Tải bản đầy đủ (.docx) (11 trang)

Phân tích, so sánh và đánh giá độ tuổi kết hôn qua các Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (99.46 KB, 11 trang )

MỤC LỤC

A. MỞ ĐẦU
Kết hôn không những là một việc tất yếu trong đời sống xã hội của mỗi
con người mà xét dưới góc độ luật pháp đây còn là một sự kiện pháp lý quan
trọng làm phát sinh quan hệ vợ chồng. Nhưng câu hỏi là khi nào thì chúng ta
được phép thực hiện hành vi này, tức là phải đạt tới độ tuổi nào thì ta mới
được phép kết hôn. Kể từ khi Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam đầu tiên
ban hành năm 1959 cho tới Luật năm 2014 hiện nay thì độ tuổi kết hôn đã
được quy định một cách rõ ràng, khoa học và có ít nhiều thay đổi. Để làm rõ
vấn đề này hơn, bài tiểu luận xin được phân tích đề số 01: “Phân tích, so
sánh và đánh giá độ tuổi kết hôn qua các Luật Hôn nhân và gia đình Việt
Nam.”

B. NỘI DUNG
I. Quy định về độ tuổi kết hôn trong Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm
1959, 1986 và 2000
1


I.1. Các quy định pháp luật
Điều 6 Luật Hôn nhân và gia đình 1959 quy định: “Con gái từ 18 tuổi
trở lên, con trai từ 20 tuổi trở lên mới được kết hôn.”
Điều 5 Luật Hôn nhân và gia đình 1986 quy định: “Nam từ 20 tuổi trở
lên, nữ từ 18 tuổi trở lên mới được kết hôn.”
Khoản 1 Điều 9 Luật Hôn nhân và gia đình 2000 quy định: “Nam từ
hai mươi tuổi trở lên, nữ từ mười tám tuổi trở lên.”
Như vậy, có thể thấy các quy định trong ba luật trước đây của nước ta
tuy có khác nhau đôi chỗ về cách sử dụng từ ngữ nhưng nhìn chung đều giống
nhau khi quy định độ tuổi kết hôn đối với nam từ hai mươi tuổi trở lên, đối
với nữ từ mười tám tuổi trở lên. Điều này thể hiện sự tiến bộ và văn minh


trong quan điểm của các nhà làm luật về độ tuổi kết hôn, phần nào đảm bảo
được nguyên tắc tự nguyện kết hôn của các cặp đôi nam nữ yêu nhau và góp
phần ngăn ngừa tình trạng tảo hôn đang xảy ra rất nhiều tại thời điểm đó.
1.2. Cơ sở của việc quy định độ tuổi kết hôn
Sở dĩ pháp luật quy định độ tuổi kết hôn như vậy là xuất phát từ cơ sở
khoa học, cơ sở xã hội, cơ sở so sánh các luật trước đây ở nước ta và luật của
các nước trên thế giới.
 Cơ sở khoa học:
Thứ nhất, độ tuổi kết hôn được quy định như trên nhằm bảo đảm sự
phát triển đầy đủ về mặt thể chất của cả hai vợ chồng, thực hiện được chức
năng sinh đẻ, con cái sinh ra được khỏe mạnh. Bởi lẽ nam, nữ phải đạt đến độ
tuổi này (tuổi thành niên) thì mới có sự phát triển hoàn thiện về tâm- sinh lý,
khi sinh ra cả con và mẹ sẽ đều khỏe mạnh mà trong lĩnh vực y tế gọi là “ưu
sinh”. Nói cách khác, điều này duy trì nòi giống, đảm bảo sự phát triển lành
mạnh về thể chất và trí tuệ cho những thế hệ sau, xây dựng gia đình hạnh
phúc. “Một số nghiên cứu trong lĩnh vực sức khoẻ sinh sản đã kết luận: Các
bà mẹ sinh con trước tuổi 18 thường hay gặp các vấn đề về sức khoẻ. Những
2


