Tải bản đầy đủ (.pdf) (77 trang)

Luận văn trách nhiệm hình sự đối với tội xâm phạm sức khỏe của người khác theo pháp luật hình sự việt nam từ thự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (548.47 KB, 77 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
=============

NGUYỄN ĐỨC YÊN

TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ ĐỐI VỚI TỘI XÂM PHẠM SỨC KHỎE
CỦA NGƯỜI KHÁC THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ

Hà Nội, 2019


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
=============

NGUYỄN ĐỨC YÊN

TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ ĐỐI VỚI TỘI XÂM PHẠM SỨC KHỎE
CỦA NGƯỜI KHÁC THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ
THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

Ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 8.38.01.04

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. NGUYỄN VĂN HIỂN



Hà Nội, 2019


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi, được
thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của TS. Nguyễn Văn Hiển. Các số
liệu, kết luận nghiên cứu được trình bày trong luận văn là hoàn toàn trung
thực. Nếu không đúng như đã nêu trên, tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về
đề tài của mình.
Người cam đoan

Nguyễn Đức Yên


LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình học tập, nghiên cứu đề tài: "Trách nhiệm hình sự đối với
tội xâm phạm sức khỏe của người khác theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực
tiễn Thành phố Hải Phòng". Tôi đã nhận được sự giúp đỡ, chỉ bảo nhiệt tình của
các thầy, cô Học viện khoa học xã hội để hoàn thành luận văn này.
Với tình cảm chân thành, tôi bày tỏ lòng biết ơn đối với Ban giám đốc Học
viện khoa học xã hội, các thầy giáo, cô giáo đã tham gia giảng dạy, quản lý và giúp
đỡ tôi trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu. Tôi xin bày tỏ sự biết ơn đặc biệt
đến Tiến sĩ Nguyễn Văn Hiển Viện trưởng viện Nghiên cứu lập pháp thuộc Ủy ban
thường vụ Quốc hội, người đã trực tiếp hướng dẫn, giúp đỡ về kiến thức, tài liệu và
phương pháp để tôi hoàn thành đề tài nghiên cứu khoa học này.
Tôi cũng chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè, đồng nghiệp đã động viên, cổ
vũ, khích lệ và giúp đỡ tôi trong suốt thời gian qua.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng trong suốt quá trình thực hiện đề tài, song vẫn
còn những mặt hạn chế, thiếu sót. Tôi rất mong nhận được ý kiến đóng góp và sự

chỉ dẫn của các thầy, cô giáo và các đồng nghiệp./.
Xin chân thành cảm ơn!


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ
ĐỐI VỚI TỘI XÂM PHẠM SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC......................... 8
1.1. Khái niệm, đặc điểm, cơ sở của trách nhiệm hình sự đối với tội xâm

phạm sức khỏe của người khác ................................................................... 8
1.2. Miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt, thời hiệu truy cứu trách
nhiệm hình sự đối với tội xâm phạm sức khỏe của người khác theo
pháp luật hình sự Việt Nam ...................................................................... 20
1.3. Những trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự đối với tội xâm
phạm sức khỏe của người khác theo pháp luật hình sự Việt Nam .......... 26
1.4. Phân biệt các quy định trách nhiệm hình sự về tội xâm phạm sức
khỏe của người khác với các tội xâm phạm tính mạng, nhân phẩm, danh
dự của con người trong pháp luật hình sự Việt Nam hiện nay ................. 28
Chương 2: THỰC TIỄN ÁP DỤNG TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ ĐỐI VỚI
TỘI XÂM PHẠM SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC THEO PHÁP LUẬT
HÌNH SỰ VIỆT NAM TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG ............. 33
2.1. Khái quát về thực tiễn tình hình tội phạm của tội xâm phạm sức

khỏe của người khác theo pháp luật hình sự Việt Nam tại Thành phố
Hải Phòng .................................................................................................. 33
2.2. Thực tiễn áp dụng trách nhiệm hình sự đối với tội xâm phạm sức
khỏe của người khác theo pháp luật hình sự Việt Nam tại Thành phố
Hải Phòng .................................................................................................. 36
2.3. Một số hạn chế, bất cập và nguyên nhân của hạn chế, bất cập trong áp

dụng trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm sức khỏe của người
khác theo pháp luật hình sự Việt Nam tại Thành phố Hải Phòng.................. 42


Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH
PHÁP LUẬT VÀ ÁP DỤNG TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ ĐỐI VỚI TỘI
XÂM PHẠM SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC TRONG PHÁP LUẬT
HÌNH SỰ VIỆT NAM HIỆN NAY ....................................................................... 58
3.1. Về phương hướng hoàn thiện các quy định của pháp luật về trách

nhiệm hình sự đối với tội xâm phạm sức khỏe của người khác trong
pháp luật hình sự Việt Nam hiện nay........................................................ 58
3.2. Các giải pháp áp dụng đúng các quy định về trách nhiệm hình sự
đối với tội xâm phạm sức khỏe của người khác trong pháp luật hình sự
Việt Nam hiện nay .................................................................................... 60
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 66
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................... 67


