Tải bản đầy đủ (.pdf) (57 trang)

Biện pháp khẩn cấp tạm thời trong tố tụng dân sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (704.28 KB, 57 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHỆ TP. HỒ CHÍ MINH

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP

BIỆN PHÁP KHẨN CẤP TẠM THỜI
TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ

Ngành:

LUẬT KINH TẾ

Giảng viên hướng dẫn : ThS.Nguyễn Văn Thạch
Sinh viên thực hiện
MSSV: 1511271126

: Lê Huỳnh Hoa Mai
Lớp: 15DLK14

TP. Hồ Chí Minh - năm 2019


LỜI CẢM ƠN
Được sự phân công của quý thầy cô trong khoa Luật Trường Đại học Công Nghệ
Thành phố Hồ Chí Minh, sau gần ba tháng em đã hoàn thành Khóa luận tốt nghiệp
“Biện pháp khẩn cấp tạm thời trong tố tụng dân sự”.
Để hoàn thành khóa luận này, bản thân em đã nỗ lực học hỏi rất nhiều và còn
nhận được sự hỗ trợ từ phía các thầy cô. Với tấm lòng biết ơn sâu sắc, em xin gởi
lời cảm ơn chân thành đến quý thầy cô Trường Đại học Công Nghệ Thành phố Hồ
Chí Minh đã truyền đạt lại cho em những kiến thức vô cùng quý báu trong thời gian
em học tập tại nhà trường.


Đặc biệt, em chân thành cảm ơn thầy giáo - ThS. Nguyễn Văn Thạch, người đã
hướng dẫn cho em trong suốt thời gian làm khóa luận. Thầy đã chỉ dẫn rất nhiệt
tình, và giúp em hoàn thành tốt nhiệm vụ. Một lần nữa em chân thành cảm ơn thầy
và chúc thầy dồi dào sức khoẻ.
Tuy nhiên vì kiến thức chuyên môn còn hạn chế nên nội dung của khóa luận sẽ
không tránh khỏi những thiếu sót, em rất mong sẽ nhận được sự góp ý từ quý thầy
cô để khóa luận này được hoàn thiện hơn.
Một lần nữa em xin gửi đến gia đình, nhà trường, quý thầy cô, bạn bè lời cảm ơn
chân thành và tốt đẹp nhất.
Sinh viên
(ký tên, ghi đầy đủ họ tên)
Mai
Lê Huỳnh Hoa Mai


LỜI CAM ĐOAN
Tôi tên: Lê Huỳnh Hoa Mai,

MSSV: 1511271126

Tôi xin cam đoan các số liệu, thông tin sử dụng trong Khoá luận tốt nghiệp
này được thu thập từ nguồn tài liệu khoa học chuyên ngành (có trích dẫn đầy đủ và
theo đúng qui định);
Nội dung trong khoá luận KHÔNG SAO CHÉP từ các nguồn tài liệu khác.
Nếu sai sót tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm theo qui định của nhà trường
và của pháp luật.
Sinh viên
(ký tên, ghi đầy đủ họ tên)
Mai
Lê Huỳnh Hoa Mai



MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài ...............................................................................................1
2. Mục tiêu nghiên cứu ..........................................................................................2
3. Phạm vi, đối tƣợng nghiên cứu ........................................................................2
4. Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài...................................2
5. Phƣơng pháp nghiên cứu ..................................................................................4
6. Kết cấu của khóa luận.......................................................................................5
NỘI DUNG CỦA KHÓA LUẬN .............................................................................6
Chƣơng I: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ BIỆN PHÁP KHẨN CẤP TẠM
THỜI TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ .......................................................................6
1.1. Khái quát về biện pháp khẩn cấp tạm thời ..............................................6
1.1.1. Khái niệm biện pháp khẩn cấp tạm thời ................................................6
1.1.2. Đặc điểm của biện pháp khẩn cấp tạm thời...........................................7
1.1.3. Phân loại các biện pháp khẩn cấp tạm thời.........................................10
1.2. Pháp luật hiện hành về các biện pháp khẩn cấp tạm thời ....................12
1.2.1. Các biện pháp khẩn cấp tạm thời........................................................12
1.2.2. Thẩm quyền, nguyên tắc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời..........22
1.2.3. Thủ tục áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời.....................................26
Chƣơng II: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ
BIỆN PHÁP KHẨN CẤP TẠM THỜI, KIẾN NGHỊ .........................................31


2.1. Thực trạng pháp luật và áp dụng pháp luật về biện pháp khẩn cấp
tạm thời .............................................................................................................31
2.1.1. Thực trạng pháp luật về biện pháp khẩn cấp tạm thời ........................31
2.1.2. Thực trạng áp dụng pháp luật về biện pháp khẩn cấp tạm thời ..........36
2.2. Kiến nghị. ...................................................................................................42

2.2.1. Kiến nghị về pháp luật..........................................................................42
2.2.2. Kiến nghị về áp dụng pháp luật...........................................................44
2.2.3. Một số kiến nghị khác..........................................................................46
KẾT LUẬN ..............................................................................................................50
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...............................................................52


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong điều kiện xã hội hiện nay, biện pháp khẩn cấp tạm thời đã trở thành công
cụ hữu hiệu giúp cho các đương sự bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình khi tham
gia vào các quan hệ dân sự. Với mục đích có thể hạn chế các tranh chấp phát sinh
giữa con người với nhau, ổn định các mối quan hệ trong xã hội, đồng thời bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của các cá nhân, cơ quan, tổ chức nên pháp luật tố tụng
dân sự đã quy định trong những trường hợp cần thiết Tòa án có thể áp dụng các biện
pháp khẩn cấp tạm thời theo quy định của pháp luật. Việc áp dụng các biện pháp
khẩn cấp tạm thời giúp cho Tòa án kịp thời giải quyết những yêu cầu cấp bách của
đương sự có liên quan trực tiếp đến vụ án, bảo vệ chứng cứ, ngăn chặn những hành
vi hủy hoại bằng chứng làm sai lệch nội dung của vụ việc, bảo toàn tình trạng hiện
có tránh gây ra những thiệt hại không thể khắc phục được hoặc đảm bảo việc thi
hành án.
Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 ra đời, quy định cụ thể về trình tự, thủ tục, cách thức
thực hiện việc bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của công dân. Bộ luật này đã
đánh dấu sự phát triển của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam bằng việc ghi nhận
tương đối đầy đủ những quy định về biện pháp khẩn cấp tạm thời cụ thể tại Chương
VIII Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 về “Các biện pháp khẩn cấp tạm thời”. Những
quy định này đã góp phần tạo điều kiện thuận lợi cho việc bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của đương sự khi họ tham gia vào các quan hệ dân sự. Tuy nhiên, quy
định của pháp luật về các biện pháp khẩn cấp tạm thời vẫn chưa thật sự rõ ràng và
trên thực tế việc áp dụng các quy định này vẫn còn gặp phải những vướng mắc và

