Tải bản đầy đủ (.docx) (91 trang)

Thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã từ thực tiễn huyện sơn tây, tỉnh quảng ngãi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (334.04 KB, 91 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LÝ THỊ THU HỒNG

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH ĐÀO TẠO,
BỒI DƯỠNG CÁN BỘ, CÔNG CHỨC CẤP XÃ TỪ
THỰC TIỄN HUYỆN SƠN TÂY, TỈNH QUẢNG NGÃI

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG

HÀ NỘI, năm 2019


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LÝ THỊ THU HỒNG

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH ĐÀO TẠO,
BỒI DƯỠNG CÁN BỘ, CÔNG CHỨC CẤP XÃ TỪ
THỰC TIỄN HUYỆN SƠN TÂY, TỈNH QUẢNG NGÃI

Chuyên ngành: Chính sách công
Mã số: 8 34 04 02

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. NGUYỄN THỊ TÂM

HÀ NỘI, năm 2019



LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn thạc sĩ “Thực hiện chính sách đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ, công chứccấp xã từ thực tiễn huyện Sơn Tây, tỉnh Quảng Ngãi” là
công trình nghiên cứu của bản thân cùng với sự hướng dẫn nhiệt tình của PGS.TS.
Nguyễn Thị Tâm. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ
công trình nào khác tương tự như công trình tôi nghiên cứu. Các số liệu, kết quả và
trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực.
Tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm về lời cam đoan này.
Tác giả luận văn

Lý Thị Thu Hồng


LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình nghiên cứu đề tài “Thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ, công chứccấp xã từ thực tiễn huyện Sơn Tây, tỉnh Quảng Ngãi” bản thân
học viên đã nhận được sự giúp đỡ của Ban Giám đốc, các khoa, phòng và quý thầy,
cô trong Học viện Khoa học xã hội, các đồng nghiệp và các đồng chí là lãnh đạo các
Phòng, ban huyện cũng như lãnh đạo UBND các xã. Đặc biệt, bản thân xin gửi lời
cảm ơn sâu sắc đến PGS.TS. Nguyễn Thị Tâm, cô là người đã trực tiếp hướng dẫn
đề tài khoa học, là người đã dành nhiều thời gian, công sức để hướng dẫn Luận văn,
giúp học viên nghiên cứu và hoàn thành Luận văn một cách tốt nhất.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng trong suốt quá trình thực hiện đề tài, song có thể
còn có những mặt hạn chế, thiếu sót như phần đánh giá thực trạng, tìm ra nguyên
nhân để đề xuất các giải pháp từ đó giúp cho địa phương vận dụng trong thời gian
đến. Vậy nên, bản thân học viên rất mong nhận được ý kiến đóng góp và sự chỉ dẫn
của quý thầy cô và bạn bè để Luận văn có thể được hoàn thiện tốt hơn.
Xin chân thành cảm ơn!



MỤC LỤC
MỞ ĐẦU.................................................................................................................. 1
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH ĐÀO TẠO,
BỒI DƯỠNG CÁN BỘ, CÔNG CHỨC CẤP XÃ................................................. 9
1.1. Cán bộ, công chức cấp xã và chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức
cấp xã........................................................................................................................ 9
1.2. Quy trình thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã .. 20

1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,
công chức cấp xã..................................................................................................... 23
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH ĐÀO TẠO, BỒI
DƯỠNG CÁN BỘ, CÔNG CHỨC XÃ TẠI HUYỆN SƠN TÂY, TỈNH
QUẢNG NGÃI...................................................................................................... 29
2.1. Khái quát về huyện Sơn Tây, tỉnh Quảng Ngãi................................................ 29
2.2. Thực trạng chất lượng của đội ngũ cán bộ, công chức xã trên địa bàn huyện Sơn
Tây, tỉnh Quảng Ngãi.............................................................................................. 33
2.3. Thực trạng và kết quả tổ chức thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,
công chức xã trên địa bàn huyện Sơn Tây, tỉnh Quảng Ngãi...................................40
2.4. Đánh giá chung về kết quả thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,
công chức xã trên địa bàn huyện Sơn Tây, tỉnh Quảng Ngãi...................................53
CHƯƠNG 3: MỤC TIÊU, GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG VIỆC
THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ,
CÔNG CHỨC CẤP XÃ TỪ THỰC TIỄN HUYỆN SƠN TÂY, TỈNH QUẢNG
NGÃI...................................................................................................................... 60
3.1. Mục tiêu nâng cao chất lượng thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,
công chức xã trên địa bàn huyện Sơn Tây, tỉnh Quảng Ngãi...................................60
3.2. Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng thực hiện chính sách đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ, công chức xã trên địa bàn huyện Sơn Tây, tỉnh Quảng Ngãi...........61

3.3. Kiến nghị, đề xuất............................................................................................ 70
KẾT LUẬN......................................................................................................................................... 74
TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC CÁC BẢNG

Số
hiệu

Tổng hợp theo cơ cấu
2.1

chức cấp xã trên địa b

từ năm 2014 đến năm
Tổng hợp theo Trình
2.2

công chức cấp xã trên

Ngãi từ năm 2014 đến

Tổng hợp theo trình đ
2.3

nước của cán bộ, công

Tây, tỉnh Quảng Ngãi


Tổng hợp theo trình đ
2.4

công chức cấp xã trên

Ngãi từ năm 2014 đến

Tổng hợp kết quả phâ
2.5

cấp xã trên địa bàn hu
2014 đến năm 2018


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài

Hệ thống chính trị nước ta hiện nay có bốn cấp từ Trung ương đến tỉnh đến
huyện và đến xã. Trong đó cấp xã là cấp chính quyền gần dân, sát dân và gắn bó với
dân nhất, là cầu nối giữa Đảng, Nhà nước với Nhân dân để thực hiện tốt các chủ
trương, chính sách nhằm phát huy các tiềm năng, thế mạnh của địa phương vào
công cuộc phát triển kinh tế - xã hội, ổn định an ninh - quốc phòng trong công cuộc
đổi mới đất nước hiện nay.
Bởi tầm quan trọng đó, nên việc xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã
có đủ trình độ, năng lực và phẩm chất đáp ứng yêu cầu mới đã được Đảng và Nhà
nước ta đặc biệt quan tâm, nhiều chủ trương, chính sách cần thiết đã được ban hành.
Như Nghị quyết Trung ương 5 (khóa IX) về đổi mới và nâng cao chất lượng hệ
thống chính trị cơ sở ở xã, phường, thị trấn, đặt ra nhiệm vụ phải “chăm lo công tác
đào tạo, bồi dưỡng, giải quyết hợp lý và đồng bộ chính sách đối với cán bộ cơ sở”;
Hiến pháp năm 2013; Luật Cán bộ, công chức năm 2008 hay Luật Tổ chức chính

