Tải bản đầy đủ (.doc) (186 trang)

Vai trò của nhà nước trong quá trình công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu của Malaixia kinh nghiệm và khả năng vận dụng vào Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (709.92 KB, 186 trang )

Lời cam đoan
Tôi xin cam, đoan đây là công trình nghiên cứu khoa
học độc lập của tôi. Các số liệu trong luận án là trung thực và
có nguồn gốc cụ thể, rõ ràng. Các kết quả của luận án cha
từng đợc công bố trong bất cứ công trình khoa học nào. Nếu
có sai sót, tôi xin chịu trách nhiệm hoàn toàn trớc Pháp luật.
Nghiên cứu sinh

Trần Tuấn Linh

1


Danh mục các bảng
Bảng 2.1:
1971-1987.

Cơ cấu FDI vào các ngành kinh tế Malaixia từ

Bảng 2.2: FDI vào các ngành kinh tế của Malaixia 1988-1994.
Bảng 2.3:

Vốn đầu t và tỷ trọng vốn đầu t của các công
ty nội địa trong tổng số vốn đầu t của các công
ty ở Malaixia.

Bảng 2.4:
Phân bổ ngân sách cho phát triển công
nghiệp ( 1986-1995).
Bảng 2.5:
Kim ngạch xuất nhập khẩu của Malaixia giai


đoạn 1986-1995.
Bảng 2.6:

Cơ cấu ngành kinh tế trong GDP.

Bảng 2.7:
Cơ cấu sản phẩm xuất khẩu của Malaixia giai
đoạn 1970-1995.
Bảng 2.8:
(1970-1994).

Cơ cấu thị trờng xuất khẩu của Malaixia

Bảng 2.9:

Xuất nhập khẩu của Malaixia ( 1996-2006).

Bảng 2.10:
2005).

Tốc độ tăng trởng GDP của Malaixia ( 2001-

Bảng 2.11:
2004).

Cơ cấu ngành kinh tế của Malaixia ( 2001-

Bảng 3.1:

Xuất khẩu và GDP.


Bảng 3.2:
biến.

Cơ cấu hàng xuất khẩu theo mức độ chế

2


Bảng 3.3:

Tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu hàng công
nghiệp trong tổng kim ngạch xuất khẩu.

Bảng 3.4:

Cơ cấu hàng xuất khẩu phân theo ngành
hàng ( 2004-2006).

Bảng 3.5:

Tỷ trọng xuất khẩu của Việt Nam sang các
châu lục.

Bảng 3.6:

Tốc độ tăng trởng kinh tế qua các giai đoạn.

Bảng 3.7: Cơ cấu ngành trong GDP.
Bảng 3.8:


Cơ cấu hàng nhập khẩu phân theo ngành
hàng giai đoạn 2004-2006.

Danh mục các chữ viết tắt

APEC

: Diễn đàn hợp tác kinh tế Thái bình d-

ASEAN

: Hiệp hội các quốc gia Đông nam á

AFTA

: Khu vực thơng mại tự do ASEAN

CNH

: Công nghiệp hoá

FDI

: Đầu t trực tiếp nớc ngoài

GDP

: Tổng sản phẩm quốc nội


HĐH

: Hiện đại hoá

KCX

: Khu chế xuất

KTMTD

: Khu thơng mại tự do

KCN

: Khu công nghiệp

ơng

3


KCNC

: Khu công nghệ cao

NICs

: Các nớc công nghiệp mới

ODA


: Nguồn vốn hỗ trợ

R&D

: Nghiên cứu và ứng dụng

TNCs

: Các công ty xuyên quốc gia

WTO

: Tổ chức thơng mại thế giới

4


MôC LôC
LỜI CAM ĐOAN.................................................1
DANH MỤC CÁC BẢNG..............................................................................2
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT................................................................3
LỜI MỞ ĐẦU........................................................5
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC TRONG
CÔNG NGHIỆP HOÁ HƯỚNG VỀ XUẤT KHẨU..................10
1.1. Về công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu.............................................10
1.2. Vai trò của nhà nước trong công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu.......35
Chương 2: THỰC TRẠNG VỀ VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC TRONG
CÔNG NGHIỆP HÓA HƯỚNG VỀ XUẤT KHẨU CỦA MALAIXIA BÀI HỌC KINH NGHIỆM.........................................55
2.1. Khái quát về vai trò của nhà nước thời kỳ Malaixia thực hiện công

nghiệp hoá thay thế nhập khẩu....................................................................55
2.2. Vai trò của nhà nước trong công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu của
Malaixia (1971 - nay)..................................................................................62
2.3. Một số bài học kinh nghiệm về vai trò của nhà nước trong công nghiệp
hoá hướng về xuất khẩu ở Malaixia..........................................................117
Chương 3: KHẢ NĂNG VẬN DỤNG MỘT SỐ KINH NGHIỆM VỀ VAI
TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC TRONG CÔNG NGHIỆP HOÁ HƯỚNG VỀ
XUẤT KHẨU CỦA MALAIXIA VÀO VIỆT NAM HIỆN NAY.....126
3.1. Khái quát về vai trò của nhà nước trong công nghiệp hoá hướng về
xuất khẩu ở nước ta từ 1986 đến nay........................................................126
3.2. Một số điểm tương đồng và khác biệt của Việt Nam và Malaixia khi
thực hiện chiến lược công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu......................143
3.3. Khả năng vận dụng một số kinh nghiệm về vai trò của nhà nước trong
công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu của Malaixia vào điều kiện Việt Nam
hiện nay.....................................................................................................146
KẾT LUẬN.......................................................172

5


LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài luận án
Thực tế, công nghiệp hoá là con đường tất yếu để đưa các nước đang
phát triển thoát khỏi tình trạng nghèo nàn, lạc hậu về kinh tế và trở thành xã
hội hiện đại, văn minh. Ở hầu hết các nước đang phát triển, sau khi giành độc
lập dân tộc, nền kinh tế trong tình trạng thấp kém, phụ thuộc. Vì vậy, trong
mấy thập kỷ qua, xu hướng công nghịêp hoá đã lần lượt diễn ra ở các nước
này. Công nghiệp hóa ở các nước đang phát triển có sự đa dạng về mô hình,
việc thực hiện chiến lược công nghiệp hóa ở mỗi nước còn tuỳ thuộc và bị chi
phối bởi ý thức hệ chính trị. Trải qua quá trình công nghiệp hóa, các nước

