Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

SKKN phân tích nghệ thuật xây dựng nhân vật trong tác phẩm hai đứa trẻ để hiểu thêm về tài năng truyện ngắn thạch lam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (643.8 KB, 24 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ

TRƯỜNG THPT NHƯ THANH 2

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

TÊN ĐỀ TÀI

KHƠI DẬY HỨNG THÚ TRONG GIỜ HỌC NGỮ VĂN
CHO HỌC SINH LỚP 11 TRƯỜNG THPT NHƯ THANH
II QUA HOẠT ĐỘNG KHỞI ĐỘNG BÀI HỌC NHẬP
CẢM

Người thực hiện: Lê Thị Thùy
Chức vụ: Giáo viên
SKKN thuộc môn: Ngữ văn

THANH HÓA NĂM 2018

Mục lục
ST

NỘI DUNG

TRAN
1


T
1


2

1. MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài
1.2. Mục đích nghiên cứu
1.3. Đối tượng nghiên cứu
1.4. Phương pháp nghiên cứu
2. NỘI DUNG CHÍNH
2.1. Cơ sở lí luận của vấn đề
2.1.1 Phần “ Khởi động” trong lí luận dạy học
2.1.2 Hứng thú – Những tác động của hứng thú
2.1.3 Từ góc độ của lí thuyết tiếp nhận và tâm thế trong giờ
học ngữ văn
2.2 Cơ sở thực tiễn
2.2.1 Đối với bộ môn nói chung
2.2.2 Đối với thực tiễn ở đơn vị giáo dục
2.3 Những “ Hoạt động khởi động nhập cảm” để khơi dậy hứng
thú trong giờ học ngữ văn
2.3.1 Hoạt động dò bài cũ mang tính định hướng, giới thiệu bài
học mới
2.3.1.1 Ưu điểm
2.3.1.2 Tiến trình cụ thể qua ví dụ minh họa
2.3.1.3 Phân tích dẫn chứng và hiệu quả đem lại
2.3.2 Hình thức “ Viết mở bài” - kết hợp lời bình của giáo viên
2.3.2.1 Ưu điểm
2.3.2.2 Chuẩn bị
2.3.2.3 Một số ví dụ minh họa
2.3.3 Sử dụng yếu tố thực tế như một công cụ đắc lực và linh
hoạt
2.3.3.1 Ưu điểm

2.3.3. 2 Những “ kênh” để sử dụng thông tin thực tế
2.3.4 Kĩ thuật “ Động não”, “ Nêu vấn đề” để học sinh hứng thú
và có nhu cầu tự chiếm lĩnh
2.3.4.1 Mặt lí luận
2.3.4.2 Hoạt động cụ thể
2.3.5 Hoạt động ‘‘Sân khấu hóa’’
2.3.5.1 Ưu điểm và hạn chế

G
1
1
2
2
2
2
2
2
3
4
5
5
6
7
7
7
7
9
9
9
9

10
12
12
12
14
14
14
17
17

2.3.5.2 Công đoạn chuẩn bị

17

2.3.5.3 Từ ‘‘Nhập thân’’ đến bài học

18

2.4 Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm

19
2


3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận
3.2. Những kiến nghị

19
19

20

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Dạy học giảng văn ở trường ptth - Nguyễn Đức Ân – nxb Đồng Tháp 1997
2. Giáo trình Phương pháp dạy học Ngữ văn- Trương Dĩnh – NXB Thuận Hóa
2000
3. Chia sẻ tâm hồn và quà tặng cuộc sống – Jack Canfield và Mark Victo hasen,
NXB Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh, 2005
4.Bài viết “ Thiết kế giờ dạy theo định hướng đổi mới phương pháp giáo dục” Tiến Sĩ Nguyễn Thúy Hồng. Báo GDTĐ 2016
5.Bài viết “ Từ lý thuyết tiếp nhận đến giảng dạy tác phẩm văn chương ở trường
THPT” – Lê Thị Phú- tạp chí NCGD TPHCM - 2015
DANH MỤCSÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC XẾP LOẠI.

T
T

Tên đề tài SKKN

1

“ Con đường hình thành ý thức
xây dựng tập thể đoàn kết, tiến bộ
cho học sinh lớp chủ nhiệm ở
trường THPT Như Thanh II”

Cấp đánh giá
xếp loại

Kết
quả

xếp
loại

Sở giáo dục

B

Năm
học

20132014

1. PHẦN MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài
3


Khi quyết định nộp hồ sơ vào Đại học sư phạm với chuyên nghành Ngữ văn,
cô giáo chủ nhiệm dạy môn văn của tôi đã chia sẻ : “ Đậu vào đại học sư phạm đã
khó, song để trở thành một giáo viên dạy văn đích thực không phải chuyện dễ
dàng đâu”. Qủa thực, ai trong số chúng ta, nếu đã lựa chon đều có thể “ dạy văn”
song để trở thành giáo viên dạy văn “ đích thực” như lời cô đã nói không đơn giản
chút nào. Có lẽ, bới đó không chỉ là một bộ môn mang tính “ khoa học” mà còn
mang tính “ nghệ thuật ” nên giáo viên không dễ thành công khị “chạm” được đến
“ ngưỡng” của vấn đề. Đến với tác phẩm văn chương, không chỉ để tìm hiểu thêm
về các tri thức liên quan đến xã hội, con người, đến giá trị nhận thức của tác phẩm
văn chương mà còn là để lắng nghe, thấu hiểu và đồng điệu, để gặp gỡ chính tâm
hồn mình để rung động thẩm mĩ và thanh lọc tâm hồn biết hướng tới chân- thiệnmĩ… Văn chương vừa có tính thực tế lại cũng vừa là chuyện “ trời mây non
nước” , có lẽ vì thế đôi lúc nó trở nên “chàng màng” ,“khó hiểu”, “khó tiếp nhận”
… (như những lời tâm sự rất chân thành của học sinh).