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLHS

Bộ luật hình sự

BLTTHS

Bộ luật tố tụng hình sự

PLHS


Pháp luật hình sự

TTHS

Tố tụng hình sự

TAND

Tòa án nhân dân

TANDTC

Tòa án nhân dân tối cao

VKS

Viện kiểm sát


DANH MỤC BẢNG

Bảng 2.1: Tình hình các tội xâm phạm sức khỏe của người khác đã khởi
tố, truy tố và xét xử trên địa bàn Thành phố Hải Phòng, giai đoạn
2015 đến 6 tháng đầu năm 2019 ......................................................... 37
Bảng 2.2: Các hình phạt được áp dụng đối với các tội xâm phạm sức khỏe
của người khác trên địa bàn thành phố Hải Phòng (từ 2015 đến 6
tháng đầu năm 2019) ........................................................................... 39
Bảng 2.3: Cơ cấu hình phạt tù có thời hạn đối với các tội xâm phạm sức
khỏe của người khác trên địa bàn Thành phố Hải Phòng (2015 đến
6 tháng đầu năm 2019 ) ....................................................................... 40



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Sức khỏe con người luôn là một bộ phận cấu thành hết sức quan trọng
của quyền con người. Đây là một trong những phạm vi thiêng liêng, là đối
tượng bảo vệ không chỉ của pháp luật quốc gia mà còn là đối tượng quan tâm
của pháp luật quốc tế. Thực tế đó được thể hiện trong nhiều văn kiện quốc tế
như: Hiến chương của Tổ chức Y tế thế giới năm 1946, Tuyên ngôn quốc tế
về quyền con người của Liên hiệp quốc năm 1948. Đối với pháp luật nước ta,
tất cả các bản Hiến pháp 1946, 1959, 1980, 1992 và Hiến pháp 2013 luôn
dành một chương trang trọng để quy định về phạm vi quyền này. Thậm chí
trong Hiến pháp 2013 của nước ta, Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ
bản của công dân còn nhận được sự quan tâm đặc biệt hơn nữa khi được
trang trọng đưa lên Chương 2 thay cho vị trí ở Chương 5 như của Hiến pháp
1980 và Hiến pháp 1992. Với những thực tế đó cho thấy rằng, khi xã hội càng
phát triển thì quyền con người trong đó có quyền được pháp luật bảo hộ về
sức khỏe [21] càng trở thành những đối tượng được pháp luật ưu tiên bảo vệ.
Và cũng không phải ngẫu nhiên là, kể từ khi bộ luật hình sự đầu tiên của nước
ta ra đời (1985) thì khách thể “sức khỏe” con người luôn là đối tượng được
bảo vệ trong tất cả các Bộ luật hình sự từ trước tới nay. Đối với Bộ luật hình
sự năm 2015 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, “sức khỏe” cùng
với các khách thể là: tính mạng, danh dự, nhân phẩm, cũng đã chiếm riêng
một chương của Bộ luật (Chương XIV) với tên gọi: trách nhiệm hình sự đối
với các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của con
người. Trong đó khách thể là “sức khỏe” là chiếm vị trí quan trọng thứ hai sau
khách thể “tính mạng” với sự điều chỉnh của 7 điều luật (từ Điều 134 đến
Điều 140). Điều đó đã nói lên tầm quan trọng của “sức khỏe” con người trong
pháp luật hình sự nói riêng và trong đời sống xã hội nói chung.


1


Thực tế nước ta hiện nay, mặc dù pháp luật hình sự đã ngày càng quy
định chặt chẽ hơn trong việc bảo vệ sức khỏe của con người. Tuy nhiên, tình
hình tội phạm của các tội xâm phạm về sức khỏe của người khác vẫn diễn
biến ngày càng phức tạp, nhiều phương thức phạm tội mới tinh vi, xảo quyệt
hơn như phạm tội có tổ chức, thuê, mướn các băng đảng, đối tượng chuyên
nghiệp, các đối tượng du đãng, nghiện hút.., vì nhiều mục đích khác nhau đã
khiến cho diễn biến của tội phạm này ngày càng trở nên phức tạp, khó lường.
Đặc biệt đối với địa bàn Thành phố Hải Phòng, với đặc thù của kinh tế cảng
cùng với sự phát triển ngày càng đa dạng của nhiều ngành khác, nơi có điều
kiện tự nhiên thuận lợi cả trong giao thông và giao thương tới các vùng trong
và ngoài nước cùng với sự biến động lớn về mặt dân cư di trú đã trở thành
môi trường lý tưởng cho các tội phạm nói chung và các tội phạm xâm phạm
sức khỏe của người khác nói riêng phát triển. Và thực tế là, Hải Phòng từ
nhiều năm nay cũng đã trở thành một trong những địa phương nổi tiếng cả nước
về tình hình tội phạm sử dụng vũ lực trong đó có các tội phạm xâm phạm sức
khỏe của người khác. Với những vấn đề lý luận có tính thực tiễn trên, học viên
thấy rằng việc lựa chọn đề tài: “Trách nhiệm hình sự đối với tội xâm phạm sức
khỏe của người khác theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn Thành phố
Hải Phòng” để nghiên cứu ở cấp độ luận văn cao học là cần thiết.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Với tầm quan trọng của sức khỏe con người trong pháp luật hình sự,
việc đấu tranh phòng chống các tội gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
là một lĩnh vực nhận được nhiều sự quan tâm của các nhà khoa học nước ta,
có thể kể đến các tác giả như: Võ Khánh Vinh, Đào Trí Úc, Lê Cảm, Nguyễn
Ngọc Hòa, Phùng Thế Vắc, Trần Văn Luyện, Phạm Thanh Bình, Nguyễn Đức
Mai, Nguyễn Sỹ Đại, Nguyễn Hữu Cầu…
Các giáo trình, sách chuyên khảo, liên quan đến đề tài, có thể kể đến