đang phát triển với những thành công hạn chế khác nhau trong phát triển kinh
tế. Điều đó đã thu hút sự quan tâm nghiên cứu của nhiều học giả về con
đường phát triển của những nước này.
Vào cuối những năm 1960 và đầu những năm 1970, ở các nước đang
phát triển, quá trình chuyển từ công nghiệp hoá hướng nội (hướng vào thị
trường trong nước – thay thế nhập khẩu) sang công nghiệp hoá hướng về xuất
khẩu (hướng ra thị trường nước ngoài – tăng cường xuất khẩu) đã làm rõ thêm
vai trò của nhà nước trong sự phát triển kinh tế.
Malaixia là thành viên của ASEAN và có một số điểm tương đồng với
Việt Nam khi bước vào công nghiệp hóa. Khi triển khai công nghiệp hoá,
Malaixia đã nhanh chóng chuyển từ chiến lược thay thế nhập khẩu sang
hướng về xuất khẩu và đạt được những thành công quan trọng trong phát triển
kinh tế. Hoạt động xuất khẩu ngày càng đóng vai trò tích cực với tăng trưởng
kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế với sự đa dạng hoá ngành nghề hướng về
xuất khẩu để chuẩn bị gia nhập hàng ngũ các nước công nghiệp mới. Thành
công ấy cho thấy, nhà nước luôn là tác nhân quan trọng trong suốt tiến trình
công nghiệp hóa ở Malaixia, đặc biệt trong giai đoạn công nghiệp hóa hướng
về xuất khẩu.
6


Việt Nam thời gian qua (1986 đến nay), CNH, HĐH theo đường lối đổi
mới của Đảng đã thu được những kết quả kinh tế quan trọng. Đất nước đã ra
khỏi khủng hoảng kinh tế – xã hội và tạo tiền đề để đẩy nhanh CNH, HĐH và
tăng nhanh xuất khẩu. Xuất khẩu thực sự trở thành động lực cho tăng trưởng
và thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hội nhập kinh tế quốc tế
với việc phát huy lợi thế so sánh. Tuy nhiên, nhìn vào quá trình công nghiệp
hoá hướng về xuất khẩu ở nước ta vẫn nảy sinh không ít những vấn đề bất
cập. Vì vậy, việc nghiên cứu vai trò của nhà nước trong công nghiệp hóa
hướng về xuất khẩu ở Malaixia càng có ý nghĩa lý luận, thực tiễn với quá

trình CNH, HĐH ở nước ta hiện nay khi Việt Nam tham gia WTO, nhiều cơ
hội mới và thách thức mới với nước ta trong tiến hành công nghiệp hoá hướng
về xuất khẩu.
2. Tổng quan các công trình nghiên cứu liên quan đến luận án
Thực tế cho thấy, vấn đề vai trò của nhà nước trong quá trình công
nghiệp hóa ở các nước đang phát triển là phạm trù bao hàm nhiều nội dung.
Những nghiên cứu về chủ đề này cũng hết sức đa dạng với những phương
pháp tiếp cận khác nhau. Nhiều nghiên cứu đi sâu phân tích cụ thể về những
tác động của nhà nước trong quá trình công nghiệp hóa hướng về xuất khẩu ở
Malaixia trong thời gian qua.
Ở nước ngoài, có một số nghiên cứu về quá trình công nghiệp hoá
hướng về xuất khẩu và có đề cập đến vai trò của nhà nước trong công nghiệp
hoá thể hiện ở các chính sách và giải pháp từ phía nhà nước nhằm thúc đẩy
công nghiệp hoá ở các nước Đông Á và Đông Nam Á trong đó có Malaixia
như nghiên cứu của World Bank (1993) “The East Asian Miracle: Economic
Growth and Public Policy”; công trình nghiên cứu của Haggard, Stephen
(1999), “Governance and Growth: Lessons from the Asean Economic Crisis”;
các công trình nghiên cứu về vai trò điều tiết thị trường (Wade, 1990, 1988);
vai trò của chính phủ đối với sự phát triển của nguồn nhân lực (Haggard,
7


2000; Heo & Kim, 2000); về sự trợ giúp của chính phủ đối với sự phát triển
của ngành công nghiệp (Hong, 1997); về vai trò của nhà nước trong thu hút,
kiểm soát và quản lý vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (Lim & Pang, 1991)...
Nhìn chung, các công trình này tập trung nghiên cứu về thực trạng công
nghiệp hóa hướng về xuất khẩu ở Malaixia để rút ra những bài học kinh
nghiệm, trong đó có bài học kinh nghiệm về vai trò của nhà nước trong quá
trình công nghiệp hóa hướng về xuất khẩu mang hàm ý chính sách cho các
nước đang phát triển đi sau trong công nghiệp hoá.

Ở trong nước, thời gian qua đã có một số công trình nghiên cứu về kinh
tế Malaixia. Đó là: Công trình của Đào Lê Minh và Trần Lan Hương “Kinh tế
Malaixia” (Nhà xuất bản Khoa học xã hội 2001) đã đề cập một số chính sách
và giải pháp trong phát triển kinh tế của Malaixia ở tất cả các lĩnh vực của nền
kinh tế; TS Phùng Ngọc Nhạ với công trình “Đầu tư trực tiếp nước ngoài
phục vụ công nghiệp hoá ở Malaixia – Kinh nghiệm đối với Việt Nam”
nghiên cứu về các chính sách, giải pháp và những kết quả, hạn chế trong thu
hút FDI của Malaixia. Công trình còn đề cập đến những kinh nghiệm thu hút
FDI của Malaixia có khả năng vận dụng vào Việt Nam. TS. Hoàng Thị Thanh
Nhàn với công trình “Điều chỉnh cơ cấu kinh tế ở Hàn Quốc, Malaixia và
Thái Lan” đã làm rõ một số chính sách, giải pháp điều chỉnh kinh tế của
Malaixia sau khủng hoảng tài chính – tiền tệ châu Á năm 1997 v.v…
Nhìn chung, thời gian qua ở trong nước và nước ngoài đã có một số
công trình nghiên cứu trực tiếp về tình hình kinh tế Malaixia hoặc nghiên cứu
ở mức độ gián tiếp trong mối quan hệ kinh tế của Malaixia với các nước khu
vực Đông Nam Á hay Đông Á. Những kết quả ấy đã giúp người đọc thấy
được tình hình kinh tế - xã hội và những quan hệ kinh tế quốc tế của Malaixia
từ sau ngày giành độc lập dân tộc đến nay. Tuy nhiên, trong nghiên cứu, hiện
chưa có công trình nào nghiên cứu về vai trò của nhà nước trong quá trình
công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu ở Malaixia. Đó là lý do nghiên cứu sinh
8


chọn đề tài nghiên cứu: “Vai trò của nhà nước trong quá trình công nghiệp
hoá hướng về xuất khẩu của Malaixia - kinh nghiệm và khả năng vận
dụng vµo Việt Nam”.
3. Mục tiêu của đề tài luận án
Mục đích nghiên cứu của luận án là nghiên cứu về vai trò của nhà nước
trong quá trình công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu ở Malaixia nhằm rút ra
những kinh nghiệm có ý nghĩa lý luận và thực tiễn và có khả năng vận dụng