đứa con của các cặp hôn nhân xác lập quan hệ trước tuổi luật định hay mắc
các bệnh về nhiễm sắc thể, sức đề kháng yếu, tỉ lệ tử vong sau sinh cao.”1
Thứ hai, ở độ tuổi này các bên nam, nữ đã nhận thức được đầy đủ trách
nhiệm của mình đối với gia đình, quan tâm giáo dục con cái. Thực tiễn cho
thấy các trường hợp đôi nam nữ còn quá trẻ đã chung sống với nhau như vợ
chồng thường không nhận thức được đầy đủ trách nhiệm của mình đối với
người kia và những hệ quả có thể xảy ra sau khi kết hôn. Họ chưa đủ khả
năng để tham gia lao động sản xuất, tự kiếm sống nuôi bản thân và người
chung sống với mình. Khi xảy ra mâu thuẫn thì thiếu sự bàn bạc để giải quyết
mà lại buông bỏ, dễ dẫn đến chia tay. Điều này còn đặc biệt nguy hại nếu cặp

đôi nam nữ này đã có con với nhau, bởi một cuộc sống bộn bề lo toan khi còn
quá nhỏ sẽ khiến họ khó có thể gánh vác, hình thành nên tâm lý chán nản.
 Cơ sở xã hội:
Quy định điều kiện độ tuổi kết hôn còn được xem xét dựa trên các khía
cạnh như phong tục, tập quán, đạo đức xã hội, truyền thống tâm lí của người
Việt Nam về vấn đề kết hôn. Do ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáo, người
Việt Nam hình thành thói quen lấy vợ, lấy chồng sớm theo quan niệm “nữ
thập tam, nam thập lục”, có nghĩa rằng độ tuổi lập gia đình phù hợp nhất với
nữ là 13 tuổi, còn đối với nam là 16 tuổi. Ở một số nơi, con gái 16 tuổi chưa
lấy chồng đã được coi là “lỡ thì”; con trai của các nhà tài phiệt, quan, địa chủ
dù mới chỉ còn là một đứa trẻ nhưng đã được lấy vợ về để phục vụ, chăm sóc
cho mình.
Cho đến nay, các vùng nông thôn, vùng sâu vùng xa tại Việt Nam vẫn
còn ít nhiều bị ảnh hưởng bởi tâm lí này, dẫn đến tình trạng tảo hôn vẫn còn
tồn tại. “Tảo hôn” ở đây được hiểu là việc lấy vợ, lấy chồng khi một bên hoặc
cả hai bên chưa đủ tuổi kết hôn theo quy định pháp luật. Vì vậy, cần phải có
một quy định về độ tuổi kết hôn rõ ràng để loại bỏ các hủ tục, làm cơ sở để xử
lý các trường hợp tảo hôn.
1 Bùi Thị Mừng (2011), “Về độ tuổi kết hôn theo Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam”, Luật
học, (11), tr. 38.

3


 Cơ sở so sánh luật:
Ở các thời kỳ trước khi Luật Hôn nhân gia đình Việt Nam xuất hiện
năm 1959, độ tuổi kết hôn trong hệ thống pháp luật phong kiến, thực dân ở
nước ta được quy định thường rất thấp. Theo quy định của Bộ luật Dân sự
Bắc kỳ năm 1931 thì nam tròn mười tám tuổi, nữ tròn mười lăm tuổi sẽ được
kết hôn. Trường hợp đặc biệt khi được người có thẩm quyền cho phép thì độ

