Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

SKKN phương pháp sử dụng có hiệu quả thí nghiệm vật lý trong dạy học vật lý 10

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (766.31 KB, 21 trang )

MỤC LỤC
I. PHẦN MỞ ĐẦU……………………………………………………………..
1. Lý do chọn đề tài……………………………………………………….
2. Mục đích nghiên cứu ………………………………………………….
3. Đối tượng nghiên cứu………………………………………………….
4. Phương pháp nghiên cứu……………………………………………...
II. NỘI DUNG
1. Cơ sở lý luận của SKKN……………………………………………..
2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng SKKN …………………….
3. Các SKKN hoặc giải pháp đã sử dụng để giả quyết vấn đề…....
4. Hiệu quả của SKKN…………………………………………………..
III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ………………………………………………..

Trang
2
2
3
3
3
4
5
5
19
20

1


I. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Đất nước ta đang đặt ra nhiệm vụ cho ngành giáo dục là phải đào tạo cho


được nguồn nhân lực dồi dào có đủ trình độ, năng lực, lao động sáng tạo, tay
nghề cao, biết ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất, phải giỏi về lý thuyết
và thạo về thực hành. Để làm được điều đó, bản thân mỗi thầy cô giáo phải
thường xuyên đổi mới phương pháp giảng dạy sao cho phù hợp với môn học,
phù hợp với trình độ học sinh nhằm đào tạo ra nhiều học sinh thực sự có năng
lực, đáp ứng yêu cầu của giáo dục hiện đại. Tâm lý con người nói chung, học
sinh nói riêng đều thích khám phá cái mới hơn những điều mình đã biết, do đó
dạy học có hiệu quả phải biết phát triển tư duy sáng tạo và hứng thú cho học
sinh.
Vật Lý là một bộ môn khoa học thực nghiệm, vì vậy việc sử dụng thí
nghiệm trong dạy học Vật Lý ở trường phổ thông không chỉ là công việc bắt
buộc, mà nó còn là một trong những biện pháp quan trọng giúp nâng cao chất
lượng dạy học, góp phần tích cực hoá hoạt động nhận thức của học sinh. Một
trong những tác dụng của thí nghiệm Vật Lý là tạo ra sự trực quan sinh động
trước mắt học sinh và cũng chính vì thế mà sự cần thiết của thí nghiệm trong
dạy học Vật Lý còn được quy định bởi tính chất của quá trình nhận thức của học
sinh dưới sự hướng dẫn của giáo viên. Thí nghiệm Vật Lý hiểu theo nghĩa rộng
còn là một trong những phương pháp dạy học Vật Lý ở trường phổ thông. Đó là
cách thức hoạt động của thầy và trò, giúp cho học sinh tự chiếm lĩnh kiến thức kĩ
năng, kĩ xảo, đặc biệt là kĩ năng, kĩ xảo thực hành. Thêm vào đó, thí nghiệm còn
có tác dụng giúp cho việc dạy học Vật Lý tránh được tính chất giáo điều, hình
thức đang phổ biến trong dạy học hiện nay. Ngoài ra, thí nghiệm Vật Lý còn góp
phần giúp cho học sinh củng cố niềm tin khoa học nhằm hình thành thế giới
quan duy vật biện chứng cho học sinh.
Lâu nay, việc sử dụng các bộ thí nghiệm trong dạy và học Vật lí ở các
trường THPT nói chung và ở trường THPT Cẩm Thủy 1 nói riêng là hoạt động
thường xuyên của mỗi giáo viên dạy Vật Lý. Song để khai thác tốt các tiện ích,
công năng của các bộ thí nghiệm này trong việc xây dựng phương án dạy học
mỗi bài học Vật Lý cụ thể để từ đó góp phần vào nâng cao chất lượng dạy học
bộ môn thì không nhiều người làm được, không thường xuyên làm được. Sở dĩ

có thực trạng trên, theo tôi là do một số nguyên nhân sau:
- Thiết bị đang thiếu nhiều, những thiết bị đã có thì hỏng rất nhiều có thiết
bị thì hỏng một phần hoặc hỏng toàn phần.
- Một phần khác không kém phần quan trọng chính là ở đội ngũ giáo viên,
chúng ta chưa mạnh dạn tìm tòi, nghiên cứu sử dụng, để các thí nghiệm Vật Lý,
các phương tiện dạy học hiện đại thực sự mang lại hiệu quả.
- Ngoài ra, cũng cần phải thừa nhận rằng, khả năng sử dụng các thiết bị
dạy học hiện đại cũng như thao tác thí nghiệm của một bộ phận giáo viên hiện
nay nói chung còn hạn chế.
2


- Các bộ thí nghiệm chỉ thường được dùng trong các giờ thực hành của
học sinh. Đa số thí nghiệm chỉ dùng được một cách định tính, thậm chí nhiều
dụng cụ không còn sử dụng được và giáo viên chỉ giới thiệu cho học sinh là có
dụng cụ như thế và hướng dẫn học sinh cách thí nghiệm.
- Trong các giờ dạy bài mới, một số giáo viên cũng có ý thức sử dụng thí
nghiệm nhưng việc dùng thí nghiệm thường chỉ với ý nghĩa minh họa cho kiến
thức (làm tăng tính trực quan) mà ít dùng để khảo sát việc xây dựng từng đơn vị
kiến thức của bài học.
- Việc dùng thí nghiệm trong dạy học thường theo ý chủ quan của mỗi
giáo viên. Học sinh không biết là thầy (cô) đang dùng thí nghiệm để làm gì, thầy
(cô) sẽ dẫn dắt học sinh đi đến đâu. Tức là học học sinh không được tham gia
vào việc giải quyết các vấn đề của bài học để từ đó rèn luyện tư duy logic và óc
sáng tạo, học sinh chỉ là người quan sát và nghe.
- Việc dùng thí nghiệm không được kết hợp với sử dụng các phương pháp,
hình thức dạy học tích cực như ‘‘Phương pháp dạy học nêu vấn đề’’; ‘‘Hình thức
tổ chức hoạt động nhóm’’,…
Để giải quyết vấn đề trên, trong giảng dạy đòi hỏi ở giáo viên phải có khả
năng sử dụng tốt thí nghiệm Vật Lý và vận dụng nó một cách có hiệu quả để tạo

