Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

Tiểu luận Chân dung người làm nghiên cứu khoa học Tâm lý

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (199.26 KB, 14 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

KHOA TÂM LÍ HỌC

CHÂN DUNG
NGƯỜI NGHIÊN CỨU

KHOA HỌC TÂM LÍ

Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 12 năm 2018


MỤC LỤC
I. ĐẶT VẤN ĐỀ................................................................................................................3
II. PHÁC THẢO CHÂN DUNG NGƯỜI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC TÂM LÍ...........4
2.1. Hoạt động nghiên cứu khoa học.................................................................................4
2.2. Quá trình nghiên cứu khoa học..................................................................................4
2.3. Năng lực chung của người nghiên cứu khoa học tâm lí..............................................8
III. KẾT LUẬN................................................................................................................13
TÀI LIỆU THAM KHẢO.................................................................................................14

2


I.

ĐẶT VẤN ĐỀ
Với sự phát triển như vũ bão của xã hội nói chung và đời sống tâm lí nói riêng, kiến
thức khoa học tâm lí trở nên thật sự cần thiết để giải quyết một số vấn đề cấp bách trong
xã hội. Lựa chọn nghiên cứu khoa học tâm lí chính là lựa chọn con đường đi tìm tri thức
mới trên nền những tri thức có sẵn và ứng dụng vào thực tế để giải quyết các vấn đề của


xã hội. Tuy nhiên con đường đó không phải dễ thực hiện mà thường vấp phải một số khó
khăn lớn đòi hỏi người nghiên cứu khoa học tâm lí phải có năng lực và những kỹ năng để
giải quyết vấn đề. Đó là một số khó khăn về chọn lựa lĩnh vực nghiên cứu, các bước thực
hiện xác định đề tài, cách thu thập thông tin, cách viết một tổng quan nghiên cứu, cách
thực hiện một số phương pháp nghiên cứu định tính,... đối mặt và giải quyết tất cả những
điều này chính là người nghiên cứu đang vạch ra con đường nghiên cứu khoa học tâm lí
đúng đắn.
Chúng ta phải thừa nhận rằng thực tế nghiên cứu khoa học tâm lí cho thấy có rất
nhiều nghiên cứu chỉ tổng hợp dựa trên nền kiến thức có sẵn, hàm lượng tri thức mới rất ít
hoặc không thể ứng dụng vào thực tế một cách hiệu quả. Điều này không có nghĩa rằng
những người nghiên cứu khoa học tâm lí không nắm vững phương pháp nghiên cứu hay
việc lý luận nghiên cứu khoa học. Mà dần theo thời gian các di tích tâm lí dường như
được “bão hòa” trong nhận thức người nghiên cứu. Do đó việc chọn một đề tài đảm bảo
tính mới và tính cấp bách là một khó khăn không hề nhỏ đối với người nghiên cứu. Ngoài
ra, việc thu thập thông tin liên quan đến đề tài nghiên cứu cũng gặp một số trở ngại khó
khăn về kho dữ liệu tâm lí, hệ thống tài liệu và các công trình nghiên cứu khoa học đi
trước trong nước còn khá khiêm tốn. Còn những tri thức nghiên cứu khoa học tâm lí nước
ngoài khi ứng dụng vào Việt Nam lại không đảm bảo tính khả thi. Vấn đề nan giải của
người nghiên cứu là làm sao để tìm được một nguồn dữ liệu quan trọng và chính xác. Bên
cạnh đó việc nắm vững các phương pháp nghiên cứu cũng như các kỹ thuật trong nghiên
cứu là một yêu cầu tất yếu đối với một người nghiên cứu khoa học nói chung và nghiên
cứu khoa học tâm lí nói riêng.
Theo sự phát triển khoa học - kỹ thuật và xã hội việc nghiên cứu khoa học được mở
rộng và nâng cấp để đáp ứng nhu cầu thực tiễn trong các trường đại học. Trên thực tế các
trường đại học đã có sự thay đổi trong việc giảng dạy các bộ môn liên quan đến nghiên
cứu khoa học như: phương pháp nghiên cứu khoa học, thống kê ứng dụng, ảnh dụng cụ
nghiên cứu và phương pháp chọn mẫu ở trình độ đại học, cao học và tiến sĩ để đảm bảo
giáo dục đào tạo những người làm việc hiệu quả trong thế giới luôn phát triển [2, tr.03].
Tuy nhiên đối với sinh viên, rất cần có một cái nhìn từ tổng quan đến chi tiết về quá trình
thực hiện nghiên cứu cũng như việc làm của một người nghiên cứu khoa học. Đó là hệ

thống những mô tả mô phỏng cụ thể các bước của một quá trình nghiên cứu khoa học, đó
là một “bức tranh chân dung” toàn cảnh về thế giới nghiên cứu khoa học, là bức “tự họa”