với nước ta hiện nay.
4. Những đóng góp mới của luận án
- Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về vai trò của nhà nước trong quá
trình công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu.
- Làm rõ thực trạng vai trò nhà nước trong quá trình công nghiệp hoá
hướng về xuất khẩu ở Malaixia. Từ những thành công và hạn chế để rút ra
những bài học kinh nghiệm về vai trò của nhà nước.
- Luận giải khả năng vận dụng một số kinh nghiệm của Malaixia về vai
trò của nhà nước trong quá trình công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu với
nước ta hiện nay.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
Đối tượng nghiên cứu của luận án là vai trò của nhà nước Malaixia
trong quá trình công nghiệp hóa hướng về xuất khẩu.
- Phạm vi nghiên cứu: Về vai trò của nhà nước tập trung vào thời gian
Malaxia chuyển sang thực hiện công nghiệp hóa hướng về xuất khẩu. Về nội
dung vai trò nhà nước trong công nghiệp hóa là đề tài rộng, nhưng ở đây luận
án chỉ tập trung vào những vấn đề về nhà nước với những chính sách và giải
pháp phù hợp tác động vào tiến trình công nghiệp hóa hướng về xuất khẩu.
6. Các phương pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng,
chủ nghĩa duy vật lịch sử. Đồng thời, luận án còn sử dụng các phương pháp
9


lịch sử, phương pháp lôgic, phương pháp nghiên cứu so sánh và phương pháp
phân tích kinh tế để làm rõ nội dung nghiên cứu.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài lời mở đầu, phụ lục, danh mục tài liệu tham khảo, luận án được
kết cấu thành 3 chương.
Chương 1: Cơ sở lý luận về vai trò của nhà nước trong công nghiệp hóa

hướng về xuất khẩu
Chương 2: Thực trạng về vai trò của nhà nước trong công nghiệp hóa hướng
về xuất khẩu của Malaixia – Bài học kinh nghiệm
Chương 3: Khả năng vận dụng một số kinh nghiệm về vai trò của nhà nước
trong công nghiệp hóa hướng về xuất khẩu của Malaixia với Việt
Nam hiện nay

10


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC TRONG CÔNG
NGHIỆP HOÁ HƯỚNG VỀ XUẤT KHẨU
1.1. VỀ CÔNG NGHIỆP HÓA HƯỚNG VỀ XUẤT KHẨU

Trong mấy thập kỷ qua, làn sóng công nghiệp hóa đã diễn ra ở nhiều
nước đang phát triển. Công nghiệp hóa có sự đa dạng về mô hình, điều này
tùy thuộc điều kiện kinh tế - chính trị - xã hội của mỗi nước khi bước vào
công nghiệp hóa. Bên cạnh đó, bối cảnh quốc tế cũng ảnh hưởng rất lớn đến
việc lựa chọn con đường, phương thức tiến hành công nghiệp hóa ở mỗi nước.
Từ thực tiễn công nghiệp hóa ở các nước đang phát triển, có thể hiểu: Công
nghiệp hoá là quá trình cải biến nền kinh tế nông nghiệp dựa trên nền tảng kỹ
thuật thủ công, sản xuất hàng hoá nhỏ mang nặng tính chất tự cung, tự cấp
thành nền kinh tế công nghiệp dựa trên nền tảng kỹ thuật hiện đại, năng suất,
chất lượng và hiệu quả cao, là quá trình phát triển nền kinh tế thị trường và
hội nhập ngày càng sâu hơn vào đời sống kinh tế quốc tế.
Thực tế, quá trình công nghiệp hóa đã và đang diễn ra ở các nước đang
phát triển cho thấy, trong thời đại cách mạng khoa học công nghệ đang diễn ra
mạnh mẽ đưa đến xu thế toàn cầu hóa đời sống kinh tế quốc tế và việc hình
thành trật tự phân công lao động quốc tế thì mỗi nước trong thực thi công

nghiệp hóa cần phải có sự điều chỉnh chiến lược phát triển để phát huy lợi thế
của mình. Đó chính là cơ sở để các nước tiến hành công nghiệp hóa hướng về
xuất khẩu.
Công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu là phát triển các ngành sản xuất
sản phẩm chủ yếu phục vụ cho xuất khẩu. Điều đó có nghĩa là phát triển sản
xuất trong nước với thị trường quốc tế là trọng tâm, phát huy được lợi thế so
sánh trong quan hệ kinh tế quốc tế.

11


Cơ sở của chiến lược công nghiệp hóa hướng về xuất khẩu là các nước
khác nhau đều có những lợi thế so sánh khác nhau về nguồn lực sản xuất vốn
có của mỗi nước (vốn, lao động, tài nguyên, vị trí địa lý...), vì thế các nước
cần phụ thuộc lẫn nhau trong quá trình phát triển để có thể trao đổi cho nhau
các lợi thế so sánh đó thông qua các hoạt động kinh tế đối ngoại như ngoại
thương, liên doanh liên kết cùng nhau đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh
về một hay một số loại sản phẩm nào đó.
1.1.1. Các lý thuyết thương mại quốc tế - cơ sở của các chính sách công
nghiệp hóa hướng về xuất khẩu
Cơ sở khách quan của thương mại quốc tế là chuyên môn hoá và trao
đổi giữa các quốc gia dựa vào lợi thế so sánh. Thực tế, lý thuyết lợi thế so
sánh được coi là cơ sở lý luận cho hoạt động thương mại quốc tế. Ngay từ khi
xuất hiện nó đã có những tác động rất lớn đến hoạt động thương mại quốc tế.
Ngày nay, khi nền kinh tế thế giới có nhiều thay đổi, các nền kinh tế các quốc
gia ngày càng có sự liên hệ, tác động qua lại và phụ thuộc lẫn nhau thì những
quan điểm mới về lợi thế so sánh đã được nhiều tác giả đề cập đến.
- Chuyên môn hoá sản phẩm dựa vào ưu thế của tự nhiên và lao động
+ Adam Smith xuất phát từ quan niệm các nước có những điều kiện
hoàn toàn khác nhau về nguồn lực tự nhiên như khí hậu, đất đai và hoạt động

thương mại giữa các nước chính là sự bù đắp những sự thiếu hụt đó. Theo nội
dung học thuyết, nếu một quốc gia có thể sản xuất một đơn vị hàng hóa với ít
lao động hơn một quốc gia khác thì có thể nói quốc gia đó có lợi thế tuyệt đối
(absolute advantage). Adam Smith đã chứng minh rằng các nước đều có thể
dựa vào lợi thế tuyệt đối của họ để chuyên môn hoá sản xuất hàng hoá và thu
lợi từ thương mại quốc tế. Theo ông, sự giàu có của một quốc gia chính là
nằm trong năng lực sản xuất của nước đó, có nghĩa là khả năng sản xuất ra
các loại hàng hoá và dịch vụ cuối cùng. Bản chất của lợi ích sinh ra khi
chuyên môn hoá và trao đổi quốc tế theo thuyết cổ điển cũng giống như
12