quyền địa phương năm 2015; cùng các văn bản hướng dẫn đã tạo cơ sở pháp lý để
từng bước xây dựng, kiện toàn đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã.
Để những văn bản, Nghị quyết trên mang lại hiệu quả thì yêu cầu sự quan
tâm của tất cả các cấp, các ngành trong việc tổ chức thực hiện chính sách “đào tạo,
bồi dưỡng”. Bởi có đào tạo và bồi dưỡng để cập nhật những kiến thức mới thì mới
có được những người cán bộ, công chức đủ năng lực, đủ trình độ để giải quyết công
việc trong thời đại công nghệ như hiện nay. Thực tế cho thấy, việc đào tạo bồi
dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã đã và đang thực hiện sâu rộng trên tất cả
các địa bàn trên cả nước, trong đó có cả huyện Sơn Tây, tỉnh Quảng Ngãi.
Và trong những năm gần đây, việc thực hiện chính sách đào tạo bồi dưỡng
cán bộ, công chức cấp xã tại huyện Sơn Tây, tỉnh Quảng Ngãi được tiến hành định
kỳ thường xuyên và được các cấp lãnh đạo quan tâm sâu sắc. UBND huyện đã khảo
sát nhu cầu, xây dựng kế hoạch để tổ chức đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức xã

1


nhằm chuẩn hóa và nâng cao chất lượng của đội ngũ này để ngày càng đáp ứng
những yêu cầu, thách thức mới của thời kỳ hội nhập và thực hiện có hiệu quả của
chương trình Cải cách hành chính mà Đảng, Nhà nước đã đề ra.
Tuy nhiên, trong việc tổ chức thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng tại
huyện Sơn Tây, tỉnh Quảng Ngãi còn có những bất cập nhất định như đôi lúc đào
tạo chưa chưa gắn với yêu cầu, tiêu chuẩn và chức danh quy hoạch, nội dung đào
tạo bồi dưỡng thiếu đồng bộ, thiếu chiều sâu, nguồn ngân sách hàng năm thực hiện
cho công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức còn quá hạn chế chưa đáp ứng
được mục tiêu của chính sách đã đề ra, làm giảm hiệu quả của chính sách đào tạo
bồi dưỡng cán bộ, công chức. Vì vậy, để thực hiện chính sách đạt hiệu quả cao,
đồng thời nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã trong thực tiễn
hiện nay và trong thời gian tới là một vấn đề có ý nghĩa cấp thiết.
Thông qua việc nghiên cứu, đánh giá việc triển khai thực hiện chính sách đào

tạo bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã từ thực tiễn của huyện Sơn Tây, đồng thời
có những đề xuất nhằm hoàn thiện và nâng cao chất lượng, hiệu quả thực hiện chính
sách đào tạo bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã trong thời gian tới cho cả nước nói
chung, huyện Sơn Tây, tỉnh Quảng Ngãi nói riêng. Từ thực tiễn nêu trên bản thân
học viên chọn đề tài "Thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công
chứccấp xã từ thực tiễn huyện Sơn Tây, tỉnh Quảng Ngãi" để làm Luận văn thạc
sĩ chuyên ngành Chính sách công cho tốt nghiệp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức là nền tảng cho sự phát triển của đất
nước và là một lĩnh vực được nhiều nhà quản lý, nhà khoa học quan tâm, nghiên
cứu. Trong thời gian qua, đã có rất nhiều bài viết, công trình nghiên cứu về chính
sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, có thể kể ra một số công trình tiêu biểu
như:
- Tác giả Nguyễn Thị Hồng Hải (2013): "Hỏi đáp về quản lý cán bộ công

chức cấp xã", NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

2


- PGS.TS. Nguyễn Minh Phương, ThS. Trần Thị Hạnh (2014), "Hoàn thiện

quy phạm pháp luật về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức", Tạp chí
Tổ chức nhà nước, số 10/2014.
- ThS. Nguyễn Thị La (2015), "Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức trong

quá trình cải cách hành chính", Tạp chí Cộng sản số 9/2015. Tác giả đánh giá thực
trạng công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức hiện nay, chỉ ra một số hạn chế
của công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức như một số cấp ủy, chính quyền

địa phương chưa coi trọng đúng mức công tác đào tạo, bồi dưỡng; cán bộ, công
chức chủ yếu vừa học vừa làm nên công việc chi phối quá trình học tập, thời gian
dành trọn vẹn cho việc học tập không nhiều; quá trình đào tạo chưa đi liền với bố trí
và sử dụng sau khi được cử đi đào tạo, bồi dưỡng, hay công tác này còn mang nặng
tính hình thức, chưa có hiệu quả rõ rệt….
- TS. Trần Nghị (2013), Đề tài cấp Bộ “Trách nhiệm cán bộ, công chức

trong thực thi công vụ đáp ứng yêu cầu cải cách hành chính nhà nước”.
- Tác giả Lê Vĩnh Tân (2019), "Nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán

bộ, công chức, viên chức ở nước ta hiện nay", Tạp chí Cộng sản, số 918/2019.
- TS. Đặng Xuân Hoan (11/01/2019), "Đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng cán

bộ, công chức đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới", Tạp chí Cộng sản.
- TS. Nguyễn Thanh Giang (2019), "Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ trong giai

đoạn hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh", Tạp chí cộng sản, số 916/2019.
- Ban chấp hành Trung ương (25/10/2017), “Nghị quyết Hội nghị lần thứ sáu

ban chấp hành Trung ương khoá XII về một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp
tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả”.
- Trường Đại học Nội vụ Hà Nội: “Báo cáo kết quả Dự án điều tra cấp bộ

“Điều tra cơ bản thực trạng và đề xuất giải pháp nâng cao chất lượng bồi dưỡng
công chức đáp ứng yêu cầu cải cách hành chính nhà nước”.
- PGS. TS Nguyễn Minh Phương (2018), “Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán

bộ, công chức và một số vấn đề đặt ra trong hội nhập quốc tế”.