điều kiện cho học sinh tiếp thu kiến thức của bài học một cách tốt nhất.
Qua nhiều năm giảng dạy bộ môn Vật Lý, với mong muốn nâng cao chất
lượng giảng dạy của bộ môn, góp phần hoàn thành mục tiêu giáo dục, nâng cao
chất lượng giáo dục của địa phương, tôi chọn đề tài sáng kiến kinh nghiệm năm
học này là: “Phương pháp sử dụng có hiệu quả thí nghiệm Vật Lý trong dạy
học Vật Lý 10 ”.
2. Mục đích nghiên cứu:
Mục tiêu của xã hội đang đặt ra những yêu cầu cấp thiết cần giải quyết đó
là đào tạo cho được nguồn nhân lực dồi dào có đủ trình độ, năng lực, lao động
sáng tạo, tay nghề cao, biết ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất, phải
giỏi về lý thuyết và thạo về thực hành. Để thực hiện mục tiêu đó dòi hỏi người
giáo viên phải đổi mới phương pháp dạy học một cách phù hợp. Đối với giáo
viên dạy môn Vật Lý thì việc sử dụng Thí nghiệm Vật Lý sẽ giúp cho học sinh
tự chiếm lĩnh kiến thức kĩ năng, kĩ xảo, đặc biệt là kĩ năng, kĩ xảo thực hành.
SKKN: “Phương pháp sử dụng có hiệu quả thí nghiệm Vật Lý trong dạy học
Vật Lý 10 ” sẽ giải quyết vấn đề này.
3. Đối tượng nghiên cứu: Học sinh các lớp 10A1, 10A2, 10A5, 10A9, 10A10
trường THPT Cẩm Thủy 1.
4. Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp quan sát: Quan sát thức tế, thực trạng về sử dụng thiết bị
Vật Lý, quá trình học tập và chất lượng học tập của học sinh ở bộ môn Vật Lý.
- Phương pháp thu thâp thông tin: Nghiên cứu sách báo, giáo trình,
internet có liên quan đến các thí nghiệm Vật Lý...
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm.
3


II. NỘI DUNG CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
1. Cơ sở lý luận của SKKN:
Theo quan điểm lý luận dạy học: thí nghiệm vật lý đóng vao trò cực kỳ

quan trọng trong dạy học, nó thể hiện ở các mặt sau:
- Thí nghiệm có thể được sử dụng trong tất cả các giai đoạn khác nhau của
tiến trình dạy học như đề xuất vấn đề nghiên cứu, giải quyết vấn đề (hình thành
kiến thức, kĩ năng mới...), củng cố kiến thức và kiểm tra đánh giá kiến thức kĩ
năng, kĩ xảo của học sinh.
- Thí nghiệm góp phần vào việc phát triển toàn diện học sinh: Trước hết,
thí nghiệm là phương tiện nhằm góp phần nâng cao chất lượng kiến thức và rèn
luyện kĩ năng, kĩ xảo Vật Lý cho học sinh. Nhờ thí nghiệm học sinh có thể hiểu
sâu hơn bản chất vật lý của các hiện tượng, định luật, quá trình... được nghiên
cứu và do đó có khả năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn của học sinh sẽ linh
hoạt và hiệu quả hơn. Truyền thụ cho học sinh những kiến thức phổ thông cơ
bản là một trong những nhiệm vụ quan trọng của hoạt động dạy học. Để làm
được điều đó, giáo viên cần nhận thức rõ việc xây dựng cho học sinh một tiềm
lực, một bản lĩnh, thể hiện trong cách suy nghĩ, thao tác tư duy và làm việc để họ
tiếp cận với các vấn đề của thực tiễn. Thông qua thí nghiệm, bản thân học sinh
cần phải tư duy cao mới có thể khám phá ra được những điều cần nghiên cứu.
Thực tế cho thấy, trong dạy học Vật Lý, đối với các bài giảng có sử dụng thí
nghiệm, thì học sinh lĩnh hội kiến thức rộng hơn và nhanh hơn, học sinh quan
sát và đưa ra những dự đoán, những ý tưởng mới, nhờ đó hoạt động nhận thức
của học sinh sẽ được tích cực và tư duy của các em sẽ được phát triển tốt hơn.
- Thí nghiệm là phương tiện góp phần quan trọng vào việc giáo dục kĩ
thuật tổng hợp cho học sinh: Thông qua việc tiến hành thí nghiệm, học sinh có
cơ hội trong việc rèn luyện kĩ năng, kĩ xảo thực hành, góp phần thiết thực vào
việc giáo dục kĩ thuật tổng hợp cho học sinh. Thí nghiệm còn là điều kiện để học
sinh rèn luyện những phẩm chất của người lao động mới, như: đức tính cẩn thận,
kiên trì, trung thực... Xét trên phương diện thao tác kĩ thuật, chúng ta không thể
phủ nhận vai trò của thí nghiệm đối với việc rèn luyện sự khéo léo tay chân của
học sinh.
- Thí nghiệm là phương tiện kích thích hứng thú học tập của học sinh: thí
nghiện là phương tiện gây hứng thú, là yếu tố kích thích tính tò mò, ham hiểu

biết của học sinh học tập, nhờ đó làm cho các em tích cực và sáng tạo hơn trong
quá trình nhận thức.
- Thí nghiệm là phương tiện tổ chức các hình thức hoạt động của học sinh:
thí nghiệm là phương tiện tổ chức các hình thức làm việc độc lập hoặc tập thể
qua đó góp phần bồi dưỡng các phẩm chất đạo đức của học sinh. Qua thí nghiệm
đòi hỏi học sinh phải làm việc tự lực hoặc phối hợp tập thể, nhờ đó có thể phát
huy vai trò cá nhân hoặc tính cộng đồng trách nhiệm trong công việc của các
em.
- Thí nghiệm vật lý góp phần làm đơn giản hoá các hiện tượng và quá
trình vật lý: thí nghiệm vật lý góp phần đơn giản hoá hiện tượng, tạo trực quan
4


sinh động nhằm hỗ trợ cho tư duy trừu tượng của học sinh, giúp cho học sinh tư
duy trên những đối tượng cụ thể, những hiện tượng và quá trình đang diễn ra
trước mắt họ.
2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm:
Trường THPT Cẩm Thủy 1 là một trường thuộc huyện miền núi trong tỉnh
Thanh Hóa, đời sống còn nhiều khó khăn, chất lượng tuyển sinh vào lớp 10 còn
thấp. Trong các lớp tôi phụ trách giảng dạy môn Vật Lý tỷ lệ học sinh Khá, Giỏi
thấp. Nhiều học sinh không có hứng thú đối với môn học này vì quan niệm rằng
đây là một môn học khó, cần phải có tư duy trừu tượng thì mới có thể học tốt. Vì
thế khi dạy, nếu không sử dụng thí nghiệm Vật Lý mà dạy chay hoặc sử dụng
không hiệu quả thì sẽ không có tính thuyết phục, học sinh tiếp thu bài một cách
thụ động và dễ mang lại cảm giác nhàm chán.
3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề:
Để sử dụng thí nghiệm Vật Lý một cách có hiệu quả trong các giờ học
tôi đã đúc rút được một số kinh nghiệm sau đây:
3.1. Giáo viên cần nắm được mục đích việc sử dụng thiết bị dạy học là
gì?