hạn chế nhất định. Trước tình hình đó, nhận thấy rằng việc nghiên cứu toàn diện các
quy định của pháp luật tố tụng dân sự về các biện pháp khẩn cấp tạm thời là vô
cùng cấp thiết. Mặc dù đã có nhiều công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài này,
tuy nhiên đối với bản thân em đây thực sự là một vấn đề rất hay nên em đã lựa chọn
đề tài “Biện pháp khẩn cấp tạm thời trong tố tụng dân sự” làm Khóa luận tốt nghiệp
của mình với mong muốn tìm hiểu một cách cụ thể, rõ ràng những quy định của
pháp luật về vấn đề này. Bên cạnh đó, đề xuất ra những giải pháp cụ thể nhằm
thống nhất và hợp lý hóa các biện pháp khẩn cấp tạm thời trong tố tụng dân sự.

1


2. Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài là tìm hiểu và làm sáng tỏ những vấn đề lý luận
cơ bản, những quy định về việc áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời vào trong
thực tiễn, từ đó tìm ra những điểm hạn chế, bất cập trong các quy định của pháp luật
tố tụng dân sự Việt Nam hiện hành về việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời
trong giải quyết các vụ án dân sự. Trên cơ sở đó sẽ đưa ra những kiến nghị và giải
pháp cụ thể nhằm góp phần hoàn thiện những quy định về biện pháp khẩn cấp tạm
thời trong tố tụng dân sự.
3. Phạm vi, đối tƣợng nghiên cứu
Về phạm vi, tác giả tập trung nghiên cứu các vấn đề lý luận và pháp lý về các
biện pháp khẩn cấp tạm thời được quy định cụ thể trong chương VIII Bộ luật Tố
tụng dân sự 2015 và các văn bản hướng dẫn, các văn bản quy phạm pháp luật trước
đây có quy định về các biện pháp khẩn cấp tạm thời để so sánh, đối chiếu với văn
bản hiện hành nhằm tìm ra những điểm tiến bộ. Ngoài ra còn nêu lên thực trạng và
phân tích thực tiễn áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời. Trong phần kiến nghị về
các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, tác giả
nghiên cứu những giải pháp hoàn thiện về pháp luật và áp dụng pháp luật các biện
pháp khẩn cấp tạm thời.

Về đối tượng, luận văn tập trung vào các biện pháp khẩn cấp tạm thời quy định
trong chương VIII Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 và các quy định của pháp luật tố
tụng dân sự Việt Nam hiện hành là một số vấn đề lý luận về điều kiện áp dụng biện
pháp khẩn cấp tạm thời, thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật tố tụng dân
sự về việc áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời. Ngoài ra, còn nghiên cứu thẩm
quyền quyết định và thủ tục áp dụng, thay đổi, bổ sung và hủy bỏ biện pháp khẩn
cấp tạm thời.
4. Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Có thể thấy, biện pháp khẩn cấp tạm thời trong tố tụng dân sự là những biện
pháp vô cùng quan trọng và cần thiết đối với các đương sự trong giai đoạn hiện nay.
Vấn đề này đã nhận được nhiều sự quan tâm từ phía các nhà nghiên cứu. Qua quá
trình nghiên cứu và tìm hiểu từ các tài liệu có liên quan đến đề tài này, tác giả nhận
2


thấy trong những năm gần đây có nhiều công trình nghiên cứu về các biện pháp
khẩn cấp tạm thời, mỗi công trình nghiên cứu đề cập đến mỗi vấn đề khác nhau của
các biện pháp khẩn cấp tạm thời. Có thể điểm qua một số công trình nghiên cứu sau
đây:
- “Giáo trình Luật Tố tụng dân sự của Trường Đại học Luật Hà Nội”, nhà xuất
bản tư pháp xuất bản năm 2010.
- Luận văn thạc sĩ chuyên nghành “Áp dụng Biện pháp khẩn cấp tạm thời trong
việc giải quyết vụ án dân sự tại Tòa án cấp sơ thẩm” của Nguyễn Thị Thủy, Đại học
quốc gia Hà Nội năm 2013. Luận văn này nghiên cứu về các vấn đề lý luận và thực
tiễn áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong việc giải quyết các vụ án dân sự tại
Tòa án cấp sơ thẩm và đưa ra những giải pháp hoàn thiện pháp luật về điều kiện, thủ
tục và cơ chế bảo đảm trong việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời. Đây được
xem là một công trình khoa học nghiên cứu chuyên sâu và có hệ thống về áp dụng
biện pháp khẩn cấp tạm thời trong giải quyết các vụ án dân sự tại Tòa án cấp sơ
thẩm.

- Luận văn thạc sĩ luật học “Biện pháp khẩn cấp tạm thời tiền tố tụng theo pháp
luật Việt Nam” của Nguyễn Văn Hải, Trường Đại học quốc gia Hà Nội năm 2016.
Luận văn này tập trung nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện các chế định về
biện pháp khẩn cấp tạm thời và việc áp dụng các chế định này vào trong giai đoạn
tiền tố tụng, đáp ứng theo yêu cầu giải quyết các vụ việc dân sự. Ngoài ra, còn
hướng đến xây dựng cơ chế áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong giai đoạn
tiền tố tụng.
- Luận văn thạc sĩ kinh tế “Biện pháp khẩn cấp tạm thời trong giải quyết vụ án
kinh doanh, thương mại từ thực tiễn xét xử của Tòa án Nhân dân Thành phố Hà
Nội” của Hồ Thị Tuyết, Học viện Khoa học xã hội năm 2018. Luận văn này nghiên
cứu các biện pháp khẩn cấp tạm thời trong giải quyết các vụ án kinh doanh thương
mại được xét xử tại Tòa án và thực trạng áp dụng pháp luật hiện hành về biện pháp
khẩn cấp tạm thời trong giải quyết các vụ án kinh doanh thương mại thông qua thực
tiễn xét xử của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội trong giai đoạn 2012 - 2017.
Ngoài ra, luận văn còn xem xét đến vấn đề áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời
độc lập với giải quyết tranh chấp bởi các tổ chức tài phán để xây dựng các luận cứ
3