Trong xu thế hiện tại, khi học sinh (HS) ngày càng không còn hứng thú học
văn , thậm chí giờ học ngữ văn trở nên nhàm chán, gây buồn ngủ và thành “ nỗi
sợ” với học sinh… thì việc tìm cách để đem lại niềm đam mê đối với môn học là
nỗi trăn trở của mỗi giáo viên (GV) văn tâm huyết, và cũng là nỗi niềm trăn trở của
riêng tôi. Nỗ lực trong từng bài giảng, từng bước đi của bài học, ở mỗi thao tác nhỏ
và trong mỗi lời giảng… là điều mà tôi luôn tự nhủ với mình.
Tháng 5, khi sân trường ngập nắng, và ve đã râm ran, khi những bài kiểm tra
học kì đã kết thúc và không khí học đã trở nên rệu rã ở hầu hết các lớp học thì lũ “
chuột bạch” của tôi vẫn còn hăng say trong những bài giảng cuối năm. Có lẽ đó
cũng là cơ sở để một lần nữa tôi khẳng định rằng: chìa khóa để mở ra cánh cửa văn
chương là thế giới của tâm hồn và cảm xúc, mà để có được nó ta phải “ xây nền
đặt móng” từ ban đầu. Phải tạo cho học sinh tâm thế tốt nhất, phải khơi dậy được
niềm hứng thú, đam mê… mới nhen được ngọn lửa cảm xúc trong giờ văn . Đó
cũng là lí do mà tôi lựa chọn vấn đề trao đổi cùng đồng nghiệp qua sáng kiến kinh
nghiệm được mang tên “ KHƠI DẬY HỨNG THÚ TRONG GIỜ HỌC NGỮ
4


VĂN CHO HỌC SINH LỚP 11 Ở TRƯỜNG THPT NHƯ THANH II QUA
HOẠT ĐỘNG KHỞI ĐỘNG BÀI HỌC NHẬP CẢM” .
1.2 Mục đích nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu là quá trình tổng hợp, đúc rút lại những phương pháp mà
bản thân người viết đã sử dụng và nhận thấy có hiệu quả thực tế trong tiến trình
dạy học.
Là sự giải bày một phần nhỏ những phương pháp của bản thân trên tinh thần
cầu thị mong nhận được sự góp ý và trao đổi của đồng nghiệp để bản thân hoàn
thiện hơn trong từng bài giảng.
Bản thân còn mong muốn góp một phần nhỏ tiếng nói của mình để giải
quyết bài toán khó mà những “đồng môn” còn trăn trở : Tìm lại niềm cảm hứng
cho học sinh trong mỗi giờ học ngữ văn.

1.3 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng: Những giờ dạy học ngữ văn lớp 11 và đặc biệt là ở những tiết
giảng văn (Những bài học liên quan nhiều đến cảm xúc).
Phạm vi: sáng kiến kinh nghiệm của tôi chỉ dừng lại ở một phần rất nhỏ
trong toàn bộ tiến trình của giờ học: Phần “khởi động” giờ học.
1.4 Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu lí luận: Thu thập, nghiên cứu những lí luận bàn về
các vấn đề liên quan đến lý thuyết dạy học phần “ nhập cảm”
- Phương pháp quan sát thực tế: Quan sát thực tể những biểu hiện của HS trong
quá trình học tập, từ đó có thể đánh giá được thái độ và hứng thú học tập của HS.
- Phương pháp điều tra, đối sánh
2. PHẦN NỘI DUNG CHÍNH
2.1. Cơ sở lí luận của vấn đề
2. 1.1 Phần “ Khởi động” trong lí luận dạy học
- Tiến sĩ Nguyễn Thúy Hồng (viện CL và CTGD) trong bài viết “ Thiết kế
giờ dạy theo định hướng đổi mới phương pháp giáo dục” đã đề xuất các bước
chuẩn cơ bản của một tiết dạy như sau:
5


Bước 1: Kiểm tra sự chuẩn bị của HS
Bước 2: Tổ chức dạy học bài mới
-

GV giới thiệu bài mới :
Tổ chức, hướng dẫn HS suy nghĩ, tìm hiểu, khám phá và lĩnh hội nội
dung bài học

Bước 3: Luyện tập, củng cố
Bước 4: Đánh giá

Bước 5: hướng dẫn HS học bài, làm việc ở nhà
Như vậy, ở tất cả các môn học lý thuyết về dạy học luôn đặt bước giới thiệu
bài học là một phần “cứng” trong tiến trình dạy học.
Đối với môn Ngữ văn đó là một bước không thể nào thiếu được tuy nhiên
như đã nói đó là một môn học không chỉ là “khoa học” mà còn mang tính “nghệ
thuật” đậm nét, vì vậy mỗi giáo viên dạy văn đôi khi cũng trở thành những người
“nghệ sĩ” không chỉ là người định hướng, dẫn đường mà còn là sự hóa thân vào tác
giả, vào nhân vật, vào dư luận… không chỉ là ở khâu giảng dạy mà còn là ở tiến
trình lên lớp luôn phải biến hóa linh hoạt phù hợp với từng bài giảng, từng “ngữ
cảnh” cụ thể … sao cho hài hòa nhất, tạo tâm thế tiếp nhận tốt nhất cho bài học.
Lí thuyết về phương pháp giảng dạy môn ngữ văn đề cao vai trò của phần
“khởi động” với tư cách là sự “dẫn nhập” mang tính cảm xúc và đồng thời là sự
định hướng cho học sinh về mặt kiến thức, tình cảm và còn là quá trình hoàn thiện
về nhân cách. GS Trương Dĩnh ,Thạc sĩ Lê Khánh Tùng - những nhà nghiên cứu
về phương pháp dạy học môn ngữ văn đều khẳng định “ Không thể có giờ dạy học
ngữ văn hiệu quả nếu thiếu đi phần khới động ấn tượng”.
2.1.2 Hứng thú – Những tác động của hứng thú
* Hứng thú trong cuộc sống
Hứng thú có tác dụng chống lại sự mệt nhọc và những cảm xúc tiêu cực,
duy trì trạng thái tỉnh táo ở con người. Hứng thú định hướng và duy trì tính tích
cực của con người, làm con người chịu khó tìm tòi và sáng tạo.
* Hứng thú trong dạy học
6


Dạy học là một nghệ thuật, người dạy – giáo viên là những “kỹ sư tâm hồn”,
sản phẩm tạo ra của quá trình dạy học là sản phẩm đặc biệt – con người (nhân
cách). Nó không hề giống với bất kỳ một ngành nghề nào. Điều đó đặt ra những
yêu cầu khắt khe đối với giáo viên. Theo William A. Ward thì: “ Người thầy trung
bình chỉ biết nói, Người thầy giỏi biết giải thích, Người thầy xuất chúng biết minh