3


của một người nghiên cứu khoa học. Những điều này sẽ là một nguồn dữ liệu quan trọng
cho sinh viên khi bắt tay làm nghiên cứu khoa học. Do đó có thể nói rằng, việc phác thảo
chân dung một người nghiên cứu khoa học tâm lí là việc làm thật sự cần thiết.
Đề tài báo cáo: “Chân dung người nghiên cứu khoa học tâm lí” tập trung miêu tả
công việc của một người nghiên cứu khoa học nói chung và khoa học tâm lí nói riêng.
Bằng việc tìm hiểu những thuận lợi cũng như những khó khăn của người nghiên cứu khoa
học tâm lí trong khi nghiên cứu, đề xuất những biện pháp khắc phục những khó khăn trở
ngại trong lúc thực hiện nghiên cứu. Từ đó hệ thống hóa thành một mô hình của một quá
trình nghiên cứu khoa học tâm lí có hiệu quả ứng dụng vào thực tế.
II. PHÁC THẢO CHÂN DUNG NGƯỜI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC TÂM LÍ
II.1.
Hoạt động nghiên cứu khoa học
Nghiên cứu khoa học là một hoạt động xã hội, hướng vào việc tìm kiếm những
điều mà khoa học chưa biết hoặc phát hiện bản chất sự vật, phát triển nhận thức khoa học
về thế giới; hoặc sáng tạo phương pháp mới và phương tiện kỹ thuật mới để cải tạo thế
giới [2, tr.09]. Như vậy, có thể nói người nghiên cứu khoa học tâm lí là người thực hiện
hoạt động nghiên cứu khoa học trong lĩnh vực tâm lí học.
Như mọi người đều biết, trong khoa học người ta phân biệt phương pháp luận và
phương pháp hệ của việc nghiên cứu. Phương pháp luận của việc nghiên cứu xã hội và xã
hội học cụ thể là những quy luật chung và những nguyên lý của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử. Phương pháp hệ mang tính chất cá biệt hơn và thực chất có tính
chất ứng dụng bởi vì nó liên quan đến kỹ thuật cụ thể những phương tiện, phương thức
thu lượm và tu chỉnh tài liệu thực tế. Phương pháp luận và phương pháp hệ liên quan chặt
chẽ với nhau. Trong các phương pháp hệ biểu hiện những nguyên lý phương pháp luận

chung. Phương pháp hệ phải bảo đảm về mặt kỹ thuật cho việc thực hiện phương pháp
luận trong việc nghiên cứu cụ thể. Phương pháp luận khoa học và phương pháp hệ đúng
đắn sẽ cho phép ta thu thập và phân tích được không phải những sự kiện ngẫu nhiên mà là
những sự kiện trong tổng thể của chúng và đó là cơ sở để rút ra những kết luận khách
quan, đúng đắn từ các sự kiện đó [5, tr.13].
II.2.

Quá trình nghiên cứu khoa học
II.2.1. Các bước của quá trình nghiên cứu
Nghiên cứu khoa học là một hoạt động tích cực, có hệ thống, có phương pháp và
mục đích rõ ràng. Do đó, cũng có một quy trình rõ ràng của quá trình nghiên cứu như sau:
- Bước 1: Xác định vấn đề nghiên cứu:
Công việc đầu tiên trong chuẩn bị nghiên cứu là tìm kiếm một đề tài nghiên cứu. Để
có được đề tài, thông thường người nghiên cứu phải bắt đầu từ việc lựa chọn vấn đề
nghiên cứu, bởi vì ít khi ta có ngay được một đề tài xác định và giới hạn khi ta cần. Như

4


thuật ngữ đã biết, "vấn đề" là một câu hỏi, một điều nghi vấn. Vấn đề nảy sinh do những
mâu thuẫn trong các hoạt động lý luận hay thực tiễn của con người.
Mỗi chuyên ngành khoa học đều có những vấn đề nghiên cứu riêng. Riêng đối với
khoa học tâm lí có những vấn đề nghiên cứu đặc thù, đòi hỏi người nghiên cứu phải có đủ
năng lực nhận thức để khái quát hóa vấn đề vĩ mô của xã hội sang vấn đề tâm lí ở tầm vi
mô của từng cá nhân. Ví dụ: Đối với hiện tượng nhiều học sinh THCS bỏ học chơi game
online, đây là thực tế xã hội cấp bách đáng quan tâm. Người nghiên cứu khái quát và đưa
về vấn đề trong tâm lí học, đó là hành vi nghiện để tiến hành tiếp cận dưới góc độ khoa
học.
Tuy nhiên, trong vô số các vấn đề nghiên cứu vi mô, cố nhiên người nghiên cứu
cùng một lúc không thể nghiên cứu tất cả, mà với khả năng cá nhân, họ chỉ có thể chọn