chuyên môn hoá và trao đổi giữa những người sản xuất trong nước, nghĩa là
do có sự tăng của năng suất lao động trung bình trong mỗi ngành sản xuất nhờ
việc phân bố nguồn lực mang lại hiệu quả tối đa. Rõ ràng là khi năng suất lao
động tăng lên thì khối lượng hàng hoá sản xuất ra cũng tăng lên và đó chính là
lợi ích thu được từ chuyên môn hoá và trao đổi quốc tế. Tuy nhiên, học thuyết
của ông không giải thích được thương mại thay thế, thương mại trong ngành
và thương mại giữa các nước có điều kiện tự nhiên tương tự nhau.
+ David Ricardo đã phát triển học thuyết của Adam Smith và phát biểu
thành học thuyết về lợi thế so sánh. Học thuyết của D. Ricardo tổng quát hơn
học thuyết về lợi thế tuyệt đối vì nó cho rằng tất cả các nước đều có thể tham
gia vào thương mại quốc tế và thu lợi ích. Theo D. Ricardo, nếu một nước
không có một lợi thế tuyệt đối nào so với nước khác thì vẫn có thể chuyên
môn hoá sản xuất mặt hàng mà nó ít bất lợi nhất rồi đem trao đổi quốc tế để
thu lợi ích. Những lý luận của D. Ricardo về lợi thế so sánh dựa trên quan
điểm sự khác biệt về năng suất lao động do sự khác biệt về công nghệ. Ông
chứng minh rằng thương mại giữa hai quốc gia có thể đem lại lợi ích cho cả
hai nếu như mỗi quốc gia xuất khẩu mặt hàng mà nó có lợi thế so sánh.
Theo ông, một quốc gia sẽ tập trung sản xuất mặt hàng mà nó có lợi thế

so sánh. Mỗi quốc gia sẽ tập trung sản xuất mặt hàng nào có yêu cầu lượng
lao động tương quan trên mỗi đơn vị sản phẩm thấp hơn. Thông thường giá cả
của một hàng hóa trong thương mại quốc tế bằng giá cả tương quan của hàng
hóa kia và nằm giữa các mức giá trước khi tham gia thương mại của các nước.
Các nước có năng suất lao động khác nhau giữa các ngành sẽ tập trung vào
sản xuất các mặt hàng khác nhau. Từ đó, các nước sẽ thu được lợi ích từ
thương mại quốc tế và nó được thể hiện theo hai cách. Cách thứ nhất coi
thương mại như một phương pháp sản xuất gián tiếp. Quốc gia thứ nhất có thể
sản xuất X trực tiếp, nhưng lại dùng X trao đổi với quốc gia thứ hai để lấy Y.
Nói cách khác, quốc gia thứ nhất sẽ “sản xuất” Y hiệu quả hơn bằng cách làm
13


ra X và dùng X trao đổi lấy Y thay vì tự sản xuất Y. Cách thứ hai là nghiên
cứu lợi ích đem lại khi thương mại tác động vào khả năng tiêu dùng. Trước
khi có thương mại, đường khả năng tiêu dùng không khác gì đường khả năng
sản xuất. Sau khi có thương mại, khả năng lựa chọn được mở rộng hơn, làm
cho dân chúng tại mỗi quốc gia giàu có hơn [98].
Cơ sở và lợi ích thu được từ thương mại quốc tế ở đây là khai thác lợi
thế so sánh. Tuy nhiên, Paul Krugman đã chỉ ra ba luận điểm sai lầm về
thương mại. Một là, luận điểm cho rằng tự do thương mại chỉ có lợi khi quốc
gia của mình đủ mạnh để đương đầu với cạnh tranh từ nước ngoài. Thực ra
lợi ích từ thương mại phụ thuộc vào lợi thế so sánh chứ không phải lợi thế
tương đối. Lợi thế cạnh tranh của một ngành không chỉ phụ thuộc vào năng
suất của ngành đó tương quan với nước ngoài, mà còn phụ thuộc vào mức
lương trong nước so với mức lương nước ngoài. Mức lương của một nước lại
phụ thuộc vào năng suất tương quan của ngành so với các ngành khác. Hai là,
luận điểm cho rằng cạnh tranh quốc tế là không công bằng nếu đối thủ dựa
vào mức lương thấp. Thực ra, lợi ích từ thương mại thể hiện ở chỗ nguồn lực
lao động tương quan để sản xuất mặt hàng cụ thể trong nước để đổi lấy mặt

hàng khác sản xuất ở nước ngoài là có lợi hơn. Ba là, luận điểm cho rằng
thương mại có thể bóc lột quốc gia, làm cho nó nghèo đi nếu mức lương
người lao động ở đó thấp hơn nhiều so với các quốc gia khác. Vấn đề ở đây
không phải là người lao động ở quốc gia đó có đáng trả lương hay không, mà
là quốc gia của họ có nghèo đi vì thương mại không và họ có phương án nào
khác không. Biết đâu nếu không có thương mại, mức thu nhập của họ lại còn
thấp hơn?
Mở rộng mô hình giản đơn gồm một yếu tố sản xuất và hai loại hàng
hóa sang một thế giới có nhiều loại hàng hóa cũng không làm thay đổi những
kết luận trên. Sự khác biệt duy nhất là cần phải tập trung trực tiếp và nhu cầu
lao động tương quan để xác định mức lương tương quan, thay vì nghiên cứu
14


qua nhu cầu hàng hóa tương quan. Đồng thời ta có thể sử dụng mô hình nhiều
hàng hóa để minh họa một điểm quan trọng là chi phí vận chuyển có thể dẫn
đến tình huống tồn tại một số hàng hóa không tham gia thương mại.
Mô hình Ricardo giúp chúng ta hiểu được nguyên nhân và tác động của
thương mại quốc tế. Tuy nhiên lý thuyết này cũng có một số nhược điểm gây
ra tranh cãi trong thực tiễn. Thứ nhất, mô hình này giả định mức độ chuyên
môn hóa tuyệt đối là điều chưa có trong thực tế. Thứ hai, lợi ích của thương
mại quốc tế không phân bố đều giữa các nhóm dân cư như giả định, có những
nhóm người sẽ giàu lên hay nghèo đi vì thương mại quốc tế. Thứ ba, sự khác
biệt về các nguồn lực khác ngoài nhân lực hay vai trò của lợi ích kinh tế theo
quy mô cũng là những yếu tố tạo nên thương mại quốc tế. Qua phân tích về
năng suất lao động ta có thể chứng minh rằng lợi thế cạnh tranh đóng vai trò
quan trọng nhằm giải thích về sự cần thiết và lợi ích của thương mại quốc tế.
Thực tế cho thấy, học thuyết lợi thế so sánh là cơ sở chủ yếu để đưa ra
nhiều chính sách thương mại quốc tế hiện nay. Chính dựa trên đó mà xu thế tự
do hoá thương mại hiện nay đang được coi là lấn át xu hướng bảo hộ mậu

