Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

So sánh phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân và Hoàng Phủ Ngọc Tường

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (56.63 KB, 12 trang )

Bài văn mẫu lớp 12
So sánh phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân và Hoàng
Phủ Ngọc Tường
Đề bài: So sánh phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân và Hoàng Phủ
Ngọc Tường qua tác phẩm Người lái đò sông Đà và Ai đã đặt tên cho
dòng sông.
Dàn ý phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân và Hoàng Phủ Ngọc
Tường
a. Giới thiệu khái quát về 2 tác phẩm
- Người lái đò sông Đà: Là tùy bút đặc sắc, in trong tập Sông Đà, Nguyễn
Tuân đi tìm chất vàng của thiên nhiên và chất vàng mười đã qua thử lửa
trong tâm hồn người lao động miền Tây Bắc.
- Ai đã đặt tên cho dòng sông? Là bút kí viết về vẻ đẹp của dòng sông
Hương, qua đó ca ngợi vẻ đẹp của một vùng văn hóa xứ sở và con người
xứ Huế.
=> Đều là thể kí in đậm phong cách nghệ thuật tài hoa, uyên bác của hai
nhà văn
b. Giải thích khái niệm phong cách nghệ thuật
- Là một phạm trù thẩm mĩ, chỉ sự thống nhất tương đối ổn định của hệ
thống hình tượng của các phương tiện biểu hiện nghệ thuật, nói lên cái
nhìn độc đáo trong các sáng tác của nhà văn, trong tác phẩm riêng lẻ,
trong trào lưu văn học hay văn học dân tộc.


- Phong cách văn học có dấu hiệu riêng và nổi lên trên bề mặt của tác
phẩm như một thực thể hữu hình , mà yếu tố cơ bản là nội dung và hình
thức tác phẩm. Chỉ có ở những nhà văn có tài năng, có bản lĩnh mới có
được phong cách riêng độc đáo.
c. Khái quát về phong cách nghệ thuật của hai nhà văn
- Nguyễn Tuân: uyên bác, tài hoa, không quản nhọc nhằn để cố gắng khai
thác kho cảm giác và liên tưởng phong phú, bộn bề, nhằm tìm cho ra


những chữ nghĩa xác đáng nhất, có khả năng là lay động người đọc nhiều
nhất.
- Hoàng Phủ Ngọc Tường: Có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất trí tuệ
và tính trữ tình, giữa nghị luận sắc bén với suy tư đa chiều được tổng hợp
từ vốn kiến thức phong phú về triết học, văn hóa, lịch sử, địa lí. Tất cả
được thể hiện qua lối hành văn hướng nội, súc tích,mê đắm và tài hoa.
d. Nêu những nét tương đồng trong phong cách nghệ thuật của hai
tác giả g thể hiện qua hai tác phẩm:
- Đều là thể loại tuỳ bút và đều thấm đẫm chất trữ tình: ghi chép , miêu tả
chi tiết cụ thể về vẻ đẹp của đối tượng được đề cập đến trong văn bản,
qua đó bộc lộ cảm xúc, suy tư và nhận thức đánh giá của mình về đối
tượng đó. Cụ thể:
+ Người lái đò sông Đà: Miêu tả dòng sông Đà với hai tính cách đối lập
nhau, sông Đà sinh thể sống, có tâm trạng, có tính cách, rồi sông Đà như
một cố nhân. Bên cạnh đó là người lái đò bình dị mà tài hoa, trí dũng, rất
đáng khâm phục và trân trọng.
+ Ai đã đặt tên cho dòng sông? Miêu tả dòng sông Hương thấm đẫm chất
thơ: thơ mộng, dịu dàng, chung tình làm mê đắm lòng người bởi có vẻ