3



- PGS. TS Nguyễn Minh Phương (2019), “Đổi mới hoạt động đào tạo, bồi

dưỡng cán bộ, công chức ở nước ta hiện nay”
- PGS.TS. Lưu Kiếm Thanh – TS. Đoàn Văn Dũng (2019), “Nghiên cứu

khoa học – động lực và giải pháp cho mục tiêu nâng cao chất lượng đào tạo, bồi
dưỡng của Học viện Hành chính Quốc gia”
- TS. Trần Văn Ngợi (2019), “Công tác xây dựng, kiện toàn đội ngũ cán bộ,

công chức cấp xã và một số vấn đề đặt ra hiện nay”
- Viện Khoa học tổ chức nhà nước, (2016), Dự án “Điều tra đánh giá thực

trạng và đề xuất giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức xã,
phường, thị trấn đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh cải cách chế độ công vụ, công chức”.
- TS. Trần Anh Tuấn (2017), đề tài khoa học cấp quốc gia “Nghiên cứu cơ sở

lý luận và thực tiễn phục vụ xây dựng và kiện toàn đội ngũ cán bộ, công chức và
người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã”.
- Tác giả Nguyễn Thanh Bình (2018), Đề tài cấp Bộ “Chính phủ điện tử

trong điều kiện đẩy mạnh cải cách hành chính nhà nước ở Việt Nam”.
- ThS. Đặng Thị Mai Hương (2018), Đề tài khoa học cấp Bộ “Hoàn thiện

quy định pháp luật quản lý nhà nước về bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức, ở
Việt Nam hiện nay”.
Qua nghiên cứu và tìm hiểu, có thể nhận định rằng, những công trình nghiên
cứu, bài viết trên đều có giá trị về lý luận và thực tiễn trong việc thực hiện chính
sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức. Các tài liệu đã nêu ra những lý luận cơ

bản nhất về chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức và đánh giá được chất
lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chứctrong thời gian qua. Đồng thời cũng nêu
những ý kiến và đề ra những phương pháp nhằm để nâng cao chất lượng đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ, công chức cũng như nâng cao năng lực thực thi công vụ của cán
bộ, công chứctrong thời gian đến.
Tuy nhiên, để chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức ngày càng nâng cao, đáp
ứng được yêu cầu trong thời kỳ hội nhập hiện nay và trong thời gian đến thì cần có
nhiều hơn nữa các đề tài, các công trình nghiên cứu sát hơn nữa, thực tế hơn nữa nhằm

4


hoàn thiện việc thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức ở địa
phương.
Thực tế hiện nay trên địa bàn huyện Sơn Tây, tỉnh Quảng Ngãi chưa có đề tài
hay công trình nào nghiên cứu về chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức
cấp xã. Nên lần này, học viên sẽ thực hiện việc nghiên cứu một cách cụ thể nhất về
việc thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã từ thực tiễn
huyện Sơn Tây, tỉnh Quảng Ngãi. Đề tài này sẽ nghiên cứu sát hơn, sâu hơn và phân
tích cụ thể, rõ ràng hơn việc thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công
chức cấp xã từ thực tiễn của huyện Sơn Tây, để từ đó đưa ra các giải pháp mang tính
thực tiễn cao góp phần vào sự phát triển chung của địa phương, đặc biệt là trong
việc thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức cấp xã ở địa phương
huyện nhà, cũng như những huyện có đặc điểm tương đồng giống huyện Sơn Tây có
thể xem xét và vận dụng.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu cơ sở lý luận và việc thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ, công chức cấp xã từ thực tiễn huyện Sơn Tây để đề xuất các giải pháp nhằm
nâng cao chất lượng trong việc thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,

công chức cấp xã trên địa bàn huyện Sơn Tây, tỉnh Quảng Ngãi trong thời gian đến.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để quá trình nghiên cứu đạt hiệu quả và thì luận văn phải thực hiện một số
nhiệm vụ sau:
Thứ nhất: luận văn nghiên cứu kỹ về các cơ sở lý luận để hệ thống lại và phát
triển thêm, làm rõ thêm các lý luận nhằm đạt hiệu quả cao nhất trong việc thực hiện
chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức xã.
Thứ hai: khảo sát, phân tích, nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng cũng như đánh
giá về ưu điểm, những hạn chế bất cập trong việc thực hiện chính sách đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ, công chức xã từ thực tiễn huyện Sơn Tây.
Thứ ba: đề xuất phương hướng và giải pháp hoàn thiện thực hiện chính sách

5


đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã từ thực tiễn huyện Sơn Tây, nhằm xây
dựng một lực lượng cán bộ, công chức xã tốt hơn trong thời gian đến.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu về thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,
công chức cấp xã tại huyện Sơn Tây, tỉnh Quảng Ngãi bao gồm chủ trương, đường
lối, các chính sách cụ thể của Đảng và Nhà nước có liên quan đến việc đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ, công chức cấp xã.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Về không gian: luận văn tập trung nghiên cứu về thực hiện chính sách đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ, công chức trên địa bàn 09 xã của huyện Sơn Tây, tỉnh Quảng Ngãi.