dịch mang tư tưởng của chủ nghĩa trọng thương. Tuy nhiên, mô hình của học
thuyết còn quá đơn giản và mang nhiều giả thiết phi hiện thực.
- Chuyên môn hoá và trao đổi dựa trên sự dồi dào của các yếu tố sản
xuất
Mô hình Hechsher - Ohlin lại nhấn mạnh về sự khác biệt nguồn lực (lao
động, vốn, đất đai) là nguồn gốc của ngoại thương khác với mô hình Ricardo
giải thích ngoại thương xảy ra là do sự khác nhau về năng suất lao động giữa
các nước. Ricardo cho rằng sự khác nhau về công nghệ sản xuất ở các quốc
gia là nguyên nhân dẫn đến sự khác nhau về năng suất lao động giữa các nước
nhưng Heckscher và Ohlin lại cho rằng các quốc gia có sự khác biệt về mức
độ trang bị cũng như về mức độ sử dụng các yếu tố sản xuất. Trong thực tế,
các quốc gia khác nhau được trang bị với mức độ khác nhau các yếu tố như
15


lao động, vốn, đất đai và các tài nguyên thiên nhiên khác. Ví dụ, một số nước
có điều kiện để sản xuất lương thực xuất khẩu trong khi một số nước khác lại
có lợi thế về nguồn lao động đông đảo có khả năng phát triển những ngành sử
dụng nhiều lao động để sản xuất các sản phẩm phục vụ xuất khẩu như quần
áo, giày dép.
Với xuất phát điểm như vậy, Heckscher và Ohlin đưa ra những giả
thuyết cơ bản sau: thế giới bao gồm hai quốc gia, hai yếu tố sản xuất là lao
động và vốn và sản xuất hai mặt hàng; công nghệ sản xuất các mặt hàng ở hai
quốc gia là giống nhau; sản xuất mỗi mặt hàng có hiệu suất không đổi theo
quy mô, còn mỗi yếu tố sản xuất có năng suất cận biên giảm dần; hàng hoá có
sự khác nhau về hàm lượng các yếu tố sản xuất và không có sự hoán đổi hàm
lượng các yếu tố sản xuất tại bất kỳ mức giá cả yếu tố tương quan nào; cạnh
tranh hoàn hảo tồn tại trên cả thị trường hàng hóa và thị trường các yếu tố sản
xuất; các yếu tố sản xuất có thể di chuyển tự do trong mỗi quốc gia, nhưng
không thể di chuyển giữa các quốc gia; sở thích tiêu dùng là giống nhau giữa

hai quốc gia.
Từ đó, Heckscher và Ohlin đã xây dựng lý thuyết để giải thích cho các
quan hệ thương mại quốc tế dựa trên hai khái niệm cơ bản là hàm lượng (hay
mức độ sử dụng) các yếu tố sản xuất và mức độ dồi dào của các yếu tố đó ở
từng quốc gia trong sản xuất hàng hoá. i) Một mặt hàng được coi là sử dụng
nhiều lao động nếu tỷ lệ giữa lao động và các yếu tố khác (vốn hoặc đất đai)
được sử dụng để sản xuất ra một đơn vị mặt hàng đó lớn hơn tỷ lệ tương ứng
các yếu tố để sản xuất ra một đơn vị mặt hàng thứ hai. Nếu tỷ lệ giữa vốn và
các yếu tố khác là lớn hơn thì mặt hàng được coi là có hàm lượng vốn cao
(hay mặt hàng sử dụng nhiều vốn). ii) Một quốc gia được coi là dồi dào tương
đối về lao động (hay về vốn) nếu tỷ lệ giữa lao động (hay lượng vốn) và các
yếu tố sản xuất khác của quốc gia đó lớn hơn tỷ lệ tương ứng của các quốc gia
khác. Từ đó, Heckscher và Ohlin đã đưa ra định lý để giải thích mô hình
16


thương mại quốc tế về lợi thế so sánh như sau: Một quốc gia sẽ chuyên môn
hoá sản xuất và xuất khẩu hàng hoá thâm dụng yếu tố sản xuất mà quốc gia
đó dồi dào một cách tương đối [98]. Theo cách tiếp cận của lý thuyết này,
những nước có nguồn lao động dồi dào giá rẻ nên tập trung vào sản xuất và
xuất khẩu những mặt hàng sử dụng nhiều lao động còn những nước giàu tài
nguyên thiên nhiên thì nên tập trung sản xuất và xuất khẩu những sản phẩm
khai thác từ thiên nhiên. Tóm lại, lý thuyết của Heckscher - Ohlin đã giải
thích nguyên nhân sâu xa của thương mại quốc tế là sự khác nhau về cung các
yếu tố sản xuất. Cụ thể, do có sự khác biệt về cung các yếu tố sản xuất nên có
sự khác biệt về giá cả tương đối và hàm lượng các yếu tố trong sản xuất hàng
hoá, dẫn đến giá tương đối của hàng hoá giữa các quốc gia là khác nhau. Đó
chính là nguyên nhân trực tiếp của thương mại quốc tế.
Từ việc nghiên cứu và vận dụng lý thuyết của Heckscher - Ohlin trong
thực tế, một số nhà kinh tế học hiện đại bổ sung thêm một số vấn đề liên quan

như sau:
+ Định lý Stolper - Samuelson: Khi giá của một loại hàng hoá tăng thì
giá của yếu tố sản xuất mà hàng hoá đó thâm dụng sẽ tăng và giá của yếu tố
mà hàng hoá đó không thâm dụng sẽ giảm. Như vậy, một sự gia tăng trong giá
tương đối của một hàng hoá sẽ tạo ra tác động phân phối thu nhập. Chủ sở
hữu yếu tố sản xuất mà hàng hoá xuất khẩu thâm dụng sẽ có lợi còn chủ sở
hữu yếu tố sản xuất mà hàng hoá nhập khẩu sẽ bị tổn thất. Chủ sở hữu yếu tố
mà nước đó dồi dào sẽ có lợi nhưng chủ sở hữu của yếu tố khan hiếm sẽ bất
lợi từ ngoại thương;
+ Định lý ngang bằng giá các yếu tố sản xuất tiên liệu rằng tự do ngoại
thương sẽ dẫn đến sự hội tụ giá các yếu tố sản xuất. Như vậy, thương mại
hàng hoá tự do có thể thay thế hoàn toàn cho sự di chuyển quốc tế các yếu tố
sản xuất trong trường hợp chuyên môn hoá sản xuất không hoàn toàn. Với giá
cả ngang nhau thì sẽ không có động lực cho các yếu tố di chuyển từ quốc gia
17