cho việc hoàn thiện biện pháp khẩn cấp tạm thời trong giải quyết tranh chấp kinh
doanh thương mại ở Việt Nam hiện nay.
Những công trình nghiên cứu nói trên đã đưa ra nhiều đóng góp hoàn toàn mới
về các biện pháp khẩn cấp tạm thời. Trên cơ sở tiếp thu từ những công trình nghiên
cứu đó, với mong muốn mang đến cho người đọc có cái nhìn tổng quát, sâu sắc hơn
về biện pháp khẩn cấp tạm thời trong tố tụng dân sự nên em đã lựa chọn đề tài
“Biện pháp khẩn cấp tạm thời trong tố tụng dân sự”. Công trình này nghiên cứu
một cách tổng quát về các vấn đề lý luận, pháp lý và cả thực tiễn áp dụng biện pháp
khẩn cấp tạm thời trong tố tụng dân sự. Từ vấn đề lý luận, pháp lý và thực tiễn áp
dụng các biện pháp này vào trong quá trình giải quyết các vụ việc dân sự tại các
Toà án, tác giả đã đưa ra những kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định về biện

pháp khẩn cấp tạm thời.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện đề tài, để việc nghiên cứu đạt được hiệu quả, tác giả đã
sử dụng một số phương pháp nghiên cứu khoa học chuyên nhành như phân tích,
tổng hợp, so sánh, liệt kê,... Mỗi phương pháp nghiên cứu khác nhau sẽ có tác dụng
hỗ trợ và bổ sung lẫn nhau làm cho đề tài được nghiên cứu một cách đầy đủ, hoàn
thiện hơn.
Với phương pháp phân tích, tác giả sử dụng để phân tích các quy định tại
Chương VIII Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 và các văn bản hướng dẫn khác để làm
rõ các quy định của pháp luật hiện hành về biện pháp khẩn cấp tạm thời trong tố
tụng dân sự. Tác giả sử dụng phương pháp tổng hợp nhằm giúp người đọc có cái
nhìn tổng quát và toàn diện hơn về đề tài. Phương pháp so sánh được sử dụng trong
việc nghiên cứu đề tài nhằm đối chiếu giữa văn bản hiện hành với các văn bản quy
phạm pháp luật trước đây để từ đó tìm ra những điểm mới. Ngoài ra, còn tìm hiểu
thêm vấn đề này thông qua việc sưu tầm từ các sách, báo, tạp chí… có liên quan đến
đề tài này để từ đó tổng hợp phân tích, tìm ra những điểm còn hạn chế và đưa ra
những giải pháp để hoàn thiện.

4


6. Kết cấu của khóa luận
Đề tài bao gồm ba phần: phần mở đầu, phần nội dung và phần kết luận. Trong
phần nội dung gồm hai chương:
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về biện pháp khẩn cấp tạm thời trong tố tụng
dân sự.
Chương 2: Thực trạng pháp luật và áp dụng pháp luật về biện pháp khẩn cấp tạm
thời, kiến nghị.

5



CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ BIỆN PHÁP KHẨN CẤP
TẠM THỜI TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ
1.1. Khái quát về biện pháp khẩn cấp tạm thời
1.1.1. Khái niệm về biện pháp khẩn cấp tạm thời
Trong quá trình Tòa án giải quyết các vụ việc dân sự, có một số trường hợp chưa
thể ban hành ngay bản án, ra quyết định giải quyết nội dung vụ việc dân sự, tuy
nhiên trong lúc đó cần phải kịp thời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự
nên Tòa án phải ra ngay quyết định áp dụng một hoặc một số giải pháp nhằm tạm
thời đáp ứng nhu cầu cấp bách của đương sự, bảo vệ chứng cứ, bảo toàn tài sản hiện
có. Những giải pháp trước mắt nhằm kịp thời bảo vệ quyền, lợi ích của đương sự
này được gọi là biện pháp khẩn cấp tạm thời.
Biện pháp khẩn cấp tạm thời trong tố tụng dân sự là cách thức giải quyết vụ việc
dân sự của Tòa án khi khẩn cấp mà theo cách thức này Tòa án sẽ ra ngay quyết định
áp dụng giải pháp trước mắt nhằm tạm thời giải quyết nhu cầu cấp bách của đương
sự, bảo vệ bằng chứng, bảo toàn tài sản, bảo đảm cho việc bảo vệ kịp thời quyền, lợi
ích cho đương sự trong tố tụng dân sự.1
Trước đây trong các giáo trình viết về tố tụng dân sự của trường Đại học Luật Hà
Nội qua các thời kỳ và Giáo trình Luật Tố tụng dân sự của Học Viện tư pháp có quy
định đầy đủ khái niệm về các biện pháp khẩn cấp tạm thời. Những khái niệm được
quy định trong giai đoạn đó hầu như đều tập trung vào thời điểm mà Tòa án áp dụng
biện pháp khẩn cấp tạm thời. Trong cuốn sách về "Pháp luật tố tụng dân sự và thực
tiễn xét xử" của tác giả Tưởng Duy Lượng được xuất bản năm 2009 cũng đưa ra
định nghĩa về biện pháp khẩn cấp tạm thời như sau: “Biện pháp khẩn cấp tạm thời
là biện pháp Tòa án quyết định áp dụng trước khi thụ lý hoặc trong quá trình giải
quyết vụ việc dân sự nhằm giải quyết nhu cầu cấp bách của đương sự, bảo vệ bằng
chứng, bảo toàn tài sản tranh chấp, tránh gây thiệt hại không thể khắc phục được

1


Nguyễn Công Bình, Giáo trình Luật Tố tụng dân sự Việt Nam, Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam, Hà Nội
năm 2011, trang 130.

6


hoặc bảo đảm việc thi hành án”2. Định nghĩa này đã chỉ rõ về thời điểm áp dụng
biện pháp khẩn cấp tạm thời trong tố tụng dân sự so với các khái niệm quy định
trước đó.
Theo tác giả của cuốn Giáo trình Luật tố tụng dân sự Việt Nam, Nhà xuất bản đại
học quốc gia Hà Nội năm 2014 đã đưa ra khái niệm về biện pháp khẩn cấp tạm thời
với điểm nhấn về thời điểm áp dụng và tính độc lập tương đối của biện pháp này
như sau: “Biện pháp khẩn cấp tạm thời là biện pháp do Toà án quyết định trong quá
trình giải quyết vụ việc dân sự hoặc được áp dụng độc lập với vụ việc đó nhằm đáp
ứng nhu cầu cấp bách của đương sự, bảo toàn tình trạng tài sản, bảo vệ chứng cứ
hoặc bảo đảm cho việc thi hành án dân sự.”3
Tiếp thu từ những công trình của các nhà nghiên cứu trước đây và căn cứ quy
định của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 về biện pháp khẩn cấp tạm thời, để có thể
nắm được những đặc điểm cơ bản của các biện pháp khẩn cấp tạm thời cũng như
mục đích của việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong quá trình giải quyết
vụ việc dân sự, nhận thấy việc xây dựng một khái niệm hoàn chỉnh về các biện pháp
khẩn cấp tạm thời là thực sự cần thiết. Chính vì vậy, tác giả đã đưa ra khái niệm
mới về biện pháp khẩn cấp tạm thời như sau: Biện pháp khẩn cấp tạm thời là biện
pháp mà Tòa án ra quyết định áp dụng trong giải quyết vụ việc dân sự nhằm giải
quyết những yêu cầu cấp bách của đương sự, bảo vệ tính mạng, sức khỏe, tài sản
của đương sự, thu thập chứng cứ, bảo vệ bằng chứng, bảo toàn tình trạng hiện có
để tránh gây ra những thiệt hại không thể khắc phục được, đảm bảo cho việc giải
quyết vụ án hoặc thi hành án.
1.1.2. Đặc điểm của việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời

Biện pháp khẩn cấp tạm thời là những biện pháp mang ý nghĩa vô cùng lớn đối
với việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, mỗi biện pháp lại có
những đặc điểm và mục đích hoàn toàn khác nhau. Biện pháp khẩn cấp tạm thời có

2

Pháp luật Tố tụng dân sự và thực tiễn xét xử, Tưởng Duy Lượng , Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Hà Nội
năm 2009, trang 225.
3

Giáo trình Luật Tố tụng dân sự Việt Nam, Nhà xuất bản Đại học quốc gia Hà Nội năm 2014, trang 175.

7


những đặc điểm cơ bản đó là tính khẩn cấp, tính tạm thời, tính bảo đảm và tính
cưỡng chế.
Thứ nhất, tính khẩn cấp
Tính khẩn cấp là đặc tính nổi bật đầu tiên của biện pháp khẩn cấp tạm thời trong
tố tụng dân sự. Tính khẩn cấp thể hiện qua các dấu hiệu sau:4
Biện pháp khẩn cấp tạm thời chỉ được Tòa án quyết định áp dụng trong trường
hợp khẩn cấp vì đây là biện pháp có khả năng xử lý nhanh, giải quyết nhanh được
tình trạng khẩn cấp. Cơ sở pháp lý để Tòa án ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn
cấp tạm thời chính là do yêu cầu khẩn cấp của chủ thể có quyền yêu cầu. Tuy nhiên,
không phải mọi trường hợp có yêu cầu khẩn cấp của đương sự có quyền thì Tòa án
mới ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời. Trong một số trường hợp
Tòa án cũng có thể tự mình ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời. Cho
dù do yêu cầu của chủ thể có quyền yêu cầu hay là do tự Tòa án quyết định thì biện
pháp khẩn cấp tạm thời cũng chỉ được áp dụng khi mà vụ việc dân sự thực sự khẩn
cấp và cần thiết.

Tính chất khẩn cấp của biện pháp khẩn cấp tạm thời còn thể hiện thông qua biện
pháp khẩn cấp tạm thời được Tòa án quyết định áp dụng một cách nhanh chóng về
thời gian để Tòa án xem xét, ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời là
rất ngắn, nếu không quyết định ngay tức khắc thì lâu nhất cũng chỉ có thể kéo dài
một vài ngày sau khi nhận được yêu cầu. Mặt khác thủ tục mà Tòa án tiến hành để
xem xét, ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời là hết sức đơn giản và
nhanh chóng.
Ngoài ra, tính khẩn cấp của biện pháp khẩn cấp tạm thời còn thể hiện ở một điểm
nữa là biện pháp khẩn cấp tạm thời sau khi được Tòa án áp dụng sẽ được thi hành
một cách khẩn trương, nhanh chóng. Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm
thời là một quyết định có hiệu lực ngay, có như vậy thì mới bảo vệ được quyền và
lợi ích của đương sự. Tòa án phải chuyển giao quyết định áp dụng biện pháp khẩn
cấp tạm thời cho cơ quan ban hành quyết định đó. Việc nhanh chóng thi hành quyết
4

Trần Phương Thảo, Biện pháp khẩn cấp tạm thời trong tố tụng dân sự Việt Nam, Trường Đại học luật Hà
Nội, năm 2012.

8


định đó được nhận thấy qua thủ tục thi hành quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp
tạm thời là rất đơn giản.
Thứ hai, tính tạm thời
Vì mục đích của việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời là để kịp thời giải
quyết yêu cầu cấp bách của đương sự cho nên biện pháp khẩn cấp tạm thời chỉ là
những giải pháp trước mắt chứ không phải là biện pháp được áp dụng lâu dài. Mặc
dù không được áp dụng lâu dài nhưng tính tạm thời rất cần thiết để đảm bảo quyền
lợi hợp pháp của các bên đương sự, đảm bảo các biện pháp được áp dụng đúng với
quy định của pháp luật.

Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời không phải là quyết định cuối
cùng khi giải quyết nội dung vụ việc dân sự, đây là một đặc điểm của tính tạm thời.
Tòa án sẽ ra bản án, quyết định chính thức sau khi vụ việc dân sự không còn ở trong
tình trạng khẩn cấp nữa và khi Tòa án đã xem xét kỹ lưỡng vụ việc. Quyết định áp
dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của Tòa án tuy có hiệu lực ngay nhưng chỉ là
quyết định tạm thời nhằm để đối phó với tình thế khẩn cấp của vụ việc. Xử lý biện
pháp khẩn cấp tạm thời phụ thuộc vào nội dung bản án, quyết định giải quyết nội
dung vụ việc của Tòa án và quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời sẽ hết
hiệu lực. Khi lý do của việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời không còn nữa thì
quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời sẽ bị hủy bỏ. Như vậy, biện pháp
khẩn cấp tạm thời được áp dụng có thể sẽ bị thay đổi, hủy bỏ khi tình trạng khẩn
cấp thay đổi.
Thứ ba, tính bảo đảm
Mục đích của biện pháp khẩn cấp tạm thời là đáp ứng kịp thời yêu cầu cấp bách
của đương sự, đảm bảo không làm ảnh hưởng xấu đến sức khỏe, tính mạng, danh
dự, và nhân phẩm của họ, bảo toàn tài sản, tình trạng hiện có để bảo đảm cho việc
thi hành án, bảo vệ các chứng cứ... Những mục đích này chính là tính bảo đảm của
biện pháp khẩn cấp tạm thời.
Như vậy, biện pháp khẩn cấp tạm thời được áp dụng được xem như là biện pháp
bảo đảm cho việc bảo vệ kịp thời quyền và lợi ích của đương sự. Tính bảo đảm này