cho mình một vấn đề để nghiên cứu mà thôi. Ví dụ: Với hiện tượng đã đề cập, sẽ có người
quy về một trong các vấn đề trong khoa học tâm lí có liên quan như xu hướng khẳng định
bản thân, hành vi nghiện, kỹ năng giao tiếp xã hội, vai trò giáo dục của nhà trường, cái tôi
lý tưởng,…
Bên cạnh đó, khi lựa chọn vấn đề nghiên cứu nên theo các nguyên tắc căn bản sau:
+ Một là, người nghiên cứu phải ham thích thật sự về vấn đề mình muốn tìm hiểu.
+ Hai là, vấn đề được đề cập phải có giá trị. Một đề tài nghiên cứu được lựa chọn
phải là đề tài có giá trị, nghĩa là phải mới mẻ, có ích lợi cho nhiều người và có giá trị thực
tiễn. Đề tài mới là đề tài chưa được nghiên cứu trong quá khứ. Nhưng nói như vậy không
có nghĩa là ngăn cấm người nghiên cứu làm lại một công trình nghiên cứu đã có trong
nước hay ngoài nước với những yếu tố và hoàn cảnh khác hẳn với những công trình đã có
trước kia. Tính mới được phân thành ba cấp độ: hoàn toàn mới (khám phá và chứng minh
một vấn đề khoa học mà từ trước đến nay không được giải quyết), mới (khái quát hóa, hệ
thống hóa các tri thức, các kinh nghiệm đã có để hình thành lí luận, phương pháp, công
nghệ mới,... đem lại hiệu quả cao hơn trong nhận thức và hoạt động thực tiễn trong điều
kiện mới), mới ở phạm vi nhất định (cách chứng minh mới, luận giải sâu sắc hơn, bổ sung
hoàn chỉnh thêm, cụ thể hóa hoặc vận dụng vào điều kiện mới một vấn đề khoa học đã
được giải quyết về cơ bản.
+ Ba là, người nghiên cứu phải có khả năng đảm nhận vấn đề nghiên cứu. Tức là,
người nghiên cứu tự trả lời hàng loạt các câu hỏi sau: Ta đã được học đầy đủ về vấn đề dự
định nghiên cứu này hay chưa? Ta đã có đủ khả năng, phương tiện thu lượm và giải thích
các dữ kiện hay không? (Dữ kiện là những đôi tượng mà người nghiên cứu thu thập để
làm sáng tỏ vấn đề nghiên cứu) Nếu sự phân tích dữ kiện đòi hỏi sử dụng phương pháp
thống kê, thì ta đã được học về phương pháp này hay chưa? Đề tài nghiên cứu có đòi hỏi
thời gian và tài chính quá nhiều? Đã có người hướng dẫn hay chưa?,…