Về thời gian: luận văn nghiên cứu thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ, công chức cấp xã từ thực tiễn huyện huyện Sơn Tây, tỉnh Quảng Ngãi trong

05 năm (từ năm 2014 - 2018) để phản ánh và phân tích về thực trạng việc thực hiện
chính sách của địa phương.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn vận dụng phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng
Hồ Chí Minh; cơ sở lý luận nghiên cứu chính sách công kết hợp giữa nghiên cứu lý
thuyết với nghiên cứu thực tế tại địa bàn nghiên cứu. Vận dụng cách tiếp cận đa
chiều, gắn liền với các văn kiện, Nghị quyết của Đảng Cộng sản Việt Nam và các
văn bản quản lý nhà nước đối với cán bộ, công chức và công tác đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ, công chứccấp xã.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Học viên đã vận dụng các phương pháp tốt nhất mà bản thân có thể tiếp cận
để thực hiện nghiên cứu Luận văn của mình, cụ thể như sau:
Phương pháp phân tích, tổng hợp, đánh giá chính sách: Trên cơ sở quá trình
tổ chức thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức tại địa bàn
nghiên cứu, học viên phân tích các báo cáo liên quan đến tình hình hoạt động và các

6


biện pháp thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức ở địa phương,
từ đó có những tổng hợp và đánh giá quá trình thực hiện chính sách.
Phương pháp tìm kiếm, thu thập và chọn lọc thông tin: Học viên đã nghiên
cứu dữ liệu lưu trữ của các ban ngành có liên quan, thực hiện việc tìm kiếm, thu
thập và chọn lọc các thông tin có liên quan để thực hiện việc nghiên cứu. Như các
văn kiện Đại hội, Văn kiện lịch sử, Nghị quyết của Đảng, các Nghị định, Thông tư,
Quyết định, Chỉ thị của Nhà nước ở Trung ương, các công trình nghiên cứu, tạp chí
chuyên ngành, các sách đã xuất bản tại các địa chỉ được cấp phép xuất bản và lưu
hành, các Quyết định, Kế hoạch, chỉ thị, báo cáo và tài liệu thống kê…. ở địa

phương có liên quan trực tiếp tới chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức
cấp xã ở nước ta nói chung và từ thực tiễn huyện Sơn Tây, tỉnh Quảng Ngãi nói
riêng.
Bên cạnh đó, để Luận văn đạt hiệu quả tốt nhất, học viên còn sử dụng các
phương pháp như khái quát thực tiễn, suy luận logic, diễn giải, quy nạp… Đặc biệt,
học viên sẽ sử dụng phương pháp so sánh để so sánh kết quả thực hiện chính sách
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã tại thời điểm năm 2018 so với năm
2014, để từ đó biết được việc thực hiện chính sách này trên địa bàn huyện Sơn Tây
có được quan tâm hay không?
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

6.1. Ý nghĩa lý luận của luận văn
Thông qua Kết quả nghiên cứu, luận văn sẽ làm rõ thêm và bổ sung thêm một
số lý luận về thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã hiện
nay từ thực tiễn huyện Sơn Tây, tỉnh Quảng Ngãi. Để địa phương có thể tham khảo
và vận dụng vào làm căn cứ và cơ sở lý luận trong việc thực hiện chính sách đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn cung cấp những chứng cứ thực tiễn và đề
xuất giải pháp có giá trị tham khảo với Đảng, Nhà nước về giải pháp thực hiện

7


chính sách nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,
công chức cấp xã từ thực tiễn huyện Sơn Tây, tỉnh Quảng Ngãi.
7. Kết cấu của luận văn

Luận văn được học viên nghiên cứu và thể hiện thành 03 chương, cụ thể:
Chương 1: Cơ sở lý luận về thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,

công chức cấp xã
Chương 2: Thực trạng thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công
chức xã tại huyện Sơn Tây, tỉnh Quảng Ngãi
Chương 3: Mục tiêu, giải pháp nâng cao chất lượng việc thực hiện chính
sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã từ thực tiễn huyện Sơn Tây, tỉnh
Quảng Ngãi.

8


CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG
CÁN BỘ, CÔNG CHỨC CẤP XÃ
1.1. Cán bộ, công chức cấp xã và chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,
công chức cấp xã
1.1.1. Cán bộ, công chức cấp xã
1.1.1.1. Khái niệm cán bộ, công chức và cán bộ, công chức cấp xã
Để tìm hiểu rõ hơn về cán bộ, công chức cấp xã thì ta phải tìm hiểu “Khái
niệm cán bộ, công chức”:
Tại khoản 1, Điều 4 Luật Cán bộ, công chức năm 2008 đã nêu: "Cán bộ là
công dân Việt Nam, được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ chức vụ, chức danh theo
nhiệm kỳ trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị
- xã hội ở trung ương, ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là

cấp tỉnh), ở huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là cấp
huyện), trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước"
Tại khoản 2, Điều 4 Luật Cán bộ, công chức năm 2008 đã nêu: "Công chức
là công dân Việt Nam, được tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch, chức vụ, chức danh
trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở
trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện; trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân mà

không phải là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng; trong cơ
quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân mà không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên
nghiệp và trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập của Đảng
Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội (sau đây gọi chung là đơn
vị sự nghiệp công lập), trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước; đối
với công chức trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập thì
lương được bảo đảm từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định của
pháp luật" [22].
Theo quy định tại Nghị định số 06/2010/NĐ-CP ngày 25/01/2010 của Chính

