Tải bản đầy đủ (.pdf) (90 trang)

định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo pháp luật hình sự việt nam từ thực tiễn tỉnh long an

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (690.41 KB, 90 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

CAO THỊ THỚI

ĐỊNH TỘI DANH TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM
ĐOẠT TÀI SẢN THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
TỪ THỰC TIỄN TỈNH LONG AN

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ

Hà Nội, năm 2019


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

CAO THỊ THỚI

ĐỊNH TỘI DANH TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM
ĐOẠT TÀI SẢN THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
TỪ THỰC TIỄN TỈNH LONG AN
Ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 8.38.01.04

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. HỒ SỸ SƠN

Hà Nội, năm 2019



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi dưới sự
hướng dẫn của PGS.TS Hồ Sỹ Sơn. Các số liệu, ví dụ nêu trong Luận văn là hoàn
toàn trung thực và chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào. Các thông tin và
tài liệu trích dẫn trong Luận văn được ghi rõ nguồn gốc.
Tác giả luận văn

Cao Thị Thới


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
Chương 1: CÁC CƠ SỞ CỦA ĐỊNH TỘI DANH TỘI LẠM DỤNG TÍN
NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN ..........................................................................6
1.1. Cơ sở lý luận của định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản ....6
1.2. Cơ sở pháp lý của định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản .18
1.3. Cơ sở thực tiễn của định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.
...............................................................................................................................35
Chương 2: THỰC TRẠNG ĐỊNH DANH TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM
CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN TẠI TỈNH LONG AN ................................................39
2.1. Khái quát tình hình xét xử tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản tại tỉnh
Long An .................................................................................................................39
2.2. Thực tiễn định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản tại tỉnh
Long An .................................................................................................................40
Chương 3: CÁC YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ĐỊNH TỘI DANH
ĐÚNG TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN ....................63
3.1. Các yêu cầu của định tội danh đúng tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài
sản ..........................................................................................................................63
3.2. Các giải pháp bảo đảm định tội danh đúng tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt
tài sản .....................................................................................................................66

KẾT LUẬN ..............................................................................................................77
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

ADPL

:Áp dụng pháp luật

BLHS

:Bộ luật hình sự

BLTTHS

:Bộ luật tố tụng hình sự

CQĐT

:Cơ quan điều tra

CTTP

:Cấu thành tội phạm

HĐXX

:Hội đồng xét xử


LDTNCĐTS

:Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản

PLHS

:Pháp luật hình sự

TAND

:Tòa án nhân dân

TNHS

:Trách nhiệm hình sự

TTHS

:Tố tụng hình sự

VKSND

:Viện kiểm sát nhân dân


DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1. Số liệu phản ánh tình hình khởi tố, truy tố, xét xử tội lạm dụng tín nhiệm
chiếm đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh Long An từ năm 2014-2018.
Bảng 2.2. Thống kê số các tội xâm phạm sở hữu mang tính chiếm đoạt trên địa bàn

tỉnh Long An từ năm 2014-2018.
Bảng 2.3. So sánh tỉ lệ các tội xâm phạm sở hữu mang tính chiếm đoạt với tội lạm
dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh Long An từ năm 2014-2018
Bảng 2.4. Số liệu phản ánh tình hình trả hồ sơ điều tra bổ sung tội lạm dụng tín
nhiệm chiếm đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh Long An từ năm 2014-2018


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử các vụ án hình sự cho thấy, hiện nay các cơ
quan tiến hành tố tụng gặp khó khăn, vướng mắc trong việc định tội danh nói chung
nhất là các tội xâm phạm sở hữu nói riêng như tội cướp tài sản; tội cướp giật tài sản;
tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản (viết tắt LDTNCĐTS) và tội lừa đảo
chiếm đoạt tài sản…Có nhiều trường hợp các cơ quan tiến hành tố tụng có sự nhầm
lẫn giữa các tội danh này với nhau hay trường hợp phạm nhiều tội nhưng lại định tội
danh là một tội, hoặc không xác định được có sự chuyển hóa tội danh từ các tội
chiếm đoạt tài sản sang tội cướp tài sản. Từ đó, dẫn đến việc oan sai, bỏ lọt người
phạm tội, áp dụng mức hình phạt, loại hình phạt không đúng, gây dư luận không tốt,
giảm uy tín các cơ quan bảo vệ pháp luật và giảm hiệu quả công tác đấu tranh
phòng, chống tội phạm.
Tỉnh Long An là tỉnh nằm ở đồng bằng sông Cửu Long, thuộc vùng kinh tế
trọng điểm phía Nam, cận kề với Tp. Hồ Chí Minh, có vai trò đặc biệt quan. Với
những thuận lợi đã đạt được, thì tình hình tội phạm không ngừng gia tăng, đặc biệt
là các tội xâm phạm sở hữu, trong đó có tội LDTNCĐTS. Nhiều năm qua, công tác
khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử các vụ án này tại tỉnh Long An cho thấy về cơ
bản việc định tội danh được thực hiện tương đối chính xác nhưng vẫn có một số
trường hợp giữa CQĐT, VKSND và TAND trong quá trình giải quyết vụ án xuất
hiện quan điểm khác nhau về định tội danh dẫn đến có vụ án phải trả hồ sơ nhiều
lần, kéo dài thời gian giải quyết và ảnh hưởng đến nhiều đối tượng do nhiều nguyên
nhân khác nhau mà đặc biệt từ chính hoạt động của các chủ thể định tội danh do

chưa nắm vững và nhận thức đúng những vấn đề lý luận và thực tiễn về định tội
danh nói chung và định tội danh tội LDTNCĐTS. Từ những thực trạng nêu trên cần
phải có sự nghiên cứu, đánh giá một cách toàn diện cả về mặt lý luận và thực tiễn
hoạt động định tội danh tội phạm. Trên cơ sở đó đưa ra các giải pháp đảm bảo định
tội danh đúng tội phạm trong thực tiễn để hạn chế đến mức tối thiểu tình trạng
không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội nhằm đảm bảo quyền con người
1