những công trình sau: "Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần các tội

2


phạm), của tác giả Võ Khánh Vinh (chủ biên), Nxb Công an nhân dân, Hà
Nội, 2003; tác giả Nguyễn Ngọc Hòa, "Chương IV- Các tội xâm phạm tính
mạng, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm của con người trong Giáo trình Luật
hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm)", tập thể tác giả do tác giả Lê Cảm chủ
biên, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2003; "Các tội xâm phạm tính mạng, sức
khỏe, danh dự và nhân phẩm của con người" của tác giả Trần Văn Luyện,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000; "Bình luận khoa học Bộ luật hình sự.
Tập 1, Các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con
người: Bình luận chuyên sâu", của tác giả Đinh Văn Quế, Nxb Thành phố Hồ
Chí Minh, 2002; v.v...
Một số bài tạp chí khoa học liên quan đến đề tài mà tác giả có dịp tiếp
cận như: "Những điểm mới cơ bản về các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe
nhân phẩm, danh dự của con người trong Bộ luật hình sự 1999" của tác giả
Trần Văn Luyện, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 3/2001; "Bàn về việc áp
dụng một số tình tiết định khung tăng nặng trong tội cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác", của tác giả Vũ Hồng Thiêm,
Tạp chí Tòa án nhân dân, số 10/2005; "Xung quanh việc nhận thức và áp
dụng Điều 104 Bộ luật hình sự" (Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại
cho sức khoẻ của người khác), của tác giả Phạm Văn Thiệu, Tạp chí Kiểm sát,
số 11/2008 v.v...
Một số công trình nghiên cứu là các luận văn, luận án liên quan đến đề
tài có thể kể đến như: "Phòng ngừa tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của người khác trên địa bàn Quảng Ninh", của tác giả Nguyễn
Mạnh Hùng, Luận văn thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2011;
"Đặc điểm tội phạm học của tội phạm cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại

cho sức khỏe của người khác ở Việt Nam hiện nay và các giải pháp nâng cao
hiệu quả phòng ngừa", của tác giả Nguyễn Hữu Cầu, Học viện Cảnh sát nhân
dân, Hà Nội, 2002; "Đấu tranh phòng, chống tội cố ý gây thương tích hoặc

3


gây tổn hại cho sức khỏe của người khác tại địa bàn Thừa Thiên Huế", của
Nguyễn Thị Minh Nguyệt, Luận văn thạc sĩ Luật học, Khoa Luật - Đại học
Quốc gia Hà Nội, 2002; "Đấu tranh, phòng chống các tội xâm phạm tính
mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của con người trên địa bàn Bắc Ninh",
của Phạm Thị Hoài Phương, Luận văn thạc sĩ Luật học, Khoa Luật - Đại học
Quốc gia Hà Nội, 2007; v.v...
Nhìn chung các công trình nghiên cứu trên đã làm rõ những vấn đề lý
thuyết, khái niệm, đặc điểm của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho
sức khoẻ của người khác, dưới những góc độ khác nhau, làm cơ sở cho các
nghiên cứu sau này có thể kế thừa. Tuy nhiên, đối với địa bàn Thành phố Hải
Phòng với sự giới hạn trong một phạm vi địa lý với những đặc trưng về các
điều kiện tự nhiên, xã hội thì vẫn chưa có công trình nghiên cứu cụ thể nào về
tội xâm phạm sức khỏe của người khác trên địa bàn này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Bổ sung và làm sâu sắc thêm những vấn đề lý luận về trách nhiệm hình
sự nói chung và trách nhiệm hình sự đối với tội xâm phạm sức khỏe của
người khác ở nước ta nói riêng;
Góp phần bổ sung những quan điểm khoa học trong các quy định về
trách nhiệm hình sự đối với tội xâm phạm sức khỏe của người khác trong
pháp luật hình sự nước ta hiện nay;
Cung cấp những vấn đề thực tiễn về tình hình tội phạm và thực trạng
định tội danh đối với tội xâm phạm sức khỏe của người khác trên địa bàn