Sử dụng thiết bị dạy học cho thí nghiệm vật lý có hiệu quả chính là việc
làm sống lại trước mắt học sinh các hiện tượng vật lý cần nghiên cứu một cách
sinh động. Từ đó học sinh có hứng thú say mê nghiên cứu khoa học, thích khám
phá tìm tòi để dẫn đến hình thành khái niệm và giúp học sinh lĩnh hội kiến thức
mới sâu sắc hơn, bền vững hơn.
3.2. Yêu cầu về sự chuẩn bị của giáo viên:
- Xác định chuẩn kiến thức, kỹ năng, thái độ cần đạt trong bài, từ đó giáo
viên xây dựng mục tiêu cụ thể cần đạt trong tiết dạy là gì?.
- Đọc nội dung bài dạy trong chương trình sách giáo khoa, xác định kiến
thức, kĩ năng cần đạt của từng phần để nắm được mục tiêu của thí nghiệm phần
đó là gì, giáo viên biểu diễn thí nghiệm hay học sinh tự tiến hành thí nghiệm, từ
đó kết hợp với người phụ trách thiết bị chuẩn bị đầy đủ thiết bị phù hợp cho tiết
học.
- Giáo viên phải làm trước các thí nghiệm đó (đây là bước bắt buộc) để
xem mức độ thành công của từng thí nghiệm từ đó điều chỉnh kịp thời (nếu cần)
đảm bảo thí nghiệm phải chắc chắn thành công, có như vậy mới đem lại cho học
sinh niềm tin vào khoa học.
3.3. Giáo viên cần nắm được thiết bị dạy học Vật lý ở trường THPT chủ
yếu dùng cho hai loại bài đó là: Thiết bị dùng cho bài dạy các thí nghiệm biểu
diễn của giáo viên và thí nghiệm thực hành của học sinh hoặc cả hai.
a) Đối với thí nghiệm biểu diễn:
Trước hết giáo viên phải nắm bắt được cấu trúc của thí nghiệm biểu diễn
gồm:
- TN đặt vấn đề
- TN chứng minh
- TN kiểm chứng (củng cố)
5


Nên trước khi vào bài dạy: Giáo viên cần dùng các thiết bị thí nghiệm đã

chuẩn bị và dựa vào mục tiêu của bài dạy mà đưa ra thí nghiệm đặt vấn đề để
gây hứng thú học tập cho học sinh cả lớp. Sau đây là một ví dụ:
Trong bài: ''Các định luật Newton'', trước khi đưa ra định luật giáo viên làm thí
nghiệm với lực kế và một chiếc xe có khối lượng khác nhau:
+ Khi xe đứng yên trên sàn nhà rất nhẵn, ta đẩy hoặc kéo xe về hướng nào thì xe
chuyển động nhanh dần về hướng đó. HS rút ra kết luận: vectơ lực và vectơ gia
tốc có cùng hướng với nhau.
+ Ta đẩy xe càng mạnh thì xe tăng tốc càng nhanh. Ta vẫn đẩy mạnh như lúc
trước, nhưng nếu khối lượng của xe lớn hơn thì xe tăng tốc ít hơn. HS rút ra kết
luận: gia tốc của vật không chỉ phụ thuộc vào lực tác dụng lên vật mà còn phụ
thuộc vào khối lượng của chính vật đó.
+ Từ đó giáo viên đưa ra định luật 2 Newton và nêu các yếu tố của vectơ lực.
Nhìn chung với tất cả các thí nghiệm: Đặt vấn đề, thí nghiệm kiểm chứng,
thí nghiệm chứng minh. Để tiến hành thí nghiệm đạt được hiệu quả cao giáo
viên phải tiến hành theo những bước sau:
Bước 1: Giáo viên chia nhóm, giao nhiệm vụ cho các thành viên trong nhóm.
Mỗi nhóm nên có đủ các đối tượng học sinh giỏi, khá, trung bình, yếu
kém và số thành viên trong các nhóm không được quá nhiều nhằm tạo điều kiện
cho các em có thời gian tranh luận với nhau về kết quả thí nghiệm.
Bước 2: Xác định mục tiêu của thí nghiệm.
- Với các thí nghiệm đơn giản giáo viên có thể cho học sinh đọc sách giáo
khoa sau đó các em thảo luận và nêu ra mục tiêu của thí nghiệm đó song giáo
viên nhấn mạnh lại.
- Nếu các thí nghiệm khó và phức tạp thì giáo viên nên chia thành nhiều
bước nhỏ và nêu mục tiêu của từng bước trong thí nghiệm.
Lưu ý: Giáo viên cần phải xác định đúng và đủ mục tiêu của thí nghiệm vì nó
có liên quan trực tiếp đến nội dung của bài học.
Bước 3: Giới thiệu dụng cụ và cách tiến hành thí nghiệm:
- Phần giới thiệu dụng cụ thí nghiệm:
Yêu cầu giáo viên cần giới thiệu đầy đủ thông tin về các dụng cụ có trong thí

nghiệm. Cụ thể là: Tên gọi, đặc điểm mềm, dẻo, đàn hồi, chịu nhiệt, chịu lực...
nhằm giúp các em hiểu được tác dụng của mỗi đồ dùng và sử dụng các thiết bị
trên được hiệu quả và an toàn.
- Đối với phần cách tiến hành thí nghiệm: Giáo viên phải nêu rõ từng
bước của thí nghiệm để học sinh tiện quan sát và thực hành, nhưng đôi khi với
một số thí nghiệm đơn giản thì có thể cho học sinh đọc cách tiến hành thí
nghiệm trong sách giáo khoa sau đó thảo luận nêu lên cách tiến hành thí nghiệm.
Cuối cùng giáo viên nhấn mạnh cách tiến hành thí nghiệm trước khi cho học
sinh thực hành.
Bước 4: Cách bố trí thí nghiệm

6


- Nếu các thiết bị của phòng thí nghiệm của trường mà phù hợp với thiết
bị nêu ra trong sách giáo khoa thì giáo viên có thể tiến hành theo phương án của
sách giáo khoa.
- Nếu các thiết bị trong phòng thí nghiệm không có hoặc còn thiếu so với
các đồ dùng bố trí ở sách giáo khoa thì giáo viên có thể thay thế bằng các thí
nghiệm ảo, sử dụng công nghệ thông tin để học sinh quan sát, tuy nhiên cách
làm này chỉ có hiệu quả nhất định với các thí nghiệm biểu diễn.
Bước 5: Tiến hành thí nghiệm.
- Trước khi bắt tay vào làm thí nghiệm giáo viên phát cho các nhóm phiếu
học tập để các em ghi lại các hiện tượng, số liệu, kết quả mà các em quan sát
được qua thí nghiệm đó nhằm giúp cho quá trình thảo luận nhóm và từ đó xử lí
kết quả thí nghiệm được tốt hơn.
- Giáo viên thao tác khi tiến hành thí nghiệm phải thật rõ ràng, không lúng
túng để học sinh tiện theo dõi.
- Để đạt được hiệu quả cao, trong khi tiến hành thí nghiệm giáo viên có
thể đặt các câu hỏi khắc sâu về các tình huống trong thí nghiệm nhằm tạo cho