họa, Người thầy vĩ đại biết cách truyền cảm hứng”.Từ đó ta thấy việc truyền cảm
hứng (gây hứng thú) học tập cho học sinh, người học là điều cực kì quan trọng và
cần thiết.
Luận ngữ có câu: “Biết mà học không bằng thích mà học, thích mà học
không bằng say mà học”. Yếu tố cảm xúc, say mê chính là động lực lớn thúc đẩy,
nuôi dưỡng sự cố gắng, nỗ lực học tập không ngừng của mỗi chúng ta. Cho nên,
nếu khơi dậy được sự hứng thú, say mê cho học sinh thì sẽ tạo ra động cơ học tập
tích cực, giúp các em hăng say, nỗ lực vượt qua mọi khó khăn, trở ngại để đạt kết
quả học tập tốt nhất, và từ đó người học sẽ tiếp nhận tri thức một cách chủ động và
tự giác, không bị ép buộc…Đặc biệt hơn, hứng thú là cơ sở để khơi nguồn của
cảm xúc , giờ học văn lại là giờ giao lưu về mặt tâm hồn, cảm xúc, là thế giới của
tâm tư tình cảm. Người học không thể tiếp nhận tích cực khi không có cảm xúc và
hứng thú. Lại càng không thể học tập hiệu quả nếu không thể có cảm hứng với giờ
văn.
2.1.3 Từ góc độ của lí thuyết tiếp nhận và tâm thế trong giờ học ngữ văn
Lý thuyết tiếp nhận văn học cho rằng tâm lí có vai trò cực kì quan trọng
trong việc tiếp nhận tác phẩm văn học. Mỗi tâm trạng trong mỗi hoàn cảnh đều có
tác động khác nhau đến việc hình thành kiến thức và sự hiểu hiểu biết về tác phẩm
văn học. Để có thể tiếp cận văn học tốt nhất thì phải chuẩn bị tâm lí tiếp nhận tốt
nhất, khi đó mỗi chủ thể tiếp nhận mới có thể trở thành một bạn đọc “ đồng sáng
tạo”.
Tâm thế tiếp nhận của chủ thể HS được GS Trương Dĩnh khái quát thành 3
dạng chủ yếu như sau:
7


+ Hân hoan chờ đón, sẵn sàng nhập cuộc: Đây là trạng thái tiếp nhận lí
tưởng nhất, là niềm mong ước của mỗi giáo viên nói chung và gv dạy ngữ văn nói
riêng. Có được tâm thế này cả giáo viên và Hs sẽ có được tiền đề cho một giờ học
đầy hứng khởi, say mê và hiệu quả.

+ Trạng thái tĩnh tại: HS trong tâm trạng bình thường, nói như cách nói của
dân gian là “ bặt chăng hay chớ” . Với tâm lí này, để nhen lên ngọn lửa say mê của
HS là điều vô cùng khó khăn với giáo viên. HS học bài thụ động và đôi lúc sẽ
khiến ngay cả GV cũng rơi vào trạng thái nhàm chán.
+ Thụ động, chán nản: Đây là tình trạng phổ biến của Hs bây giờ đối với
môn ngữ văn. Cảm giác buồn ngủ, thậm chí ngủ gật trong giờ học, sự mệt mỏi
buông xuôi thấy rất rõ… Chứng kiến điều này, ngay cả với những GV tâm huyết
cũng nản chí và đôi lúc chỉ muốn dạy cho chóng hết giờ. Đây chính là “ thảm họa”
với cả GV và Hs
2.2 Cơ sở thực tiễn đề tài
2.2.1 Đối với bộ môn nói chung
Việc đổi mới phương pháp dạy học là một nhiệm vụ, yêu cầu bắt buộc đối
với giáo dục nước ta hiện nay, đặc biệt đối với hệ thống giáo dục phổ thông, trong
đó có việc dạy và học môn Ngữ văn. Những năm gần đây, việc tích cực đổi mới,
đổi mới căn bản, toàn diện trong giáo dục của chúng ta đã đem lại nhiều kết quả
khả quan. Tuy nhiên, vẫn còn đó nhiều khó khăn, bất cập bởi sự đổi mới diễn ra
thường xuyên và liên tục về chương trình, thi cử, phương pháp…
Hứng thú học môn ngữ văn của HS vẫn là chuyện “ Biết rồi, khổ lắm…” bởi
xu thế hiện nay HS chỉ học bộ môn để đối phó, hoặc để thi cử… rất ít tìm được HS
học môn ngữ văn bằng niềm đam mê. Ở hầu hết các nhà trường, ngữ văn vẫn là
môn bị HS kêu ca, là môn học “ buồn ngủ ”, đem lại cảm giác “sợ” cho đa số HS.

8


Nhiều GV còn xem nhẹ bước “khởi động bài học”, còn “Ngại”, cho rằng
“rườm rà”… còn chưa nói đến việc chú ý đến lĩnh vực “ chuẩn bị tâm thế tiếp
nhận” và “ nhập cảm”
2.2.2 Đối với thực tiễn ở đơn vị giáo dục
* Khó khăn

Trường THPT Như Thanhh II là ngôi trường đóng ở vùng cao địa bàn tuyển sinh
chủ yếu là con em dân tộc (Xuân Thái, Thanh Tân, Thanh Kỳ, Yên Lạc.... ) Về kinh tế,
người dân còn gặp nhiều khó khăn. Thành phần dân cư chủ yếu là đồng bào dân tộc gây
ra những trở ngại nhất định về giao tiếp, về ngôn ngữ...Những đầu tư, khuyến khích về
mặt học hành cho con cái chỉ tính được trên đầu ngón tay trên mỗi lớp học, vì vậy HS
cũng không có điều kiện được tham khảo tài liệu, hay được hỗ trợ, tiếp xúc các phương
tiện đọc, học, nghe nhìn trực quan... để nâng cao hứng thú.
Một vài HS có điểm đầu vào trội hơn so với mặt bằng không chọn môn văn làm
môn thi khối theo xu thế thi cử hiện nay... điều này ảnh hưởng tâm lí đám đông về xu
thế học bộ môn với tập thể, ảnh hưởng ngay cả đến hứng thú dạy học của GV.
* Thuận lợi
Đa số HS ở đây đều được xác định là “ lành” biết nghe lời thầy cô và nếu được
khơi dậy sẽ có thể nhen nhóm lên ngọn lửa. Các em không được tiếp cận nhiều với
những phương tiện thông tin,vì vậy mỗi bài học mới lạ, mỗi câu chuyện thú vị... nếu
biết khơi gợi ,dẫn dắt... có thể tạo nên sự cuốn hút đối với các em. Đặc biệt, với số
đông HS là người dân tộc thiểu số, với tình cảm yêu – ghét rạch ròi... HS thường có
những tình cảm, cảm xúc rất mãnh liệt, là những tâm hồn mềm mại, dễ rung động trước
cuộc sống... cũng là một điều kiện thuận lợi để khơi dậy niềm hứng thú với một bộ môn
mang tính cảm xúc, tâm hồn.
Nếu như đại đa số HS ở các trường khác trên toàn tỉnh đều tập trung vào các
khối “hot” như : A,B,D.... thì HS ở đây, do đầu vào quá thấp, chất lượng quá yếu... nên
các em lựa chọn môn văn thi khối như một lựa chọn không thể khác. Với sự xác định
9


ấy, gv bộ môn ở đây có thể định hướng ngay từ đầu khuyến khích HS bằng tâm lí, kết
hợp với một số bài giảng trên lớp... để thuyết phục các em.
Ban giám hiệu nhà trường luôn quan tâm, hỗ trợ và tạo điều kiện thuận lợi để
phát triển chuyên môn của nhà trường.
2. 3 NHỮNG “ HOẠT ĐỘNG KHỞI ĐỘNG NHẬP CẢM” ĐỂ KHƠI