này sang quốc gia khác. Nếu hai quốc gia thực hiện chuyên môn hoá hoàn
toàn thì giá cả các yếu tố sản xuất sẽ không hoàn toàn cân bằng, khi đó
thương mại quốc tế chỉ thay thế một phần cho sự di chuyển các yếu tố; iii)
Định lý Rybezynski: Với mức giá tương đối cho trước, khi cung một yếu tố
sản xuất tăng lên sẽ làm tăng cung hàng hoá thâm dụng yếu tố sản xuất đó và
làm giảm cung các hàng hoá khác.
Trên thực tế, lý thuyết Heckscher - Ohlin được đánh giá là một lý thuyết
mạnh để giải thích cho thương mại quốc tế. Tuy nhiên, lý thuyết này được xây
dựng vẫn còn dựa trên những giả định không gắn liền với thực tiễn như
thương mại giữa các quốc gia hoàn toàn tự do, thị trường cạnh tranh hoàn
hảo, sở thích tiêu dùng giữa hai quốc gia cơ bản giống nhau... cho nên nó
không thể giải thích cho tất cả các trường hợp của thương mại quốc tế.
- Một số lý thuyết khác về giải thích về ngoại thương và lợi ích có được

từ ngoại thương như lý thuyết về hố cách cách công nghệ cho rằng ngoại
thương xảy ra là do sự khác biệt về công nghệ giữa các quốc gia; lý thuyết
vòng đời sản phẩm cho rằng vào giai đoạn đầu sản phẩm, các nước có lợi thế
so sánh do có quy mô thị trường lớn và những tiến bộ công nghệ, khi sản
phẩm được chuẩn hoá thì các nước đang phát triển sẽ có lợi thế so sánh do giá
nhân công rẻ hơn...
Nhìn chung, những lý thuyết trên đây đều dựa trên một giả định quan
trọng là các nguồn lực (chủ yếu là vốn và lao động) không có sự di chuyển
giữa các quốc gia cho dù chúng có thể di chuyển giữa các khu vực sản xuất
trong nền kinh tế. Trên thực tế, lao động có thể di chuyển từ quốc gia này
sang quốc gia khác thông qua di dân, thông qua những hợp đồng lao động có
thời hạn. Động cơ của sự di chuyển lao động được giải thích do sự khác nhau
về thu nhập kỳ vọng trong tương lai, chi phí của việc di chuyển, sự khác nhau
về chi phí sinh hoạt giữa các quốc gia hoặc nó còn có thể mang đến những lợi
ích ròng khác về y tế, có hội giáo dục, các vấn đề về sự tự do chính trị và tôn
18


giáo... Sự di chuyển của vốn có thể thông qua đầu tư trực tiếp nước ngoài, các
công ty đa quốc gia và thông qua đầu tư gián tiếp. Động cơ của FDI có thể
được giải thích từ: i) Sự biến dạng và mất cân bằng thị trường. Sự mất cân
bằng tạm thời của thị trường là do khác biệt trong tỷ suất sinh lời, khác biệt về
giá và việc định giá các loại tiền tệ. Sự biến dạng thị trường có nguyên nhân
từ chính phủ thông qua việc áp đặt các rào cản thương mại, các quy định về
thuế, các biện pháp khuyến khích và ưu đãi đầu tư; ii) Cơ cấu thị trường nội
địa. Thực tế, các công ty lớn có sức mạnh trong thị trường nội địa thường đầu
tư ra nước ngoài bởi sự bành trướng thị trường trong nước sẽ gây sự xáo trộn
những mối quan hệ với các công ty lớn khác và đầu tư ra nước ngoài sẽ góp
phần tái tạo trên thị trường quốc tế cơ cấu thị trường độc quyền nhóm của các
nước chủ đầu tư; iii) Các khiếm khuyết thị trường như những tác động bên

ngoài và lợi thế kinh tế theo quy mô.
Sự di chuyển vốn quốc tế sẽ làm tăng tổng sản lượng thế giới và thu
nhập của thế giới cũng vì thế mà tăng lên cho dù có sự phân bổ lại. Với quốc
gia ban đầu có tỷ suất sinh lợi của vốn cao thì sau khi vốn tự do di chuyển,
chủ sở hữu vốn sẽ bị thiệt trong khi đó người lao động được lợi và tổng thu
nhập của quốc gia sẽ tăng lên và ngược lại. Cũng giống như yếu tố vốn, việc
hạn chế tự do dịch chuyển lao động hoặc bóp méo thị trường trong nước đều
tạo bất lợi cho kinh tế thế giới. Việc tự do hoá dịch chuyển yếu tố sản xuất
(lao động và vốn) đều có tác động phân phối lại thu nhập trong nền kinh tế
song tác động phúc lợi cuối cùng của toàn thế giới là tăng.
Tóm lại, các lý thuyết trên đều khẳng định, trong mậu dịch quốc tế, lợi
thế so sánh là yếu tố có thể đem lại lợi ích cho một quốc gia. Tuy nhiên trong
thực tế, lợi thế so sánh là một khái niệm rộng, bao hàm nhiều yếu tố. Nhiều
học giả đã đề cập tới các lợi thế so sánh chủ yếu là lao động, tài nguyên, công
nghệ, vốn và cả thị trường. Đó là những lợi thế quan trọng nhất trong công
nghiệp hoá ở các nước đang phát triển. Trong đó, nguồn lao động là yếu tố mà
19


hầu hết các nước đang phát triển luôn dồi dào, thậm chí trong tình trạng dư
thừa. Chỉ có một số nước có lợi thế về tài nguyên thiên nhiên, còn lại là không
có hoặc có rất ít không đủ đáp ứng nhu cầu trong nước. Về thị trường, đa số
các nước đang phát triển có thị trường nhỏ bé, thậm chí cả những nước có dân
số đông bởi dung lượng thị trường được quyết định bởi sức mua chứ không
phải số dân. Còn vốn và công nghệ thì đa số các nước đang phát triển đều
trong tình trạng thiếu thốn. Ngoài ra, trên phương diện phân tích kinh tế, có
học giả cho rằng đất đai, lao động và tư bản là những yếu tố sản xuất chính
tuy nhiên những nguồn lực khác như công nghệ, tri thức quản lý, khả năng
kinh doanh, khả năng tổ chức… nhiều khi còn quan trọng hơn. Cùng với vốn
và công nghệ, năng lực quản lý và khả năng kinh doanh (được gọi chung là

nguồn lực kinh doanh) là những yếu tố quyết định sức cạnh tranh của doanh
nghiệp [73].
Một số học giả còn phân định lợi thế so sánh ra hai loại là lợi thế so
sánh tĩnh và lợi thế so sánh động. Lợi thế so sánh tĩnh là lợi thế hiện tại còn
lợi thế so sánh động là lợi thế tiềm năng sẽ xuất hiện trong tương lai. Theo họ,
những lợi thế so sánh ở các nước đang phát triển cũng biến đổi theo từng giai
đoạn. Các lợi thế so sánh cấp thấp gồm có: lao động giản đơn, nguyên liệu
truyền thống, vốn nhỏ và trung bình, công nghệ thích hợp, thị trường nội địa
nhỏ; các lợi thế so sánh cấp cao gồm: lao động chất lượng cao, nguyên vật
liệu mới, vốn lớn, công nghệ hiện đại, thị trường lớn [54]. Thực tế ở một số
nước đang phát triển trong giai đoạn đầu công nghiệp hoá, nguồn lao động
đông giá rẻ và nguồn tài nguyên, khoáng sản, nông sản là những lợi thế lớn.
Việc phát triển những ngành sử dụng nhiều lao động và tài nguyên thiên
nhiên, đặc biệt là những ngành phục vụ xuất khẩu là có lợi xét cả về mặt hiệu
quả kinh tế và xã hội. Bởi vì sự phát triển đó có thể tạo ra được tiềm lực công
nghiệp mới, tạo nhiều việc làm, tăng thu nhập và tạo tích luỹ. Đây cũng là
bước chuẩn bị cho quá trình phát triển những ngành công nghiệp đòi hỏi vốn
20