trong TTHS, đảm bảo pháp chế xã hội chủ nghĩa cũng như phù hợp với yêu cầu cải
cách của nền tư pháp nước ta hiện nay đã đặt ra. Chính vì những lý do nêu trên, tác
giả chọn đề tài“Định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo pháp
luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Long An” làm đề tài luận văn nhằm góp
phần làm rõ cơ sở lý luận và pháp lý cho việc định tội danh tội LDTNCĐTS được
áp dụng trong thực tiễn cho thời gian tới.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Hiện nay có rất nhiều công trình khoa học liên quan đến đề tài của tác giả đã
được đề cập và công bố như: Võ Khánh Vinh (2003), Giáo trình lý luận chung về
định tội danh, Nhà xuất bản Công an nhân dân, Hà Nội; Đinh Văn Quế (2003), Bình
luận khoa học Bộ luật Hình sự, Tập 2, NXB Tp. Hồ Chí Minh; Lê Văn Đệ (2004),
Định tội danh và quyết định hình phạt trong Luật hình sự Việt Nam, NXB Công an
nhân dân, Hà Nội; Trường Đại học Luật Hà Nội (2007), Giáo trình luật hình sự Việt
Nam, Tập 2, NXB Công an nhân dân, Hà Nội…Ngoài ra, còn có các Luận văn Thạc
sĩ Luật học của nhiều tác giả liên quan đến vấn đề định tội danh nói chung và định
tội danh tội LDTNCĐTS theo quy định của pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn
của nhiều tỉnh, thành phố của cả nước như: Hoàng Thị Kim Chi (2017) Định tội
danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo quy định của pháp luật Việt
Nam từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh; Nguyễn Thiện Tâm (2019) Định tội danh
từ thực tiễn huyện Cần Đước, tỉnh Long An; Đặng Xuân Sơn (2017) Định tội danh
Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn tỉnh

Thanh Hóa...Những công trình nghiên cứu, các bài viết, đề tài khoa học nêu trên
đều có giá trị về mặt lý luận khoa học và thực tiễn nhưng một số nội dung các đề tài
chỉ hướng đến việc phân tích, nghiên cứu những vấn đề lý luận chung về tội phạm
LDTNCĐTS trong mối quan hệ tách biệt hoàn toàn với những kiến thức lý luận về
định tội danh. Mặc dù, có rất nhiều công trình nghiên cứu về định tội danh nói
chung và định tội danh tội LDTNCĐTS nói riêng. Tuy nhiên, tác giả cho rằng một
số công trình nghiên cứu cách đây khá lâu nên không còn phù hợp với tình hình tội
phạm nước ta hiện nay về mặt giá trị lý luận và thực tiễn. Ngoài ra, BLHS năm
2


2015 đã được ban hành và có hiệu lực từ ngày 01/01/2018, trong đó những quy định
về phần chung cũng như phần các tội phạm có nhiều sửa đổi, bổ sung so với quy
định trong BLHS năm 1999 nhưng chưa có công trình, đề tài nghiên cứu nào xem
xét vấn đề định tội danh tội LDTNCĐTS ở góc độ hoàn chỉnh, toàn diện từ tỉnh
Long An. Những giá trị lý luận và thực tiễn của những công trình, kết quả nghiên
cứu đã công bố là một trong những nguồn tài liệu quan trọng mà tác giả có thể vận
dụng, tham khảo để hoàn thiện cho luận văn cuối khóa của mình.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở phân tích những vấn đề lý luận về định tội danh, các quy định của
pháp luật hình sự về tội LDTNCĐTS và thực tiễn định tội danh này tại tỉnh Long
An, luận văn đề xuất các giải pháp bảo đảm việc định tội danh đúng tội
LDTNCĐTS ở nước ta hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Phân tích những vấn đề lý luận về định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm
chiếm đoạt tài sản;
Phân tích những quy định của BLHS Việt Nam hiện hành về tội lạm dụng tín
nhiệm chiếm đoạt tài sản;
Phân tích, đánh giá thực trạng định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm

đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh Long An;
Đề xuất các giải pháp bảo đảm định tội danh đúng tội lạm dụng tín nhiệm
chiếm đoạt tài sản.
4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu quan điểm khoa học, các quy định của BLHS
Việt Nam về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản và thực tiễn định tội danh tội
này trên địa bàn tỉnh Long An nhằm tìm ra những khó khăn, vướng mắc trong định
tội danh tội LDTNCĐTS, đề xuất các giải pháp bảo đảm định tội danh đúng tội
LDTNCĐTS ở nước ta.
3


4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu dưới góc độ chuyên ngành luật hình sự và tố tụng
hình sự. Về mặt thực tiễn, đề tài luận văn được nghiên cứu trên cơ sở tổng hợp số
liệu xét xử các vụ án LDTNCĐTS của Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh Long An trong
thời gian 05 năm từ năm 2014 đến 2018. Đây là nguồn tư liệu quan trọng giúp cho
việc phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động định tội danh tội LDTNCĐTS đảm
bảo được tính chính xác, độ tin cậy cao và từ đó đưa ra một số giải pháp bảo đảm
cho việc định tội danh nêu trên một cách có hiệu quả nhất trong thời gian tới.
5. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận khoa học của chủ nghĩa
duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí
Minh; quan điểm đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước về tội
phạm, về hình phạt, về đấu tranh phòng, chống tội phạm, về cải cách tư pháp…
Đồng thời, đề tài còn được nghiên cứu trên cơ sở kết hợp các phương pháp
nghiên cứu cụ thể khác nhau như: Phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp,
phương pháp so sánh, phương pháp nghiên cứu điển hình nhằm làm rõ nội dung các
vấn đề cần trình bày nêu trên và đưa ra các giải pháp để nâng cao chất lượng định

tội danh về tội phạm này trên địa bàn tỉnh Long An một cách có hiệu quả nhất.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Nghiên cứu đề tài luận văn sẽ góp phần hoàn thiện hệ thống lý luận có liên
quan đến hoạt động định tội danh tội LDTNCĐTS trên địa bàn tỉnh Long An nói
riêng và cho cả nước nói chung. Ngoài ra, việc nghiên cứu của luận văn còn có ý
nghĩa rất lớn, có thể được vận dụng như một tài liệu tham khảo trong quá trình
nghiên cứu, giảng dạy đối với các cán bộ công tác thực tiễn, đặc biệt là cán bộ làm
công tác xét xử sẽ giúp ích một phần nào cho việc vận dụng vào quá trình giải quyết
các vụ án đã và đang xảy ra trong thực tế.
7. Cơ cấu của luận văn
Luận văn gồm phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và được
kết cấu gồm ba chương.
4


Chương 1. Các cơ sở của định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt
tài sản;
Chương 2. Thực trạng định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài
sản tại tỉnh Long An;
Chương 3. Các yêu cầu và giải pháp bảo đảm định tội danh đúng tội lạm
dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.