DẬY HỨNG THÚ TRONG GIỜ HỌC NGỮ VĂN
2.3.1

Hoạt động dò bài cũ mang tính định hướng, giới thiệu bài học mới

Thực ra nếu dẫn dắt bài học bằng cách này có lẽ nhiều đồng nghiệp cũng từng
làm, thậm chí là phổ biến. Tuy nhiên, để tạo thành một hệ thống logic, chỉnh thể đồng
thời vừa kết hợp kiểm tra kiến thức cũ, vừa giới thiệu bài mới một cách ấn tượng trong
mối liên quan và tạo được hứng thú thì tôi nghĩ không phải là đơn giản. Kỹ thuật vào
bài này cần có sự đầu tư, sáng tạo một cách nghiêm túc và tâm huyết của GV. Dưới đây
là một số trải nghiệm của bản thân tôi.
2.3.1.1

Ưu điểm

Đối với cách dẫn nhập này, ta không cần tốn thời gian để chia cắt làm 2 bước
(kiểm tra bài cũ, giới thiệu bài mới như thông thường), là cách làm “hai trong một” mà
vẫn khá ấn tượng
Hệ thống kiến thức trong cái nhìn tổng thể, đối chiếu, so sánh, tương liên... tri
thức sẽ vững vàng và sâu sắc hơn.
Lưu ý:
Việc kiểm tra bài cũ kết hợp giới thiệu bài mới mà có thể tạo ta “ hứng thú” và
“tâm thế” thì dĩ nhiên GV không thể tùy hứng được, mà đương nhiên phải có “kịch
bản” rõ ràng cho tiến trình, bước đi, thậm chí từng câu hỏi gợi mở cụ thể để hướng đến
bài học mới một cách ấn tượng.
2.3.1.2

Tiến trình cụ thể qua ví dụ minh họa

* Câu hỏi và đáp án chuẩn bị

- Câu hỏi:
Câu hỏi 1: Hãy khái quát lại những đặc trưng cơ bản nhất của chủ nghĩa lãng mạn?
Những đặc trưng ấy được thể hiện như thế nào trong tác phẩm của Thạch Lam?
10


Đáp án chuẩn bị:
+ Về nội dung: Nếu văn học hiện thực viết về cuộc sống “như nó vốn có” thì văn học
lãng mạn lại viết về cuộc sống “như nó ước mơ”
+ Về nghệ thuật: tập trung xây dựng hình ảnh những con người phi thường trong hoàn
cảnh phi thường ; Sử dụng nghệ thật đối lập như một nguyên tắc cơ bản (có phân tích
ngắn gọn kèm theo: Đối lập ánh sáng và bóng tối, Hà Nội và Phố huyện)
Câu hỏi 2: Đặc điểm nào của văn học lãng mạn chưa thể hiện rõ nét trong tác phẩm
của Thạch Lam? Giải thích?
Đáp án chuẩn bị:
+ Nội dung: có thể hiện được ước mơ, hướng về một cuộc sống tốt đẹp hơn. Ông kêu
gọi, thúc dục con người hãy biết ước mơ, hãy biết khát khao song nhìn chung cuộc
sống ấy vẫn tàn lụi, đượm buồn.
+ Nghệ thuật: Đã sử dụng thành công nghệ thuật đối lập như một nguyên tắc cơ bản,
song thế giới nhân vật trong tác phẩm của Thạch Lam là thế giới nhân vật bé nhỏ, đáng
thương nhuốm sắc màu hiện thực chưa mang rõ nét “ Con người phi thường trong
hoàn cảnh phi thường”
* Dẫn nhập tạo tâm thế và cảm xúc
Bước 1: Nhận xét phần trả lời của HS
Bước 2: Lồng ghép để dẫn dắt: Cũng là một nhà văn lãng mạn, cũng là nhà văn tiêu
biểu của “ Tự lực văn đoàn” song nếu Thạch Lam chọn thế giới của những con người
yếu đuối, bé nhỏ và tội nghiệp man mác sắc màu hiện thực thì Nguyễn Tuân đã “ xây
dựng được những con người phi thường trong hoàn cảnh phi thường” . Nếu Thạch
Lam lại là nhà văn “duy cảm” với những dòng cảm xúc lấp lánh về số phận và sự bé
nhỏ của con người và niềm hi vọng rất mong manh, thì Nguyễn Tuân lại là nhà văn “

duy mĩ” tôn thờ thế giới của cái đẹp và thể hiện niềm tin mãnh liệt rằng cái đẹp luôn
chiến thắng như ông đã ước mơ.... Có thể nói, tác phẩm của Nguyễn Tuân là một đại
diện đầy đủ cho chủ nghĩa lãng mạn. Vậy những con người ấy là ai? Họ đã phi thường
như thế nào? Nguyễn Tuân đã gửi gắm những mơ ước gì trong tác phẩm? Và cái đẹp
trong tác phẩm của ông được khai thác ở phương diện nào... Câu hỏi ấy sẽ được giải
11


đáp trong bài học ngày hôm nay với tác phẩm tiêu biểu của ông trước cách mạng tháng
Tám:“ Chữ người tử tù”.
2.3.1.3

Phân tích dẫn chứng và hiệu quả đem lại

Định hướng nội dung tác phẩm: thế giới của cái đẹp, tư tưởng của tác phẩm, đặc
trưng của văn học lãng mạn.
Tâm thế tiếp nhận: Hs sẽ tò mò, háo hức với những vấn đề được đặt ra: những
con người phi thường ấy là ai? Hoàn cảnh phi thường như thế nào? Tại sao Nguyễn
Tuân được mệnh danh là nhà văn duy mĩ?
Cảm xúc của HS: sự chờ đợi khai thác nội dung bài học, hơn nữa, ngay từ đầu
với cách giới thiệu ở trên HS sẽ có thể hình dung ra được “ không khí” của tác phẩm và
chuẩn bị tâm thế “ nhập cuộc”
Với sự khơi gợi như vậy, cộng với sự linh hoạt của GV trong những bước tiếp
theo của bài học tôi tin rằng chúng ta sẽ có một giò học như mong đợi.
2. 3.2. Hình thức “ Viết mở bài” – kết hợp lời bình của GV
2.3.2.1: Ưu điểm:
Đây là cách giới thiệu khá linh hoạt và thoải mái, dễ ấn tượng, không gò bó. Giới
thiệu bài học tách rời kiểm tra bài cũ ,ta hoàn toàn chọn cách dẫn dắt trọng tâm nhất mà
không phải khuôn ép, phụ thuộc nội dung nào khác.
Ngắn gọn và súc tích.