tuổi giảm xuống còn mười lăm tuổi đối với nam và mười hai tuổi đối với nữ.
Theo hệ thống pháp luật của Ngụy quyền Sài Gòn ở miền Nam nước ta trước
30/4/1975 cũng quy định 18 tuổi với nam và 16 tuổi với nữ. Khi có phép của
Tổng thống thì độ tuổi kết hôn tối thiểu của nam và nữ sẽ được hạ thấp hoặc
đặc cách miễn tuổi kết hôn. “Quy định như vậy vừa phù hợp trong việc phỏng
theo Bộ luật Dân sự Cộng hòa Pháp năm 1804 và hệ thống phong tục, tập
quán lạc hậu của xã hội phong kiến Việt Nam khi thực hiện và duy trì chế độ
hôn nhân cưỡng ép do cha mẹ hoặc các bậc tôn trưởng trong gia đình quyết
định.”2 Ở nước ta, nếu quy định như trên thì sẽ không đảm bảo được thực hiện
nguyên tắc kết hôn tự nguyện mà luật đang hướng tới thực hiện và không
ngăn ngừa được tình trạng tảo hôn đang rất tiêu cực trong xã hội, vì vậy
không góp phần xây dựng được gia đình hạnh phúc, xã hội văn minh.
Ở các nước phương Tây phát triển, độ tuổi trưởng thành về tâm sinh lí
của nam và nữ sớm hơn so với ở Việt Nam. Vì thế, tuổi kết hôn đối với nam
và nữ được quy định thấp hơn và cho phép kết hôn đối với người chưa đến
tuổi thành niên. Ví dụ như Điều 144 Bộ luật Dân sự Cộng hòa Pháp quy định
độ tuổi tối thiểu khi kết hôn với nam là tròn mười tám tuổi, đối với nữ là tròn
mười lăm tuổi. “Các quốc gia phương Tây cho phép những người chưa thành
niên có thể kết hôn vì theo pháp luật phương Tây, hôn nhân được nhìn nhận
như hợp đồng dân sự, việc kết hôn thực chất là việc xác lập hợp đồng. Chính
vì vậy, người chưa thành niên kết hôn phải có sự đồng ý của người giám hộ.
Điều này cho thấy, pháp luật phương Tây đã thừa nhận vấn đề đại diện trong
2 Nguyễn Văn Cừ (2013), “Hoàn thiện quy định về các điều kiện kết hôn theo Luật Hôn nhân
và gia đình Việt Nam năm 2000”, Tạp chí Tòa án nhân dân, (24), tr. 10.

4


việc kết hôn.”3 Điều này hoàn toàn khác so với quan điểm của các nhà lập
pháp Việt Nam khi không cho rằng hôn nhân là một hợp đồng dân sự, sự tự

nguyện ý chí của các bên phải được đề cao và là cơ sở quyết định cho đăng kí
kết hôn. Đây là quyền nhân thân gắn liền với mỗi cá nhân mà không thể
chuyển giao cho người khác.
Ngoài ra, việc quy định độ tuổi kết hôn trong luật 1959 đã được củng
cố hơn khi Công ước Cedaw ra đời năm 1979 về chống mọi sự phân biệt, đối
xử với phụ nữ. Trong đó khoản 2 Điều 16 quy định: “Việc hứa hôn và kết hôn
của trẻ em phải bị coi là không có hiệu lực pháp lý và mọi hoạt động cần
thiết, kể cả xây dựng luật lệ phải được tiến hành nhằm quy định độ tuổi tối
thiểu có thể kết hôn.”
Như vậy, quy định độ tuổi như hiện nay còn là sự hài hoà giữa cơ sở
khoa học với cơ sở xã hội, là kết quả của việc so sánh hệ thống pháp luật
trước đây, hệ thống pháp luật của các nước trên thế giới với các quan điểm lập
pháp của nước ta để quy định độ tuổi kết hôn phù hợp nhất, mang tính thực
thi cao.
1.3. Hạn chế của quy định về độ tuổi kết hôn
Độ tuổi kết hôn theo quy định ở các luật năm 1959, 1986 và 2000 tuy
đã tiến bộ và thể hiện đúng nguyên tắc kết hôn tự nguyện của Nhà nước ta,
song thực tiễn áp dụng thì vẫn còn nhiều vướng mắc và chưa có cách hiểu
thống nhất.
“Theo tập quán hành chính lâu nay của nước ta thì có hai cách tính tuổi:
một là, tính theo tuổi tròn (tức là khi đủ 12 tháng mới được tính là một tuổi và
phải căn cứ vào ngày, tháng, năm sinh được ghi trong giấy tờ hộ tịch để tính);
hai là, tính tuổi theo ngày đầu năm dương lịch (theo cách này, chỉ cần căn cứ
vào năm sinh, cứ bước qua ngày 1/1 đầu năm dương lịch là tính thêm một
tuổi.”4 Nếu như theo quy định trong Luật Hôn nhân gia đình các năm trước thì
một người nữ chưa cần đủ 18 tuổi mà mới chỉ 17 tuổi 1 ngày, tương tự với
3 Bùi Thị Mừng (2011), “Về độ tuổi kết hôn theo Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam”, Luật
học, (11), tr. 39.