5


+ Bốn là, phải có những dữ kiện cần thiết về vấn đề nghiên cứu. Người nghiên cứu

phải hình dung xem mình có thể thu thập đủ dữ kiện cho vấn đề nghiên cứu của mình hay
không. Tuỳ theo tên đề tài mà dữ kiện có thể thay đổi. Ví dụ một sinh viên nghiên cứu về
“Kỹ năng học tập của sinh viên Đại học Sư phạm” mà trong tay lại không có một tài liệu
nào về kỹ năng hay kỹ năng học tập thì không thể nào tiến hành được.
Ngoài ra, để xác định được một đề tài phù hợp người nghiên cứu có thể thực hiện
một số kỹ thuật như: tiếp xúc và quan sát, nghe ý kiến người khác và thảo luận, tiếp tục
công trình nghiên cứu có sẵn, tìm hiểu những vấn đề thường tạo nên sự bất đồng ý kiến
trong quần chúng hay giáo viên,…
- Bước 2: Lượt sử vấn đề nghiên cứu:
Lịch sử của một khoa học nói chung và khoa học tâm lí nói riêng là một tiến trình có
quá khứ, hiện tại và tương lai. Người nghiên cứu là người viết tiếp trang sử của khoa học
ấy nên cần phải biết trước đây vấn đề mà mình dự định tìm hiểu, người ta đã nghiên cứu
đến đâu rồi, khái quát thành lý luận như thế nào. Người nghiên cứu sẽ dùng những lý luận
đã được kiểm chứng ấy làm cơ sở lý luận và lịch sử nghiên cứu vấn đề của mình. Nhờ
việc sưu tầm và khảo cứu những tài liệu này, người nghiên cứu có thể đưa ra những phát
kiến mới, tránh sự trùng lắp với các công trình nghiên cứu đã có, đồng thời có thể khảo
sát vấn đề dưới một nhãn quan rộng lớn hơn.
Không có biên giới cho lượt sử vấn đề nghiên cứu, mà chỉ có giới hạn về năng lực
tìm kiếm thông tin của người nghiên cứu. Thông tin liên quan đến vấn đề nghiên cứu có
thể đến từ nhiều nguồn khác nhau (trong nước, ngoài nước), từ nhiều thể loại khác nhau
(sách, báo khoa học, công trình nghiên cứu,…), nhiều người khác nhau (tiến sĩ, chuyên
gia đầu ngành, giới chuyên môn), nhiều kênh khác nhau (tài liệu mềm - online, tài liệu
cứng - offline),…
- Bước 3: Thành lập giả thuyết nghiên cứu:
Sau khi phân tích và suy nghĩ về vấn đề lựa chọn, sau khi quan sát các hiện tượng
liên hệ, sau khi tham khảo các kinh nghiệm và tài liệu đã có để tìm ra những giải pháp có
thể chấp nhận được, người nghiên cứu khoa học có thể đưa ra một hay nhiều giả thuyết.
Nghiên cứu khoa học là đi tìm câu trả lời cho câu hỏi ẩn chứa trong tên đề tài. Giả thuyết
có vai trò định hướng, dẫn dắt đối với người nghiên cứu.
Một giả thuyết là một phát biểu có tính cách ức đoán, một giải pháp đưa ra để thử

nghiệm về mối liên hệ giữa hai hay nhiều biến số hoặc hiện tượng quan sát hay có khi

6


không thể quan sát trực tiếp được. F. Engels(1) gọi giả thuyết là "hình thức phát triển của
khoa học tự nhiên còn suy nghĩ".
Giả thuyết thường được phát biểu dưới dạng: Nếu cái này xảy ra thì sẽ có kết quả
như thế kia. Đến đây người nghiên cứu suy luận bằng phép diễn dịch cho rằng nếu giả
thuyết là đúng thì một số hệ quả nhất định sẽ xảy ra tiếp theo đó (hay cũng có thể quan sát
được). Trong lối suy luận thông thường ta vẫn đi từ các sự kiện đặc biệt đến những phát
biểu tổng quát để giải thích các sự kiện ấy, rồi từ những phát biểu tổng quát này ta lại tìm
kiếm các sự kiện để ủng hộ cho các giả thuyết ấy. Ta cứ tiếp tục suy diễn bằng lối qui nạp
hay diễn dịch, qua lại từ cái này đến cái kia như vậy cho đến khi xác lập được một lối giải
thích vững vàng cho các sự kiện. Một vài trường hợp vấn đề có thể rắc rối hơn nhiều và
phải giải quyết vấn đề một cách có hệ thống hơn [3, tr.45].
- Bước 4: Chọn phương pháp và tiến hành nghiên cứu:
+ Thiết lập định nghĩa, khái niệm công cụ
+ Vận dụng và kiểm soát các biến số thu về
+ Xây dựng mô hình nghiên cứu
+ Thu thập và xử lý sơ bộ số liệu thống kê
- Bước 5: Kiểm nghiệm giả thuyết:
Sau khi có kết quả thu thập từ nhiều nguồn khác nhau, từ nhiều phương pháp thu
thập khác nhau. Người nghiên cứu bắt đầu xem xét các số liệu đã thống kê một cách có hệ
thống để trả lời cho câu hỏi những số liệu này nói lên điều gì, những cứ liệu đấy minh
chứng được gì cho giả thuyết nghiên cứu, liên quan gì đến đối tượng nghiên cứu, mối
tương quan giữa các chỉ báo nghiên cứu như thế nào?,... Từ những dữ liệu thu thập được
người nghiên cứu bắt đầu khái quát vấn đề, bình luận thực trạng, phân tích những dữ kiện
mà số liệu mang lại. Cuối cùng người nghiên cứu đi đến kết luận sơ bộ về giả thiết nghiên
cứu so với kết quả thu thập được từ những số liệu.