học sinh những tình huống có vấn đề để các em cùng suy nghĩ tháo gỡ từ đó các
em hiểu sâu hơn về thí nghiệm đang làm.
- Tùy theo từng bài mà giáo viên có thể nêu thêm thí nghiệm thay thế
hoặc cho học sinh tự nghĩ ra thí nghiệm thay thế khác để cho bài học phong phú
đa dạng nhằm phát triển được vốn hiểu biết của học sinh. Nhưng các thí nghiệm
thay thế đó đòi hỏi phải đảm bảo đúng và chính xác mục tiêu của thí nghiệm.
- Với các thí nghiệm thay thế giáo viên có thể hỏi học sinh tại sao thí
nghiệm này có thể thay thế được? Nhằm khắc sâu hơn cho các em về tính chặt
chẽ, đúng đắn của thí nghiệm thay thế đó.
- Nếu cần thì trên các dụng cụ phải có các vật chỉ thị để làm nổi bật lên
các bộ phận đặc biệt cần quan sát hoặc dùng các vật, chất khác hỗ trợ cho vấn đề
cần nghiên cứu.
* Lưu ý: + Chỉ bày ra trước mắt học sinh những dụng cụ cần thiết để minh họa
hoặc làm thí nghiệm, không được bày la liệt trước mắt học sinh những dụng cụ
đã dùng xong hoặc chưa dùng tới nhằm tránh trường hợp học sinh không tập
trung vào thí nghiệm của giáo viên.
+ Các thiết bị dùng để tiến hành trong bài yêu cầu cần phải được kiểm tra và làm
trước để đảm bảo giờ thực hành thành công và gây được niềm tin vào khoa học
ở học sinh.
+ Khi các thí nghiệm xảy ra nhanh giáo viên cần lặp lại thí nghiệm để học sinh
có thể theo dõi được.
Ví dụ như: Trong bài ''Sự rơi tự do'' khi làm thí nghiệm biểu diễn sự rơi của
vật, quá trình rơi của vật diễn ra rất nhanh, vì thế giáo viên cần lặp lại nhiều lần
để học sinh tiện quan sát và rút ra kết luận.
Bước 6: Xử lí các hiện tượng và kết quả thí nghiệm.
Sau khi tiến hành thí nghiệm xong giáo viên treo bảng phụ để cho các
nhóm lần lượt báo cáo hiện tượng hoặc kết quả thí nghiệm mà học sinh thu thập
7



được qua thí nghiệm của giáo viên. Sau đó dựa vào bảng kết quả của giáo viên,
giáo viên hướng dẫn học sinh phân tích kết quả thí nghiệm và rút ra kết luận.
Trong phần này nếu kết quả thí nghiệm có sự sai số nhỏ thì giáo viên phải
giải thích thật rõ cho các em để gây được niềm tin của học sinh vào thí nghiệm .
Có thể đưa ra một số gợi ý về việc giải thích kết quả thí nghiệm có sự sai
số trong thí nghiệm biểu diễn của giáo viên cho học sinh như sau:
+ Giáo viên phải nắm chắc bản chất của hiện tượng trong thí nghiệm để
dựa vào đó mà giải thích vấn đề.
+ Có thể giải thích kết quả thí nghiệm có sai số là do cách đặt mắt quan
sát đọc kết quả và các thiết bị đo chỉ mang tính chất tương đối đó cũng là
nguyên nhân thường hay gặp ở các thí nghiệm.
+ Có thể là do các thiết bị thí nghiệm lâu không dùng đến dẫn đến các tính
chất lý, hóa của nó bị ảnh hưởng.
Bước 7: Kết luận.
Giáo viên gọi 2 đến 3 học sinh đọc lại nội dung kết luận vừa tìm ra ở trên.
Giáo viên nhấn mạnh lại kết luận đó và có thể cho học sinh liên hệ thực tế các
vấn đề có liên quan đến thí nghiệm vừa là để khắc sâu kết luận mới tìm được,
vừa là làm cho bài dạy thêm sinh động.
b) Đối với loại bài trong đó có thí nghiệm thực hành của học sinh:
Để dạy tốt được loại bài này thì trước hết giáo viên phải hiểu được thế nào
là thí nghiệm thực hành của học sinh, cách tổ chức như thế nào và tác dụng của
nó ra sao?
- Thí nghiệm thực hành: Là thí nghiệm do học sinh tiến hành dưới sự chỉ
dẫn của giáo viên để từ đó các em tự khám phá kiến thức của bài và nắm bắt
kiến thức bài đó.
- Thí nghiệm thực hành có tác dụng: Giúp học sinh nắm vững hơn nội
dung bài học vì học sinh được tự tay gây ra hiện tượng vật lý, đo lường các đại
lượng, tìm ra quy luật, hiện tượng hoặc kiểm tra lại định luật, hiện tượng, do đó
học sinh sẽ chú ý hơn, tin tưởng hơn và hiểu vấn đề một cách cụ thể và sâu sắc
hơn.

- Thí nghiệm thực hành rèn luyện cho học sinh kỹ năng, kỹ xảo sử dụng
những dụng cụ đo lường cơ bản như thước, cân, lực kế, ampe kế, vôn kế... do đó
có tác dụng rất lớn trong việc giáo dục kỹ thuật tổng hợp đối với học sinh.
- Thí nghiệm thực hành tạo điều kiện cho học sinh tự lực quan sát, phân
tích, phán đoán để đi đến kết luận, do đó có tác dụng lớn trong việc phát triển
năng lực tư duy của học sinh và giúp các em làm quen với phương pháp nghiên
cứu khoa học vật lý.
- Thí nghiệm thực hành còn kích thích ở học sinh tính tò mò khoa học,
ham học vật lý, mong muốn vận dụng kiến thức vật lý vào đời sống và rèn luyện
cho học sinh ý thức tổ chức, ý thức làm việc có kế hoạch, ý thức bảo vệ của
công.

8


Vì thí nghiệm thực hành có tác dụng rất lớn như đã phân tích ở trên nên
với giáo viên dạy vật lý để tổ chức thành công được loại bài này thông qua các
thiết bị dạy học thì cần phải thực hiện các công việc sau:
- Việc chuẩn bị cho bài dạy: Trước hết giáo viên phải đọc trước nội dung
bài dạy xác định được đúng và đủ mục tiêu của bài học. Từ đó kết hợp với người
phụ trách thiết bị lập ra kế hoạch về số lượng các thiết bị để dùng cho bài học
được tốt và cũng như các thí nghiệm biểu diễn của giáo viên thì với thí nghiệm
thực hành, giáo viên cũng phải tiến hành trước tất cả các thí nghiệm để kiểm tra
khả năng thành công của các thí nghiệm đó nhằm gây được niềm tin vào thí
nghiệm cho học sinh.
- Đặc biệt với loại bài này giáo viên cần dùng bảng phụ và phiếu học tập
để học sinh thảo luận nhận xét và báo cáo kết quả của nhóm mình.
- Với những thí nghiệm nào phức tạp, khó thì giáo viên kết hợp với người
phụ trách thiết bị sẽ bố trí trước cho các nhóm, còn những thí nghiệm nào đơn
giản thì có thể cho học sinh tự bố trí thí nghiệm và giáo viên đi kiểm tra uốn nắn