Phát huy được lời bình của GV - một yếu tố vô cùng cần thiết của giờ dạy học
ngữ văn.
2.3.2.2 Chuẩn bị
Giáo án đầy đủ, chu đáo trong đó có các phần “ mở bài” đã được chuẩn bị nhằm
“ khơi nguồn cảm xúc”.
Sự chuẩn bị linh hoạt không chỉ là chuẩn bị cho từng buổi lên lớp cụ thể mà để
có được những “ mở bài” ấn tượng cho bài học, khơi dậy sự tích cực của HS là quá
trình học hỏi và tích lũy lâu dài trong quá trình trau dồi, học hỏi chuyên môn và ngay cả
trong đời sống.
12


Luôn có sổ tay tích lũy chuyên môn với những bài thơ, trích dẫn danh ngôn, câu
chuyện đời sống hoặc văn học thú vị, những tình huống liên quan...
2.3.2 3 Một số ví dụ minh họa.
* Sử dụng những câu chuyện như một cách “dẫn nhập” ấn tượng.
- Sau khi Kiểm tra bài cũ, nhận xét HS, GV có thể dẫn nhập như sau: Cách đây từ rất
lâu, trên báo “ Hoa học trò” ở chuyên mục “ Cafe chiều thứ 7” có đăng tải một câu
chuyện mang tên “ Dịp đặc biệt” , câu chuyện ấy đã để lại trong lòng cô những ấn
tượng vô cùng sâu sắc. Hôm nay cô sẽ chia sẻ với các em: Một gia đình nhà nọ sinh
được hai anh em, một người anh trai và cô em gái. Mỗi ngày hai anh em đều đi học
cùng nhau. Một buổi sáng, em gái dắt anh vào tiệm bán đồ lưu niệm và thì thầm “ anh
ơi! Sợi dây chuyền này xinh quá!”. Hai anh em ra về trong niềm khát khao của cô bé
và những suy nghĩ, dự tính của người anh. Một kế hoạch được đặt ra: Mỗi ngày người
anh đều nhịn ăn sáng để hoàn thành mục tiêu có thể tặng em gái sợi dây chuyền vào
sinh nhật tròn 15 tuổi. Sinh nhật em, món quà mơ ước đã được đặt lên bàn, mắt cô bé
sáng long lanh ngập tràn niềm vui sướng. Nhưng sau khi ướm thử, cô bé lại gỡ ra và
cất vào một nơi trang trọng và nói với anh rằng: “ Em sẽ đeo nó vào dịp thật đặc biệt,
anh trai!”. Tuy nhiên, không lâu sau đó, một tai nạn giao thông đã cướp mất người em
và sợi dây chuyền vẫn còn mới tinh trong tủ. Đưa em ra nghĩa trang, người anh trở về

lặng lẽ cầm sợi dây chuyền trên tay và nói trong nước mắt: “ Em thật ngốc! mỗi ngày
chúng ta được sống đây đã một dịp đặc biệt rồi!”... Câu chuyện ấy, quả là một bài học
quý giá với mỗi chúng ta, và cũng chính là thông điệp mà tác giả Xuân Diệu đã gửi
gắm qua bài thơ “ Vội vàng” : Chúng ta phải luôn trân trọng, nâng niu từng khoảnh
khắc mà mình được sống.
- Hiệu quả thực tế: sau câu chuyện, cả tập thể HS lớp 11a5 đã lặng đi, có em
lặng lẽ lau nước mắt. Giờ học diễn ra trong một tâm thế đón đợi, mong chờ... sau bức
tranh thiên nhiên có phần náo nức, vui tươi các em cảm nhận sâu sắc được “ niềm khắc
khoải thời gian” của Xuân Diệu. Đồng thời, tôi tin rằng không chỉ nắm vững kiến thức
bài thơ với quan niệm sống mới mẻ và sâu sắc, đầy tính nhân văn mà các em còn hiểu
sâu sắc giá trị của cuộc sống để yêu quý, để nâng niu thêm những khoảnh khắc tưởng
13


chừng như vô cùng giản gị của cuộc sống này. Và tôi tưởng chừng không chỉ bản thân
tôi mà chính bản thân các em đã “ đồng điệu” được với nỗi lòng tác giả.
* Trích dẫn thơ, danh ngôn bài hát, các nhận định văn học...
- Chuẩn bị: Thơ, lời bài hát, danh ngôn, nhận định, những phát ngôn ấn tượng... phù
hợp với nội dung bài học và mang tính định hướng về mặt nội dung, đồng thời có thể
tạo tâm lí tiếp nhận tốt nhất.
- Ví dụ minh họa: Giới thiệu về tác phẩm “ Chữ người tử tù” của Nguyễn Tuân: Nhà
phê bình văn học Hoài Anh từng nói về Nguyễn Tuân “ Là một nhà nghệ sĩ ngôn từ
đưa cái đẹp thăng hoa”, Nguyễn Đăng Mạnh cho rằng ông là người “ Suốt cuộc đời
đi tìm cái đẹp”. Có lẽ vì thế mà khi nhắc đến Nguyễn Tuân người ta còn nhắc đến một
nhà văn “ duy mĩ” . Tuy nhiên, trong tác phẩm của ông, không chỉ là cái đẹp thuần túy,
mà là cái đẹp chứa đựng những trăn trở về con người, về thời đại với bao nỗi niềm mà
văn nhân kí thác. “ Chữ người tử tù” đã tìm về cái đẹp của “ một thời vang bóng” với
bao nỗi niềm trở trăn như thế!
- Phân tích hiệu quả:
+ Cách dẫn nhập nêu ra một ấn tượng cơ bản nhất về Nguyễn Tuân: Người nghệ sĩ luôn

tìm về cái đẹp.
+ Tuy nhiên ngay từ đầu đã đưa học sinh vào tình huống “ có vấn đề” theo phương
pháp dạy học tích cực với vấn đề bổ sung: không phải là cái đẹp thuần túy mà chứa
đựng những nỗi niềm trăn trở về con người, về cuộc đời...đặc biệt vì sao lại là cái đẹp
của “ Một thời vang bóng”
Với cách “ dẫn nhập” đó, HS sẽ chú ý theo bài học, đặc biệt để tìm hiểu các
phương diện cái đẹp trong tác phẩm của Nguyễn Tuân. Đó cũng là lớp vỏ bề ngoài để
có thể bóc ra chiều sâu của tác phẩm.
* Suy lí, so sánh, dẫn dắt, liên tưởng... để “ dẫn nhập” vấn đề
- Chuẩn bị: Ở bước này, chúng ta cũng cần chuẩn bị, tích lũy những kiến thức có liên
quan. Thực tế giảng dạy cho thấy, mỗi bài học đều có rất nhiều cách khởi động, nếu tích
lũy được cầng nhiều, càng phong phú ta càng có sự lựa chọn tốt nhất, mang lại hiệu quả
cao nhất.
14