Thành phố Hải Phòng. Từ đó có được các gợi mở cho các kiến nghị, giải pháp
hoàn thiện các quy định pháp luật quy định về trách nhiệm hình sự đối với tội
xâm phạm sức khỏe của người khác ở nước ta hiện nay;
Đưa ra một số kiến nghị góp phần hoàn thiện chính sách hình sự đối
với các tội xâm phạm sức khỏe của người khác, bảo đảm, bảo vệ tốt hơn nữa
quyền con người, nâng cao hiệu quả bảo đảm an ninh, trật tự, an toàn xã hội.

4


3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, luận văn có các nhiệm vụ sau:
Đề tài có nhiệm vụ nghiên cứu trước tiên là thực hiện tổng quan các
công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài. Tiếp đến, đề tài phải tìm kiếm các
cơ sở lý thuyết đã được các nghiên cứu trước đây tiếp cận để kế thừa và xác
định hướng nghiên cứu cho riêng đề tài.
Đề tài phải phân tích, chỉ rõ được thực trạng áp dụng trách nhiệm hình
sự đối với tội xâm phạm sức khỏe của người khác theo pháp luật hình sự Việt
Nam trên địa bàn Thành phố Hải Phòng, từ đó đánh giá những điểm tương
đồng và khác biệt với việc áp dụng trách nhiệm hình sự đối với loại tội này
trên phạm vi toàn quốc. Nêu được những thuận lợi, khó khăn trong việc áp
dụng trách nhiệm hình sự đối với tội xâm phạm sức khỏe của người khác.
Đề tài phải đưa ra những kiến nghị, những giải pháp phù hợp với tình
hình kinh tế xã hội trên địa bàn Thành phố Hải Phòng nhằm nâng cao hiệu
quả của hoạt động đấu tranh phòng chống đối với các tội xâm phạm sức khỏe
của người khác ngày một hiệu quả hơn.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu thực trạng áp dụng trách nhiệm hình sự đối với
các tội xâm phạm sức khỏe của người khác theo pháp luật hình sự Việt Nam

trên một phạm vi địa bàn hẹp là Thành phố Hải Phòng.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Về phạm vi không gian, đề tài xin được giới hạn không gian nghiên
cứu là Thành phố Hải Phòng.
Về phạm vi thời gian, đề tài xin được giới hạn phạm vi nghiên cứu từ
năm 2015 – khi Bộ luật Hình sự 2015 ra đời đến nay.

5


5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu đề tài
5.1. Cơ sở lý luận
Đề tài nghiên cứu được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ
nghĩa duy vật cùng với đó là các chủ trương, đường lối, quan điểm của Đảng
và nhà nước ta về đấu tranh phòng chống tội phạm;
5.1. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài lựa chọn phương pháp nghiên cứu là các phương pháp lý luận về
tội phạm học, luật hình sự và tố tụng hình sự. Ngoài ra, đề tài còn sử dụng các
phương pháp như: thống kê, phương pháp so sánh và phương pháp phân tích
so sánh.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
Về ý nghĩa lý luận, đề tài sẽ củng cố và bổ sung thêm các cơ sở lý
thuyết về trách nhiệm hình sự cũng như bổ sung nhận thức về trách nhiệm
hình sự đối với tội xâm phạm sức khỏe của người khác.
Về ý nghĩa thực tiễn, đề tài sẽ cung cấp cái nhìn tổng quan về tình hình tội
phạm và thực tiễn định tội danh đối với các tội xâm phạm sức khỏe của người
khác trên địa bàn Thành phố Hải Phòng từ năm 2015 đến nay để từ đó các nhà
nghiên cứu và thực tiễn có được các số liệu trong hoạt động chuyên môn của
mình.
Cuối cùng đề tài cũng sẽ góp phần đóng góp các giải pháp hoàn thiện

chính sách và pháp luật hình sự trong việc đấu tranh phòng, chống các tội
xâm phạm sức khỏe của người khác ở nước ta hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn:
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo thì luận
văn gồm 3 chương, cụ thể như sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về trách nhiệm hình sự đối với các tội
xâm phạm sức khỏe của người khác theo pháp luật hình sự Việt Nam;

6


Chương 2: Thực tiễn áp dụng trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm
phạm sức khỏe của người khác theo pháp luật hình sự Việt Nam trên địa bàn
Thành phố Hải Phòng;
Chương 3: Phương hướng, giải pháp hoàn thiện quy định pháp luật và
áp dụng trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm sức khỏe của người
khác trong pháp luật hình sự Việt Nam hiện nay.