kịp thời nếu cần.
Sau khi làm xong công tác chuẩn bị thì giáo viên tiến hành các bước dạy
như sau:
Bước 1: Giáo viên chia nhóm, giao nhiệm vụ cho từng thành viên trong nhóm,
chú ý số em trong một nhóm không quá đông để đảm bảo đủ thời gian cho tất cả
các thành viên đều được tiến hành thí nghiệm. Các nhóm nên có đủ các đối
tượng học sinh để các em giúp đỡ lẫn nhau trong quá trình tiến hành thí nghiệm,
thảo luận đưa ra nhận xét.
Bước 2: Cho học sinh cả lớp tự đọc hướng dẫn thí nghiệm trong sách giáo khoa
nhằm giúp học sinh nắm bắt được phần nào mục đích của thí nghiệm, cách tiến
hành thí nghiệm. Trong phần này giáo viên có thể phát phiếu học tập cho các
nhóm để học sinh nêu dự đoán về mục đích của thí nghiệm hoặc dự đoán các
hiện tượng có thể xảy ra khi tiến hành thí nghiệm theo hướng dẫn của sách giáo
khoa. Nhằm tạo cho học sinh có cảm giác, hứng thú muốn tiến hành các thí
nghiệm đó ngay để kiểm tra nhận xét lý thú trên.
Bước 3: Giáo viên nêu mục đích của thí nghiệm cho học sinh nắm chắc để tiến
hành thí nghiệm theo đúng yêu cầu của bài học. Với các thí nghiệm dễ có thể
cho học sinh thảo luận nêu ra mục đích thí nghiệm sau đó giáo viên chốt lại.
Bước 4: Giới thiệu dụng cụ và cách bố trí thí nghiệm.
- Với dụng cụ thí nghiệm thì giáo viên cũng cần nêu rõ như phần dụng cụ ở thí
nghiệm biểu diễn của giáo viên như đã phân tích.
- Cách bố trí thí nghiệm có thể tiến hành như phần chuẩn bị nêu trên.
Bước 5: Tiến hành thí nghiệm.
- Nếu thí nghiệm nào khó thì giáo viên có thể làm thao tác trước cho các nhóm
theo dõi.
- Cho các nhóm làm thí nghiệm theo kế hoạch đã vạch, các nhóm ghi nhanh
những số liệu, hiện tượng quan sát vào một bảng thống kê (mẫu báo cáo thí
nghiệm).
9



- Khi tiến hành thí nghiệm giáo viên cần theo dõi uốn nắn sai sót (nếu có) cho
học sinh và đảm bảo cho mọi học sinh trong các nhóm đều được làm thí nghiệm,
được quan sát, nhận xét và thảo luận. Nếu các nhóm khi làm thí nghiệm có gặp
khó khăn nào đó thì giáo viên yêu cầu toàn bộ lớp tạm ngừng và hướng dẫn bổ
sung thêm, giáo viên có thể trực tiếp làm lại thí nghiệm đó cho học sinh theo dõi
hoặc kiểm tra lại cách lắp thí nghiệm, cách đọc, đo kết quả thí nghiệm của từng
nhóm từ đó đảm bảo cho thí nghiệm được thành công.
Bước 6: Xử lý kết quả thí nghiệm thảo luận đưa ra kết luận của từng phần hoặc
cả bài.
- Sau khi làm thí nghiệm xong từng phần giáo viên hướng dẫn học sinh nhận xét
để đi đến kết luận của phần đó hoặc cả bài.
Tới đây giáo viên chú ý sử dụng hệ thống bảng phụ hoặc phiếu học tập để
giúp các nhóm cùng tìm ra nhận xét một cách chính xác.
- Giáo viên cần tôn trọng các nhận xét của từng nhóm.
- Nếu có nhận xét sai giáo viên cần khéo léo hướng dẫn học sinh tìm ra nguyên
nhân dẫn đến cái sai như: So sánh với nhận xét các nhóm khác, làm lại thí
nghiệm của mình một cách cẩn thận.
- Khi dùng bảng phụ giáo viên phải suy nghĩ kỹ là dùng nó để làm gì, đọng lại
kiến thức cơ bản nào. Cần sắp xếp bảng phụ cho hợp lý để khi treo tránh sự sai
sót hoặc tác dụng của nó ít đi. Bên cạnh đó bảng phụ cũng cần phải trình bày
khoa học như dùng phấn mầu với những câu từ quan trọng...
- Nếu thí nghiệm có độ chính xác chưa cao thì giáo viên có thể trình bày một thí
nghiệm thay thế. Nhưng với thí nghiêm thay thế do giáo viên làm phải đơn giản,
dễ làm mà vẫn đảm bảo tính chính xác khoa học.
* Lưu ý: Trong phần này để xử lý sai số trong các thí nghiệm giáo viên cần lưu ý
học sinh sai là do ở những nguyên nhân sau:
- Cách đặt mắt đọc kết quả chưa đúng, hoặc cách đặt các thiết bị đo chưa đúng.
- Do cách bố trí thí nghiệm chưa đúng, cẩu thả cũng là nguyên nhân dẫn đến kết
quả có sai số lớn hoặc không thành công.

- Do chưa chú ý nghe hướng dẫn tiến hành thí nghiệm của giáo viên hoặc ở sách
giáo khoa cũng như chưa nắm bắt được mục tiêu của thí nghiệm hoặc chưa hiẻu
rõ tính chất lý, hóa của các thiết bị.
- Với các nguyên nhân dẫn đến kết quả thí nghiệm có sai số như đã nêu thì giáo
viên phải bám sát vào đó để giúp đỡ học sinh sửa chữa có như vậy mới giúp học
sinh tin tưởng vào khoa học và có ý thức, kinh nghiệm hơn khi xử lý các kết quả
thí nghiệm.
Trong chương trình Vật Lý 10 Nâng Cao có 4 bài thí nghiệm thực hành.
Tôi sẽ nêu ra phương pháp và tổ chức dạy học cụ thể của các bài đó.
Bài 12: (tiết 15- 16 theo PPCT) XÁC ĐỊNH GIA TỐC RƠI TỰ DO.
I. Mục đích thí nghiệm:
- Đo được thời gian rơi t của một vật trên những quãng đường s khác
nhau.
10


- Vẽ và khảo sát đồ thị s ~ t 2. Nhận xét về tính chất của chuyển động rơi
tự do.
- Xác định gia tốc rơi tự do.
II. Cơ sở lý thuyết :
- Khi một vật chuyển động nhanh dần đều không vận tốc ban đầu thì
s=

1 2
2s
at nên khi vật rơi tự do thì ta có g = 2 . Vì vậy, đo được s và t ta sẽ tìm
2
t

được gia tốc g (khoảng từ 9 – 10 m/s2)

- Đồ thị s ~ t2 có dạng là một đường thẳng đi qua gốc tọa độ với hệ số góc
a
2

là tan α = .
III. Dụng cụ thí nghiệm:
1. Giá đỡ thẳng đứng (xem như một thước thẳng
khoảng 1000mm), có dây rọi. Giá này có ba chân, dùng
để điều chỉnh sự thăng bằng của giá.
2. Trụ sắt non, làm vật rơi tự do.
3. Nam châm điện có hộp công tắc dùng để giữ và
thả cho vật rơi.
4. Cổng quang điện E.
5. Đồng hồ đo thời gian hiện số.
6. Thước ba chiều.
7. Hộp đỡ vật rơi (bằng đất sét, hay bằng cát)
IV. Lắp ráp thí nghiệm :
1. Nam châm điện N lắp trên đỉnh giá đỡ, được nối qua công tắc vào ổ A
của đồng hồ đo thời gian. Ổ A vừa cấp điện cho nam châm, vừa nhận tín hiệu từ
công tắc chuyển về. Cổng E lắp ở dưới, được nối với ổ B. Sử dụng MODE đo A
↔ B, chọn thang đo 9,999s.
2. Quan sát quả dọi, phối hợp điều chỉnh các vít ở chân giá đỡ sao cho quả
dọi nằm đúng tâm lỗ tròn T. Khi vật rơi qua lỗ tròn của cổng quang điện E,
chúng cùng nằm trên một trục thẳng đứng. Khăn vải bông được đặt nằm dưới
để đỡ vật rơi .
3. Cho nam châm hút giữ vật rơi. Dùng miếng ke áp sát đáy vật rơi để xác
định vị trí đầu s0 của vật. Ghi giá trị s0 vào bảng 1.
4. Nới lỏng vít và dịch cổng quang điện E về phía dưới cách s0 một
khoảng s = 50 mm . Nhấn nút RESET trên mặt đồng hồ để đưa chỉ thị số về giá
trị 0000.