- Ví dụ minh họa: Có thể xét lại ví dụ ở phần 2.2.1.2 ở mục này đó cũng là một dạng
so sánh để tạo ấn tượng.
Do dung lượng của SKKN có hạn, người viết sẽ không trình bày thêm ví dụ ở
mục này, bởi nó cũng thuộc nhóm “ Viết mở bài’ tương tự như các bước đã nói ở trên.
Lặp lại sẽ gây nhàm chán, vì vậy sẽ giành dung lượng cho các phần sau.
2.3.3 Sử dụng những yếu tố thực tế như một công cụ đắc lực và linh hoạt
2.3.3.1 Ưu điểm
Cập nhật những vấn đề đang xảy ra trong cuộc sống không chỉ tạo nên tính hấp
dẫn, tính thực tiễn cho bài học mà còn đáp ứng được yêu cầu dạy học của thời đại mới,
giáo dục con người nhạy bén và thích ứng với thời đại.
2.3.3.2. Những “ kênh” để sử dụng thông tin thực tế.
* Facebook
- Facebook : Là một trang mạng xã hội đang thu hút một khối lượng đông đảo tham
gia, trong đó HS là một trong những “ cư dân mạng” tích cực với sự tương tác khá cao.

Facebook cũng là một “kênh” thông tin quan trọng được lứa tuổi HS yêu thích và sử
dụng. Những thông tin ấy thường được các em nắm bắt kịp thời và đôi khi có những
vấn đề, “hiện tượng mạng” , hoặc là một “làn sóng” ngôn ngữ nào đó được sử dụng
như một trào lưu.... GV có thẻ quan tâm đến những vấn đề đang xảy ra, sự kiện được
HS chú ý... và trong một vài trường hợp có thể lồng ghép trong giờ học.
- Ví dụ cụ thể:
+ Hiện tượng khai thác: Thực tế facebook của HS tại thời điểm đó: Vào những ngày
đầu tháng 11. 2017, đồng loạt các trang facebook cá nhân HS 11a5 đồng loạt để các
STT: Nguyệt Hà “ Chúng mình sẽ cùng nắm tay nhau, bắt đầu lại nhé!”; Đỗ Hương:“
Ngày mai sẽ là một ngày mới, rồi nắng sẽ lên thôi”; Huy Dương: “ Chúng ta sẽ ổn thôi
mà, cố lên, hỉm”; Linh Mốc: “ Tự tin lên, chúng tôi luôn bên bạn” ...
+ Dấn nhập từ thực tế: GV nhắc lại hiện tượng mạng của HS 11A5: những stt xuất
hiện trên trang cá nhân của các em gây ra nhiều thắc mắc, tò mò, thậm chí có người còn
vào thăm hỏi động viên chuyện tình cảm riêng tư của các e, nhất là trạng thái của
Nguyệt Hà... họ đều băn khoăn: stt ấy hướng đến ai? Chuyện gì đang xảy ra? Sự việc
15


cụ thể là như thế nào? ( những bạn khác, không phải HS trong lớp, không biêt chuyện
của lớp có thể lí giải và hiểu đầy đủ, cụ thể về các stt của các e không? )... Nhưng đặt
vào thời điểm này, tất cả những thành viên trong lớp của chúng ta đều hiểu những trạng
thái trên chúng ta đều hướng đến Trần thùy, Mỗi STT là một lời động viên, chia sẻ... và
chỉ có những thành viên trong lớp chúng ta mới hiểu được những chia sẻ ấy hướng đến
ai, và các bạn đang đề cập đến nội dung nào... Tất cả những yếu tố liên quan đến việc
tiếp nhận các sản phẩm giao tiếp ấy được gọi là “ngữ cảnh”. Vậy Ngữ cảnh là gì? Ngữ
cảnh bao gồm những yếu tố nào và có vai trò như thế nào trong giao tiếp? Chúng ta sẽ
tìm hiểu bài học hôm nay.
+ Ngoài ra chúng ta hoàn toàn có thể sử dụng những câu chuyện ý nghĩa được đăng tải,
những danh ngôn được chia sẻ... để vận dụng thực tế trong từng bài học. Khi dạy
chương truyện “ Hạnh phúc của một tang gia” người viết đã sử dụng bài báo “ Hoa

cho người sống”với những nội dung tương tự nhưng trong thời đương đại và có ý
nghĩa thời sự để dẫn dắt, nhập cảm.
- Hiệu quả thực tế: là những vấn đề hiện tại, đang được quan tâm, nó mang tính “ thời
sự”, và có lực “ hấp dẫn” với các em, Dùng chính những vấn đề các em đang biết,
đang quan tâm, thậm chí dùng chính câu chuyện và thông điệp của các em sẽ khiến các
em tích cực, hứng thú với giờ học, bởi các em sẽ tìm ra được “ mối liên quan” với chính
mình, là câu chuyện của mình.... chứ không còn suy nghĩ văn chương là chuyện tận
đẩu, tận đâu không liên quan gì tới mình cả.
* Những “ kênh” khác
- Thực ra nếu là người tâm huyết với chuyên môn thì ở mọi nơi, mọi lúc chúng ta đều
có thể tìm thấy những vấn đề, những câu chuyện thực tế trong cuộc sống để đưa HS
vào bài học một cách hứng thú: một tình huống ta gặp trên đường, một bản tin hay vấn
đề thời sự, một sự kiện mới ở trường, là “lớp sóng ngôn từ” trên mang đang trở thành
moden... chúng ta đều có thể vận dụng linh hoạt để dẫn dắt vào bài học.
- Cốt lõi của vấn đề là ở chỗ để các em thấy những bài học ấy cũng là cuộc sống của
các em, là vấn đề hôm nay chứ không phải là lí thuyết viễn vông không thực tế.
16


2.3.4. Kỹ thuật “ Động não”, “nêu vấn đề” để Hs hứng thú và có nhu cầu tự
chiếm lĩnh.
2.3.4.1 Về mặt lí luận:
Nếu các nhóm đã được áp dụng ở trên chủ yếu phụ thuộc vào sự vận động của GV để
tạo nên “ tâm thế” , thì ở đây tôi đã áp dụng và đề xuất thêm một số phương pháp tổ
chức để HS làm việc là chủ yếu. Tự các em tiếp cận một cách chủ động, tự tạo ra tâm
thế cho mình dưới sự định hướng của Gv.
2.3.4.2 Hoạt động cụ thể
* Hoạt dộng 1: Câu hỏi nêu vấn đề:
- Mở đầu bài học, GV dẫn dắt và đưa ra các câu hỏi nêu vấn đề, yêu cầu Hs giải quyết.
Và có thể, để giải quyết được vấn đề đó, phải ở trong cả nội dung của toàn bộ tiết học.