5



nam chỉ cần 19 tuổi 1 ngày thì cũng đã tính là 18 tuổi và có thể kết hôn. Trong
các văn bản hướng dẫn như Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP của Hội đồng
Thẩm phán nhân dân hướng dẫn áp dụng một số quy định của Luật hôn nhân
và gia đình năm 2000 cũng đã quy định chi tiết: “Theo quy định này thì
không bắt buộc nam phải từ đủ hai mươi tuổi trở lên, nữ phải từ đủ mười tám
tuổi trở lên mới được kết hôn; do đó, nam đã bước sang tuổi hai mươi, nữ đã
bước sang tuổi mười tám mà kết hôn là không vi phạm điều kiện về tuổi kết
hôn.”
Tuy nhiên, trong Bộ luật Hình sự, Bộ luật dân sự và tố tụng dân sự lại
dùng cách tính tuổi tròn và quy định người từ đủ 18 tuổi trở lên là người có
đầy đủ năng lực hành vi dân sự. Cụ thể:
- Điều 18 Bộ luật Dân sự 2005 quy định: “Người từ đủ mười tám tuổi
trở lên là người thành niên. Người chưa đủ mười tám tuổi là người
chưa thành niên.”.
- Khoản 3 Điều 57 Bộ luật Tố tụng Dân sự 2004 quy định: “Đương
sự là người từ đủ mười tám tuổi trở lên có đầy đủ năng lực hành vi
tố tụng dân sự, trừ người mất năng lực hành vi dân sự, người bị hạn
chế năng lực hành vi dân sự hoặc pháp luật có quy định khác.”
- Khoản 1 Điều 12 Bộ luật Hình sự 1999 cũng quy định về tuổi chịu
trách nhiệm hình sự là: “Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách
nhiệm hình sự về mọi tội phạm.”
Sự khác nhau này sẽ dẫn đến những trường hợp sau:
- Một người nữ 17 tuổi 1 ngày hay nam 19 tuổi 1 ngày theo Luật Hôn nhân gia
đình khi đó có các quyền và nghĩa vụ về tài sản như quyền có tài sản riêng,
quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản riêng, nhưng theo Bộ luật Dân sự
thì người này vẫn là người chưa thành niên và bị hạn chế một số quyền đối
với tài sản của mình.
- Một người nữ trên 17 dưới 18 tuổi hoặc một người nam trên 19 tuổi dưới 20

tuổi khi kết hôn đã được coi là “đủ tuổi” kết hôn. Tuy nhiên, khi ly hôn thì lại
4 Bộ Tư pháp (2004), Bình luận khoa học luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam, Nxb. Chính trị
Quốc gia, Hà Nội, tr. 98.

6


là người bị coi là chưa có đầy đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự và là người
chưa thành niên theo Bộ luật Dân sự và tố tụng dân sự, vì vậy không thể tự
mình đứng nguyên đơn yêu cầu giải quyết ly hôn và các tranh chấp trong hôn
nhân. Khi đó phải nhờ đến người đại diện, người giám hộ, mà như vậy lại làm
mất đi yếu tố tự nguyện, trái với quy định cho rằng đây là quyền nhân thân
của vợ chồng và chỉ vợ chồng mới có quyền yêu cầu Tòa án ly hôn.
- Điều 148 Bộ luật Hình sự 1999 quy định về tội tảo hôn và tổ chức tảo hôn, với
cách hiểu về tuổi là “từ đủ...”. Tuy nhiên theo Luật Hôn nhân gia đình thì có
những trường hợp như đã nêu ở trên vẫn là kết hôn hợp pháp. Điều này dẫn
đến khó khăn trong việc áp dụng pháp luật và công tác xét xử trong thực tế,
tạo kẽ hở cho sự vi phạm pháp luật và bỏ lọt tội phạm.
II. Quy định về độ tuổi kết hôn trong Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm
2014
II.1. Điểm mới của quy định về độ tuổi kết hôn trong Luật Hôn nhân và gia
đình 2014
Điểm a) Khoản 1 Điều 8 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định độ
tuổi kết hôn là: “Nam từ đủ 20 tuổi trở lên, nữ từ đủ 18 tuổi trở lên.”
Theo đó, quy định như vậy đã giải quyết được hoàn toàn những hạn chế
của quy định về độ tuổi kết hôn trong các luật trước, tạo sự thống nhất trong
toàn bộ hệ thống pháp luật. Cụ thể, quy định này có một số ưu điểm sau:
- Thống nhất, đồng bộ với Bộ luật Dân sự, Tố tụng dân sự trong việc xác định
tuổi. Nó phản ánh và bảo đảm nguyên tắc kết hôn tự nguyện của nam và nữ
khi họ đã thành niên, có đầy đủ năng lực chủ thể (năng lực pháp luật và năng