7


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ ĐỐI VỚI
CÁC TỘI XÂM PHẠM SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC
1.1. Khái niệm, đặc điểm, cơ sở của trách nhiệm hình sự đối với các
tội xâm phạm sức khỏe của người khác
1.1.1. Khái niệm trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm sức
khỏe của người khác
1.1.1.1. Khái niệm trách nhiệm hình sự
Trong khoa học pháp lý, trách nhiệm hình sự là một khái niệm dùng để

chỉ hậu quả pháp lý bất lợi mà một người nào đó có thể phải gánh chịu trước
nhà nước và xã hội. Nguyên nhân của việc phải gánh chịu hậu quả pháp lý đó
là vì người đó đã thực hiện một hay một số hành vi mà pháp luật hình sự cấm
hoặc không thực hiện hành vi mà pháp luật hình sự yêu cầu. Vì vậy có thể
thấy, hành vi đó có thể là hành động hoặc không hành động. Trường hợp hành
động là hành vi mà pháp luật hình sự cấm và hành vi của người đó đã gây ra
một hậu quả trên thực tế. Đối với trường hợp không hành động thì ngược lại,
khi pháp luật hình sự yêu cầu một cá nhân nào đó phải thực hiện hành vi để
giảm thiểu hoặc tránh các hậu quả xảy ra trên thực tế thì người đó lại không
hành động. Trong trường hợp này họ cũng phải gánh chịu hậu quả pháp lý.
Về trách nhiệm hình sự, là một trong những hình thức nghiêm khắc
nhất của trách nhiệm pháp lý. Trách nhiệm hình sự được nhà nước quy định
trong pháp luật hình sự yêu cầu cá nhân, tổ chức buộc phải thực hiện. Mục
đích của việc quy định trách hình sự nhằm bảo vệ các quan hệ xã hội được
cho là nền tảng, quan trọng nhất. Do đó, nhà nước đã xây dựng những chế tài
(hình phạt) trong BLHS để áp dụng cho người phạm tội nhằm tước bỏ hoặc
hạn chế những quyền và lợi ích của họ. Những hậu quả pháp lý đó được gọi là
trách nhiệm hình sự.

8


Cơ sở pháp lý của trách nhiệm hình sự, trách nhiệm hình sự theo quy
định của BLHS năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 ( sau đây gọi tắt là
BLHS năm 2015 ) ở nước ta được quy định tại Điều 2, cụ thể như sau: Chỉ
người nào phạm một tội đã được Bộ luật hình sự quy định mới phải chịu trách
nhiệm hình sự (do pháp nhân không phải chịu trách nhiệm hình sự về các tội
xâm phạm sức khỏe của người khác nên tác giả không liệt kê quy định tại
Điều 76). Vì vậy, cơ sở pháp lý của trách nhiệm hình sự là hành vi phạm tội
được BLHS quy định.

Tuy nhiên, ở nước ta các quan điểm về trách nhiệm hình sự hiện nay vẫn
đang có nhiều nhận thức khác nhau và chưa thể thống nhất. Có thể kể đến các
quan điểm như:
- Có quan điểm cho rằng:"Trách nhiệm hình sự là hậu quả pháp lý của
việc phạm tội, thể hiện ở chỗ người đã gây ra tội phải chịu trách nhiệm hình
sự về hành vi của mình trước nhà nước";
- Quan điểm khác lại cho rằng: "Trách nhiệm hình sự là hậu quả pháp
lý của việc thực hiện phạm tội và thể hiện bằng việc áp dụng đối với người
phạm tội một hoặc nhiều biện pháp cưỡng chế của nhà nước do luật hình sự
quy định" [4, tr.112].
- Quan điểm: "Trách nhiệm hình sự là một dạng của trách nhiệm pháp lý,
là trách nhiệm của người khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy
định trong pháp luật hình sự bằng một hậu quả bất lợi do Tòa án áp dụng tùy
thuộc vào tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi mà người đó đã thực hiện"
[19, tr 14].
- Quan điểm khác cho rằng: "Trách nhiệm hình sự là trách nhiệm của
người phạm tội phải chịu hậu quả pháp lý bất lợi về hành vi phạm tội của
mình. Trách nhiệm hình sự là một dạng trách nhiệm pháp lý bao gồm: nghĩa
vụ phải chịu tác động của hoạt động truy cứu trách nhiệm hình sự, chịu bị kết