5


Chương 1
CÁC CƠ SỞ CỦA ĐỊNH TỘI DANH TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM
ĐOẠT TÀI SẢN
1.1. Cơ sở lý luận của định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt
tài sản

1.1.1. Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của định tội danh tội lạm dụng tín
nhiệm chiếm đoạt tài sản
1.1.1.1. Khái niệm định tội danh
Theo khoa học luật hình sự, BLHS là văn bản pháp lý duy nhất quy định về
tội phạm và hình phạt. Chỉ những hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định
trong BLHS với tên gọi cụ thể mới được xem là tội phạm và phải chịu hình phạt. Có
thể xác định định tội là xác định sự phù hợp giữa các dấu hiệu của hành vi nguy
hiểm cho xã hội đã xảy ra với các dấu hiệu tương ứng trong quy phạm PLHS sẽ trở
thành khuôn mẫu pháp lý làm cơ sở cho người tiến hành tố tụng để có thể so sánh,
đối chiếu với những hành vi nguy hiểm cho xã hội đã xảy ra trên thực tế, từ đó xác
định được người phạm tội đã phạm tội gì, quy định tại điều, khoản nào của BLHS.
Tuy nhiên, khái niệm và đặc điểm định tội danh, chưa được quy định trong phần
chung của BLHS năm 2015. Hiện nay, các luật gia, các nhà nghiên cứu đã đưa ra rất
nhiều định nghĩa khác nhau về định tội danh:
Quan điểm khác cho rằng“Định tội danh là quá trình nhận thức lý luận có
tính logic, là một trong những dạng của hoạt động thực tiễn áp dụng pháp luật hình
sự, cũng như pháp luật tố tụng hình sự và được tiến hành trên cơ sở các chứng cứ,
tài liệu thu thập được và các tình tiết thực tế của vụ án hình sự để xác định sự phù
hợp giữa các dấu hiệu của hành vi nguy hiểm cho xã hội được thực hiện với các
dấu hiệu của cấu thành tội phạm tương ứng do luật hình sự quy định,nhằm đạt
được sự thật khách quan, tức là đưa ra sự đánh giá chính xác tội phạm về mặt pháp
lý hình sự, làm tiền đề cho việc cá thể hóa và phân hóa trách nhiệm hình một cách
công minh, có căn cứ và đúng pháp luật” [9, tr.716].

6


Theo quan điểm nêu trên, thì định tội danh trước hết là quá trình nhận thức lý
luận có tính logic, có nghĩa là khi tiến hành định tội danh phải tuân theo các quy
luật nhận thức nhất định, là hoạt động thực tiễn ADPLHS, hoạt động này là do các

chủ thể có thẩm quyền tiến hành theo quy định và được tiến hành trên cơ sở các
chứng cứ, các tài liệu thu thập được và các tình tiết thực tế của vụ án hình sự được
thu thập theo đúng quy định của PLTTHS, để xác định sự phù hợp giữa các dấu
hiệu của hành vi nguy hiểm cho xã hội, được thực hiện với các dấu hiệu của CTTP
tương ứng do LHS quy định nhằm đạt được sự thật khách quan.
Từ khái niệm chung này, cần nêu khái niệm định tội danh tội LDTNCĐTS.
Hoạt động định tội danh nói chung và định tội danh tội LDTNCĐTS nói riêng là
tổng hợp các quy định của PLHS và pháp luật TTHS nhằm đảm bảo cho việc xác
định chính xác hành vi của người phạm tội thỏa mãn CTTP quy định tại Điều,
Khoản nào của BLHS, là cách thức mà các chủ thể lựa chọn các quy phạm tương
ứng để điều chỉnh hành vi cũng như các quy định của pháp luật TTHS về trình tự,
thủ tục khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử cần áp dụng để việc truy cứu TNHS người
phạm tội được tiến hành nhanh chóng, chính xác, khách quan. Tội LDTNCĐTS là
một trong những tội phạm khá phổ biến và xảy ra trong thực tiễn cuộc sống nhất là
trong lĩnh vực dân sự và được PLHS qua các thời kỳ xác định là tội phạm bằng
nhiều quy định khác nhau. Khi chưa có BLHS năm 1985 thì việc xử lý tội phạm
LDTNCĐTS được thực hiện thông qua các văn bản pháp luật riêng lẻ được Nhà
nước ban hành, điển hình là hai Pháp lệnh được ban hành năm 1970 gồm Pháp lệnh
trừng trị các tội xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa và Pháp lệnh trừng trị các tội
xâm phạm tài sản công dân. Thời điểm này, tội LDTNCĐTS được xác định là hành
vi“bội tín” cho đến khi BLHS Việt Nam đầu tiên được ban hành năm 1985 đã quy
định về tội danh này mới được sửa đổi và thống nhất với tên gọi là tội LDTNCĐTS
nhưng có sự tách biệt ở hai điều luật cụ thể tương ứng với các hình thức sở hữu tài
sản và được Nhà nước ưu tiên bảo vệ ở các mức độ khác nhau mức hình phạt áp
dụng với quy định về tội LDTNCĐTS của Nhà nước nặng hơn so với quy định hình
phạt áp dụng hành vi phạm tội LDTNCĐTS của công dân. Đến khi BLHS năm
7