lớn và trình độ công nghệ cao hơn. Đến giai đoạn sau, khi các yếu tố lao động
rẻ, tài nguyên giảm dần lợi thế tương đối nhường chỗ cho những lợi thế mới
về vốn, công nghệ thì việc phát triển những ngành khai thác những lợi thế
mới là hết sức cần thiết nhưng vẫn cần tiếp tục phát triển những ngành có khả
năng phát huy những lợi thế vốn có. Tuy nhiên, do lợi thế vốn có ngày càng
có xu hướng giảm dần nên khả năng phát triển những ngành dựa trên nền tảng
này không thể tăng nhanh được trong khi đó những ngành khai thác những lợi
thế mới phát triển với tốc độ nhanh hơn. Điều đó sẽ dẫn đến sự biến đổi cơ
cấu kinh tế theo hướng tăng tỷ trọng của những ngành, lĩnh vực phát huy
được nhiều lợi thế mới, đặc biệt là những ngành tạo ra giá trị gia tăng lớn. Đó

là một quá trình động, dựa trên sự thay đổi tương quan của các lợi thế.
Tóm lại, từ những phân tích trên có thể rút ra một số kết luận về chính
sách và đó cũng là yêu cầu định hướng đối với các chính sách của nhà nước
trong thực hiện công nghiệp hóa hướng về xuất khẩu
- Mặc dù còn những hạn chế nhất định nhưng lý thuyết về lợi thế so
sánh của D. Ricardo vẫn là một trong những chân lý sâu sắc nhất của khoa
học kinh tế. Các quốc gia không quan tâm đến lợi thế so sánh đều đã phải trả
giá bằng những kết quả cụ thể về tăng trưởng và thu nhập của chính mình.
Cho đến nay, lý thuyết về lợi thế so sánh vẫn được coi là cơ sở nền tảng để
xây dựng chính sách thương mại quốc tế của các quốc gia.
- Thực tế, bất kỳ quốc gia nào cũng có ít nhất một lợi thế so sánh. Vì
vậy, các nước đều có thể thu được lợi ích từ thương mại. Các lý thuyết thương
mại quốc tế đã đem đến cách nhìn lạc quan cho các nước có trình độ phát
triển thấp nhưng có điều kiện tự nhiên thuận lợi. Bỏ qua một lợi thế so sánh
cũng đồng nghĩa với việc lãng phí nguồn lực quốc gia.
- Chi phí vận chuyển, quản lý, giao dịch, bảo hiểm có thể ảnh hưởng
trực tiếp đến kết quả thu được từ xuất khẩu thấp hơn hoặc chi phí nhập khẩu
cao hơn. Điều này thương xảy ra với các nước đang phát triển. Do vậy, chính
21


sách của nhà nước ở các nước này cần hướng tới việc giảm bớt các loại chi
phí vận chuyển và quản lý thông qua các chính sách phát triển kết cấu hạ
tầng. Chính sách của nhà nước cũng cần chú ý thâm nhập, mở rộng thị trường
khu vực nhằm khai thác lợi thế về khoảng cách địa lý, giảm chi phí vận
chuyển và tăng khả năng xuất khẩu hàng hóa. Nhà nước cũng cần đổi mới
hoạt động quản lý nhà nước về xuất nhập khẩu để giảm chi phí giao dịch.
- Từ lý thuyết về các yếu tố chuyên biệt có thể rút ra gợi ý về mặt chính
sách, đó là nhà nước cần bù đắp thiệt hại cho những ngành cạnh tranh nhập
khẩu tốt hơn là cản trở thương mại. Trong thực tế, các nước thường có chính

sách để đối phó với những trở ngại về xuất khẩu để bảo vệ lợi ích của họ nên
giải pháp tối ưu sẽ phải là chọn biện pháp đánh thuế nhập khẩu, hoặc trợ cấp
xuất khẩu, hoặc tham gia các hiệp định, các khối thương mại tự do khu vực.
Chính sách này sẽ cho phép bảo vệ và tối đa hóa lợi ích quốc gia hơn là việc
để thị trường tự do hoàn toàn.
- Các ngành có lợi thế so sánh cần được hỗ trợ từ chính sách, mặc dù
hỗ trợ đó không mang tính bóp méo, nhưng những ngành, những hoạt động có
lợi thế cạnh tranh chỉ do hoặc chủ yếu do sai lệch giá cả không nên được hỗ
trọ bằng chính sách của nhà nước. Trên thực tế, có cả lợi thế so sánh tĩnh và
lợi thế so sánh động. Ngoài ra, sự thất bại của thị trường cũng phải được tính
đến trong lựa chọn chính sách. Nếu chi phí hiện tại có tính chất tạm thời của
các chính sách đã lựa chọn cân bằng với phúc lợi xã hội trong hiện tại và
tương lai thì các chính sách hỗ trợ đang được sử dụng rộng rãi và có thể làm
tăng phúc lợi xã hội. Sự hỗ trợ không mang tính chất bóp méo phải được hiểu
theo phương diện này.
- Trong điều kiện ngày nay, khi khoa học - công nghệ có sự phát triển
ngày càng mạnh mẽ và quá trình toàn cầu hóa, khu vực hóa ngày càng được
đẩy mạnh thì những lợi thế so sánh tĩnh của các nước sẽ bị giảm thiểu và mất
dần ý nghĩa. Do vậy, vấn đề chính sách đặt ra là cần tranh thủ khai thác có
22


hiệu quả những lợi thế so sánh tĩnh cho phát triển trước khi chúng bị mất đi
do điều kiện quốc tế thay đổi. Đồng thời, cần có chính sách nhằm thúc đẩy sự
hình thành lợi thế so sánh mới, khai thác có hiệu quả lợi thế so sánh động
thông qua các chính sách phát triển khoa học - công nghệ, chính sách phát
triển nguồn nhân lực trình độ cao. Đây là hướng đi mà các nước đang phát
triển đi sau trong công nghiệp hóa cần đặc biệt quan tâm.
Như vậy, các lý thuyết về thương mại quốc tế chỉ rõ, thực hiện công
nghiệp hoá các nước cần coi trọng lợi thế so sánh. Đó chính là nguyên nhân