- Ví dụ minh họa:
+ Mở đầu bài học “Một số thể loại văn học : Thơ - truyện” GV chiếu lên máy chiếu
đối sánh 2 văn bản: 1 bên là trích đoạn đầu tác phẩm “ Chí Phèo” “ Hắn vừa đi vừa
chửi, bao giờ cũng thế...”; Bảng bên kia là đoạn thơ: “ Nỗi niềm Thị Nở”(Quang Huy)

(Câu hỏi nêu vấn đề và sự tích cực, chăm chú của HS)
+ Câu hỏi: Hai văn bản trên đây nói về nội dung nào? (nói về nhân vật Chí Phèo
trong tư thế say rượu)
+ Cách thể hiện nội dung ấy có gì khác? (một bên mang tính “tự sự”, kể rất tỉ mỉ, cụ
thể, rõ ràng, viết dài hơn thiên về kể việc... bên kia ngôn ngữ cô đọng, hàm súc và giàu
tính biểu cảm, thể hiện rất rõ cảm xúc của người viết)
17


+ Các em có thể lí giải sự khác nhau đó không? ( vì được viết ở các thể loại khác nhau
nên có những đặc trưng khác nhau về ngôn ngữ và cách thể hiên.)
+ Vậy các thể loại đó em xác định đó là những thể loại nào? (thơ và truyện, hay còn
gọi là tự sự và trữ tình)
- Như vậy qua bài tập mà các bạn vừa hoàn thiện các em thấy: có thể cùng một vấn đề
nhưng thơ và truyện có những cách biểu hiện khác nhau về cách thức biểu đạt cũng như
nội dung ý nghĩa.... Đó cũng là nội dung bài học ngày hôm nay, cúng ta sẽ tìm hiểu kĩ
càng, cụ thể hơn qua bài học “ Một số thể loại văn học: thơ, truyện”
- Phân tích hiệu quả: Hs sẽ hào hứng với nội dung mới lạ về “ Chí Phèo và Thị Nở” ,
đồng thời ngay từ đầu các em sẽ bị cuốn vào một loạt các “ vấn đề” được đặt ra
* Hoạt động 2: Tổ chức trò chơi
- Về lí thuyết
+ Phần “ nhập cảm” chỉ được cho phép trong một thời lượng nhỏ của tiết học với thời
gian hạn chế, tuy nhiên bản thân tôi cho rằng, thi thoảng có những tiết học ta có thể “
phá lệ”, cho các em được “ học – chơi”, “ Chơi – học” để thay đổi không khí và đồng
thời đem đến niềm hứng khởi.

+ Yêu cầu: Thời gian vẫn được hạn định trong một mức “ vượt khung” cho phép và trò
chơi được lên ý tưởng phải nằm trong khung và phù hợp với môn học, có mục đích xây
dựng bài học.
- Hoạt động cụ thể qua các bước tổ chức
+ Bước 1: Xác định trò chơi: Có các loại trò chơi: gói câu hỏi trắc nghiệm, điền khuyết,
trò chơi ô chữ...
+ Bước 2: Tổ chức chơi
+ Bước 3: Nhận xét và “ dẫn nhập”
- Ví dụ cụ thể
+ Trong quá trình giảng dạy tôi thường xuyên sử dụng các trò chơi, ở đâytôi sẽ nêu ví
dụ về trò chơi ô chữ sử dụng khi tôi dạy bài thơ “ Đây Thôn Vĩ Dạ”
+ Chuẩn bị cụ thể: GV soạn các câu hỏi, chuẩn bị ô chữ và các câu hỏi
Trò chơi tôi chuẩn bị gồm 11 hàng ngang. Sắp xếp từ khóa “ Đây thôn Vĩ Dạ”
18


1.

Ô chữ có 5 chữ cái: người được mệnh danh là “ vị tiên sinh của phong trào thơ

2.

Mới”, ông còn được xem là “ Cái gạch nối giữa hai thế kỉ? (Tản Đà)
Ô chữ 10 chữ cái: Biện pháp tu từ dùng hình thức hỏi nhưng không cần câu trả

3.
4.

lời? (Câu hỏi tu từ)
Ô chữ 6 chữ cái : Nơi Hàn Mặc Tử trút hơi thở cuối cùng? (Quy Hòa)

Ô chữ 8 cái: Ông được mệnh danh là “ Ngôi sao chổi xẹt qua bầu trời thơ Việt

5.

Nam” ? (Hàn Mặc Tử)
Ô chữ có 3 chữ cái:Được gọi là cố đô, là vùng đất gợi nhiều cảm hứng cho thi

6.

ca, nhạc họa? (Huế)
Ô chữ có 14 chữ cái: Người con gái đã gửi tặng bức bưu ảnh cho Hàn Mặc Tử

7.

khi ông ở trại phong Quy Hòa, Quy Nhơn? (Hoàng Thị Kim Cúc)
Ô chữ 9 chữ cái: Từ Hoài Thanh sử dụng để khái quát hồn cốt của thơ Hàn Mặc

8.

Tử, Chế Lan Viên? ( Điên cuồng)
Ô chữ 8 chữ cái: Người được mệnh danh “ Điên cuồng cùng Hàn Mặc Tử”?

9.

(Chế Lan Viên)
Ô chữ 7 chữ cái: Tên một tập thơ của Hàn Mặc Tử sau được đổi thành “ Đau

thương” (Thơ Điên)
10. Ô chữ 4 chữ cái: Tên một địa danh xứ Huế, xuất hiện trong bài thơ nổi tiếng
của Hàn Mặc Tử? (Vĩ Dạ)

11. Ô chữ 3 chữ cái: một loài cây quen thuộc được xuất hiên trong bài thơ “ Đây
thôn Vĩ Dạ” ? (Cau)
Tiến trình như sau:
+ Chia thành 5 nhóm, mỗi nhóm có 2 lượt bốc thăm (thông báo thể lệ)
+ Nhóm trưởng bốc thăm vị trí ô chữ hàng ngang
+ Các nhóm làm việc thảo luận và đưa ra đáp án (phản ứng nhanh)
+ Kết luận và đáp án được trình chiếu lại toàn bộ trên máy chiếu ( mục đích để cung
cấp, giới thiệu thêm kiến thức)