1999 có hiệu lực quy định tại Điều 140 đã đánh dấu cột mốc quan trọng quy định

thống nhất hành vi của người phạm tội LDTNCĐTS của công dân, của Nhà nước
trong một tội danh. Trước yêu cầu đổi mới của đất nước và hội nhập quốc tế, Quốc
hội đã ban hành luật sửa đổi bổ sung một số điều của BLHS năm 1999 theo hướng
quy định nâng cao giá trị định lượng đối với tài sản bị chiếm đoạt từ một triệu đồng
lên mức bốn triệu đồng. Để đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp và hội nhập cũng như
phù hợp với tình hình thực tiễn về phát triển kinh tế – xã hội nên BLHS năm 2015
ra đời đánh dấu một bước tiến mới trong kỹ thuật lập pháp
Tội LDTNCĐTS được thực hiện bằng những hành vi cụ thể, bao gồm: “Vay,
mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng
các hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối. Vay, mượn, thuê tài sản của
người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng và
đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại
tài sản”. Tuy nhiên, muốn đảm bảo tính chính xác khi xây dựng khái niệm về tội
LDTNCĐTS cần có sự kết hợp chặt chẽ giữa quy định về tội phạm nói chung tại
Khoản 1 Điều 8 BLHS và Điều 175 BLHS năm 2015. Khoản 1 Điều 8 BLHS năm
2015 quy định “tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ
luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện hoặc pháp nhân
thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống
nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn
hoá…”[29, tr.13]. Đây là khái niệm đầy đủ và hoàn chỉnh về mặt khoa học, nội
dung cũng như hình thức, thể hiện đầy đủ các đặc trưng của tội phạm, là cơ sở cho
việc xây dựng và hoàn thiện các quy định về CTTP với từng tội danh cụ thể. Hiện
nay hầu hết tất cả các quốc gia trên thế giới đều ghi nhận hành vi LDTNCĐTS
trong BLHS cũng giống như ở nước ta là quy định hình phạt tương ứng với hành vi
này ở các mức độ khác nhau như: BLHS nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa
không ghi nhận trực tiếp về tội phạm này nhưng tại Điều 270 quy định “Người nào
chiếm đoạt trái phép tài sản của người khác được người đó nhờ bảo quản với số
lượng tương đối lớn và không chịu hoàn trả người đó thì bị phạt....” [16, tr.172].
8



Theo Đề cương bài giảng luật hình sự Việt Nam của Trường Đại học An ninh nhân
dân định nghĩa“Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản là hành vi chiếm đoạt toàn
bộ hay một phần tài sản được giao trên cơ sở hợp đồng đã được giao kết giữa chủ
tài sản và người có hành vi chiếm đoạt” [46, tr.120]. Theo bình luận khoa học
BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) của TS Trần Văn Biên và TS Đinh
Thế Hưng đưa ra định nghĩa“ Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản là hành vi
chiếm đoạt bằng thủ đoạn vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được
tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối
hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó, hoặc, đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có
điều kiện, khả năng nhưng cố tình không trả hoặc sử dụng tài sản đó vào mục đích
bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản” [4, tr.226]; hay theo bình
luận khoa học phần chung BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) của luật
gia Nguyễn Ngọc Điệp biên soạn khái niệm“ Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài
sản, được hiểu là hành vi sau khi vay, mượn, thuê hoặc nhận được tài sản của
người khác bằng các hình thức hợp đồng đã dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn
để chiếm đoạt tài sản đó hoặc đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có điều kiện, khả
năng nhưng cố tình không trả hoặc sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp
dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản” [15, tr.121].
Tóm lại, theo quan điểm tác giả cho rằng khái niệm“tội lạm dụng tín nhiệm
chiếm đoạt tài sản được hiểu là hành vi sau khi vay, mượn, thuê tài sản hoặc nhận
được tài sản của người khác bằng hình thức hợp đồng đã dùng thủ đoạn gian dối
hoặc đến thời hạn trả lại mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng cố tình không trả lại
tài sản hoặc đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có
khả năng trả lại tài sản”.
Khi chúng ta nêu được khái niệm tội LDTNCĐTS có ý nghĩa quan trọng cho
việc nghiên cứu và tiếp cận các vấn đề có liên quan đến việc định tội danh đối với
tội phạm này ở phần sau, góp phần làm rõ về mặt lý luận trong việc định tội danh
đối với tội phạm này ở nhiều phương diện khác nhau mà đặc biệt góp phần làm rõ
về các yếu tố CTTP này.

9


1.1.1.2. Đặc điểm của định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài
sản
Trước hết, định tội danh tội LDTNCĐTS được tiến hành bởi những chủ thể
có thẩm quyền theo quy định của pháp luật, là hoạt động có tính logic được tiến
hành bởi các cơ quan có tiến hành tố tụng gồm CQĐT, VKS, TA và một số cơ quan
được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra thông qua những người tiến
hành tố tụng thực hiện một số chức năng, nhiệm vụ được quy định cụ thể trong
BLTTHS năm 2015. Các chủ thể này ngoài việc được trang bị vốn kiến thức nhất
định về pháp luật còn được phép sử dụng tất cả các công cụ cần thiết cũng như biện
pháp nghiệp vụ mà pháp luật cho phép trên cơ sở trình tự, thủ tục được pháp luật
TTHS quy định để xác định sự tương thích giữa hành vi phạm tội và dấu hiệu cấu
thành của tội LDTNCĐTS, trên cơ sở đó có quyết định đúng đắn về mặt tội danh
đối với người phạm tội để đưa ra mức hình phạt hợp lý.
Thứ hai, định tội danh tội LDTNCĐTS là hoạt động ADPL trong thực tiễn
được tiến hành bởi các chủ thể tiến hành tố tụng và một số chủ thể có thẩm quyền
khác theo quy định của pháp luật TTHS, là quá trình phức tạp đòi hỏi khi thực hiện
phải có sự hỗ trợ tích cực từ các biện pháp nghiệp vụ cần thiết. Do vậy, muốn đảm
bảo tính chính xác trong việc định tội danh tội LDTNCĐTS thì hoạt động này phải
được tiến hành bởi các chủ thể có thẩm quyền tiến hành tố tụng gồm CQĐT, VKS,
Tòa án và một số cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều
tra theo quy định của pháp luật. Phải xác định có hành vi nguy hiểm cho xã hội hay
không. Việc xác định có hành vi phạm tội LDTNCĐTS xảy ra hay không là rất khó.
Cho nên các chủ thể có thẩm quyền cần áp dụng các biện pháp, kết hợp với kỹ
năng, kinh nghiệm nghề nghiệp, vốn kiến thức lý luận và thực tiễn để đưa ra kết
luận hành vi có dấu hiệu tội phạm hay không hay chỉ đơn thuần là những vi phạm
dân sự, lẽ ra họ là bị đơn trong vụ án dân sự hay vụ án kinh doanh thương mại.
Thứ ba, định tội danh tội LDTNCĐTS là việc ADPLHS vào thực tiễn bởi các