dẫn đến sự điều chỉnh chiến lược công nghiệp hoá ở các nước đang phát triển.
1.1.2. Về chiến lược công nghiệp hóa ở các nước đang phát triển
1.1.2.1. Về công nghiệp hóa thay thế nhập khẩu
Trong lịch sử, chiến lược công nghiệp hoá thay thế nhập khẩu đã được
thực hiện ở các nước tư bản phương Tây từ cuối thế kỷ 18 đầu thế kỷ 19, chủ
yếu thông qua việc lập hàng rào bảo hộ sản xuất trong nước, chống lại sự
cạnh tranh của hàng ngoại nhập.
Những năm 1950 - 1960, mô hình công nghiệp hoá thay thế nhập khẩu
đã được thực hiện phổ biến ở nhiều nước đang phát triển. Sau khi giành độc
lập dân tộc, các quốc gia đang phát triển vẫn bị lệ thuộc về kinh tế vào các
nước tư bản. Hầu hết các sản phẩm công nghiệp đáp ứng nhu cầu tiêu dùng
trong nước, thậm chí có nước cả lương thực và nguyên nhiên liệu đều phải
nhập khẩu. Để thoát khỏi tình trạng phục thuộc đó, các quốc gia này đã tiến
hành xây dựng cho mình một nền kinh tế độc lập, tự chủ. Thực tế trong giai
đoạn này, các nước phương Tây tuy đã buộc phải trao trả độc lập cho các
nước đang phát triển nhưng vẫn tìm cách khống chế và kiểm soát kinh tế các
nước đang phát triển. Do vậy, mục tiêu của công nghiệp hoá là tự đáp ứng
những nhu cầu tiêu dùng và sản xuất trong nước.
Trong bối cảnh đó, thực hiện công nghiệp hoá với chiến lược công
nghiệp hoá thay thế nhập khẩu là một sự lựa chọn tất yếu. Nội dung kinh tế
23


của chiến lược này là phát triển mạnh mẽ việc sản xuất các hàng hoá, đặc biệt
là hàng tiêu dùng để thay thế nhập khẩu từ các nước tư bản phát triển. Sự phát
triển như vậy sẽ mang lại nhiều tác dụng: khai thác, sử dụng các nguồn lực
sẵn có để đáp ứng những nhu cầu trong nước; mở rộng thị trường phát triển
sản xuất hàng hoá; giải quyết công ăn việc làm, góp phần giải quyết các vấn
đề xã hội; tiết kiệm ngoại tệ do hạn chế nhập khẩu... Như vậy, việc xây dựng
và phát triển các ngành công nghiệp là nhằm phục vụ nhu cầu trong nước để

giảm dần sự lệ thuộc kinh tế vào các nước tư bản phát triển, tiến tới hình
thành một cơ cấu ngành công nghiệp hoàn chỉnh hoặc tương đối hoàn chỉnh.
Trong đó, việc xây dựng những ngành công nghiệp thiết yếu để đảm bảo
những nhu cầu cơ bản của đất nước như năng lượng, luyện kim, cơ khí, hoá
chất ... được coi là cơ sở để đảm bảo nền độc lập tự chủ của mỗi quốc gia. Từ
việc xây dựng và phát triển các ngành đó có thể trang bị cơ sở vật chất kỹ
thuật cho toàn bộ nền kinh tế quốc dân, chấm dứt sự lệ thuộc vào bên ngoài.
Do vậy, các nước đang phát triển đã có một số chính sách, giải pháp sau:
- Nhà nước can thiệp trực tiếp vào mọi hoạt động của nền kinh tế để tập
trung nguồn lực thực hiện chiến lược công nghiệp hoá thay thế nhập khẩu
- Xây dựng và phát triển một số ngành công nghiệp nhằm thay thế dần
các sản phẩm hàng hoá nhập khẩu.
- Thị trường trong nước được bảo hộ thông qua các chính sách bảo hộ
thuế quan, hạn ngạch, trợ cấp. Những chính sách này được thực hiện nhằm
bảo vệ những ngành công nghiệp non trẻ trước sự cạnh tranh của hàng hoá
nước ngoài.
- Mở rộng và phát triển khu vực kinh tế nhà nước. Trong giai đoạn đầu
thực hiện công nghiệp hoá, thực tế có nhiều ngành công nghiệp đòi hỏi vốn
đầu tư lớn, thời gian thu hồi vốn dài, khả năng sinh lợi nhuận thấp, khu vực
kinh tế tư nhân trong nước chưa đủ sức đảm nhận. Nhà nước đã sử dụng ngân

24


sách nhà nước, sử dụng các khoản vay nước ngoài để xây dựng và phát triển
các ngành công nghiệp chủ chốt và các ngành kinh tế công cộng.
- Về ngoại thương, chiến lược đó chủ trương cần bằng xuất nhập khẩu,
chỉ xuất cái gì có khả năng sản xuất ở trong nước đã vượt quá nhu cầu tiêu
dùng. Về cơ bản, đó là chiến lược nhằm phát triển nền kinh tế tự cấp tự túc,
giảm dần sự phụ thuộc vào nước ngoài.

Nhìn chung, chiến lược công nghiệp hoá thay thế nhập khẩu lấy trọng
tâm là thị trường trong nước để thúc đẩy sự phát triển của sản xuất và lưu
thông hàng hoá. Việc thực hiện công nghiệp hoá theo hướng thay thế nhập
khẩu ở một số nước đang phát triển đã đem lại những kết quả nhất định.
Những ngành công nghiệp chủ yếu đã được xây dựng và bước đầu đáp ứng
được những nhu cầu trong nước, giảm nhập khẩu hàng tiêu dùng. Việc thực
hiện chiến lược này cũng tạo tạo cơ hội cho các nước đang phát triển giải
quyết vấn đề công ăn việc làm, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động.
Tuy vậy, chiến lược công nghiệp hoá thay thế nhập khẩu cũng còn tồn
tại một số hạn chế:
- Hầu hết các nước đang phát triển đều thiếu vốn, thiếu kỹ thuật, công
nghệ, trong khi ấy việc phát triển công nghiệp đòi hỏi phải nhập khẩu một
khối lượng ngày càng nhiều máy móc, thiết bị và nguyên liệu cho công
nghiệp. Vì vậy, nếu không đẩy mạnh xuất khẩu thì vấn đề này càng trở nên
gay gắt, sự thiếu hụt trong cán cân ngoại thương và cán cân thanh toán ngày
càng lớn nên việc vay nợ nước ngoài sẽ càng tăng lên. Đó là vấn đề nan giải
với các nước đang phát triển.
- Do hạn chế về kỹ thuật, công nghệ nên khả năng tự lực tự cường vẫn
bộc lộ nhiều hạn chế và kết cục các nước này vẫn không thoát khỏi sự lệ
thuộc vào các nước tư bản phát triển. Để xây dựng những ngành công nghiệp
hướng nội, nhiều nước đang phát triển đã phải nhập khẩu công nghệ, và các
loại nguyên liệu trong nước chưa sản xuất được. Như vậy, các nước đang phát
25


×