đẹp của một người thiếu nữ, của một người mẹ phù sa bồi đắp cho một
vùng văn hóa xứ sở.
- Hai cây bút đều tài hoa, uyên bác
+ Người lái đò sông Đà: Nguyễn Tuân sử dụng kiến thức của nhiều ngành
khi miêu tả con sông Đà như: địa lí, quân sự, điện ảnh, võ thuật và tài hoa
ở cách sử dụng ngôn từ: nhiều từ ngữ độc đáo mới lạ, sử dụng nghệ thuật
liên tưởng, tưởng tượng, so sánh, nhân hóa.
+ Ai đã đặt tên cho dòng sông: Hoàng Phủ Ngọc Tường am hiểu về các
lĩnh vực địa lí, lịch sử, văn hóa, thi ca và miêu tả dòng sông bằng bút
pháp nghệ thuật miêu tả đặc sắc như: liên tưởng, tưởng tượng, so sánh

nhân hóa.
e. Nét khác biệt: Thể hiện cá tính sáng tạo độc đáo:
- Nguyễn Tuân với Người lái đò sông Đà: Nghiêng về phát hiện và diễn
tả những hiện tượng đập mạnh vào giác quan người đọc (Phân tích con
sông Đà Hung bạo và cuộc chiến giữa người lái đò với con sông).
- Hoàng Phủ Ngọc Tường với Ai đã đặt tên cho dòng sông?: Thiên về
chất thỏ trữ tình dịu ngọt ( Phân tích sông Hương để nhận thấy).
g. Đánh giá nhận xét.
- Họ đều là những nhà văn tài năng, tâm huyết với nghề, có tâm với nghề.
- Có tình yêu quê hương đất nước thiết tha.
Phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân và Hoàng Phủ Ngọc Tường


Nghệ thuật là lĩnh vực của cái độc đáo, vì vậy đòi hỏi người sáng tác phải
có phong cách nổi bật tức là phải có nét gì đó rất riêng biệt mới lạ thể
hiện trong tác phẩm của mình. Phong cách văn học là một yếu tố quan
trọng và góp phần không nhỏ trong quá trình định giá tác giả, tác phẩm
đó. Bởi thế mỗi nhà văn, nhà thơ phải tạo cho mình một nét riêng không
thể trộn lẫn, đem đến cho người đọc một sự mới lạ mà khi nhìn vào
những tác phẩm ấy độc giả sẽ biết ngay đó là sản phẩm của tác giả nào.
Và Nguyễn Tuân, Hoàng Phủ Ngọc Tường chính là hai tiêu biểu cho điều
đó mà có lẽ nổi bật nhất trong việc làm nên phong cách của các nhà văn
là hai bài Tùy bút “Người Lái Đò Sông Đà” và “Ai đã đặt tên cho dòng
sông”.
Thật vậy, “phong cách là cái còn lại hoặc hạt nhân mà sau khi từ nhà văn
chúng ta bóc đi những cái không phải của bản thân anh ta, và tất cả những
cái anh ta giống người khác”. Nói cách khác đi, phong cách nghệ thuật
của Nhà văn là nét riêng biệt, độc đáo của nhà văn ấy, trong quá trình
nhận thức và phản ánh cuộc sống thể hiện trong tất cả các yếu tố nội dung
và hình thức của từng tác phẩm cụ thể. Chẳng hạn, đối với người cha để

của “Người Lái Đò Sông Đà”, Nguyễn Tuân mang một phong cách uyên
bác, tài hoa không quản nhọc nhằn để cố gắng khai thác kho cảm giác và
liên tưởng phong phú, bổn bể nhằm tìm ra những chữ nghĩa xác đáng
nhất, có khả năng làm lay động lòng người đọc nhất. Ngược lại nét đặc
sắc trong tác phẩm của Hoàng Phủ Ngọc Tường lại là sự kết hợp nhuần
nhuyễn giữa chất trí tuệ và tính trữ tình, giữa nghị luận sắc bén với suy tư
đa chiều, được tổng hợp từ cuốn kiến thức phong phú về triết học, văn
hóa, lịch sử, địa lí. Hai nhà văn mang trong mình hai phong cách khác
nhau, nhưng tuy nhiên vẫn có những nét chung mà độc giả dễ dàng nhận
thấy. Xuyên suốt hay bài “Người Lái Đò Sông Đà” và “Ai đã đặt tên cho