9


phủ: "Công chức là công dân Việt Nam, được tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch,
chức vụ, chức danh trong biên chế, hưởng lương từ ngân sách nhà nước hoặc được
bảo đảm từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định của pháp
luật…" [11].
Từ những “Khái niệm cán bộ, công chức” ta sẽ tiếp tục tìm hiểu “Khái niệm
cán bộ, công chức cấp xã”.
Tại khoản 3, Điều 4 của Luật Cán bộ, công chức năm 2008 quy định: "Cán
bộ xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là cấp xã) là công dân Việt Nam, được
bầu cử giữ chức vụ theo nhiệm kỳ trong Thường trực Hội đồng nhân dân, Ủy ban
nhân dân, Bí thư, Phó Bí thư Đảng ủy, người đứng đầu tổ chức chính trị - xã hội;
công chức cấp xã là công dân Việt Nam được tuyển dụng giữ một chức danh chuyên
môn, nghiệp vụ thuộc Ủy ban nhân dân cấp xã, trong biên chế và hưởng lương từ
ngân sách nhà nước". [22].
Tại Nghị định 92/2009/NĐ-CP ngày 22 tháng 10 năm 2009 của Chính phủ về
chức danh, số lượng, một số chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức ở xã,
phường, thị trấn và những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã đã chỉ rõ:
- Cán bộ cấp xã bao gồm các chức vụ sau


đây: + Bí thư, Phó Bí thư Đảng ủy;
+ Chủ tịch, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân;
+ Chủ tịch, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân;

+ Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam;
+ Bí thư Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh;
+ Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam;
+ Chủ tịch Hội Nông dân Việt Nam (áp dụng đối với xã, phường, thị trấn có

hoạt động nông, lâm, ngư, diêm nghiệp và có tổ chức Hội Nông dân Việt Nam);
+ Chủ tịch Hội Cựu chiến binh Việt Nam.
- Công chức cấp xã bao gồm các chức danh

sau: + Trưởng Công an
+ Chỉ huy trưởng Quân sự

10


+ Văn phòng - Thống kê
+ Địa chính – xây dựng - đô thị và môi trường (đối với phường, thị trấn)

hoặc địa chính – nông nghiệp - xây dựng và môi trường (đối với xã)
+ Tài chính - Kế toán
+ Tư pháp - Hộ tịch
+ Văn hóa - Xã hội

1.1.1.2. Đặc điểm của cán bộ, công chức cấp xã
Cán bộ, công chức cấp xã có những đặc điểm cơ bản của đội ngũ cán bộ,

công chức trong nền công vụ Việt Nam. Tuy nhiên, do vị trí, vai trò của chính quyền
cấp xã nên đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã có những đặc điểm mang tính đặc thù
như sau:
Thứ nhất, cán bộ, công chức cấp xã là người trực tiếp tiếp xúc và làm việc
thường xuyên với người dân. Tất cả đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước từ Trung ương, tỉnh, huyện, xã đều do đội ngũ cán bộ, công
chức cấp xã phổ biến, nghiên cứu và cụ thể hóa để triển khai trực tiếp đến Nhân dân
để Nhân dân hiểu rõ và thi hành.
Thứ hai, cán bộ, công chức cấp xã thường hội tụ đủ các vai trò khác nhau mà
họ phải thể hiện như vừa là công dân; vừa là đồng hương, bà con, họ hàng; vừa là
người đại diện của cộng đồng; vừa là người đại diện cho Nhà nước... và cán bộ,
công chức cấp xã luôn phải là những người vừa có lý, vừa có tình. Những vai trò
này làm cho cán bộ, công chức cấp xã luôn có một gánh nặng là bắt buộc phải làm
sao để hài hòa mọi thứ mà không sai quy định của pháp luật. Đây cũng là một việc
ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng cũng như hiệu quả trong quá trình thực hiện
nhiệm vụ của cán bộ, công chức cấp xã.
Thứ ba, hoạt động thực thi công vụ của cán bộ, công chức cấp xã mang tính
đa dạng, phức tạp, vừa phải truyền tải "thông điệp" của cấp trên đến người dân, vừa
tiếp nhận thông tin, phản ánh của người dân để trực tiếp xem xét giải quyết hoặc
chuyển đến cơ quan cấp trên nếu không đủ thẩm quyền. Họ phải là người am hiểu,

11


phải là người có năng lực để giải quyết tất cả các công việc thuộc thẩm quyền một
cách tốt nhất cho người dân, đảm bảo quyền và lợi ích chính đáng của người dân.
Thứ tư, hiện nay trình độ của cán bộ, công chức cấp xã đã có sự nâng tầm so
với trước kia. Tuy nhiên, trình độ văn hoá, nhận thức, năng lực thực thi công vụ của
một số cán bộ, công chức xã vẫn chưa đáp ứng được thời đại công nghệ phát triển
hiện nay, đặc biệt là cán bộ, công chức là người đồng bào dân tộc thiểu số ở các xã

vùng sâu, vùng xa. Bên cạnh đó, một số cán bộ, công chức cấp xã còn làm việc một
cách thụ động, ít sáng tạo cho dù đã được trang bị đầy đủ kiến thức về chuyên môn,
nghiệp vụ; vẫn còn không ít cán bộ, công chức cấp xã mới chỉ dừng lại ở trình độ
"cầm tay chỉ việc", và cũng còn nhiều cán bộ, công chức chuyên môn nghiệp vụ
không đúng chuyên ngành nên chưa am hiểu nhiều về lĩnh vực chuyên môn. Bên
cạnh đó, cũng có một số cán bộ, công chức trẻ chưa có nhiều kinh nghiệm trong giải
quyết công việc nên cũng đã gặp khó khăn trong quá trình xử lý các tình huống, gây
ra chậm trễ trong công việc chung của địa phương.
Với những đặc điểm đã nêu, đòi hỏi trong việc thực hiện chính sách đào tạo
cán bộ, công chức cấp xã phải có những phương pháp, cách thức, hướng đi phù hợp
với từng giai đoạn cụ thể, với từng địa bàn, từng nhóm đối tượng cụ thể để đảm bảo
tính ứng dụng và hiệu quả lâu dài, góp phần vào việc sử dụng có hiệu quả nguồn lực
sau đào tạo và bồi dưỡng, ngày càng góp phần vào sự phát triển của địa phương.
1.1.1.3. Vị trí, vai trò của cán bộ, công chức cấp xã
Trong hệ thống chính trị từ Trung ương đến địa phương, đội ngũ cán bộ, công
chức cấp xã luôn có vị trí và vai trò rất quan trọng. Chính sách của Đảng và Nhà nước
có được người dân đón nhận hay không cũng phần nào là do sự tuyên truyền, triển khai
thực hiện của đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã. Bởi họ là những người trực tiếp truyền
tải những nội dung của đường lối, chính sách đến tận người dân, để người dân tiếp cận,
hiểu được nội dung và thực hiện theo quy định. Vậy nên, đội ngũ cán bộ, công chức
cấp xã được đào tạo bài bản và đủ vững mạnh thì tất cả những chính sách đúng đắn của
Đảng và Nhà nước sẽ được triển khai thực hiện đảm bảo và sẽ duy trì được sự ổn định
góp phần vào sự đổi mới, phát triển ở địa phương.