9


tội, chịu biện pháp cưỡng chế của trách nhiệm hình sự (hình phạt và các biện
pháp tư pháp) và mang án tích [12, tr 281-282].
Với những quan điểm trên cho thấy sự đa dạng trong cách tiếp cận của
các nhà khoa học pháp lý nước ta về trách nhiệm hình sự. Điều đó cũng nói
lên rằng đây là một khái niệm khá phức tạp việc xác định các tiêu chí cũng
thể hiện quan điểm của mỗi nhà nghiên cứu. Có thể thấy các quan điểm trên
thì có tác giả coi trách nhiệm hình sự khá rộng như việc coi việc áp dụng các

biện pháp ngăn chặn, án tích.., là trách nhiệm hình sự [5]. Đồng thời cũng có
quan điểm khá hẹp khi cho rằng trách nhiệm hình sự chỉ là những hậu quả bất
lợi do tòa án áp dụng (quyết định) [19]. Theo quan điểm của tác giả cho rằng
bất cứ hành vi nào của một chủ thể nào đó đều có mối quan hệ nhân quả.
Chính vì vậy, khi một hành vi được thực hiện thì đồng thời cũng xác lập một
nghĩa vụ (trách nhiệm) kèm theo. Do đó, việc xác định thời điểm chịu trách
nhiệm hình sự có lẽ không nên xác định dựa trên căn cứ là quyết định của tòa
án mà theo đó trách nhiệm hình sự đã phát sinh ngay khi chủ thể đó thực hiện
hành vi phạm tội mà pháp luật hình sự quy định.
Nghĩa là, điểm khởi đầu của trách nhiệm hình sự, là thời điểm
xẩy ra hành vi phạm tội. Từ thời điểm đó, nhà nước có quyền đòi hỏi
người phạm tội phải gánh chịu trách nhiệm. Nói khác đi, từ thời đi ểm
này, giữa nhà nước và người phạm tội đã phát sinh quan hệ pháp luật
hình sự. Trách nhiệm hình sự, khi đó, được thực hiện bằng hai hình thức.
- Hình thức phổ biến và cơ bản nhất là hình phạt. Người phạm tội phải
bị truy cứu trách nhiệm hình sự thông qua việc chấp hành bản án của Toà án
xác định hình phạt cụ thể.
- Trong một số trường hợp do luật quy định, trách nhiệm hình sự được
thực hiện thông qua những biện pháp không phải là hình phạt, nhưng cũng là
biện pháp cưỡng chế về mặt hình sự. Theo Bộ luật Hình sự Việt Nam, đó là
các biện pháp tư pháp được quy định tại, bao gồm tịch thu vật, tiền trực tiếp

10


liên quan đến tội phạm; trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường, thiệt hại,
buộc công khai xin lỗi; bắt buộc chữa bệnh; các chế định như miễn trách
nhiệm hình sự, án treo.., cũng là những hình thức của trách nhiệm hình sự
thuộc loại này.
Như vậy, điều 2 của BLHS cho phép thấy được sự khác nhau của trách

nhiệm hình sự và hình phạt, tuy hai khái niệm đó là thống nhất với nhau và
liên quan mật thiết với nhau. Cũng từ đó, điều luật này cho phép thấy rõ rằng,
cơ sở trách nhiệm hình sự khác với cơ sở của hình phạt. Điều 2 của BLHS chỉ
quy định về cơ sở của trách nhiệm hình sự. Trong khi đó, cơ sở của hình phạt,
hay nói đúng hơn là các căn cứ của việc áp dụng hình phạt được quy định

trong nhiều chế định cụ thể của Bộ luật Hình sự.
Do đó, khi Điều 2 của BLHS quy định: “phạm một tội đã được Bộ
luật Hình sự quy định” cũng có chủ ý xác định rằng, một tội có nghĩa là
một hành vi với những dấu hiệu nhất định, do Bộ luật quy định, không thể
khác được. Vì như vậy, đó là mô hình pháp lý là cấu thành tổng quát của
hành vi phạm tội. Các cơ quan điều tra, truy tố và xét xử, trong những
trường hợp cụ thể phải tìm cho được trong các hành vi cụ thể ấy những dấu
hiệu tương ứng với cấu thành tổng quát.
Khái niệm trách nhiệm hình sự, từ những quan điểm và nhận thức trên
tác giả cho rằng: Trách nhiệm hình sự là hậu quả pháp lý bất lợi đối với chủ
thể đã thực hiện hành vi phạm tội và phải gánh chịu một hoặc nhiều biện
pháp cưỡng chế của nhà nước do pháp luật hình sự quy định.
1.1.1.2. Trách nhiệm hình sự và các biện pháp ngăn chặn, biện pháp
cưỡng chế
Đối với trách nhiệm hình sự, một vấn đề cũng tương đối phức tạp đó là
việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn, cưỡng chế có phải là một phần của
trách nhiệm hình sự hay không. Nó có gì liên quan đến thời điểm chịu trách

11


nhiệm hình sự hay không. Vì vấn đề thời điểm chịu trách nhiệm hình sự đặt ra
yêu cầu cần phải xác định mốc thời gian chịu trách nhiệm hình sự. Có nghĩa
là khi nào chủ thể thực hiện hành vi phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự.