dòng sông”, chúng ta thấy được điểm giống nhau trước hết thể hiện qua
chất trí tuệ uyên bác.
Nếu như Nguyễn Tuân có khả năng vận dụng trí tuệ của nhiều ngành,
nhiều nghề khác nhau trong khi miêu tả về đối tượng sáng tác của mình,
thì Hoàng Phủ Ngọc Tường cũng vậy. Điều đó thể hiện qua cảnh con
sông Đà hung bạo với những trận thủy chiến của người lái đò, đã được
Nguyễn Tuân ghi lại bằng những tri thức về điện ảnh. “Tôi sợ hãi mà nghĩ
đến một anh bạn quay phim táo tợn nào muốn chuyền cảm giác lạ cho
khán giả đã dũng cảm dám ngồi vào một cái thuyền". Cho đến “bị vứt vào
một cái cốc pha lê nước, khổng lồ vừa rút lên, cái gậy đánh phên”, về địa
lý, về thể dục thể thao “hàng tiền vệ, có hai hòn canh, một cửa đá trông
như là sơ hở, nhưng chính hai đứa giữ vai trò dụ cái thuyền đối phương đi
vào sâu nữa…”, về quân sự “vòng đấu vừa rồi nó mở ra năm cửa trận, có
4 cửa tử, một cửa sinh, cửa sinh nằm lập lờ phía tả ngạn sông…”, về võ
thuật “đánh đòn chả đánh đến ầm vào chỗ hiểm”.
Đến với “Ai đã đặt tên cho dòng sông” của Hoàng Phủ Ngọc Tường nhà
văn đã cung cấp cho người đọc một lượng kiến thức phong phú, đa dạng
về sông Hương. Nhờ đó mà chúng ta có cái nhìn sâu sắc, toàn diện về vẻ

đẹp của sông Hương. Dưới góc độ địa lý, tác giả đã cung cấp cho ta
những kiến thức cơ bản về thủy trình của dòng sông kéo dài suốt từ
“Cung Thượng Lưu, chảy qua thành phố Huế, vòng về hướng Đông Bắc
để đi ra biển”. Ở phía thượng nguồn sông Hương mang vẻ đẹp hùng vĩ,
“rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn, mãnh liệt, qua những ghềnh khác cuộn
xoáy như cơn lốc vào những đáy vực bí ẩn”, “phóng khoáng và man dại”
giống như một cô gái Di gan thích nhảy múa, ca hát với một vẻ đẹp tự
nhiên và trong sáng, chảy qua rừng núi về đến đồng bằng sông Hương lại
trở nên dịu dàng. “Uốn những đường cong dịu dàng”, “dòng sông mềm đi


như tấm lụa”, “êm đềm trôi đi giữa hai dẫy đồi sừng sững như thành,
quách”.
Và để nhân cách hóa lên nhà văn đã hình dung dòng chảy sông Hương
giống như một cuộc hành trình tìm kiếm có ý thức của người con gái đẹp
ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hóa về đến nơi gặp người tình mong
đợi và dòng chảy của sông Hương lúc này đã biến thành những đường
cong mềm mại, quyến rũ của một người gái đẹp. Khi vào giữa lòng thành
phố Huế, dòng sông lại trở nên tĩnh lặng “trôi đi chậm, thực chậm, cơ hồ
chí là một mặt hồ yên tĩnh”. Điều này đã được Hoàng Phủ Ngọc Tường lý
giải một cách độc đáo về dòng chảy của sông Hương dưới góc độ địa lý.
Khi vào đến thành phố Huế sông Hương chia thành nhiều nhánh nhỏ, lại
bị hai hòn đảo chặn nhanh trên dòng sông đã làm giảm hẳn lưu tốc của
dòng nước. Khi đang xuôi dần về cồn Hiến, nằm mơ màng thì thật bất
ngờ khi rời khỏi thành phố Huế sông Hương đã “đột ngột đổi dòng rẽ
ngoặt Sang hướng Đông Tây để gặp lại thành phố lần cuối ở góc thị trấn
Bảo Vinh xưa cổ”.
Thêm vào đó dòng chảy của sông Hương còn gắn liền với hàng loạt
những địa danh quen thuộc của xứ Huế. Như Hòn Chén, Nguyệt biều,
vọng Canh, Tam thai, Lưu Bảo. Khiến cho dòng chảy của sông Hương

không hề đơn điệu, tẻ nhạt mà vô cùng sống động. Đồng thời, khẳng định
mối quan hệ không thể tách rời giữa sông Hương và Huế. Dưới góc nhìn
lịch sử Hoàng Phủ Ngọc Tường lại gọi sông Hương là “trang sử thi viết
giữa màu cỏ lá xanh biếc” đã gợi lên vẻ đẹp của sông Hương. Theo nhà
văn trong các dòng sông đẹp trên thế giới chỉ có sông Hương là con sông
chảy duy nhất trọn vẹn trong lòng một thành phố và chính dòng chảy đặc
biệt đó của sông Hương đã khiến nó trở thành một chứng nhân lịch sử ghi
dấu lại toàn bộ lịch sử của xứ Huế. Tác giả đã có cái nhìn tận sâu về quá
khứ, để thấy được những đóng góp to lớn của sông Hương trong việc làm