12


Những năm đổi mới vừa qua cũng đã chỉ ra rằng sự thành công hay thất bại
của Đảng trong lãnh đạo, chỉ đạo phát triển kinh tế xã hội ở cơ sở phụ thuộc rất lớn
vào đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã.

Đội ngũ cán bộ, công chức ở cấp xã có vai trò đặc biệt quan trọng trong toàn
bộ hoạt động của bộ máy Đảng, chính quyền, các đoàn thể nước ta hiện nay. Tầm
quan trọng của đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã thể hiện bằng những kế hoạch tổ
chức triển khai, hiện thực hoá đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà
nước. Họ vừa là người đại diện cho Đảng và Nhà nước thực hiện việc quản lý, điều
hành trong các lĩnh vực như: kinh tế, chính trị, xã hội, quốc phòng và an ninh, vừa
là người trực tiếp lãnh đạo, tổ chức thực hiện các chủ trương đường lối của Đảng,
thực thi quyền hành pháp, cũng như tiến hành tổ chức, triển khai các chương trình
phát triển kinh tế xã hội ở địa phương. Mặt khác cán bộ, công chức cấp xã cũng là
người thường xuyên chăm lo đến mọi mặt đời sống, cả vật chất và tinh thần của mọi
người dân; là người đại diện cho ý chí, quyền lợi của nhân dân địa phương, đấu
tranh và bảo vệ quyền lợi chính đáng của người dân khi bị vi phạm. Cán bộ, công
chức cấp xã là người cụ thể và trực tiếp nhất trong việc thực hiện phương châm của
Chủ tịch Hồ Chí Minh “Cán bộ vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ trung
thành của nhân dân”.
Thực tiễn cho thấy, chất lượng của đội ngũ cán bộ, công chức xã có ảnh
hưởng đến quá trình phát triển kinh tế, xã hội ở địa phương.
Cán bộ, công chức cấp xã là những người sống và hoạt động thường xuyên,
gần gũi, liên hệ mật thiết với Nhân dân. Do vậy, người cán bộ, công chức cấp xã cần
phải được trang bị đầy đủ kiến thức, trình độ và năng lực chuyên môn để chủ động,
vững vàng trong quản lý điều hành, mặt khác người cán bộ, công chức cấp xã cần
có đủ các tiêu chuẩn về phẩm chất chính trị, đạo đức có lối sống trong sạch, lành
mạnh, trung thành với mục tiêu lý tưởng của Đảng, biết hi sinh, gương mẫu để lôi
cuốn quần chúng Nhân dân tích cực tham gia lao động sản xuất thực hiện tốt các
chương trình phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương.

13


1.1.2. Chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã

1.1.2.1. Một số khái niệm
- Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức
Đào tạo là các hoạt động học tập cung cấp những kiến thức, kỹ năng nhằm
giúp cán bộ, công chức có thể thực hiện hiệu quả hơn chức năng, nhiệm vụ vị trí
việc làm của mình. Đó là quá trình truyền thụ khối kiến thức mới một cách có hệ
thống để thông qua đó cán bộ, công chức được đào tạo trở thành người có văn bằng
mới cao hơn trình độ trước đó, “đào tạo là các hoạt động học tập để nâng cao trình
độ, kỹ năng của người lao động để thực hiện có hiệu quả hơn chức năng và nhiệm
vụ của mình” [34]. Có thể thấy đào tạo là hoạt động làm cho cán bộ, công chức trở
thành người có năng lực theo những tiêu chuẩn nhất định gắn với vị trí việc làm,
khung năng lực của tổ chức. Quá trình đào tạo được tiến hành trong khoảng thời
gian dài và được hiểu là quá trình chuẩn bị cho nguồn nhân lực phát triển trong
tương lai. Đặc trưng của đào tạo là phải gắn liền với những thay đổi của môi trường,
đáp ứng đòi hỏi của công việc và môi trường trong hiện tại và tương lai.
Như vậy có thể khái quát khái niệm đào tạo cán bộ, công chức là quá trình
truyền thụ kiến thức, kỹ năng về chuyên môn, nghiệp vụ bằng các hình thức khác
nhau, phương pháp khác nhau cho cán bộ, công chức phù hợp với yêu cầu giải
quyết công việc được nhà nước giao, do các cơ sở giáo dục thực hiện với thời gian,
nội dung và chương trình khác nhau và được dành cho các cấp, bậc đào tạo khác
nhau. Sau khi học viên được đào tạo hoàn thành chương trình thì sẽ được cấp văn
bằng tương ứng với trình độ đào tạo đã tốt nghiệp.
Bồi dưỡng là quá trình cán bộ, công chức phải tiếp thu những kiến thức mới
trong một thời gian ngắn nhằm mục đích nâng cao kiến thức, kỹ năng làm việc
trong quá trình thực thi nhiệm vụ của mình. Có nhiều hình thức bồi dưỡng như: bồi
dưỡng theo tiêu chuẩn ngạch là trang bị kiến thức, kỹ năng hoạt động công vụ; bồi
dưỡng theo tiêu chuẩn chức vụ lãnh đạo, quản lý là trang bị kiến thức, kỹ năng,
phương pháp làm việc cho từng vị trí lãnh đạo, quản lý; bồi dưỡng theo vị trí việc
làm là trang bị, cập nhật kiến thức, kỹ năng, phương pháp cần thiết để làm tốt công