chủ thể tiến hành tố tụng bằng việc ban hành các văn bản, quyết định tố tụng nhằm

10


mục đích giải quyết vụ án hình sự phù hợp với các quy phạm PLHS và các quy
phạm pháp luật TTHS.
Thứ tư, mục đích của việc định tội danh tội LDTNCĐTS là xác định chính
xác người thực hiện hành vi phạm tội, phạm tội gì, thuộc điều, khoản nào được quy
định trong BLHS nhằm buộc họ phải chịu TNHS, hình phạt tương xứng với tính
chất, mức độ nguy hiểm và hậu quả của hành vi phạm tội đã gây ra.
1.1.1.3.Ý nghĩa của việc định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài
sản
Định tội danh đúng tội LDTNCĐTS sẽ giúp cho việc điều tra, truy tố, xét xử
tội phạm này có căn cứ; là cơ sở để áp dụng đúng các quy định TTHS, đảm bảo việc
truy cứu TNHS đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không bỏ lọt tội phạm, không
làm oan người vô tội góp phần nâng cao uy tín, chất lượng của các cơ quan ngành
tư pháp mà đặc biệt là Tòa án án.
Định tội danh đúng tội LDTNCĐTS là tiền đề cho việc quyết định hình phạt
đảm bảo tính chính xác; thể hiện ý thức tuân thủ pháp luật, trình độ chuyên môn,
hiệu quả hoạt động của cơ quan, người tiến hành tố tụng nhưng quan trọng nhất là
Thẩm phán trong việc ban hành quyết định, bản án thật sự nghiêm minh, công bằng
và đúng pháp luật.
Định tội danh đúng tội LDTNCĐTS sẽ giúp cho việc ADPL một cách đúng
quy định, đánh giá đúng tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi mà
người phạm tội thực hiện được quy định tại Điều 175 BLHS năm 2015.
Định tội danh sai hậu quả tất yếu là quyết định hình phạt sẽ sai, làm cho hình
phạt đã tuyên không phù hợp với tính chất, mức độ của hành vi nguy hiểm cho xã
hội, làm cho người bị kết án không thấy được lỗi do hành vi mà mình thực hiện. Từ
đó, không tự giác tuân thủ pháp luật, không thuyết phục quần chúng nhân dân về

tính đúng đắn và tính nghiêm minh của bản án, làm giảm tính tuyên truyền và giáo
dục pháp luật của bản án.
Tóm lại, định tội danh đúng có ý nghĩa chính trị - xã hội và pháp lý là đảm
bảo quyền con người và công bằng xã hội, là kênh hiện thực hóa chính sách hình sự
11


vào thực tiễn, là yếu tố bảo đảm chính xác tình hình tội phạm trong một không gian,
thời gian nhất định.
1.1.2. Chủ thể, các giai đoạn và các trường hợp định tội danh tội lạm dụng
tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
1.1.2.1. Chủ thể của định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
Từ việc nghiên cứu lý luận cũng như thực tiễn thấy rằng, định tội danh tội
LDTNCĐTS do bởi các chủ thể là cơ quan tiến hành tố tụng tiến hành. Theo qui
định tại Khoản 1 Điều 34 BLTTHS năm 2015, thì chủ thể tiến hành định tội danh
gồm: CQĐT, VKS, Tòa án và một số cơ quan khác được giao nhiệm vụ như: Bộ đội
biên phòng; Hải quan; Kiểm lâm; Các cơ quan của lực lượng Cảnh sát biển; Các cơ
quan của Kiểm ngư; Các cơ quan của Công an nhân dân được giao nhiệm vụ tiến
hành một số hoạt động điều tra; Các cơ quan khác trong Quân đội nhân dân được
giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra; Các cơ quan cụ thể được giao
nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra được quy định tại Khoản 1 Điều 35
BLTTHS năm 2015 [32, tr.25, 26,27,28]. Bên cạnh đó, còn có các cán bộ khoa học,
tác giả các bài viết, bài báo, giảng viên, sinh viên luật hay bất kỳ một người nào
quan tâm, có kiến thức pháp luật cũng có thể tiến hành định tội danh. Các chủ thể
trên có đặc điểm chung là khi tiến hành định tội danh cũng thực hiện việc lựa chọn
và so sánh các dấu hiệu của quy phạm pháp luật với thực tế khách quan để làm cơ
sở cho sự xác định sự phù hợp giữa hành vi nguy hiểm cho xã hội với CTTP cụ thể.
Người tiến hành tố tụng khi tiến hành định tội danh sẽ có ưu thế hơn với các chủ thể
khác vì họ có điều kiện tiếp cận và nắm chính xác, cụ thể các tình tiết khách quan
của vụ án nên định tội danh sẽ chính xác và phản ánh được bản chất của vụ án hình

sự, còn định tội danh do các chủ thể khác chỉ là sự thể hiện ý kiến cá nhân, quan
điểm pháp lý nhưng nó có ý nghĩa quan trọng trong quá trình nghiên cứu pháp luật.
1.1.2.2. Các giai đoạn định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài
sản
Để bảo đảm định tội danh đúng cần tiến hành theo trình tự nhất định, gồm
các giai đoạn:
12