- Bước 6: Viết báo cáo nghiên cứu.
Việc viết báo cáo nghiên cứu tuân thủ theo một quy định bắt buộc trong nghiên cứu
khoa học nói chung và nghiên cứu khoa học tâm lí nói riêng. Bao gồm những quy tắc viết
một bài báo cáo nghiên cứu nhiều đề cương nghiên cứu, cơ sở lý luận, phương pháp
nghiên cứu, tài liệu tham khảo,... Trong khoa học tâm lí người nghiên cứu thường viết báo
cáo nghiên cứu khoa học có cấu trúc tuân thủ nghiêm ngặt theo phong cách viết và định
1
Friedrich Engels nhà lý luận chính trị, là một triết gia và nhà khoa học người Đức thế kỷ 19, người cùng với
Karl Marx đã sáng lập và phát triển chủ nghĩa cộng sản và là lãnh tụ của phong trào công nhân thế giới và Quốc tế I.

7


dạng chuẩn của APA của Hiệp hội Tâm lí học Hoa Kỳ, từ lối hành văn cho đến cách trích
dẫn tài liệu tham khảo.
II.2.2. Phân bổ thời gian cho quá trình nghiên cứu
Nghiên cứu khoa học là một quá trình dài đòi hỏi người nghiên cứu phải dành thời
gian và tâm huyết nhiều cho những những thao tác trong hoạt động nghiên cứu. Vì vậy
việc phân đông đo đếm thời gian cho những những thao tác trong hoạt động nghiên cứu
cần được sắp xếp một cách hiệu quả. Vì nếu nếu có sự sắp xếp không hài hòa giữa các
khoảng thời gian dẫn đến quá trình nghiên cứu bị gián đoạn hoặc trì trệ, kết quả nghiên
cứu không được công bố kịp thời hoặc thậm chí bị hủy và phải bồi thường hợp đồng
nghiên cứu(2).
Để bố trí thời lượng phù hợp cho các thao tác trong hoạt động nghiên cứu người
nghiên cứu cần lưu ý:
+ Một là, xây dựng một kế hoạch nghiên cứu với những mô tả chi tiết cho một hoạt
động nghiên cứu bao gồm nhiều thao tác và hành động cụ thể.
+ Hai là, căn cứ vào kế hoạch nghiên cứu xem xét tính nặng nhẹ về khối lượng công
việc đảm bảo vừa khoảng thời gian để hoàn thành công việc.
+ Ba là, phân bổ tổng thời lượng dành cho cả công trình nghiên cứu một cách phù

hợp theo từng khối lượng công việc cụ thể.
II.2.3. Quy trình lựa chọn và tiến hành thực hiện phương pháp nghiên cứu
II.3.
Năng lực chung của người nghiên cứu khoa học tâm lí
II.3.1. Người nghiên cứu khoa học tâm lí bao gồm nhiều đối tượng khác nhau
Nghiên cứu khoa học không chỉ là một hoạt động mang tính học thuật, nghiên cứu
khoa học là một hoạt động có tính xã hội cao hướng đến nhiều đối tượng nghiên cứu khác
nhau, mỗi đối tượng nghiên cứu khác nhau đều có cách tiếp cận khác nhau. Vì vậy ở mỗi
lĩnh vực khác nhau sẽ có những loại nghiên cứu khoa học khác nhau gắng với vai trò của
người nghiên cứu khác nhau. Có thể tạm trả lời cho câu hỏi “ai sẽ là những người nghiên
cứu khoa học?” bằng một số cách phân loại sau:
a) Phân loại theo vai trò xã hội của người nghiên cứu có những người nghiên cứu là
học sinh, học viên, sinh viên đến giảng viên hoặc các người nghiên cứu chuyên
ngành là thạc sĩ, tiến sĩ, nghiên cứu sinh.
b) Phân loại theo hình thức tồn tại của sản phẩm nghiên cứu có các mức độ về kiến
thức và khối lượng nội dung khác nhau từ thấp đến cao như tiểu luận, luận văn,
luận án, bài báo khoa học, công trình nghiên cứu,…
c) Phân loại theo phương pháp và cách tiếp cận khi nghiên cứu có nhà nghiên cứu
2
Hợp đồng nghiên cứu là bản ký kết giữa đơn vị bảo trợ thực hiện nghiên cứu và người nghiên cứu, bao gồm
những thỏa thuận về quyền lợi mà người nghiên cứu được đảm bảo cũng như người bảo trợ thực hiện nghiên cứu
nhận được sau khi công trình nghiên cứu kết thúc.