nên những trang sử hào hùng của xứ Huế, xuốt từ thời các vua Hùng
dựng nước, giữ nước, đến tận cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ vĩ đại,
và Sông Hương cũng chịu tổn thất không nhỏ trong việc làm nên những
trang sử hào hùng đó. Và quả thực sông Hương đã biến đổi mình là một
chiến công khi tổ quốc cần, đất nước kêu gọi.
Nhà văn còn trích dẫn câu chuyện “tháng trước tôi được dịp có mặt trong
cuộc tiếp đón ở thành ủy Huế chào mừng đoàn đại biểu hội nghị tổng kết
chiến tranh tại thành phố, thay mặt Quân ủy Trung ương đồng chí Đại
tướng phát biểu “lịch sử Đảng đã ghi bằng nét son tên của thành phố Huế,
thành phố tuy nhỏ nhưng đã cống hiến rất xứng đáng cho Tổ Quốc. Đồng
chí nói đầu cúi xuống ngực hai bàn tay chắp lại trong cử chỉ kính cẩn của
người già mắt ngấn lệ và người nghe tất cả đều lặng đi trong cảm xúc đột
ngột của một lời thề”, điều đó lại một lần nữa đã khẳng định trong cảm
nhận của biết bao con người Việt Nam nói chung, sông Hương giống như
một người anh hùng khiến ta tôn kính, ngưỡng mộ nhưng cũng đầy cảm
phục, xót xa trước những cống hiến vĩ đại và hi sinh thầm lặng của dòng
sông trong việc làm nên lịch sử của xứ Huế nói riêng, lịch sử dân tộc Việt
Nam nói chung. Về văn học tác giả gọi sông Hương là “người mẹ phù sa
của một cung văn hóa xứ sở” đã sản sinh, nuôi dưỡng, bồi đắp cho nền

văn hóa Huế. Không những thế, sông Hương còn là dòng sông của âm
nhạc “người tài nữ đàn lúc đêm khuya” đã gợi lên một nét văn hóa đặc
sắc của xứ Huế. Người ta thường tổ chức các buổi trình diễn âm nhạc cổ
điển Huế trên dòng sông Hương vào đêm khuya, nhà văn khẳng định
“toàn bộ nền âm nhạc Huế được sản sinh trên mặt nước dòng sông này”
và hơn thế sông Hương còn là dòng sông của thi ca “có một dòng thi ca
về sông hương”, dòng sông không bao giờ tự lập lại trong cảm hứng của
các nghệ sĩ.


Đặc biệt chung thứ 2 trong cách viết bút kí của Nguyễn Tuân và Hoàng
Phủ Ngọc Tường đó là một ngôn ngữ đầy chất thơ, đến với sông Đà
người đọc cảm nhận được chất thơ qua con sông đà trữ tình. Thay vì bề
mặt hung bạo, dữ tợn trên kia, thì giờ đây sông Đà lại được miêu tả một
cách thơ mộng, đậm chất trữ tình, “con sông đà tuôn dài, tuôn dài như
một áng tóc trữ tình, đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc,
bung nở hoa ban hoa gạo tháng 2 và cuồn cuộn mây khói núi Mèo đốt
Nương Xuân”. Rồi là “mùa xuân đồng xanh ngọc bích như nước sông Đà
không xanh màu xanh cánh Hến của sông gấm, Sông Lô. Mùa thu nước
sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt của một người bầm đi vì rượu bữa, lừ
lừ các màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn, bực bội gì mỗi độ Thu về”.
Không chỉ có con sông Đà và Sông Hương cũng hiện lên mang một chất
thi qua những hình ảnh nhòe mờ sương khói, đậm chất Huế: “lập lòe
trong đêm sương, những ánh lửa thuyền chài của một linh hồn mô tê xưa
cũ”. Những câu văn giàu hình ảnh, nhịp điệu trước khi về đến vùng châu
thổ êm đềm, nó đã là một bản trường ca của rừng già, rầm rộ giữa bóng
cây đại ngàn, mãnh liệt, qua những ghềnh thác, cuộn xoáy như cơn lốc
vào những đáy vực bí ẩn, có lúc nó trở nên dịu dàng và say đắm giữa
những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng”, một loạt hình
ảnh so sánh nhân cách hóa Sông Hương, khi lại là con người lãng mạn,