9


sẽ được Tòa án dùng để đảm bảo hiệu quả cho việc giải quyết các vụ việc dân sự và
thi hành án.
Thứ tư, tính cưỡng chế
Tòa án đại diện cho cơ quan quyền lực nhà nước và có thẩm quyền trong việc ra
quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời. Vì vậy, các chủ
thể có liên quan trong mối quan hệ pháp luật tố tụng dân sự với Tòa án phải có

nghĩa vụ tuyệt đối chấp hành theo mệnh lệnh của Tòa án. Quyết định này có hiệu
lực ngay đối với tất cả các bên đương sự, các cơ quan tiến hành tố tụng và các cá
nhân, cơ quan khác có liên quan. Nếu các bên đương sự, cá nhân, cơ quan có liên
quan không tự giác thi hành thì sẽ bị cơ quan thi hành án cưỡng chế buộc thi hành
quyết định. Trường hợp không đồng thuận với quyết định áp dụng biện pháp khẩn
cấp tạm thời của Tòa án thì đương sự có quyền khiếu nại, Viện Kiểm Sát có quyền
kiến nghị về quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời với Chánh án Tòa án
đã ra quyết định đó.
Như vậy, quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời mang tính cưỡng chế,
điều này thể hiện thông qua việc chỉ có Tòa án mới có thẩm quyền để ra quyết định
áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời.
1.1.3. Phân loại các biện pháp khẩn cấp tạm thời
Dựa theo những quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 về các biện pháp
khẩn cấp tạm thời, có thể phân loại các biện pháp khẩn cấp tạm thời theo 02 tiêu chí
như sau:
 Căn cứ theo quy định buộc thực hiện biện pháp bảo đảm, biện pháp khẩn cấp
tạm thời gồm có 02 loại:
- Các biện pháp khẩn cấp tạm thời được áp dụng khi người yêu cầu thực hiện
một trong các biện pháp bảo đảm quy định tại các khoản 6, 7, 8, 10, 11, 15 và 16
Điều 114 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015. Tòa án chỉ ra quyết định áp dụng biện pháp
khẩn cấp tạm thời khi mà người yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời đã
thực hiện xong biện pháp bảo đảm theo quy định tại khoản 1 Điều 136 Bộ luật Tố
tụng dân sự 2015.
10


Người yêu cầu Tòa án áp dụng một trong các biện pháp khẩn cấp tạm thời nêu
trên phải nộp cho Tòa án chứng từ bảo lãnh được bảo đảm bằng tài sản của ngân
hàng hoặc tổ chức tín dụng khác hoặc của cơ quan, tổ chức, cá nhân khác hoặc gửi
một khoản tiền, kim khí quý, đá quý hoặc giấy tờ có giá do Tòa án ấn định nhưng

phải tương đương với tổn thất hoặc thiệt hại có thể phát sinh do hậu quả của việc áp
dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời không đúng để bảo vệ lợi ích của người bị áp
dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời và ngăn ngừa sự lạm dụng quyền yêu cầu áp
dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời từ phía người có quyền yêu cầu.5
- Các biện pháp khẩn cấp tạm thời được Tòa án ra quyết định áp dụng ngay mà
không bắt buộc người yêu cầu áp dụng phải thực hiện biện pháp bảo đảm được quy
định tại các khoản 1, 2, 3, 4, 5, 9, 12, 13, 14 và 17 Điều 114 của Bộ luật Tố tụng
dân sự 2015.
 Căn cứ về chủ thể yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời có thể
chia các biện pháp khẩn cấp tạm thời được quy định trong Bộ luật Tố tụng dân sự
2015 thành 02 loại:
- Biện pháp khẩn cấp tạm thời do Tòa án tự mình ra quyết định áp dụng trong
trường hợp đương sự không yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời được quy
định tại Điều 135 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015: “Toà án tự mình ra quyết định
áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời quy định tại các khoản 1, 2, 3, 4 và 5 Điều 114
của Bộ luật này trong trường hợp đương sự không có yêu cầu áp dụng biện pháp
khẩn cấp tạm thời”.
- Biện pháp khẩn cấp tạm thời do Tòa án áp dụng bắt buộc phải có yêu cầu của
cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm
thời. Các biện pháp quy định từ khoản 6 đến khoản 16 điều 114 Bộ luật Tố tụng dân
sự 2015 thuộc nhóm biện pháp do Tòa án áp dụng bắt buộc phải có yêu cầu của cá
nhân, cơ quan, tổ chức. Tòa án sẽ chỉ áp dụng khi có yêu cầu hợp pháp của đương
sự, khi đó Tòa án có trách nhiệm áp dụng đúng biện pháp và đúng theo yêu cầu của
đương sự.

5

Khoản 1 Điều 136 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015, Nhà xuất bản chính trị quốc gia Hà Nội.

11



1.2. Pháp luật hiện hành về các biện pháp khẩn cấp tạm thời
1.2.1. Các biện pháp khẩn cấp tạm thời
Bộ luật tố tụng dân sự 2015 quy định tại điều 114 có 16 biện pháp khẩn cấp tạm
thời cụ thể và những biện pháp pháp luật có quy định khác tại khoản 17 điều này.
Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 đã quy định thêm 04 biện pháp khẩn cấp tạm thời so
với Bộ luật Tố tụng dân sự 2004. Mỗi biện pháp khẩn cấp tạm thời cụ thể được quy
định tại điều 114 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 lại được quy định về điều kiện áp
dụng bằng một điều luật riêng từ điều 115 đến điều 132 trong bộ luật này. Các điều
luật này đã tạo nên cơ sở pháp lý cụ thể, góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của đương sự và giúp cho Tòa án có thể áp dụng đúng và phù hợp các biện pháp
khẩn cấp tạm thời. Cụ thể các biện pháp khẩn cấp tạm thời này được Bộ luật Tố
tụng dân sự 2015 quy định như sau:
 Giao người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có
khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi cho cá nhân hoặc tổ chức trông nom,
nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục
Bộ luật Tố tụng dân sự 2004 quy định “Giao người chưa thành niên cho cá nhân
hoặc tổ chức trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục được áp dụng nếu việc
giải quyết vụ án có liên quan đến người chưa thành niên chưa có người giám hộ”.6
Có thể thấy Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 đã mở rộng đối tượng được bảo vệ trong
biện pháp khẩn cấp tạm thời này gồm: người mất năng lực hành vi dân sự và người
có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi.
Điều kiện để biện pháp giao người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi
dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi cho cá nhân hoặc tổ
chức trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục được áp dụng nếu việc giải quyết
vụ án có liên quan đến những người này mà họ chưa có người giám hộ. Việc giao
người chưa thành niên từ đủ bảy tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của
người đó.7


6

Điều 103, Bộ luật Tố tụng dân sự 2004, Nhà xuất bản chính trị quốc gia Hà Nội.