8


lý luận, thực trạng, ứng dụng,..
d) Phân loại theo lĩnh vực nghiên cứu có người nghiên cứu về đối tượng thuộc lĩnh
vực tự nhiên, lĩnh vực xã hội, và các đối tượng trong tâm lí – đặc thù,…
II.3.2. Hiểu biết và vận dụng hiệu quả những kiến thức cơ bản của nghiên cứu

khoa học tâm lí
a) Nhận thức rõ mục đích của việc nghiên cứu:
Mục đích của việc nghiên cứu khoa học nói chung và tâm lí nói riêng không phải là
một bài báo cáo khoa học hoặc một sản phẩm mang tính nghệ thuật về nội dung. Mà kết
quả của nghiên cứu khoa học chính là hàm lượng kiến thức mới mang lại hoặc những
phương pháp mới, phương tiện kỹ thuật mới. Từ đó người nghiên cứu xác định trên tinh
thần không phải tiến hành hàng loạt hoạt động nghiên cứu trong một khoảng thời gian
nhất định sau đó ra được kết quả nghiên cứu thì dừng hẵn, không tiến hành tiếp những
khảo sát mang tính chất hậu nghiên cứu để có được những dữ kiện quan trọng củng cố
thêm cho kết quả nghiên cứu.
Mục đích nghiên cứu phải được xác định ngay từ đầu khi bắt tay làm nhiệm vụ.
Mục đích nghiên cứu là kim chỉ nam trong suốt quá trình nghiên cứu, mặc nhiên không
thể thay đổi mục đích trong suốt quá trình nghiên cứu. Cá biệt đối với sinh viên, vấn đề về
khoảng thời gian và cách thức vận hành trong nghiên cứu gây khó khăn trong việc tuân
thủ mục đích ban đầu của việc nghiên cứu. Do đó có đề tài nghiên cứu đã phải thay đổi
một số thành phần của mục đích nghiên cứu ban đầu như: đối tượng nghiên cứu, phạm vi
nghiên cứu dẫn đến kết quả nghiên cứu không như mong đợi [4, tr.2].
Vì vậy người nghiên cứu cần phải nhận thức rõ mục đích của việc nghiên cứu không
phải là hoàn thành một bài báo cáo khoa học một cách đối phó mà là tìm ra được tri thức
mới hoặc những phương pháp mới, phương tiện kỹ thuật mới có tính ứng dụng.
b) Kết quả nghiên cứu có vai trò quan trọng, cần phải chính xác:
Trong lúc thực hiện các hoạt động nghiên cứu sẽ có những khó khăn liên quan đến
vấn đề thu thập số liệu nghiên cứu, thực hiện phương pháp nghiên cứu, tiếp cận khách thể
nghiên cứu, làm rõ đối tượng nghiên cứu,... Ví dụ như trong phương pháp điều tra bằng
bảng hỏi. Trong lúc điều tra, người nghiên cứu phát hiện một vài chỉ báo có vấn đề mà
chưa được phát hiện trước đó. Những chỉ báo này có thể không phát huy được tác dụng
như mong đợi thậm chí có thể ảnh hưởng đến kết quả của các chỉ báo liên quan khác. Khi
đó cần tiến hành những thao tác điều chỉnh ngay lập tức và bắt đầu lại hoạt động điều tra
từ bước ban đầu.
Cũng với đối tượng sinh viên, hoạt động nghiên cứu chưa được đầu tư đúng mức và

thận trọng. Một số yếu tố khách quan về điều kiện vật chất, tinh thần của người nghiên
cứu mà những lỗi trong lúc thu thập số liệu nghiên cứu, mặc nhiên được bỏ qua và không
có điều chỉnh. Hoặc người nghiên cứu chưa phát hiện hoặc người nghiên cứu cố tình bỏ
qua. Đây là một vấn nạn tai hại trong nghiên cứu khoa học, dẫn đến kết quả nghiên cứu