5. Ấn nút trên hộp công tắc để thả vật rơi, rồi nhả nhanh nút trước khi vật
rơi đến cổng quang điện E. Ghi thời gian rơi của vật vào bảng 1. Lặp lại phép
đo trên 3 lần ghi vào bảng 1.
6. Nới lỏng vít hãm và dịch cổng quang điện E về phía dưới, cách vị trí s 0
một khoảng s lần lượt bằng 200mm; 450 mm; 800 mm. ứng với mỗi giá trị của
s, thả vật rơi và ghi thời gian t tương ứng vào bảng 1. Lặp lại 3 lần phép đo.
Kết thúc thí nghiệm: Nhấn khoá K, tắt điện đồng hồ đo thời gian hiện số.
11


V. Báo cáo thí nghiệm :
- Lập bảng lấy giá trị các lần đo t với các s khác nhau (cho các giá trị s bất
kỳ sẽ đo được khoảng thời gian t), lấy khoảng 2 – 3 giá trị của s, mỗi một s đo 3
lần t sau đó lấy trung bình.
- Nên điều chỉnh làm sao cho s0 = 0 (mm) (dùng thước 3 chiều)
2s
2s
Lần đo
Thời gian rơi
vi =
gi = 2
t
t2
t
s (m)
t
1
2
3
1

2
3
Vẽ đồ thị : s ~ t 2 ; v ~ t.
Tìm giá trị trung bình của g và ∆g
Biểu biễn kết quả của phép đo : g = g ± ∆g =…………………….(
Số liệu tham khảo :

)

Bài 25: (tiết 33- 34 theo PPCT) ĐO HỆ SỐ MA SÁT
I. Mục đích thí nghiệm:
- Dùng phương pháp động lực học để nghiên cứu lực ma sát tác dụng vào
vật chuyển động trên mặt phẳng nghiêng.
- Đo hệ số ma sát trượt, so sánh với giá trị thu được trong SGK Lý 10CB.
II. Cơ sở lý thuyết:
- Khi một vật nằm trên mặt phẳng nghiêng với góc α0 nhỏ so với phương
nằm ngang.

12


- Khi ta tăng dần độ nghiêng của mặt phẳng α ≥ α0 thì vật chuyển động
trượt với gia tốc a và µt gọi là hệ số ma sát trượt: a = g(sin α - µtcos α)
a

Bằng cách đo a và α ta tìm được hệ số ma sát trượt : µ t = tan α − g cos α
Gia tốc a được xác định bằng công thức a =

2s
t2


III. Dụng cụ thí nghiệm:
1. Mặt phẳng nghiêng (xem như thước dài 1000mm) có gắn thước đo góc
và quả dọi.
2. Nam châm điện
gắn ở một đầu mặt phẳng
nghiêng, có hộp công tắc để
giữ và thả vật.
3. Giá đỡ để thay đổi
độ cao của mặt phẳng
nghiêng nhờ khớp nối.
4. Trụ kim loại.
5. Máy đo thời gian
và 2 cổng quang điện E.
6. Thước ba chiều.
IV. Lắp ráp thí nghiệm:
1. Đặt máng nghiêng có lắp nam châm điện N và cổng quang điện E lên
giá đỡ. Nam châm điện N được lắp ở đầu A của máng nghiêng, nối qua hộp công
tắc, và cắm vào ổ A của đồng hồ đo thời gian nhờ một phích cắm có 5 chân. Nếu
đồng hồ đo thời gian được bật điện, ổ A sẽ cấp điện cho nam châm hoạt động.
Cổng quang điện E nối vào ổ B của đồng hồ đo thời gian.
2. Hạ thấp khớp nối để giảm góc nghiêng α, sao cho khi đặt mặt đáy trụ
thép lên máng, trụ không thể tự trượt. Điều chỉnh thăng bằng cho máng nghiêng
nhờ các chân vít của giá đỡ, sao cho dây rọi song song với mặt phẳng thước đo
góc.
3. Đặt mặt đáy trụ thép lên mặt phẳng nghiêng. Tăng dần góc nghiêng α
bằng cách đẩy từ từ đầu cao của nó, để trụ thép có thể trượt trên thanh ngang của
giá đỡ. Chú ý giữ chắc giá đỡ.
4. Khi vật bắt đầu trượt thì dừng lại, đọc và ghi giá trị α0 vào bảng 1.
5. Đồng hồ đo thời gian làm việc ở MODE A ↔ B, thang đo 9,999s.

Nhấn khoá K để bật điện cho đồng hồ.
6. Xác định vị trí ban đầu s0 của trụ thép : Đặt vật trụ kim loại lên đầu A
của máng nghiêng, sát với nam châm, mặt đáy tiếp xúc với mặt phẳng nghiêng.
Dùng miếng ke áp sát mặt nghiêng, đẩy ke đến vị trí chạm vào trụ kim loại, để
xác định vị trí đầu s0 của trụ trên thước đo. Ghi giá trị s 0 vào bảng 1.
Nới lỏng vít để dịch chuyển cổng quang điện E đến vị trí cách s 0 một khoảng s
= 400mm, rồi vặn chặt vít, cố định vị trí cổng E trên máng nghiêng.
7. Lặp lại thí nghiệm 3 lần và ghi các giá trị đo được vào bảng 1.
13


Kết thúc thí nghiệm : Tắt điện đồng hồ đo thời gian.
V. Báo cáo thí nghiệm:
- Lập bảng đo hệ số ma sát
α0 = ……………….; α = ………………….
s0 = 0 mm
;
s = ………………….
Lần đo

t

a=

2s
t2

µ t = tan α −

a

g cos α

∆µt

1
2
3
Giá trị trung bình
- Viết kết quả đo : µ t = µ t ± ∆µ t = …………………….
Số liệu tham khảo