7

Điều 115, Bộ luật Tố tụng dân sự 2015, Nhà xuất bản chính trị quốc gia Hà Nội.

12


Việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời này được xuất phát từ yêu cầu của bên
khởi kiện hoặc do Tòa án tự mình áp dụng nếu trong trường hợp xét thấy cần thiết.
Biện pháp này được áp dụng nhằm bảo đảm quyền và lợi ích của người chưa thành
niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm
chủ hành vi. Vì vậy, áp dụng biện pháp này là cấp bách và cần phải nhanh chóng,
kịp thời.
 Buộc thực hiện trước một phần nghĩa vụ cấp dưỡng
Khi Tòa án buộc người bị yêu cầu cấp dưỡng ứng trước một khoản tiền nhất định
để nhằm bảo đảm cho người được cấp dưỡng giải quyết được những khó khăn trước
mắt và không làm ảnh hưởng đến đời sống của họ. Như vậy là họ đã thực hiện trước
một phần nghĩa vụ cấp dưỡng của mình.
Theo quy định tại Điều 116 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 thì biện pháp này được
Tòa án áp dụng nếu việc giải quyết vụ án có liên quan đến yêu cầu cấp dưỡng và xét
thấy yêu cầu đó là có căn cứ và nếu không thực hiện trước ngay một phần nghĩa vụ
cấp dưỡng thì sẽ ảnh hưởng đến sức khỏe và đời sống của người được cấp dưỡng.
 Buộc thực hiện trước một phần nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do tính mạng,
sức khỏe bị xâm phạm
Khi một người gây ra thiệt hại cho người khác thì bản thân họ có nghĩa vụ phải
ứng trước một khoản tiền nhất định để bồi thường thiệt hại cho tính mạng, sức khỏe

của người bị thiệt hại. Theo quy định tại Điều 117 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 thì
biện pháp khẩn cấp tạm thời buộc thực hiện trước một phần nghĩa vụ bồi thường
thiệt hại do tính mạng, sức khỏe bị xâm phạm được áp dụng nếu việc giải quyết vụ
án có liên quan đến yêu cầu về đòi bồi thường thiệt hại do tính mạng, sức khỏe bị
xâm phạm.
Thông thường, trong những vụ án liên quan đến việc đòi bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng, cụ thể là những thiệt hại về tính mạng, sức khỏe của một bên
đương sự thì biện pháp khẩn cấp tạm thời buộc thực hiện trước một phần nghĩa vụ
bồi thường thiệt hại do tính mạng, sức khỏe bị xâm phạm sẽ được áp dụng tạm thời
cho đến khi nào mà Tòa án đưa ra bản án và quyết định chính thức để giải quyết vụ
việc.
13


 Buộc người sử dụng lao động tạm ứng tiền lương, tiền bảo hiểm y tế, bảo
hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, chi phí cứu chữa tai nạn lao động hoặc bệnh
nghề nghiệp, tiền bồi thường, trợ cấp tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp cho
người lao động.
Biện pháp này là việc Tòa án buộc người bị yêu cầu phải tạm ứng trước một số
tiền nhất định từ khoản tiền lương, tiền bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm
thất nghiệp, chi phí cứu chữa tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp, tiền bồi
thường, trợ cấp tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp cho người lao động. Theo
quy định tại Điều 118 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 thì biện pháp khẩn cấp tạm thời
này được áp dụng để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người lao động về tiền
lương, tiền bảo hiểm, tiền bồi thường, tiền trợ cấp, chăm sóc sức khỏe theo quy định
của pháp luật.
Khi giải quyết các vụ án về lao động có liên quan đến yêu cầu trả tiền lương, tiền
công, tiền bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, tiền bồi thường, trợ
cấp tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp và xét thấy yêu cầu đó là có căn cứ và
cần thiết thì Tòa án sẽ áp dụng biện pháp này.

 Tạm đình chỉ thi hành quyết định đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động,
quyết định sa thải người lao động
Tòa án buộc người sử dụng lao động tạm ngừng việc thi hành quyết định đơn
phương chấm dứt hợp đồng lao động, quyết định sa thải người lao động của người
sử dụng lao động được hiểu là tạm đình chỉ thi hành quyết định đơn phương chấm
dứt hợp đồng lao động, quyết định sa thải người lao động.
Theo quy định tại Điều 119 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 thì biện pháp tạm đình
chỉ thi hành quyết định đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động, quyết định sa thải
người lao động được áp dụng nếu việc giải quyết vụ án có liên quan đến đơn
phương chấm dứt hợp đồng lao động, sa thải người lao động thuộc trường hợp
người sử dụng lao động không được thực hiện quyền đơn phương chấm dứt hợp
đồng lao động hoặc không được xử lý kỷ luật sa thải đối với người lao động theo
quy định của pháp luật về lao động.

14


Trường hợp xét thấy việc đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động, quyết định
sa thải người lao động là trái pháp luật về lao động thì Tòa án sẽ ra quyết định áp
dụng biện pháp này. Người lao động chỉ bị sa thải theo quy định tại điều 126 Bộ
luật lao động 2012. Ngoài ra, người sử dụng lao động có quyền đơn phương chấm
dứt hợp đồng lao động trong 04 trường hợp sau đây:8
- Người lao động thường xuyên không hoàn thành công việc theo hợp đồng lao
động;
- Người lao động bị ốm đau, tai nạn đã điều trị 12 tháng liên tục đối với người làm
theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn, đã điều trị 06 tháng liên tục, đối
với người lao động làm theo hợp đồng lao động xác định thời hạn và quá nửa thời
hạn hợp đồng lao động đối với người làm theo hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc
theo một công việc nhất định có thời hạn dưới 12 tháng mà khả năng lao động chưa
hồi phục. Khi sức khỏe của người lao động bình phục, thì người lao động được xem

xét để tiếp tục giao kết hợp đồng lao động;
- Do thiên tai, hỏa hoạn hoặc những lý do bất khả kháng khác theo quy định của
pháp luật, mà người sử dụng lao động đã tìm mọi biện pháp khắc phục nhưng vẫn
buộc phải thu hẹp sản xuất, giảm chỗ làm việc;
- Người lao động không có mặt tại nơi làm việc sau thời hạn quy định tại Điều 33
của Bộ luật này.
Việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời tạm đình chỉ thi hành quyết định đơn
phương chấm dứt hợp đồng lao động, quyết định sa thải người lao động xuất phát từ
yêu cầu của đương sự, cơ quan, tổ chức khởi kiện.
 Kê biên tài sản đang tranh chấp
Kê biên là việc kiểm kê, kê ra danh mục các tài sản để chờ xử lý. 9 Dưới góc độ
của pháp luật tố tụng dân sự, kê biên tài sản được hiểu là một biện pháp cưỡng chế
8

Điều 38, Bộ luật lao động năm 2012, Nhà xuất bản chính trị quốc gia Hà Nội.