lực hành vi) để quyết định việc kết hôn, được thực hiện đầy đủ các quyền về
nhân thân và tài sản của mình, được quyền tự mình yêu cầu li hôn và yêu cầu
Tòa án giải quyết các tranh chấp khác phát sinh trong hôn nhân.
- Thống nhất, đồng bộ với Bộ luật Hình sự trong việc xác định tuổi, qua đó việc
phát hiện và xử lý các trường hợp tảo hôn trở nên dễ dàng và có cơ sở pháp lý
rõ ràng hơn.

7


- Việc chỉ thêm từ “đủ”, còn giữ nguyên mốc thời điểm 18 tuổi với nữ và 20 tuổi
với nam, tức là không tăng và không hạ thấp là một sự kế thừa những ưu điểm
của các luật trước. Bởi qua rất nhiều năm, độ tuổi này đã trở thành tập quán
và ý thức tốt đẹp trong nhận thức, cách ứng xử của người dân và của các cán
bộ tư pháp trong quá trình thực thi pháp luật. Nó đã phát huy những hiệu quả
nhất định nên việc tăng lên hay hạ xuống là không cần thiết.
II.2. Những vấn đề vướng mắc còn tồn tại
Thứ nhất, vẫn còn tồn tại nhiều ý kiến nên tăng hoặc hạ thấp độ tuổi kết
hôn, đặc biệt là của nam. Ví dụ có ý kiến cho rằng nên hạ độ tuổi kết hôn của
nam xuống bằng với nữ giới là “từ đủ 18 tuổi” thay vì “từ đủ 20 tuổi” như
hiện nay. Lí do đưa ra là vì với nam chỉ cần đủ 18 tuổi thì cũng đã là thành
niên, có năng lực chủ thể về mặt pháp luật. Về mặt khoa học, do hiện nay
mức sống đã được nâng cao, nhận thức cũng chịu tác động bởi nhiều yếu tố
hơn nên phần lớn nam giới đã phát triển đầy đủ cả về tâm- sinh lý khi đủ 18
tuổi. Quy định như hiện nay là không công bằng với nam giới khi họ có mong
muốn kết hôn chính đáng.
Thứ hai, việc quy định độ tuổi kết hôn như vậy để ngăn ngừa tình trạng
tảo hôn và có thể xử lý được những trường hợp như vậy trong thực tế. Tuy
nhiên, biện pháp về pháp luật hiện nay mới chỉ tập trung vào trường hợp kết
hôn trước tuổi luật định. Đối với trường hợp này, khi có yêu cầu, toà án sẽ

xem xét và có thể sử dụng chế tài xử huỷ việc kết hôn trái pháp luật. “Trong
khi đó, những trường hợp nam nữ chung sống như vợ chồng trước tuổi luật
định, không đăng kí kết hôn mới thực sự là “tảng băng chìm” mà hiện nay
chúng ta chưa có các biện pháp can thiệp thoả đáng. Nhà nước không công
nhận những cuộc hôn nhân này nhưng những đứa trẻ vẫn ra đời, các gia đình
như vậy vẫn tồn tại trong đời sống xã hội.” 5 Vì vậy vấn đề này cần được quan
tâm, xem xét và giải quyết thỏa đáng.
II.3. Đề xuất giải pháp trong hoạt động lập pháp và áp dụng pháp luật
5 Bùi Thị Mừng (2011), “Về độ tuổi kết hôn theo Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam”, Luật
học, (11), tr. 42.