trữ tình, lúc lại là cô gái di gan phóng khoáng, man dại, khi lại là người
mẹ phù sa với vẻ đẹp dịu dàng, trí tuệ. Ngoài ra chất thơ còn toát lên từ
cảnh tác giả điểm xuyết những câu ca dao, lời thơ của Tản Đà, Cao Bá
Quát, Bà Huyện Thanh Quan vào trong bài Ký, “dòng sông trăng – lá cây
xanh” hay “như kiếm dựng trời xanh”. Và còn thể hiện ngay ở nhan đề
đầy bâng khuâng, man mát “Ai đã đặt tên cho dòng sông”.
Cuối cùng, cả hai tác giả đều tập trung phát huy các biện pháp nghệ thuật
như so sánh, nhân hóa, trường liên tưởng, tưởng tượng phong phú… Khi


miêu tả quãng mặt ghềnh hát gióng Nguyễn Tuân đã có sự so sánh, kết
hợp nhân hóa thật thú vị khiến cho dòng sông trở thành một kẻ thù
chuyên đi đòi nợ suýt, nham hiểm, hung bạo, tráo trở lúc nào cũng đi có
thể tước đoạt mạng sống của con người. “nước sô đá, đá xô sóng, sóng xô
gió cuồn cuộn luồng gió gầm ghê như lúc nào cũng đòi nợ suýt bất cứ
người lái đò nào qua đó”. Hay đoạn miêu tả những hút nước sông Đà,
trường liên tưởng của ông vô cùng phong phú. “nước ở đây thở và kêu
như cái cửa cống bị sặc”, “nước ặc ặc lên như rót dầu sôi vào”. Đặc biệt
nhất là âm thanh của thác nước sông đà, có lúc nó được nhân hóa thành
một con người tráo trở, nham hiểm, đang trong cơn giận dữ với nhiều
cung bậc, khi oán trách, khi van xin, khi khiêu khích, giọng gằn mà chế
nhạo”. Tiếng nước réo lại gần mãi, réo to mãi lên. “Tiếng nước thác nghe
như là oán trách gì, nối lại như van xin, khiêu khích giọng đàn mà chế
nhạo”. Có lúc nó lại được động vật hóa thành tiếng lóng của một ngàn
con trâu mộng. Tác giả đã dùng lửa để tả nước – hai sự vật vốn tương
khắc nhau, hủy diệt nhau, nhưng dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân lửa lại
hiếp sức cho nước, khiến sức nước trở nên dữ dằn vô cùng. “Thế rồi nó
rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vào
rừng tre, nứa nuốt lửa, đang phá tuông tường lửa, rừng lửa cùng gầm thét
với đàn trâu da cháy bùng bùng”. Đến với Hoàng Phủ Ngọc Tường nhà

văn đã dùng biện pháp nghệ thuật nhân hóa, để nội tâm hóa hình dáng của
dòng sông, biến nó thành “nỗi vấn vương”, “cả một chút lẳng lơ kín đáo
của tình yêu”. Nhờ đó ta không chỉ cảm nhận được dòng chảy của sông
Hương một cách cụ thể, sống thực mà còn thấy nó hiện lên rất giống con
người “mãi mãi chung tình với quê hương, xứ sở”. Đó là một vẻ đẹp
huyền ảo, thơ mộng “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím”, với những vẻ đẹp
như triết lý, như cổ thi của một mảnh đất Cố Đô gắn liền với những lăng
tẩm, Thành quách, in bóng giấc ngủ ngàn thu của những vua chúa