Thứ nhất, xác định hành vi nguy hiểm cho xã hội
Là một trong những bước rất quan trọng của định tội danh, bởi vì hành vi
xảy ra như thế nào nó ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả của định tội danh cho nên các
chủ thể có thẩm quyền cần phải vận dụng kiến thức lý luận, thực tiễn và kết hợp
những kỹ năng, kinh nghiệm nghề nghiệp để đưa ra kết luận hành vi có dấu hiệu tội
phạm hay là những vi phạm pháp luật dân sự, kinh tế. Chính vì thế, các chủ thể cần
phải xác định tầm quan trọng của thu thập, kiểm tra, đánh giá toàn diện chứng cứ
chứng minh sự thật của vụ án.
Các chủ thể khi xác định sự thật khách quan của vụ án, khi tiến hành điều tra,
truy tố và xét xử phải đảm bảo sự vô tư, khách quan, không suy diễn hay định kiến,
mà phải dựa vào tài liệu, chứng cứ đã thu thập hợp pháp, đúng trình tự pháp luật và
được kiểm tra, phân tích, đánh giá theo quy định của pháp luật.
Thứ hai, nhận thức nội dung của các quy định trong BLHS một cách đúng
đắn
Một hành vi phạm tội được xác định do chủ thể có năng lực TNHS và độ tuổi
mà BLHS đã quy định khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội thì cần tiến hành
đối chiếu, so sánh các dấu hiệu pháp lý đặc trưng, nhận định mức độ liên quan và sự
phù hợp giữa hành vi diễn ra trên thực tế với các yếu tố CTTP xem có thỏa mãn cấu
thành tội LDTNCĐTS hay không? Nếu có thì thuộc Điểm, Khoản, Điều 175 của
BLHS năm 2015.
Khi ban hành BLHS, nhà làm luật đã đánh giá một cách toàn diện tính chất

và mức độ nguy hiểm cho xã hội của các hành vi tương ứng, quy định chế tài áp
dụng đối với từng loại hành vi cũng như hiệu quả đạt được khi áp dụng các chế tài.
Từ thực tiễn ADPLHS cho thấy còn nhiều khó khăn, vướng mắc về định tội danh
tội LDTNCĐTS và quyết định hình phạt đối với các loại tội xâm phạm sở hữu có
tính chiếm đoạt và các tội xâm phạm sở hữu không mang tính chiếm đoạt dễ dẫn
đến sự nhằm lẫn định tội danh giữa tội này với tội khác.
Thứ ba, xác định mối quan hệ giữa các dấu hiệu thực tế và các dấu hiệu
được quy định trong luật, trên cơ sở đó rút ra kết luận
13


Đây là bước quan trọng nhất của quá trình định tội danh. Các dấu hiệu của
tội phạm được quy định trong luật và các tình tiết thực tế của vụ án là hai nhóm hiện
tượng được hợp nhất, thống nhất trong quá trình định tội danh. Do đó, để định tội
danh đúng, sau khi xác định sự thật khách quan của vụ án và tìm hiểu, phân tích các
quy phạm PLHS để nhận thức đúng đắn, sâu sắc nội dung của nó nhằm lựa chọn
đúng quy phạm PLHS tương ứng đã thoả mãn quy định tại Điều, Khoản nào của
BLHS năm 2015.
Thứ tư, đưa ra kết luận
Trong từng giai đoạn tố tụng của từng cơ quan tiến hành tố tụng đối với vụ
án hình sự thì sẽ kết luận về hành vi phạm tội gì, phải ban hành các văn bản tố tụng
khác nhau và phải tương ứng với từng giai đoạn tố tụng như CQĐT ban hành Quyết
định khởi tố, Quyết định không khởi tố…Viện kiểm sát ban hành Quyết định phê
chuẩn hoặc không phê chuẩn quyết định, lệnh của CQĐT…, Tòa án, thì ban hành
Quyết định áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp tạm giam, xử lý vật
chứng…[32, tr.29, 40, 45].
Như vậy, định tội danh tội LDTNCĐTS phải được thực hiện bởi các giai
đoạn nêu trên. Do đó, đòi hỏi người ADPL mà đặc biệt là Thẩm phán – Chủ tọa
phiên tòa phải cân nhắc, am hiểu pháp luật mới thực hiện tốt mới đảm bảo cho việc
định tội danh đúng và ban hành quyết định, bản án đúng người, đúng tội, nghiêm

minh và có hiệu quả cao trong đấu tranh phòng, chống tội phạm.
1.1.2.3. Các trường hợp định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài
sản
* Định tội danh theo CTTP cơ bản
Các trường hợp phạm tội cụ thể của loại tội nhất định đều có những nội dung
biểu hiện giống nhau ở cả bốn yếu tố của tội phạm. Đây là những dấu hiệu chung,
đặc trưng của loại tội phạm đó và tổng hợp những dấu hiệu này chính là CTTP. Như
vậy, “cấu thành tội phạm là tổng hợp những dấu hiệu chung có tính đặc trưng cho
loại tội phạm cụ thể được quy định trong luật hình sự” [47, tr.53].

14


Theo như Giáo sư.Tiến sĩ.Võ Khánh Vinh xác định “Cấu thành tội phạm là
cơ sở pháp lý duy nhất của việc định tội danh, là mô hình pháp lý có các dấu hiệu
cần và đủ để truy cứu trách nhiệm hình sự” [51, tr.68].
Cấu thành tội phạm cơ bản là CTTP chứa đựng các dấu hiệu đặc trưng, có ở
mọi trường hợp phạm tội của một loại tội. Cấu thành tội phạm cơ bản thể hiện đầy
đủ tính nguy hiểm cho xã hội của loại tội phạm đó và cho phép phân biệt với loại tội
phạm khác và chứa đựng yếu tố định tội nhằm xác định tội phạm là hành vi đã đến
mức là tội phạm và phân biệt giữa tội phạm này với tội phạm khác. Đây là CTTP
được thể hiện ở Khoản 1 của đa số các tội phạm của BLHS năm 2015. Cấu thành tội
phạm có ý nghĩa rất quan trọng và là cơ sở pháp lý của định tội danh [51, tr.68,69].
* Định tội danh theo cấu thành tội phạm tăng nặng
Cấu thành tội phạm tăng nặng là cấu thành tội phạm bao gồm các dấu hiệu
định tội và những dấu hiệu khác phản ánh mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội
phạm tăng lên đáng kể.
Định tội danh theo CTTP tăng nặng là việc định tội danh theo các dấu hiệu
định khung tăng nặng hay nói cách khác đó là các tình tiết định khung tăng nặng
TNHS được quy định tại các Khoản 2, Khoản 3 và Khoản 4 Điều 175 BLHS năm