9

Viện ngôn ngữ học (2003), Từ điển Tiếng Việt, Nhà xuất bản Đà Nẵng và trung tâm từ điển học, Hà Nội,
trang 485.

15


do Tòa án quyết định áp dụng và chấp hành viên tiến hành kê khai ghi lại từng loại
tài sản, giao lại cho chủ tài sản hoặc thân nhân bảo quản, cấm việc tẩu tán, phá hủy
nhằm đảm bảo cho việc xét xử, thi hành án và các quyết định của cơ quan nhà nước
được thuận lợi, đúng pháp luật.10
Tòa án chỉ ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời bằng việc kê biên
tài sản đang tranh chấp khi có đơn yêu cầu của đương sự. Biện pháp này Tòa án

không được tự mình ra quyết định áp dụng theo quy định tại Điều 135 Bộ luật Tố
tụng dân sự 2015.
Theo quy định tại Điều 120 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015, khi có căn cứ cho thấy
người giữ tài sản đang tranh chấp có hành vi tẩu tán, hủy hoại tài sản thì Tòa án mới
chấp nhận thực hiện biện pháp khẩn cấp tạm thời này trong quá trình giải quyết vụ
án. Tài sản bị kê biên có thể được thu giữ, bảo quản tại cơ quan thi hành án dân sự
hoặc lập biên bản giao cho một bên đương sự hoặc người thứ ba quản lý cho đến
khi có quyết định của Tòa án.
 Cấm chuyển dịch quyền về tài sản đối với tài sản đang tranh chấp
Cấm chuyển dịch quyền về tài sản đối với tài sản đang tranh chấp tức là cấm
không cho đương sự được phép thay đổi quyền về tài sản đối với tài sản đang có
tranh chấp cho một người nào khác thông qua một số hình thức như tặng cho,
chuyển nhượng tài sản đó.
Việc chuyển dịch quyền về tài sản này sẽ gây rất nhiều khó khăn cho việc thi
hành án sau này. Chính vì vậy, khi đương sự có hành vi này cần thì cần phải ngăn
chặn kịp thời không cho họ chuyển dịch quyền hoặc thay đổi quyền về tài sản đối
với tài sản đang tranh chấp cho người khác. Khi Tòa án đã ra quyết định áp dụng
biện pháp khẩn cấp tạm thời cấm chuyển dịch quyền về tài sản đối với tài sản đang
tranh chấp thì tất cả sự chuyển dịch quyền về tài sản đối với tài sản đang tranh chấp
đều bị xem là vô hiệu.

10

Viện nghiên cứu khoa học pháp lý - Bộ tư pháp (2006), Từ điển luật học, Nhà xuất bản từ điển bách khoa Nhà xuất bản tư pháp, Hà Nội.

16


Theo Điều 121 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 thì biện pháp này được áp dụng
nếu trong quá trình giải quyết vụ án có căn cứ cho thấy người đang chiếm hữu hoặc

giữ tài sản đang tranh chấp có hành vi chuyển dịch quyền về tài sản đối với tài sản
đang có tranh chấp cho người khác.
 Cấm thay đổi hiện trạng tài sản đang tranh chấp
Theo quy định tại điều 122 Bộ luật tố tụng dân sự 2015, cấm thay đổi hiện trạng
tài sản đang tranh chấp được áp dụng nếu trong quá trình giải quyết vụ án có căn cứ
cho thấy người đang chiếm hữu hoặc giữ tài sản đang tranh chấp có hành vi tháo gỡ,
lắp ghép, xây dựng thêm hoặc là có hành vi khác với mục đích làm thay đổi hiện
trạng tài sản đó.
Khi đương sự muốn yêu cầu áp dụng biện pháp này thì cần phải xuất trình cho
Tòa án các chứng cứ để chứng minh rằng người đang chiếm hữu hoặc giữ tài sản
đang tranh chấp có những hành vi như tháo gỡ, lắp ghép, xây dựng thêm... đồng
thời người yêu cầu phải có nghĩa vụ chứng minh là mình đã thực hiện biện pháp bảo
đảm theo quy định của pháp luật. Khi thấy quyết định của Tòa án về việc áp dụng
biện pháp khẩn cấp tạm thời cấm thay đổi hiện trạng tài sản đang tranh chấp thì
buộc người đang chiếm hữu, sử dụng tài sản hoặc được giao tài sản có nghĩa vụ bảo
quản tài sản phải giữ nguyên hiện trạng của tài sản; các hành vi như tháo gỡ, lắp
ghép, xây dựng thêm và các hành vi khác với mục đích làm thay đổi hiện trạng tài
sản đó thì đều phải bị xử lý theo quy định của pháp luật.
 Cho thu hoạch, cho bán hoa màu hoặc sản phẩm, hàng hóa khác
Theo Điều 123 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 quy định biện pháp cho thu hoạch,
cho bán hoa màu hoặc sản phẩm, hàng hóa khác được áp dụng nếu trong quá trình
giải quyết vụ án có tài sản đang tranh chấp hoặc liên quan đến tranh chấp mà có hoa
màu hoặc sản phẩm, hàng hóa khác đang ở thời kỳ thu hoạch hoặc không thể bảo
quản được lâu dài. Những hoa màu hoặc sản phẩm, hàng hóa khi bị áp dụng biện
pháp này cần phải được bảo quản để đảm bảo cho giá trị của hoa màu, sản phẩm,
hàng hóa đó.
 Phong toả tài khoản tại ngân hàng, tổ chức tín dụng khác, kho bạc nhà nước