8


Từ những vấn đề vướng mắc đã nêu, ta cần có những giải pháp phù hợp
để hoàn thiện quy định về độ tuổi kết hôn dưới góc độ lập pháp và áp dụng
pháp luật, đảm bảo tính khả thi trên thực tế.
Một là, việc quyết định có tăng hay hạ thấp độ tuổi kết hôn không còn
cần phải được nghiên cứu và xem xét kĩ lưỡng, và trong thời điểm này thì
chưa thật sự cần thiết. Bởi như đã trình bày ở trên, quy định mốc 18 tuổi với
nữ và 20 tuổi với nam đã tồn tại từ lâu đời và trở thành một tập quán, nhận
thức tốt đẹp. Hơn nữa, bình đẳng đối với nam và nữ không có nghĩa là cái gì
quy định cho nữ thì của nam cũng phải giống. Do cơ chế sinh học của hai giới
là hoàn toàn khác nhau nên sự phát triển cũng khác nhau, đòi hỏi một quy
định chung cho cả hai là rất khó. Ngoài ra, mức sống bây giờ có thể đã khá
hơn trước nhưng thực tế vẫn còn tồn tại những vùng quê nghèo, vùng sâu
vùng xa không có đủ điều kiện vật chất để sinh hoạt thì liệu con người ở đây
có đều phát triển đầy đủ khi đạt đến 18 tuổi không? Vì vậy, nếu cho rằng nam
giới đủ 18 tuổi đã có sự phát triển đầy đủ cả về thể chất và tinh thần thì phải
có số liệu báo cáo cụ thể.

Hai là, liên quan đến việc giải quyết tình trạng tảo hôn, cần xây dựng
các chế tài hành chính, hình sự thật nghiêm khắc nhằm đảm bảo tốt mục đích
răn đe, phòng ngừa đối với các trường hợp vi phạm điều kiện về độ tuổi kết
hôn. Ngoài ra, đẩy mạnh việc tuyên truyền phổ biến pháp luật đến mỗi người
dân cũng là việc làm cần thiết. Điều này sẽ giúp nâng cao kiến thức cho người
dân đặc biệt là nam nữ thanh niên, loại bỏ những hủ tục trong đời sống hôn
nhân và gia đình, từ đó định hướng cho nam nữ thanh niên cách ứng xử phù
hợp với quy định của pháp luật về điều kiện kết hôn, tiến tới xoá bỏ tình trạng
tảo hôn.

9


C. KẾT LUẬN
Có thể thấy, quy định về độ tuổi kết hôn đã có sự thay đổi theo hướng
tích cực qua các Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam. Đây là quy định căn
bản, cốt lõi nhất để đảm bảo nguyên tắc kết hôn tự nguyện, xây dựng xã hội
dân chủ, công bằng, văn minh. Trong Luật Hôn nhân và gia đình hiện hành
năm 2014, độ tuổi kết hôn đã phần nào giải quyết được những hạn chế từ các
luật trước, song vẫn còn tồn tại những vấn đề, vướng mắc nhất định. Vì vậy,
các nhà làm luật và những người thực thi pháp luật cần phải quan tâm, chú
trọng và giải quyết những vấn đề này để chế định về hôn nhân ngày càng
hoàn thiện hơn. Do vốn kiến thức còn hạn hẹp nên tiểu luận trên không tránh
khỏi sai sót, mong thầy cô góp ý để bài viết ngày càng được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!

10


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

I.

Văn bản pháp luật
1. Bộ luật Dân sự Cộng hòa Pháp
2. Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 1959
3. Công ước CEDAW 1979
4. Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 1986
5. Bộ luật Hình sự 1999
6. Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000
7. Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP của Hội đồng Thẩm phán
nhân dân hướng dẫn áp dụng một số quy định của Luật hôn

II.

nhân và gia đình năm 2000
8. Bộ Luật Tố tụng Dân sự 2004
9. Bộ luật Dân sự 2005
10.Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2014
Sách, tạp chí
1. Bộ Tư pháp (2004), Bình luận khoa học luật Hôn nhân và gia
đình Việt Nam, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
2. Nguyễn Văn Cừ (2013), “Hoàn thiện quy định về các điều
kiện kết hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm
2000”, Tạp chí Tòa án nhân dân, (24), tr. 09-13.
3. Bùi Thị Mừng (2011), “Về độ tuổi kết hôn theo Luật hôn
nhân và gia đình Việt Nam”, Luật học, (11), tr. 38-43.

11




×