Bài 30: (tiết 43- 44 theo PPCT) TỔNG HỢP HAI LỰC
I. Mục đích:
- Kiểm nghiệm lại quy tắc tổng hợp hai lực đồng quy và quy tắc tổng hợp
hai lực song song cùng chiều.
- Rèn luyện kỹ năng sử dụng lực kế.
II. Cơ sở lý thuyết:
1. Tổng hợp hai lực đồng quy: Để tổng hợp
hai lực đồng quy ta sử dụng quy tắc hình bình hành.
Trong thí nghiệm, ta cho hai lực cùng tác dụng vào
một điểm của vật (ta tính toán bằng lý thuyết và kiểm chứng bằng thực nghiệm).
2. Tổng hợp hai lực song song cùng chiều:
G
B
Hợp lực của hai lực P1 và P2 song song, cùng chiều, A
tác dụng vào một vật rắn, là một lực P song song, P
1
cùng chiều với hai lực, có độ lớn bằng tổng độ lớn
P2
P

của hai lực đó (P=P1+P2). Điểm đặt của lực P được
14


P1

l2

GB

xác định P = l = GA . Trong bài này, ta cho hai lực P1 và P2 cùng tác dụng vào
2
1
một vật (thước thẳng) rồi dùng các công thức trên xác định bằng lý thuyết, sau
đó chúng ta kiểm chứng bằng thực nghiệm.
III. Dụng cụ thí nghiệm:
1. Tổng hợp hai lực đồng quy:
- Bảng sắt có chân đế.
- Hai lực kế ống 5N có gắn nam châm vĩnh cữu.
- Một vòng dây cao su va dây chỉ.
- Một thước đo có ĐCNN 1mm.
- Một viên phấn (hay bút lông có thể xóa được).
- Một thước đo góc.
- Các viên nam châm để cố định thước đo góc.
2. Tổng hợp hai lực song song cùng chiều:
- Bảng sắt có chân đế.
- Hai đế nam châm có buộc dây cao su.
- Một thước thẳng có ĐCNN 1mm.
- Một thanh thép nhỏ dài 35mm.
- Một hộp các quả cân có khối lượng bằng nhau.

- Ba dây cao su (hoặc hai lò xo và một dây cao su).
IV. Lắp ráp thí nghiệm:
1. Tổng hợp hai lực đồng quy:
- Buộc một đầu của dây cao su vào đế
của nam châm được đặt gần điểm giữa cạnh
dưới của bảng sắt, còn đầu kia của dây cao su
được thắt vào giữa một dây chỉ bền. Hai đầu
dây chỉ này móc vào hai lực kế ống của đế nam
châm.
- Đặt hai lực kế tạo theo hai phương
vuông góc sao cho dây cao su hướng theo
phương thẳng đứng và dãn ra đến một vị trí nào đó (nên chọn sao cho ở vị trí
đó, hai lực kế chỉ một giá trị nhất định, càng chẵn càng tốt ).
- Dùng bút lông đánh dấu các vị trí này của dây cao su, và vẽ các vectơ
lực theo một tỷ lệ xích chọn trước (có ba lực: F 1, F2 hướng theo hai phương của
dây chỉ gắn lực kế; R hướng theo phương dây cao su).
- Dùng quy tắc hình bình hành xác định hợp lực R của hai lực F 1, F2 . Đo
chiều dài l của R và tính giá trị của R theo tỷ lệ xích chọn trước, sau đó ghi các
giá trị của l và R vào bảng.
- Dùng lực kế xác định lại giá trị của R bằng thực nghiệm (gọi là R 1) bằng
cách kéo lực kế ra đến vị trí của dây cao sụ đã đánh dấu ở bước 3.
Lặp lại bước này thêm 2 lần nữa để lấy các giá trị của R2, R3 và ghi vào bảng.
- Tiến hành các bước 2, 3, 4, 5 thêm một lần nữa.
15


2. Tổng hợp hai lực song song cùng chiều:
- Treo thanh thép lên hai đế nam
châm đặt trên bảng sắt nhờ hai dây cao su
(hay lò xo).

- Móc lên thanh thép ở hai điểm điểm
A, B (AB = 20cm) lần lượt ba quả cân và
hai quả cân (có thể đặt các quả cân bất kỳ
cũng được). Đánh dấu vị trí này của thanh
thép.
- Vẽ vị trí của thanh thép và hai lực
P1 và P2 do các quả cân tác dụng lên hai điểm A, B lên bảng sắt. Áp dụng các
công thức của quy tắc hợp lực song song để xác định điểm đặt O của lực tổng
hợp (đo OA = a). Ghi các giá trị P và a vào bảng số liệu.
- Móc 5 quả cân vào một điểm nào đó trên thanh thép sao cho ở vị trí đó,
thanh thép ở vị trí trùng với vị trí ở bước 2. Đo và ghi số liệu từ thí nghiệm a 1
vào bảng. Lặp lại bước này 1 lần nữa (a 2) và ghi vào bảng, từ đó tính giá trị
trung bình.
- So sánh kết quả thí nghiệm với kết quả tính toán và rút ra kết luận.
- Lặp lại các bước một lần nữa với AB = 16cm.
Kết thúc thí nghiệm: tháo các thiết bị dụng cụ và vệ sinh tại chỗ thí nghiệm.
V. Báo cáo thí nghiệm:
Bảng: Tổng hợp hai lực đồng quy
R từ hình vẽ
R từ đo đạc
Lần F1
F2
R= R ±∆
Tỷ lệ xích
l
TN (N) (N)
R(N) R1 R2 R ∆ R
(mm)
R
1mm ứng với

1
:….N
1mm ứng với
2
:…..N
* So sánh và rút ra kết luận:
Bảng: Tổng hợp hai lực song song cùng chiều
P từ tính toán P từ thí nghiệm
OA = a ( mm)
P1
P2
TN
P
OA
P
A =a ±
(N) (N)
a
∆a
(N)
(mm)
(N)
a1
a2
∆a
1
2
* So sánh và rút ra kết luận:
Bài 57: (tiết 79- 80 theo PPCT) ĐO HỆ SỐ CĂNG BỀ MẶT CỦA CHẤT
LỎNG

I. Mục đích:
- Khảo sát hiện tượng căng bề mặt của chất lỏng.
16


- Đo hệ số căng bề mặt.
II. Cơ sở lý thuyết:
- Mặt thoáng của chất lỏng luôn có lực căng,
theo phương tiếp tuyến với mặt thoáng. Những lực
căng này làm cho mặt thoáng chất lỏng tại nơi tiếp
xúc có xu hướng co lại đến diện tích nhỏ nhất (lực
căng này cũng là một nguyên nhân giải thích tại sao
con nhện nước lại có thể đi trên mặt nước và một vài
hiện tượng khác …). Nhìn chung, lực căng này rất
nhỏ N<<1N.
- Có nhiều cách để xác định lực căng bề mặt
này. Trong bài này, ta dùng một lực kế nhạy (loại 0,1
N), treo một chiếc vòng bằng nhôm có tính dính ướt
hoàn toàn đối với chất lỏng cần đo.
- Cho chiếc vòng này chạm mặt nước, sau đó ta
kéo từ từ chiếc vòng này lên. Khi đó, sẽ xuất hiện một
lực căng FC của chất lỏng, lực này có cùng phương
chiều với trọng lực P của chiếc vòng, hai lực này hướng xuống. Giá trị cực đại
lực F đo được trên lực kế sẽ bằng tổng của hai lực đó :
F = FC + P
- Giá trị lực căng bề mặt tác dụng lên một đơn vị dài của chu vi chiếc
vòng gọi là hệ số căng bề mặt σ của chất lỏng.
- Gọi D, d lần lượt là đường kính ngoài và đường kính trong của chiếc
vòng. Ta có:


σ=

FC
F −P
=
π (D + d ) π (D + d )

Đo F, P, D, d ta sẽ xác định được σ.
III. Dụng cụ thí nghiệm:
1. Vòng nhôm có tính dính ướt hoàn toàn.
2. Thước kẹp 0 ÷ 150mm dùng để xác định đường kính trong, đường kính
ngoài của chiếc vòng. Độ chia nhỏ nhất của thước kẹp này có thể là 0,1mm;
0,05mm; 0,02mm.