Khi có bản án đã có hiệu lực của tòa án hay ngay khi hành vi phạm tội xảy ra
hoặc khi cơ quan tiến hành tố tụng ra quyết định khởi tố bị can? Thực tế cho
thấy, theo quy định của BLTTHS nước ta, trước khi bị kết tội, một người có
thể đã bị các cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng những biện pháp ngăn chặn,
biện pháp cưỡng chế như: bắt, tạm giữ, tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo
lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm… [1, Chương VII]. Việc các
cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng những biện pháp này nhằm mục đích ngăn
chặn tội phạm khi có căn cứ xác định việc không áp dụng các biện pháp ngăn
chặn, biện pháp cưỡng chế đối với bị can, bị cáo có thể gây khó khăn cho việc
điều tra, truy tố, xét xử hoặc sẽ tiếp tục phạm tội, hay những điều kiện bảo
đảm khi tiến hành thi hành án.
Câu hỏi đặt ra ở đây là, giai đoạn khi cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng
các biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế này thì đó có được coi là một
phần của trách nhiệm hình sự hay không? Vì trong những trường hợp này, rõ
ràng người phạm tội đã phải gánh chịu hậu quả pháp lý hình sự mặc dù khi đó
chưa có quyết định đã có hiệu lực của tòa án.
Có quan điểm cho rằng, các biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế
không thể hiện trách nhiệm hình sự mà chỉ là các biện pháp có tính chất tố
tụng hình sự để phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm, bảo đảm hiệu quả của việc
điều tra, truy tố, xét xử hoặc bảo đảm cho việc thực hiện trách nhiệm hình sự
sau này (bảo đảm thi hành án). Bảo vệ quan điểm này, người ta cho rằng mặc
dù các biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế chỉ có thể được áp dụng đối
với người phạm tội, nhưng chúng không được coi là hậu quả tất yếu của việc
phạm tội. Có thể chứng minh là cùng một hành vi phạm tội nhưng có người
thì phải áp dụng biện pháp ngăn chặn, cưỡng chế nhưng có người không phải

12


áp dụng biện pháp đó. Vì vậy, việc các cơ quan tiến hành tố tụng có áp dụng

biện pháp ngăn chặn, cưỡng chế đối với chủ thể nào đó hay không không phải
là do đã xác định được chủ thể đó phạm tội hay không phạm tội mà là ở chỗ
có căn cứ để chứng tỏ, nếu không áp dụng các biện pháp ngăn chặn, cưỡng
chế thì họ có thể sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể
tiếp tục phạm tội hoặc sau này việc thi hành án sẽ gặp khó khăn. Chính vì
vậy, một chủ thể đã bị áp dụng biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế vẫn
có thể được miễn trách nhiệm hình sự nếu sau đó xác định được có căn cứ để
miễn trách nhiệm hình sự đối với họ. Ngược lại, một chủ thể nào đó có thể
không bị áp dụng biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế nhưng vẫn có
thể phải chịu trách nhiệm hình sự, nếu sau đó tòa án tuyên có tội đối với họ và
bản án đó có hiệu lực pháp luật.
Theo quan điểm của tác giả thì các biện pháp ngăn chặn, biện pháp
cưỡng chế là một phần của trách nhiệm hình sự vì ngay sau khi hành vi pháp
lý hình sự hoàn thành, trách nhiệm hình sự đã được đặt ra. Vì khi đặt ngược
trở lại vấn đề có thể thấy rằng, nếu chủ thể nào đó không thực hiện hành vi
phạm tội thì các biện pháp ngăn chặn, cưỡng chế liệu có được đặt ra đối với
họ hay không. Chắc chắn rằng điều đó là không xảy ra, trừ trường hợp oan,
sai khi xác định nhầm đối tượng phạm tội. Chính vì vậy, trường hợp này hậu
quả pháp lý hình sự phát sinh trực tiếp từ hành vi phạm tội của chủ thể đó nên
coi là một phần của trách nhiệm hình sự.
1.1.1.3. Trách nhiệm hình sự và hình phạt
Theo quan điểm của tác giả và theo khái niệm đã trình bày, tác giả cho
rằng trách nhiệm hình sự và hình phạt là những khái niệm không đồng nhất.
Với quan điểm cho rằng mọi hành vi pháp lý hình sự đều phải chịu trách
nhiệm hình sự thì việc một người nào đó có phải chịu hình phạt hay không
không chứng minh được mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả pháp
lý của hành vi đó. Có nghĩa là có những hành vi đã đầy đủ các dấu hiệu cấu