2015 của tội LDTNCĐTS.
Có thể nói, tội phạm được thực hiện bởi những con người cụ thể khác nhau
với những tình tiết, diễn biễn không giống nhau, để có căn cứ xác định mức độ nguy
hiểm của một tội phạm một cách chính xác và triệt để đáp ứng yêu cầu của nguyên
tắc phân hoá TNHS và cá thể hoá hình phạt, Điều 50 BLHS năm 2015 đã quy định
rõ một trong những căn cứ Toà án phải cân nhắc khi quyết định hình phạt là các tình
tiết giảm nhẹ và tăng nặng TNHS nhưng khái niệm tình tiết tăng nặng TNHS lại
chưa được nhà làm luật ghi nhận trong BLHS năm 2015. “Các tình tiết tăng nặng
trách nhiệm hình sự là những tình tiết trong một vụ án cụ thể làm tăng mức độ
nghiêm trọng của hành vi phạm tội và người phạm tội phải chịu một hình phạt
nghiêm khắc hơn trong một khung hình phạt”, theo tác giả Đinh Văn Quế [26, tr.
236,237];
15


Tòa án khi áp dụng các tình tiết tăng nặng đối với người phạm tội “phải làm
sáng tỏ ý thức chủ quan của người phạm tội để xét trường hợp này họ có phải thấy
trước hoặc có thể thấy trước được tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự hay
không, thì mới được áp dụng tình tiết tăng nặng đó đối với họ” [26, tr. 239];
Đối với tội phạm trong vụ án LDTNCĐTS có thể có một tội phạm hoặc
nhiều tội phạm, một người phạm tội hoặc nhiều người phạm tội, nên việc xác định
tình tiết định tội và tình tiết tăng nặng TNHS chỉ trong phạm vi một tội phạm cụ thể
mà không được sử dụng tình tiết định tội của tội phạm này làm tình tiết tăng nặng
TNHS của tội phạm khác cũng như tình tiết tăng nặng của người phạm tội này làm
tình tiết tăng nặng TNHS cho người phạm tội khác và có tính chất hỗ trợ cho các
dấu hiệu CTTP để xác định chính xác, rõ ràng, mức độ nguy hiểm cho xã hội của
tội phạm. Cấu thành tội phạm nói chung và cấu thành tội LDTNCĐTS theo quy
định tại Điều 175 BLHS năm 2015 với tình tiết tăng nặng TNHS thể hiện mối quan
hệ giữa tính khái quát của PLHS và tính cụ thể của hoạt động ADPLHS.
* Định tội danh trong trường hợp đặc biệt

Định tội danh trong trường hợp chuẩn bị phạm tội
Theo bình luận khoa học BLHS năm 2015 của TS. Trần Văn Biên và Đinh
Thế Hưng đã liệt kê các hành vi coi là hành vi chuẩn bị phạm tội gồm:“Tìm kiếm,
sửa soạn công cụ, phương tiện tạo ra những điều kiện khác để thực hiện tội phạm
và thành lập tham gia nhóm tội phạm” [4, tr. 26].
Chuẩn bị phạm tội là người phạm tội có những hành vi tạo ra điều kiện cần
thiết cho việc thực hiện tội phạm nhưng chưa bắt đầu thực hiện tội phạm đó và
không phải hành vi chuẩn bị phạm tội nào cũng bị truy cứu TNHS.
Về TNHS ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội:
Theo quy định của BLHS năm 1999 đã quy định người chuẩn bị phạm tội
chỉ phải chịu TNHS về tội rất nghiêm trọng, hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng, là giai
đoạn đầu của quá trình phạm tội. Nhưng tính chất, mức độ nguy hiểm cho hành vi
xã hội còn rất thấp, khách thể chưa bị xâm phạm, hậu quả chưa xảy ra. Để xác định
người chuẩn bị phạm tội đối với tội LDTNCĐTS có bị truy cứu TNHS hay không,
16


thì tại phần chung của BLHS năm 2015 quy định 02 điều luật về chế định “chuẩn bị
phạm tội”, đó là Điều 14 và Điều 57 BLHS năm 2015. Theo Điều 14 BLHS năm
2015, thì“chuẩn bị phạm tội là tìm kiếm, sửa soạn công cụ, phương tiện hoặc tạo ra
những điều kiện khác để thực hiện tội phạm hoặc thành lập, tham gia nhóm tội
phạm trừ trường hợp quy định tại Điều 109, điểm a khoản 2 Điều 113 hoặc điểm a
khoản 2 Điều 299”. Đồng thời, theo Khoản 2 Điều 14 BLHS năm 2015 đã liệt kê
các tội phạm mà người phạm tội phải chịu TNHS trong giai đoạn chuẩn bị phạm tội,
gồm 25 tội. Ngoài 25 trường hợp đã được liệt kê thì đối với các tội phạm khác mà
người phạm tội mới chuẩn bị phạm tội thì không bị truy cứu TNHS. Như vậy,
BLHS năm 2015 không có quy định giai đoạn chuẩn bị phạm tội đối với tội
LDTNCĐTS [29, tr. 17].
Định tội danh trong trường hợp phạm tội chưa đạt
Phạm tội chưa đạt là“cố ý thực hiện tội phạm nhưng không thực hiện được