3. Lực kế 0,1N có độ chia nhỏ nhất là 0,001N.
4. Hai cốc nhựa đựng nước có ống cao su nối với nhau.
5. Giá treo lực kế.
17


IV. Lắp ráp thí nghiệm:
1. Lấy thước kẹp xác định đường
kính trong d và đường kính ngoài D của
vòng nhôm. (xác định 3 lần)
2. Lau sạch chiếc vòng bằng giấy
mềm, móc dây treo vòng vào lực kế 0,1N.
Treo lực kế lên thanh ngang để đo trọng
lượng P của vòng (đo khoảng 3 lần giá trị
của P)
3. Đổ vào hai cốc nước khoảng 50–

60% dung tích mỗi cốc. Để hai cốc ngang
bằng nhau, cho mực nước trong hai cốc không chêch lệch nhau nhiều.
4. Đặt vòng nhôm (cốc A) vào một cốc sao cho khoảng 50% vòng nhôm
nhúng vào trong nước. Cốc còn lại (cốc B) đặt sao cho lượng nước trong cốc kia
chảy qua (mực nước trong cốc đựng vòng nhôm hạ thấp xuống). Có thể đặt cốc
đựng vòng nhôm lên cao hơn cốc kia.
5. Chú ý mực nước trong cốc A và giá trị của lực kế. Giá trị cực đại của
lực kế chính là lực F cần tìm (ghi giá trị của lực F này vào bảng).
6. Lặp lại các bước 3, 4, 5 thêm 2 lần nữa.
Kết thúc thí nghiệm: lau sạch vòng nhôm, tháo các dụng cụ và vệ sinh nơi
thực hành.
V. Báo cáo thí nghiệm:
Bảng lực căng mặt ngòai của chất lỏng
Độ chia nhỏ nhất của lực kế : 0, 001N
∆FC (N)
Lần đo
P (N)
F (N)
FC = F - P (N)
1
2
3
Giá trị trung bình
Bảng đo đường kính của vòng nhôm:
Độ chia nhỏ nhất của thước kẹp : 0, 05 mm
∆D (mm)
Lần đo
D (mm)

d (mm)


∆d (mm)

1
2
3
Giá trị trung bình
Giá trị trung bình của hệ số căng mặt ngoài: σ =

FC
=…………….
π (D + d )

18


σ max − σ min
=………..
2
Viết kết quả của phép đo: σ = σ ± ∆σ =…………….

Tính sai số của phép đo : ∆σ =

Số liệu tham khảo
Độ chia nhỏ nhất của lực kế : 0, 001N
Lần đo

P (mN)

F (mN)


FC = F - P (mN)

∆FC (mN)

1

30.00

49.00

19.00

0.17

2

30.00

49.50

19.50

0.33

3

30.00

49.00


19.00

0.17

Giá trị trung bình

30.00

49.17

19.17

0.33

Độ chia nhỏ nhất của thước kẹp : 0,05mm
∆D (mm)
Lần đo
D (mm)

d (mm)

∆d (mm)

1

41.750

0.020


39.00

0.05

2

41.800

0.030

39.10

0.05

3

41.750

0.020

39.05

0.05

Giá trị trung bình

41.770

0.023


39.05

0.05

Giá trị trung bình của hệ số căng mặt ngoài: σ =

FC
= 75,50.10-3 N/m
π (D + d )

σ max − σ min
= 0,94. 10-3 N/m
2
Viết kết quả của phép đo: σ = σ ± ∆σ = 75,50.10-3 ± 0,94. 10-3 N/m.

Tính sai số của phép đo: ∆σ =

4. Hiệu quả của SKKN đối với hoạt động giáo dục, với bản thân, đồng
nghiệp và nhà trường:
Những kinh nghiệm trên đây đã được tôi vận dụng trực tiếp vào các giờ
học Vật Lý. Ngoài ra tôi còn chia sẻ với các đồng nghiệp trong tổ chuyên môn
Vật Lý- Công Nghệ trong nhà trường và được sử dụng có hiệu quả. Cụ thể như
sau:
- Đa số học sinh đã biết phán đoán, tự tay gây ra hiện tượng, và từ đó
hoàn thành tốt mục tiêu của bài học.
- Học sinh rất hứng thú khám phá khoa học bộ môn, yêu thích bộ môn
hơn và muốn chiếm lĩnh các kiến thức đó bằng chính năng lực của mình, để từ
đó sử dụng hiệu quả các kiến thức đó vào thực tế cuộc sống.
- Học sinh đã biết, hiểu được và học được phương pháp học tập của bộ
môn Vật lí đó là “phương pháp thực nghiệm” mà các em có thể vận dụng

phương pháp này trong nhiều lĩnh vực của cuộc sống sau này.
- Cuối kỳ, cuối năm chất lượng môn học có sự tăng trưởng vượt bậc, tỷ lệ
học sinh khá giỏi tăng, tỷ lệ học sinh yếu kém giảm.
19


III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Qua nhiều năm giảng dạy bộ môn Vật Lý tôi nhận thấy sử dụng thí
nghiệm Vật Lý trong dạy học ở trường THPT không chỉ là công việc bắt buộc,
mà nó còn là một trong những biện pháp quan trọng giúp nâng cao chất lượng
dạy học, góp phần tích cực hóa hoạt động nhận thức của học sinh. Sử dụng có
hiệu quả sẽ tạo ra sự trực quan sinh động trước mắt học sinh; có tác dụng giúp
việc dạy học Vật lý tránh giáo điều, hình thức; góp phần giúp học sinh củng cố
niềm tin khoa học, hình thành thế giới quan duy vật biện chứng cho học sinh, và
vận dụng phương pháp thực nghiệm trong nhiều lĩnh vực của cuộc sống.
Để đạt được mục tiêu đề ra góp phần nâng cao chất lượng bộ môn nói
riêng và chất lượng giáo dục nói chung tôi có một số kiến nghị như sau:
+ Nên tổ chức lớp tập huấn về sử dụng thiết bị Vật Lý cho giáo viên dạy
Vật Lý vào đầu năm học.
+ Thiết bị Vật Lý trong trường THPT nên thường xuyên được bổ sung và
thay thế để chất lượng đảm bảo hơn.
Vì thời gian nghiên cứu không dài, trình độ nghiên cứu còn non yếu nên
không thể tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót. Tôi mong được sự đóng góp ý
kiến của quý thầy cô giáo và các cấp lãnh đạo để chất lượng dạy học bộ môn Vật
Lý ngày càng nâng cao.
XÁC NHẬN
CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Cẩm Thuỷ, ngày 25 tháng 5 năm 2019
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết,

không sao chép nội dung của người khác.
Người thực hiện:

Nguyễn Kim Cúc

20


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Sách giáo khoa và sách giáo viên Vật Lý 10
2. Những bài tập hay về thí nghiệm Vật Lý………………Tác giả: V. Langué
3. Cuốn sách khổng lồ về các thí nghiệm khoa học ..........Tác giả: Alastair Smith
Và một số tài liệu tham khảo trên mạng Internet của các bạn đồng nghiệp.

21



×