9


không có tính trung thực, sát với thực tiễn. Từ đó những biện pháp, giải pháp đề xuất,
kiến nghị cũng mang tính chủ quan và không có căn cứ chính xác từ thực tiễn.
Kết quả nghiên cứu là kết tinh của quá trình nghiên cứu, đóng vai trò quan trọng và
cần phải trung thực.
e) Những phát hiện mới, phát hiện phát sinh, điều còn thiếu sót là cứ liệu quan
trọng trong quá trình nghiên cứu khoa học:
Trong suốt quá trình dài của hoạt động nghiên cứu, người nghiên cứu thực hiện
nhiều thao tác tác động đến khách thể nghiên cứu, đối tượng nghiên cứu, và những cứ liệu
nghiên cứu. do đó có thể có sự xuất hiện của một trong hai vấn đề sau.
+ Một là, phát hiện những những điều không đúng như dự tính ban đầu của người
nghiên cứu trước khi bắt tay làm nghiên cứu hoặc thậm chí là những sai lệch từ thực tiễn
so với những gì được ghi trong giả thuyết nghiên cứu. Khi ấy người nghiên cứu cần phải
tập trung suy xét những những vấn đề đang mắc phải, lý do dẫn đến những sai lầm hoặc
thiếu sót. Chứ không thể ngay lập tức tìm cách thay đổi giả thuyết nghiên cứu cho phù
hợp với thực tiễn mà chưa tìm hiểu tường tận.
+ Hai là, sau khi giả thuyết nghiên cứu được kiểm định, phù hợp như những dự tính
ban đầu của người nghiên cứu. Tuy nhiên phát hiện thêm một số vấn đề mới, mang tính
khám phá hoặc một phát hiện mới liên quan đến đối tượng nghiên cứu, khách thể nghiên
cứu. Người nghiên cứu không không thể bỏ qua những cứ liệu quan trọng này, mà phải
giữ lại cho các nghiên cứu về sau hoặc có thể mở rộng ngay trong công trình nghiên cứu
của mình.


f) Đối tượng tiếp cận của khoa học tâm lí có tính đặc thù:
Khác với các ngành khoa học khác, đối tượng nghiên cứu trong khoa học tâm lí là
các vấn đề mang tính xã hội. Các vấn đề tâm lí thuộc về con người do đó người nghiên
cứu cần phải ảnh trọng trong việc lựa chọn đối tượng nghiên cứu. Ngoài ra một điểm lưu
ý cực kỳ quan trọng đó là cách thức tiếp cận đối tượng nghiên cứu mà người nghiên cứu
lựa chọn quyết định đến kết quả của quá trình nghiên cứu. Vì đối với từng nhóm khách
thể mang đối tượng nghiên cứu khác nhau cần có những phương pháp tiếp cận khác nhau
để đạt được hiệu quả nghiên cứu.
II.3.3. Tôn trọng, nghiêm túc và tuân thủ các quy tắc trong nghiên cứu khoa học
tâm lí
a) Chấp nhận không điều kiện kết quả nghiên cứu là một thực tế khách quan:
Như đã đề cập kết quả nghiên cứu là một cách tin của cả quá trình nghiên cứu, người
nghiên cứu cần phải chấp nhận kết quả nghiên cứu dù có phù hợp với những dự định ban
đầu của người nghiên cứu hay không.

10


Tuy nhiên nếu xin phép về những dự định ban đầu của người nghiên cứu là có căn
cứ, và những sai lệch từ kết quả nghiên cứu là rất lớn so với những dự định ban đầu đó thì
người nghiên cứu có quyền đặt nghi vấn. Tuy nhiên những nghi vấn không phải là về tính
xác thực của kết quả nghiên cứu, mà phải nghi vấn về những vấn đề liên quan đến phương
pháp nghiên cứu, công cụ nghiên cứu, cách tiếp cận khách thể nghiên cứu,...
g) Tôn trọng những phát hiện mới, phát hiện phát sinh như là một cách để người
nghiên cứu mở rộng nhận thức hoặc làm nền tảng để những công trình nghiên cứu tiếp
theo.
h) Trung thực trong kết quả thu được từ các phương pháp nghiên cứu.
Tức là người nghiên cứu không được đặt những suy nghĩ chủ quan, phiến diện về
khách thể chứa đựng đối tượng nghiên cứu trong lúc thực hiện các phương pháp thu thập
số liệu. Phải nhìn nhận những sai sót trong phương pháp thu thập số liệu như một thực tế