17



Phong tỏa tài khoản tại ngân hàng, tổ chức tín dụng, kho bạc nhà nước là hình
thức giữ nguyên tài khoản của người có nghĩa vụ tại ngân hàng, tổ chức tín dụng,
kho bạc nhà nước và không cho dịch chuyển tài sản trong tài khoản của người có
nghĩa vụ.
Theo quy định tại Điều 124 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 thì Tòa án ra quyết định
áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời này nếu có căn cứ cho thấy việc phong tỏa tài
khoản của người có nghĩa vụ tại ngân hàng, tổ chức tín dụng khác, kho bạc nhà
nước là cần thiết để bảo đảm cho việc giải quyết vụ án hoặc việc thi hành án. Tòa án
phải gửi ngay quyết định cho đương sự, cho ngân hàng, tổ chức tín dụng, kho bạc
nhà nước và cơ quan thi hành án dân sự biết để thi hành ngay sau khi Tòa án quyết
định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời này.
 Biện pháp phong tỏa tài sản ở nơi gửi giữ
Theo quy định tại điều 125 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 thì biện pháp
phong tỏa tài sản ở nơi gửi giữ được áp dụng nếu trong quá trình giải quyết vụ án có
căn cứ cho thấy người có nghĩa vụ có tài sản đang gửi giữ và việc áp dụng biện
pháp này là cần thiết để bảo đảm cho việc giải quyết vụ án hoặc bảo đảm cho việc
thi hành án. Khi đã có quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời này thì mọi
giao dịch thực hiện đối với tài sản gửi giữ đều vô hiệu.
 Phong toả tài sản của người có nghĩa vụ
Không giống với việc phong tỏa tài sản ở nơi gửi giữ của người có nghĩa vụ
được thực hiện khi tài sản của họ sẽ được gửi ở đâu đó và chủ thể nắm giữ tài sản
đó không phải là chính người có nghĩa vụ mà do một chủ thể khác giữ còn phong
tỏa tài sản của người có nghĩa vụ là việc không cho chuyển dịch tài sản của người
có nghĩa vụ đang do chính họ giữ.
Phong tỏa tài sản ở nơi gửi giữ được áp dụng nếu trong quá trình giải quyết vụ án
có căn cứ cho thấy người có nghĩa vụ có tài sản đang gửi giữ và việc áp dụng biện
pháp này là cần thiết để bảo đảm cho việc giải quyết vụ án hoặc bảo đảm cho việc
thi hành án.11


11

Điều 126 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015, Nhà xuất bản chính trị quốc gia Hà Nội.

18


Tòa án chỉ ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời này khi giải quyết
vụ án theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền yêu cầu Tòa án áp dụng
và đã các cá nhân, cơ quan, tổ chức đó đã thực hiện biện pháp bảo đảm. Mục đích
của việc áp dụng biện pháp này là nhằm cô lập không cho các tài sản của người có
nghĩa vụ đưa vào giao dịch, lưu thông từ đó có thể đảm bảo được tài sản và khả
năng thi hành án.
Người có nghĩa vụ phải có trách nhiệm ngừng tất cả các giao dịch có liên quan
đến tài sản phong tỏa cho đến khi có quyết định khác về tài sản bị phong tỏa của
Tòa án ngay sau khi nhận được quyết định áp dụng biện pháp này của Tòa án. Để
hạn chế những thiệt hại có thể xảy ra đối với những người bị áp dụng biện pháp
này, pháp luật đã quy định chỉ được phong tỏa tài sản có giá trị tương đương với
nghĩa vụ tài sản mà họ có nghĩa vụ phải thực hiện.
 Cấm hoặc buộc thực hiện hành vi nhất định
Cấm thực hiện hành vi nhất định được hiểu là việc không cho thực hiện một số
hành vi nhất định. Còn việc bắt phải thực hiện một số hành vi nhất định là buộc
thực hiện hành vi nhất định.
Theo quy định tại Điều 127 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 thì biện pháp khẩn
cấp tạm thời này được áp dụng nếu trong quá trình giải quyết vụ án có căn cứ cho
thấy rằng đương sự, cá nhân, tổ chức khác thực hiện hoặc không thực hiện một số
hành vi nhất định làm ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án hoặc xâm phạm đến
quyền và lợi ích hợp pháp của người khác có liên quan trong vụ án đang được Toà
án giải quyết.
 Cấm xuất cảnh đối với người có nghĩa vụ

Cấm xuất cảnh đối với người có nghĩa vụ được áp dụng khi có căn cứ cho thấy
việc giải quyết vụ án có liên quan đến nghĩa vụ của họ đối với nhà nước, cơ quan, tổ
chức, cá nhân khác và việc xuất cảnh của họ làm ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ
án, lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhận
khác hoặc để đảm bảo việc thi hành án.12

12

Điều 128, Bộ luật Tố tụng dân sự 2015, Nhà xuất bản chính trị quốc gia Hà Nội.

19


Việc cấm xuất cảnh được quy định trong một số văn bản quy phạm pháp luật như
Luật nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư trú của người nước ngoài sẽ, đang ở tại
Việt Nam. Đối với những cá nhân là người Việt Nam thì trong Nghị định
07/VBHN-BCA ngày 31/12/2015 có quy định về việc nhập cảnh, xuất cảnh của
công dân Việt Nam.
 Cấm tiếp xúc với nạn nhân bạo lực gia đình
Cấm người có hành vi bạo lực gia đình tiếp xúc với nạn nhân bạo lực gia đình
được áp dụng nếu biện pháp đó là cần thiết để bảo vệ cho tính mạng, sức khỏe và
danh dự của nạn nhân bạo lực gia đình theo quy định của Luật Phòng chống bạo lực
gia đình.13
Biện pháp này đa phần được áp dụng trong các vụ án giải quyết tranh chấp liên
quan đến lĩnh vực hôn nhân và gia đình. Cấm tiếp xúc với nạn nhân bạo lực gia đình
là một điểm mới của luật tố tụng dân sự 2015.
 Tạm dừng việc đóng thầu và các hoạt động có liên quan đến việc đấu thầu
Tạm dừng việc đóng thầu và các hoạt động có liên quan đến việc đóng thầu là
biện pháp khẩn cấp tạm thời mới được bổ sung trong Bộ luật Tố tụng dân sự 2015.
Theo Điều 130 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 quy định: “Tạm dừng việc đóng

thầu, phê duyệt danh sách ngắn, kết quả lựa chọn nhà thầu, nhà đầu tư, ký kết hợp
đồng, thực hiện hợp đồng được áp dụng nếu quá trình giải quyết vụ án cho thấy việc
áp dụng biện pháp này là cần thiết để bảo đảm cho việc giải quyết vụ án theo đúng
quy định của pháp luật”.
 Bắt giữ tàu bay, tàu biển để bảo đảm giải quyết vụ án
Việc bắt giữ tàu bay, tàu biển để đảm bảo giải quyết vụ án đã được quy định
trong pháp lệnh về thủ tục bắt giữ tàu biển năm 2008 và thủ tục bắt giữ tàu biển
năm 2010. Trong hai pháp lệnh này đều quy định việc bắt giữ tàu bay, tàu biển cần
phải có quyết định của Tòa án có thẩm quyền để giải quyết vụ việc.

13

Điều 129 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015, Nhà xuất bản chính trị quốc gia Hà Nội

20


×