19


(Khi ô chữ đã được hoàn thành)
+ Thông báo kết quả nhóm thắng cuộc, khen thưởng (cộng điểm tích lũy cho các tổ
theo vị trí)
+ GV chốt lại các thông tin được cung cấp và giới thiệu bài thơ “ Đây thôn Vĩ Dạ”
Phân tích hiệu quả của hoạt động: GV sẽ thông báo trước về việc tổ chức trò
chơi để HS chuẩn bị kiến thức, với tất cả những hiểu biết về tác giả Hàn Mặc Tử và bài
thơ “ Đây thôn Vĩ Dạ” . Những hiểu biết đó được xem là kiến thức nền, với những gì
đã tìm hiểu Hs có thể dễ tiếp cận bài học; HS được tổ chức chơi trò chơi sẽ tạo ra được
động lực, không khí thi đua, sự hào hứng và khí thế cho tiết học
2.3.5 Hoạt động “ sân khấu hóa”
2.3.5.1
Những ưu điểm và hạn chế

Ưu điểm: Hs được làm việc, được hóa thân vào nhân vật văn học; Tạo tâm lí
hào hứng, khơi dậy sự tích cực, chủ động
Hạn chế: Mất nhiều thời gian chuẩn bị, đòi hỏi sự công phu; Dễ sa đà, ảnh
hưởng đến thời gian của tiết học.
2.3.5.2 Công đoạn chuẩn bị


20


Chọn Hs có khả năng diễn xuất, cho Hs chọn phần kịch bản phù hợp để có thể
diễn xuất (thời gian ngắn, công đoạn trọng tâm)
Yêu cầu các em làm việc nhóm (sẽ có cộng điểm thưởng nếu hoàn thành tốt, bởi
xem đó là một bài tập thực hành)
Nghiệm thu, chỉnh sửa trước khi sử dụng.
Từ “nhập thân” đến bài học

2.3.5.3

Bài học cụ thể đã được tôi sử dụng là trích đoạn “ Tình yêu và thù hận” (trích
Romeo và Juyliet- SGK Ngữ văn 11 tập 1)
Tiến trình:
Bước 1: Cho HS diễn kịch (phân đoạn đã được chuẩn bị)

(Sự hóa thân của Romeo và Juyliet qua diễn xuất của HS)
Bước 2: Nêu vấn đề: Đoạn kịch các bạn vừa diễn là vở kịch nào? Em cảm nhận được
điều gì qua màn kịch ở trên?
Bước 3: Nhận xét, hoàn thiện và “nhập cảm”
Phân tích hiệu quả : Hs tỏ ra vô cùng hào hứng khi chứng kiến màn kịch sống động
khi diễn viên lại chính là các bạn trong lớp; Hơn nữa đây còn là vở kịch về tình yêu,

21


khơi đúng tâm lí , lứa tuổi HS THPT sẽ tạo nên niềm háo hức, cảm xúc mong chờ của
Hs qua từng lời thoại của nhân vật kịch.

2.4

HIỆU QUẢ CỦA SKKN
Ý thức được vai trò của tâm thế tiếp nhận và yếu tố cảm xúc trong một giờ học

Ngữ văn, tôi đã sử dụng các kĩ thuật này nhiều năm và tôi nhận thấy việc sử dụng các
hoạt động “ vào bài nhập cảm” đã đem lại hiệu quả rõ rệt.
Kết quả quan sát: Ở hầu hết các lớp tôi phụ trách giảng dạy môn ngữ văn, đa số
các em học sinh tỏ ra hứng thú, có thái độ tốt với môn ngữ văn.
Kết quả qua số liệu:
Điểm số của các bài kiểm tra, các kì thi theo đề thi chung của nhà trường HS đều
đạt mức điểm khả quan và có tỉ lệ điểm khá, giỏi cao hơn hẳn so với mặt bằng điểm
đầu vào môn ngữ văn đầu khóa của các em. (chỉ 16/70 HS ở 2 lớp tôi dạy đạt điểm khá
đầu vào , giờ đây các em đã đạt 34/70 số điểm khá trong kì thi khảo sát giữa HK II lớp
11, Như vậy về tỉ lệ điểm khá tăng từ 23% lên đến 49% )
Với đầu vào rất thấp (không liệt là vào), tôi vẫn khuyến khích và động viên,
đồng thời tạo hứng thú, động cơ học tập để đào tạo HSG, nhiều năm liền tôi có HS đạt
giải HSG môn ngữ văn. Năm học 2017- 2018 đội tuyển HSG của nhà trường do tôi phụ
trách chính đã đạt 2 giải ba, ba giải KK (5/5). Kết quả đó chưa phải là cao, song đối với
những ngôi trường như của chúng tôi thì đó là cả một sự nỗ lực lớn của thầy và trò
3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
3.1 Kết luận
Trong quá trình áp dụng những phương pháp đưa ra trong sáng kiến kinh
nghiệm ở trên, tôi đã thu được những kết quả khả quan ban đầu. Tuy nhiên giáo
dục là quá trình lâu dài, và phải tùy vào từng đặc điểm vùng, miền, môi trường
sống cũng như những đặc điểm của từng tập thể HS để chúng ta có sự lựa chọn
phương pháp linh hoạt và phù hợp để đạt được hiệu quả cao nhất.
Trong phạm vi nghiên cứu còn nhỏ hẹp, cũng như những hạn chế về kinh
nghiệm chắc chắn đề tài sẽ còn những điểm phiến diện, thiếu sót, tôi hi vọng nhận
22



được nhiều sự góp ý, trao đổi của đồng nghiệp để đề tài hoàn thiện hơn, để bản
thân tôi được học hỏi nhiều hơn và trưởng thành hơn trong công tác.
Chúc các đồng nghiệp thành công với thiên chức của những người theo
nghiệp giáo, và trở thành “ Người giáo viên dạy văn đích thực”!
3.2 Kiến nghị
- Về phía nhà trường: Cần đầu tư nhiều hơn nữa các trang thiết bị và
phương tiện dạy học. Tích cực tổ chức các hoạt động ngoại khóa, sân khấu hóa các
tác phẩm văn học để bộ môn ngữ văn có sức lan tỏa và thu hút đối với HS.
- Đối với Sở giáo dục: Chúng tôi mong muốn được tham dự nhiều hơn các
lớp tập huấn về chuyên môn, Đặc biệt được tham gia các hội thảo để anh chị em
GV trong toàn tỉnh có cơ hội gặp gỡ, trao đổi kinh nghiệm để trau dồi chuyên môn.
Ngoài ra, kính mong Sở giáo dục sẽ phổ biến rộng rãi các sáng kiến kinh nghiệm
chất lượng về các trường THPT để chúng tôi có thêm tài liệu bồi dưỡng chuyên
môn, nghiệp vụ và được học hỏi thêm đồng nghiệp.
Tôi xin cam đoan sáng kiến kinh nghiệm này là tâm huyết và sự đúc kết của
bản thân mình, không sao chép của bất kì ai khác.
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG
ĐƠN VỊ

Thanh Hóa, ngày 15 tháng 05 năm 2018
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung của
người khác

Lê Thị Thùy

23



24



×