khách quan và không phải lúc nào việc thu thập số liệu cũng đúng như mong đợi.
Ngoài ra trong lúc xử lý số liệu thống kê, người nghiên cứu phát hiện một số sai sót
trong hệ thống số liệu thu về và tiến hành sửa đổi, chỉnh sửa. Đây là một việc làm tai hại
khiến cho số liệu bị ảo và không đúng với thực tế. Việc làm thiếu trung thực này dẫn đến
kết quả nghiên cứu có thể sai lệch so với thực tế, hậu quả khôn lường.
i) Tuân thủ các bước thực hiện của quá trình nghiên cứu, người nghiên cứu thực hiện
một cách trình tự có khoa học từ việc chọn đề tài nghiên cứu, xác định mục đích, nhiệm
vụ, giả thiết nghiên cứu cho đến việc chọn những phương pháp và tiến hành nghiên cứu,
rồi xử lý số liệu và đi đến kết luận cuối cùng. Quy trình này diễn ra tuần tự và không
được xáo trộn.
j) Thận trọng khi tiếp cận đối tượng nghiên cứu đặc thù.
Các đối tượng nghiên cứu đặc thù trong tâm lí thường là các vấn đề liên quan đến
con người. Do đó nếu bản thân người nghiên cứu gặp phải các vấn đề tâm lí liên quan, có
thể sẽ bị ảnh hưởng bởi quan điểm chủ quan cá nhân. Hoặc thậm chí bị các vấn đề phát
sinh trong lúc tiếp cận đối tượng nghiên cứu tác động gây những tổn thương tâm lí cho
người nghiên cứu. Vì vậy, người nghiên cứu cần tránh lựa chọn các đối tượng nghiên cứu
đã từng gây ra những tổn thương tâm lí cho cá nhân, không lựa chọn đối tượng nghiên
cứu ngoài năng lực tiếp cận, thích ứng của bản thân người nghiên cứu.
II.3.4. Tiến hành hoạt động nghiên cứu có mục đích, phương pháp và chứng minh
được hiệu quả
a) Lên kế hoạch nghiên cứu.
Kế hoạch nghiên cứu là một bản thông tin chi tiết những hoạt động diễn ra trong
suốt quá trình nghiên cứu. Nó bao gồm những mô tả về hoạt động cụ thể diễn ra về thời
gian, cách thức thực hiện, kết quả dự tính, phân công thực hiện và khối lượng thực hiện.
Việc lập kết quả nghiên cứu giúp cho người nghiên cứu có cái nhìn tổng quan ban
đầu về quá trình nghiên cứu. Căn cứ vào kế hoạch nghiên cứu người nghiên cứu thực hiện
các hoạt động nghiên cứu diễn ra một cách dễ dàng và trơn tru.
11



k) Xác định phương pháp và cách thức thực hiện rõ ràng giúp người nghiên cứu có
những cái nhìn đầu tiên về đối tượng nghiên cứu, giúp cho việc thực thi phương
pháp nghiên cứu phát huy được hiệu quả mong đợi.
l) Kiểm tra và đánh giá tức thời hiệu quả của phương pháp đang thực hiện để điều
chỉnh kịp thời.
m) Sử dụng hiệu quả thiết bị công nghệ, kỹ thuật. Người nghiên cứu cần có những
kiến thức căn bản về máy tính và các công cụ xử lý thống kê để phục vụ quá
trình phân tích kết quả nghiên cứu.

12


III. KẾT LUẬN
Bài báo cáo phát thảo chân dung người làm nghiên cứu khoa học một cách chân
thực và làm nguồn cứ liệu quan trọng để sinh viên Tâm lí học nói riêng và sinh viên có ý
định thực hiện nghiên cứu nói chung. Có thể tóm tắt bài báo cáo với những luận điểm sau:
+ Một là, người nghiên cứu cần nhận thức đúng đắng về hoạt động nghiên cứu khoa
học. Nghiên cứu khoa học không đơn thuần là một hoạt động học thuật mà nó là một hoạt
động xã hội nhắm đến việc phát hiện ra kiến thức mới, phương pháp mới, kỹ thuật mới
trong các lĩnh vực đặc biệt là khoa học tâm lí để ứng dụng giải quyết các vấn đề của xã
hội.
+ Hai là, người nghiên cứu cần có thái độ tôn trọng và trung thực với kết quả nghiên
cứu khoa học.
+ Ba là, người nghiên cứu phải tuân thủ quy trình nghiên cứu, hệ thống hóa những
thao tác, hành động cụ thể trong suốt quá trình nghiên cứu. Trang bị phương pháp, kỹ
năng công cụ hỗ trợ cho quá trình nghiên cứu.

13



TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Vũ Cao Đàm (1996). Phương pháp luận nghiên cứu khoa học. NXB Khoa học và Kỹ
thuật. Hà Nội.
2. Đoàn Văn Điều (2016). Giáo trình Phương pháp nghiên cứu khoa học. Nhà xuất bản
Đại học Sư phạm Tp. Hồ Chí Minh.
3. Ngô Đình Qua (2010). Phương pháp nghiên cứu khoa học. Nhà xuất bản Đại học Sư
phạm Tp. Hồ Chí Minh.
4. Tạp chí Nghiên cứu Giáo dục (1974). Bước đầu tìm hiểu phương pháp nghiên cứu
khoa học Giáo dục. Tạp chí Nghiên cứu Giáo dục Xuất bản. Hà Nội.
5. Dương Thiệu Tống (1974). Phương pháp nghiên cứu Giáo dục và Tâm lí. NXB Khoa
học Xã hội.

14



×