đến cùng vì những nguyên nhân ngoài ý muốn của người phạm tội. Người phạm tội
chưa đạt phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm chưa đạt" [29, tr. 18].
Như vậy, phạm tội chưa đạt là giai đoạn thứ hai của quá trình phạm tội thể
hiện mức độ nguy hiểm cho xã hội cao hơn giai đoạn đầu là chuẩn bị phạm tội.
Trường hợp phạm tội chưa đat, chủ thể đã thực sự bắt tay vào việc thực hiện
tội phạm, các quan hệ xã hội được LHS xác lập và bảo vệ đã bắt đầu bị xâm hại,
hậu quả đã gây ra cho xã hội, nên mức độ nguy hiểm cho xã hội của trường hợp này
rõ ràng cao hơn so với trường hợp chuẩn bị phạm tội. Đồng thời, sẽ đặc biệt nguy
hiểm hơn nếu không có căn cứ “do nguyên nhân khách quan ngoài ý muốn” ngăn
chặn lại việc tiếp tục để hành vi phạm tội đó tiếp diễn [4, tr. 27, 28].
Như vậy, trường hợp phạm tội chưa đạt đối với tội LDTNCĐTS cũng được
áp dụng để xử lý TNHS, vì đây là tội phạm có cấu thành vật chất, người phạm tội đã
thực hiện hành vi khách quan hoặc hành vi đi liền trước hành vi khách quan là dùng
thủ đoạn gian dối để chiếm cho bằng được tài sản của chủ sở hữu hoặc người đang
quản lý tài sản tuy hậu quả chưa xảy ra, tội phạm không thực hiện đến cùng là chưa
hoàn thành vì những nguyên nhân ngoài ý muốn của tội phạm.
17


Định tội danh trong trường hợp đồng phạm
Tội phạm xảy ra có thể do một chủ thể thực hiện, cũng có thể nhiều chủ thể
khác nhau tham gia thực hiện.BLHS năm 1999 khẳng định kế thừa và phát triển chế
định đồng phạm trong các BLHS trước đó thể hiện“Đồng phạm là trường hợp có
hai người trở lên cố ý cùng thực hiện một tội phạm”. [29, tr.18]. Tại Điều 17 BLHS
năm 2015 lại tiếp tục quy định về đồng phạm nhưng đã bổ sung thêm Khoản 4
“người đồng phạm không phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi vượt quá của
người thực hiện”. Để xác định tội LDTNCĐTS khi thực hiện có đồng phạm hay
không có thể dựa vào dấu hiệu mặt chủ thể, chủ quan và mặt khách quan của tội
phạm đó. Khoa học luật hình sự và thực tiễn áp dụng các quy định của PLHS từ
trước đến nay đều dựa vào dấu hiệu chủ quan và khách quan để phân loại các hình

thức đồng phạm [4, tr. 30].
Định tội danh trong trường hợp phạm nhiều tội
Hiện nay khái niệm về phạm tội nhiều lần chưa được quy định tại Điều luật
cụ thể nào trong BLHS năm 2015, chỉ quy định tại Điều 55 về quyết định hình phạt
trong trường hợp phạm nhiều tội.
Phạm nhiều tội là trường hợp một người thực hiện hai tội phạm trở lên được
định tội danh độc lập và hai tội này chưa hết thời hiệu truy cứu TNHS và đưa ra xét
xử một lần. Phạm nhiều tội là trường hợp một chủ thể phạm từ hai tội trở lên, theo
đó mỗi một tội trong số đó được thực hiện ở những thời gian khác nhau hoặc khi
hành vi của người phạm tội có dấu hiệu của từ hai tội trở lên mà những tội ấy được
quy định tại các điều luật khác nhau hoặc các khoản khác nhau của cùng một điều
luật nếu các đối tượng của tội phạm khác nhau được quy định trong phần các tội
phạm của BLHS và người phạm tội chưa bị xét xử về tội nào trong số tội đó.
1.2. Cơ sở pháp lý của định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt
tài sản
1.2.1. Các quy định khác thuộc phần chung của Bộ luật hình sự được áp
dụng để định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
Phần chung của BLHS năm 2015 gồm 12 chương. Trong phần chung của
BLHS có các Điều luật liên quan đến việc định tội danh tội LDTNCĐTS như: Khái
18


niệm tội phạm (Điều 8); Tuổi chịu TNHS (Điều 12); Phạm tội chưa đạt (Điều
15)...phần chung BLHS không nêu hết các dấu hiệu cụ thể của bất kỳ một hành vi
phạm tội nào, nhưng khi định tội, nhà làm luật phải đồng thời dựa vào cả hai nhóm
quy phạm hình sự này vì, quy phạm phần chung và quy phạm phần các tội phạm có
mối liên hệ hữu cơ với nhau và định tội danh chính là sự lựa chọn một quy phạm cụ
thể đề cập đến một trường hợp cụ thể, vì thế việc áp dụng quy phạm phần các tội
phạm phải dựa trên những quy phạm chung và nguyên tắc được quy định ở phần
chung BLHS, các dấu hiệu của CTTP, về các giai đoạn của tội phạm; về đồng

phạm…Ngoài ra, khi cơ quan tiến hành tố tụng định tội danh tội LDTNCĐTS còn
phải căn cứ vào Nghị quyết số 01/NQ-HĐTP, hướng dẫn, áp dụng một số quy định
của BLHS năm 1999 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC, Thông tư số hướng dẫn
thi hành BLHS.
1.2.2. Quy định của Bộ luật hình sự về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài
sản
Tội phạm nói chung và tội LDTNCĐTSlà loại tội phạm thể hiện bản chất của
hành vi phạm tội. Cho nên khi xây dựng quy định này, nhà làm luật đã cụ thể hóa
tối đa các hành vi mà chủ thể phạm tội có thể thực hiện. Tại Điều 175 BLHS năm
2015 quy định như sau:
1. Người nào thực hiện một trong những hành vi sau đây chiếm đoạt tài sản
của người khác trị giá từ 4.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới
4.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt
hoặc đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168,
169, 170, 171, 172, 173, 174 và 290 của Bộ luật hình sự, chưa được xóa án tích mà
còn vi phạm hoặc tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại hoặc tài
sản có giá trị đặc biệt về mặt tinh thần đối với người bị hại, thì bị phạt cải tạo
không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người
khác bằng các hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản đó

19


×