14



việc được giao. Khối lượng kiến thức, kỹ năng được quy định tại các chương trình
bồi dưỡng phù hợp với từng đối tượng cán bộ, công chức. Kết quả của các khóa bồi
dưỡng là người học tiếp thu được những kiến thức, kỹ năng cần thiết cho vị trí việc
làm đang đảm nhận, được đơn vị bồi dưỡng cấp chứng nhận đã hoàn thành chương
trình bồi dưỡng.
Từ những phân tích trên, có thể hiểu: Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức
là quá trình tổ chức học tập bằng những hình thức, phương pháp khác nhau dành
cho đội ngũ cán bộ, công chức nhằm trang bị, cập nhật, nâng cao kiến thức, kỹ
năng, thái độ làm việc giúp họ thực thi công vụ một cách có hiệu quả hơn.
- Chính sách công và chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức
Từ trước đến nay có rất nhiều định nghĩa về chính sách công của rất nhiều
học giả như của tác giả B. Guy Peter (1990) định nghĩa: “Chính sách công là toàn
bộ các hoạt động của nhà nước có ảnh hưởng một cách trực tiếp hay gián tiếp đến
cuộc sống của mọi công dân”; Tác giả Nguyễn Hữu Hải, Lê Văn Hòa đồng chủ biên
(2013), Đại cương về chính sách công, quan niệm: “Chính sách công là kết quả
ý chí chính trị của nhà nước được thể hiện bằng một tập hợp các quyết định có liên

quan với nhau, bao hàm trong đó định hướng mục tiêu và cách thức giải quyết
những vấn đề công trong xã hội” [15].
Theo tài liệu của TS. Nguyễn Phú Thái: chính sách công được hiểu là một quá
trình hoặc một phương thức hành động rõ ràng được nhà nước, tổ chức hoặc cá
nhân lựa chọn để làm cơ sở cho việc đưa ra các quyết định cho những vấn đề đặt ra,
là một quyết định cụ thể hay một loạt các quyết định được đưa ra để thực hiện một
chương trình hành động, là một quyết định cụ thể hoặc một loạt các quyết định cùng
với các hoạt động có liên quan để thực hiện các quyết định đó, là một chương trình
hành động bao gồm mục đích và các giải pháp để đạt mục đích đó, là những nguyên
tắc cơ bản chi phối các hoạt động của nhà nước. Những mục tiêu nhà nước tìm cách
đạt được, đồng thời vẫn giữ gìn được lợi ích quốc gia; là một cái sườn, khung hoặc

cơ sở để đưa ra các quyết định nhằm đạt được một hiệu ứng hoặc một sự thay đổi
nào đó mà nhà hoạch định chính sách mong muốn; là định hướng hành động được

15


nhà nước lựa chọn, phù hợp với đường lối chính trị để giải quyết những vấn đề
chung của xã hội trong một thời kỳ nhất định.
Tóm lại từ các khái niệm trên, chúng ta có thể đi đến một khái niệm chung
nhất về chính sách công như sau: “Chính sách công là những hành động ứng xử của
Nhà nước về các vấn đề phát sinh trong đời sống xã hội, được thể hiện bằng nhiều
hình thức khác nhau, nhằm thúc đẩy xã hội phát triển theo định hướng”.
Từ những quan điểm về chính sách công, có thể khái quát: “Chính sách đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức là tất cả những quan điểm, chủ trương, đường lối
của Đảng và Nhà nước về vấn đề đào tạo, bồi dưỡng được tập hợp và xây dựng
thành một hệ thống văn bản có liên quan để lựa chọn mục tiêu và giải pháp phù
hợp trong việc tổ chức thực hiện nhằm nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ năng,
năng lực, phẩm chất chính trị, đạo đức cho đội ngũ cán bộ, công chức trong thực
thi nhiệm vụ, đáp ứng được mục tiêu của tổ chức và yêu cầu phát triển của đất
nước trong tình hình mới.
- Thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã
Tổ chức thực thi chính sách là tất yếu khách quan để duy trì sự tồn tại của
công cụ chính sách theo yêu cầu quản lý Nhà nước và cũng là để đạt mục tiêu đề ra
của chính sách. Để tìm hiểu khái niệm về thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ, công chức cấp xã thì ta cần tìm hiểu về khái niệm “Tổ chức thực thi chính
sách”
"Tổ chức thực thi chính sách là toàn bộ quá trình chuyển hóa ý chí của chủ thể
trong chính sách thành hiện thực với các đối tượng quản lý nhằm đạt được mục tiêu
định hướng của Nhà nước".
Trong quá trình thực thi chính sách, các nguồn lực vật chất, tài chính, khoa

học công nghệ và con người được đưa vào các hoạt động có tính định hướng để đạt
được các mục tiêu đã đề ra.
Chủ thể thực thi chính sách quan trọng nhất là các cơ quan hành chính nhà
nước, bởi vì đây chính là các cơ quan có nhiệm vụ quản lý và tổ chức triển khai các
công việc hàng ngày của Nhà nước. Tuy nhiên, cơ quan lập pháp và tư pháp cũng