Nguyễn. Những cách so sánh liên tưởng bất ngờ, sông Hương uốn một
cánh cung rất nhẹ sang đến Cồn Hến”.
Nguyễn Tuân, và Hoàng Phủ Ngọc Tường có nhiều nét trong phong cách
sáng tác giống nhau như vậy. Tuy nhiên giữa những điểm chung đó, khi
bóc hết đi chúng ta lại thấy được cái riêng biệt, độc đáo trong mỗi bài thơ.
Dưới con mắt quan sát của Nguyễn Tuân sông Đà không còn là một vật
vô tri, vô giác hay một hình tượng thiên nhiên thuần túy, mà hiện lên như
một con người với hai nét tính cách trái ngược nhau, vừa hung bạo, vừa
trữ tình. Khám phá con người ở góc độ tài hoa, nghệ sĩ, hình tượng người
lái đò trong cảm nhận của Nguyễn Tuân một người lái đò bình thường
trên sông nước sông Đà, lại được miêu tả như một Dũng tướng tài năng,
với một phong thái của người nghệ sĩ. Khác với Nguyễn Tuân, Hoàng
Phủ Ngọc Tường lại mang trong mình một phong cách viết kí kết hợp với
nghị luận sắc bén và suy tư đa chiều, hệ thống lập luận với các luận điểm,
luận cứ được sắp xếp một cách logic, chặt chẽ theo dòng chảy của sông
Hương từ phía thượng nguồn cho đến khi rời thành phố Huế, để đi ra
biển. Thêm vào đó mỗi khi nói đến vẻ đẹp nào đó của sông Hương, tác
giả lại đưa ra những so sánh, những ví dụ, những bằng chứng thuyết phục
để làm nổi bật vẻ đẹp của sông Hương. Suy tư đa chiều thể hiện nhiều
nhất trong cách ông cảm nhận về sông Hương, dưới nhiều góc độ lịch sử,

địa lý, văn hóa để làm nổi bật vẻ đẹp phong phú, đa dạng của sông
Hương. Suy tư đa chiều còn thể hiện ngay trong cách so sánh Sông
Hương với những hình ảnh như người con gái đẹp, cô gái di gan, người
mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở. Tóm lại và dù có những nét
tương đồng trong vốn tri thức, cách sử dụng ngôn từ nghệ thuật, nhưng
khi bỏ qua tất cả những cái đó độc giả lại cảm nhận thấy những nét riêng
biệt không thể trộn lẫn.


Có những sự khác nhau trên đều bắt nguồn từ các nguyên nhân, mà đầu
tiên phải kể đến là do yêu cầu của văn chương, riêng mỗi tác giả có một
phong cách tạo nên tên tuổi của tác giả, tác phẩm. Dòng chảy cuộc sống
không bao giờ lặp lại, văn học là tấm gương phản chiếu cuộc sống, nên
nó không thể không phản chiếu, lý giải, đánh giá, dự báo về những yếu tố
mới mẻ đó. Phong cách văn học cũng nảy sinh do nhu cầu sáng tạo văn
học, bản chất của văn học là sự sáng tạo sự sáng tạo, là yếu tố làm nên
sức hấp dẫn sức sống lâu bền của văn học và phong cách văn học. Ta
nhận diện được từng gương mặt tác giả, những điều độc đáo không lập lại
ở họ, cũng qua phong cách nghệ thuật mà chúng ta nhận thấy được sự
trưởng thành không chỉ của nhà văn, mà còn nhận thức được trình độ phát
triển của một trào lưu văn học. Gương mặt chung của văn học dân tộc,
trong từng thời đại phát triển và Nguyễn Tuân và Hoàng Phủ Ngọc Tường
chính là hay minh chứng cho ý nghĩa đó. Thực sự đối với mỗi cá nhân khi
đọc hai tác phẩm “Người lái đò sông Đà” và “Ai đã đặt tên cho dòng
sông” bất cứ ai khi đã hiểu rõ về hai tác giả kia thì không thể nhầm lẫn,
mà đảo lộn ý chí hai tác phẩm với nhau được. Cũng như không thể lấy cái
hung bạo của Sông Đà, để miêu tả sông Hương được và ngược lại cũng
không thể miêu tả sông Đà dịu dàng man dại, phóng khoáng khi ở những
trạng thái hung dữ như sông Hương được.
Như vậy tất cả các yếu tố và dẫn chứng trên, chúng ta thấy được phong

cách viết kí của Nguyễn Tuân và Hoàng Phủ Ngọc Tường. Đó đồng thời
cũng là sự tài hoa, thẩm mỹ mang đến giá trị độc đáo cho các tác phẩm,
qua đây một mặt hiểu thêm về nghệ thuật viết kí của các tác giả, đồng
thời mặt khác phải luôn nỗ lực rèn luyện vốn tri thức của bản thân, để
hiểu được, cảm nhận được tất cả những gì mà tác giả muốn truyền đạt
cho độc giả.




×