối thế kỉ XIX – đầu thế kỉ XX, giúp học sinh nắm được công lao của Hoàng
Hoa Thám với lịch sử dân tộc, bồi dưỡng học sinh lòng biết ơn, khâm phục
những anh hùng vì nước vì dân; đồng thời bồi dưỡng học sinh ý chí biết vươn
lên trong cuộc sống để xây dựng một tương lai tươi sáng hơn.
2. 4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với
bản thân, đồng nghiệp và nhà trường
Tôi tiến hành giảng dạy ở hai lớp 11B8 và 11B9, lớp 11B8 là lớp thực
nghiệm sử dụng phương pháp này và đối chứng với lớp 11B9 không sử dụng
phương pháp này.
Sau khi giảng dạy xong tôi cho học sinh hai lớp làm bài kiểm tra với đề

bài giống nhau, thang điểm giống nhau. Học sinh lớp 11B8 và lớp 11B9 có sĩ số
ngang nhau, trình độ của học sinh hai lớp này cũng gần ngang nhau.
Kết quả kiểm tra theo phân loại giỏi (điểm 9, 10), khá (điểm 7, 8), trung
bình (điểm 5, 6), yếu (điểm 3, 4), kém (điểm 1, 2) cho thấy:
Trung
Số
Giỏi
Khá
Yếu
Kém
bình
Lớp
học
sinh SL
%
SL
%
SL
%
SL %
SL %
11B8
(lớp
40
9
22,5 23 57,5
8
20
0
0

0
0
thực
nghiệm)
11B9
(lớp đối 40
2
5,0
20 50,0 17 42,5
1
2,5
0
0
chứng)
Kết quả trên cho thấy sự chênh lệch giữa lớp đối chứng và lớp thực
nghiệm: Tỉ lệ giỏi ở lớp thực nghiệm (11B8) cao hơn lớp đối chứng (11B9) là
17,5%, tỉ lệ hoc sinh khá ở lớp thực nghiệm cao hơn lớp đối chứng là 7,5%, tỉ lệ
học sinh trung bình ở lớp thực nghiệm thấp hơn lớp đối chứng và đặc biệt là lớp
thực nghiệm không có học sinh yếu kém, trong khi đó ở lớp đối chứng học sinh
yếu chiếm tỉ lệ 2,5%.
Trong tiến trình giờ học, học sinh ở lớp thực nghiệm học tập sôi nổi, tích
cực xây dựng bài, các em tiếp thu nhanh trong khi đó ở lớp đối chứng các em
17


thụ động tiếp thu bài, ít học sinh tham gia phát biểu xây dựng bài. Như vậy
chứng tỏ chất lượng dạy học ở lớp thực nghiệm cao hơn lớp đối chứng.
Vì vậy chứng tỏ phương pháp sử dụng đồ dùng trực quan vào dạy học đã
góp phần nâng cao chất lượng giờ học, nâng cao chất lượng học sinh góp phần
vào nâng cao chất lượng giáo dục của nhà trường và địa phương.


18


3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
3. 1. Kết luận:
Với kết quả thu được tôi nhận thấy phương pháp sử dụng đồ dùng trực
quan trong dạy học là phương pháp hay, mang lại hiệu quả cao cho tiết học, đảm
bảo được cả mục tiêu giáo dục, giáo dưỡng và rèn luyện được kĩ năng cần thiết
của bộ môn, phát huy được tính tích cực của học sinh giúp các em làm quen với
việc nghiên cứu, đưa ra nhận xét, đánh giá của mình. Điều này góp phần rèn
luyện con người trong thời kì mới: Con người có kiến thức chuyên môn, năng
động, tự tin có thể giải quyết được các tình huống thực tiễn của đời sống sau
này.
Tuy nhiên, không phải cứ sử dụng đồ dùng trực quan là mang lại thành
công cho giờ dạy mà quan trọng hơn giáo viên phải có phương pháp đúng đắn
phù hợp với từng đồ dùng trực quan.
Hiện nay, giáo dục đang từng bước đổi mới nhằm nâng cao chất lượng thì
phương pháp sử dụng đồ dùng trực quan là một trong những phương pháp hay
góp phần nâng cao chất lượng.
Từ việc sử dụng phương pháp sử dụng đồ dùng trực quan trong dạy học
bài 21 – Lịch sử lớp 11 mang lại hiệu quả cao có thể ứng dụng sáng kiến kinh
nghiệm trên vào các bài ở các khối lớp 10, 11, 12 để nâng cao chất lượng dạy
học chung của nhà trường và nâng cao chất lượng dân cư ở địa phương.
3. 2. Kiến nghị:
Hiện nay những giáo viên tâm huyết với học sinh đều sử dụng đồ dùng
trực quan trong giảng dạy, tuy nhiên sử dụng đồ dùng trực quan như thế nào đều
do giáo viên dựa trên kinh nghiệm của mình, vì vậy chất lượng không đồng đều,
tôi đề nghị Sở Giáo dục và Đào tạo mở các lớp tập huấn về phương pháp sử
dụng đồ dùng trực quan trong dạy học. Điều này góp phần nâng cao chất lượng

đội ngũ giáo viên từ đó nâng cao được chất lượng dạy học.
XÁC NHẬN CỦA
THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ
Hiệu trưởng

Hậu Lộc, tháng 5 năm 2019
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình,
không sao chép nội dung của người khác
Người viết

Nguyễn Thị Thu Hương

19


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Sách giáo khoa Lịch sử lớp 11, Phan Ngọc Liên (Tổng chủ biên), NXB Giáo
dục Việt Nam
2. Sách giáo viên Lịch sử lớp 11, Phan Ngọc Liên (Tổng chủ biên), NXB Giáo
dục Việt Nam
3. Dạy học theo chuẩn kiến thức, kĩ năng môn Lịch sử 12, Đinh Ngọc Bảo, NXB
Đại học sư phạm.
4. Đại cương Lịch sử Việt Nam, Trương Hữu Quýnh, NXB Giáo dục, Hà Nội,
2002.
5. Phương pháp dạy học Lịch sử, Phan Ngọc Liên (Chủ biên), Trần Văn Trị.
NXB Giáo dục, Hà Nội, 1998.
6. Hướng dẫn sử dụng kênh hình trong sách giáo khoa Lịch sử 11, TS Nguyễn
Xuân Trường (chủ biên). NXB Hà Nội, Hà Nội, 2007

20




×