16


như các tổ chức Đảng, đoàn thể cũng có vai trò quan trọng trong việc huy động và
tổ chức lực lượng tham gia triển khai chính sách.
Theo Nguyễn Thị Hồng Hải, trong Hỏi đáp về quản lý cán bộ công chức cấp
xã: “Đào tạo, bồi dưỡng là hoạt động trang bị, cập nhật, nâng cao kiến thức đã được
đào tạo, nhằm củng cố, mở mang và trau dồi một cách có hệ thống những kỹ năng
và chuyên môn nghề nghiệp.” [14]
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, khi đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, trước hết, cần
bảo đảm nguyên tắc “thực tiễn sâu sắc”. Người cho rằng, phương thức đào tạo, huấn
luyện phải cụ thể, thiết thực, phải căn cứ vào đặc điểm, yêu cầu của nghề nghiệp,
trình độ cán bộ để tiến hành. Hồ Chí Minh chỉ thị học lý luận phải gắn liền với thực
tiễn, tránh đào tạo chung chung, học “vẹt”, học thuộc lòng, “người biết lý luận mà
không thực hành thì cũng vô ích”. Người rất quan tâm đến “lý luận phải liên hệ với
thực tế” [19], Người viết: “Học tập lý luận thì nhằm mục đích học để vận dụng chứ
không phải học lý luận vì lý luận” [19]. Thực tiễn không ngừng vận động, biến đổi,
do vậy lý luận (nội dung đào tạo) càng phải thường xuyên đổi mới, bổ sung, phát
triển, và như thế, cán bộ phải thường xuyên “học, học nữa, học mãi” (theo cách nói
của V.I. Lê-nin).
Căn cứ vào những quan điểm về chính sách công, về đào tạo, bồi dưỡng,
chính sách đào tạo, bồi dưỡng và tổ chức thực thi chính sách đã đề cập ở trên ta có
thể nêu ra quan điểm về thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức
cấp xã như sau: Thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã

là việc cụ thể hóa những quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng thành những
quyết định, quy định, kế hoạch cụ thể của Nhà nước và thực hiện bằng những hoạt
động đào tạo, bồi dưỡng cụ thể để đạt được kết quả cụ thể mà mục tiêu cuối cùng là
đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã phải đảm bảo về chuyên môn, nghiệp vụ, chính
trị, đạo đức để giải quyết được công việc cho người dân, cá nhân, tổ chức và đáp
ứng được yêu cầu trong tình hình mới.
1.1.2.2. Vai trò của việc thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,
công chức cấp xã

17


Việc thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã hiện
nay, phải đảm bảo các yêu cầu:
Một là: Nhằm biến ý đồ chính sách thành hiện thực. Nội dung của một chính
sách luôn thể hiện ý chí và thái độ của nhà nước đến các đối tượng quản lý được nêu
rõ trong các văn bản quy phạm pháp luật.
Việc thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng đối với cán bộ, công chức cấp
xã nhằm từng bước thể hiện yêu cầu của Nhà nước đối với đội ngũ cán bộ, công
chức xã là phải ngày càng nâng cao chất lượng về năng lực, trình độ chuyên môn,
kỹ năng giải quyết công việc, xử lý vấn đề mà mỗi cá nhân được phân công phụ
trách.
Hai là: Nhằm từng bước cụ thể hóa các mục tiêu chính sách và mục tiêu
chung vào hiện thực cuộc sống. Chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức
cấp xã có thể đạt được mục tiêu đề ra khi chính sách đó được đưa vào thực hiện
trong cuộc sống. Khi triển khai thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,
công chức cấp xã thì cần phải xây dựng được các chương trình, đề án, kế hoạch và
các thủ tục phù hợp với đặc điểm, tình hình để cụ thể hóa các mục tiêu của chính
sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức xã và tiến hành các bước theo quy định
để thực hiện các chương trình, đề án, kế hoạch và thủ tục của chính sách đạt được

kết quả tốt nhất, hoàn thành các chỉ tiêu đề ra.
Ba là: Nhằm khẳng định tính đúng đắn của việc ban hành chính sách. Khi
chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã được ban hành đã thể hiện
ý chí của người xây dựng chính sách (họ phát hiện ra những bất cập, những mâu

thuẫn, những thiếu sót, những chênh lệch cần bổ sung, khắc phục như về trình độ,
về nghiệp vụ, về kỹ năng, về đạo đức… và cần phải được giải quyết bằng chính
sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã) và khi chính sách đã được ban
hành và đưa vào thực hiện có hiệu quả, được cán bộ, công chức cấp xã - đối tượng
thụ hưởng chính sách hưởng ứng thì sẽ khẳng định được tính đúng đắn của việc ban
hành chính sách đó.
Bốn là: Sẽ giúp cho chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã

18


ngày càng hoàn chỉnh.
Nhờ quá trình thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp
xã trong thực tế sẽ phát hiện ra những bất cập, sai sót, cần có sự điều chỉnh, bổ sung
để hoàn thiện về nội dung của chính sách, vì lực lượng xây dựng chính sách sẽ
không thấy hết được những điểm hạn chế, bất cập khi xây dựng chính sách mà chỉ
có việc tổ chức thực hiện chính sách mới biết được chính sách đã hiệu quả hay
chưa, từ đó có những ý kiến, kiến nghị giúp cho chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ, công chức cấp xã ngày càng hoàn chỉnh hơn, thiết thực hơn.
1.1.3. Chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã ở Việt Nam
hiện nay
Ở nước ta hiện nay, chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức nói

chung và cán bộ, công chức cấp xã nói riêng đang rất được quan tâm, được thể hiện
thông qua các văn bản như Luật, Nghị quyết, Nghị định, Quyết định, Thông tư,

Công văn, cụ thể:
Luật Cán bộ, công chức năm 2008.
Nghị quyết số 30c/NQ-CP ngày 08/11/2011 của Chính phủ ban hành Chương
trình tổng thể Cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011 - 2020.
Quyết định số 161/2003/QĐ-TTg ngày 04/8/2003 của Thủ tướng Chính phủ
ban hành quy chế đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức; Quyết định số 579/QĐTTg ngày 19/04/2011 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược phát triển
nhân lực Việt Nam thời kỳ 2011- 2020; Quyết định số 1956/QĐ-TTg ngày
27/11/2009 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Đề án “Đào tạo nghề cho
lao động nông thôn đến năm 2020”; Quyết định số 124/QĐ-TTg ngày 16/01/2014
của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Đề án tiếp tục củng cố, kiện toàn chính
quyền cơ sở vùng Tây Nguyên giai đoạn 2014 – 2020; Quyết định số 1600/QĐ-TTg
ngày 16/8/2016 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt chương trình Mục tiêu quốc gia
xây dựng Nông thôn mới giai đoạn 2016 – 2020…
Nghị định số 101/2017/NĐ-CP ngày 01/9/2017 của Chính phủ về Đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức.

19


×