13



thành tội phạm nhưng do có những tình tiết loại trừ (có thể do khách quan) mà
chủ thể đó không phải gánh chịu hình phạt nhưng không vì thế mà cho rằng họ
không phải chịu trách nhiệm hình sự. Trường hợp này thì nên nhận thức hành vi
đó là được loại trừ trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật.
Thực tế, trong khoa học pháp lý, trách nhiệm hình sự là một chế định
pháp lý thể hiện mối quan hệ nhân quả giữa hành vi của chủ thể với hậu quả
thực tế. Trong khi đó, hình phạt lại là một trong những biện pháp để thực
hiện, để cụ thể hóa trách nhiệm hình sự. Có thể lấy ví dụ, đối với hành vi hiếp
dâm người dưới 16 tuổi (trẻ em) trong luật hình sự 1999 [22, điểm d, khoản 3,
Điều 112] thì người phạm tội có thể phải chịu hình phạt tử hình trong trường
hợp phạm tội nhiều lần. Tuy nhiên đến nay, khi Bộ luật Hình sự 2015 có hiệu
lực thì cũng cùng hành vi như vậy, người phạm tội chỉ phải chịu hình phạt từ
12 đến 20 năm tù [24, điểm e, khoản 2, Điều 142]. Điều này cho thấy rằng rõ
ràng cùng thực hiện một hành vi nhưng hậu quả pháp lý và hình phạt là không
giống nhau. Tuy nhiên trên phương diện trách nhiệm hình sự thì người đó
phải chịu luôn phải gánh chịu trách nhiệm hình sự về tội danh đó cho dù
chính sách hình sự có thay đổi. Nghĩa là, trường hợp này người đó có thể bị
coi là tội phạm nếu có đầy đủ dấu hiệu của tội phạm hoặc không bị coi là tội
phạm nếu được miễn trách nhiệm hình sự. Ví dụ, trường hợp xem xét một vụ
án hình sự của pháp luật Mỹ, trước khi thẩm phán xét xử, bồi thẩm đoàn họp
với nhau và xem xét hành vi của một chủ thể nào đó và sẽ đưa đến quyết định
là có tội hoặc không có tội. Nói cách khác họ xác định chủ thể đó có phải chịu
trách nhiệm hình sự hay không. Nếu xác định là có tội thì tòa án mới quyết
định tội danh và hình phạt. Có thể lấy ví dụ khác, trường hợp tảo hôn của các
bé gái dưới 13 tuổi và dẫn đến việc sinh hoạt vợ chồng ở những đồng bào dân
tộc trước đây. Rõ ràng theo quy định của pháp luật hình sự nước ta thì các
trường hợp này đã phạm tội hiếp dâm trẻ em. Tuy nhiên, điều này còn liên
quan đến nhận thức xã hội, phong tục, tập quán nên nhiều khi sau nhiều năm


14


mới phát hiện vì không ai tố giác và cộng đồng cho là phù hợp nên khó có thể
truy cứu trách nhiệm hình sự đối với nhiều trường hợp hôn nhân thực tế. Đặc
biệt nếu bị xử lý hình sự thì trong các phiên tòa này vai trò của các hội thẩm
nhân dân sẽ có những tiếng nói nhất định trong trường hợp đó. Vì vậy có thể
thấy rằng, nếu như hình phạt đòi hỏi các tội danh như nhau cần gánh chịu hậu
quả pháp lý giống nhau. Nhưng về trách nhiệm hình sự thì mỗi chủ thể khác
nhau thì năng lực gánh chịu trách nhiệm hình sự là không giống nhau. Người
mới từ đủ 18 tuổi sống ở vùng sâu, vùng xa, ít có kiến thức pháp lý, lần đầu
phạm tội, nhân thân tốt thì trách nhiệm hình sự sẽ khác với người trên 30 tuổi,
sống ở thành thị, có nhận thức pháp luật tốt và phạm tội nhiều lần... Tóm lại,
việc nhà làm luật quy định hành vi nào là tội phạm điều đó có nghĩa là người
thực hiện hành vi đó sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự đối với hành vi mà
mình gây ra. Trong khi đó, quá trình nhà làm luật cân nhắc hậu quả mà người
phạm tội phải gánh chịu cũng như việc tòa án ra phán quyết hình phạt đối với
người phạm tội đó như thế nào mới đảm bảo tính giáo dục và răn đe thì đó là
hình phạt.
Từ những phân tích trên tác giả cho rằng, khái niệm trách nhiệm hình
sự cần được coi là khái niệm rộng hơn khái niệm hình phạt. Trách nhiệm hình
sự là hậu quả pháp lý của việc phạm tội được áp dụng đối với người thực hiện
hành vi phạm tội, còn hình phạt chỉ là một trong những biện pháp cưỡng chế
chủ yếu của trách nhiệm hình sự. Theo pháp luật hình sự Việt Nam, trách
nhiệm hình sự được phân ra thành hai loại: loại có hình phạt và loại không có
hình phạt (miễn hình phạt). Trường hợp phải chịu hình phạt, trách nhiệm hình
sự của người phạm tội phải gánh chịu trước hết thể hiện ở bản án kết tội kèm
theo việc quyết định hình phạt của tòa án đối với người đó.
Vì vậy trong nhiều trường hợp người phạm tội được miễn hình phạt
không có nghĩa là người đó không phải chịu trách nhiệm hình sự mà người đó

vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự nhưng được miễn hình phạt theo luật định.

15


Việc Bộ luật hình sự nước ta quy định: Người phạm tội có thể được miễn hình
phạt nếu … nhưng chưa đến mức được miễn trách nhiệm hình sự [24, Điều
59] cũng đã nói lên rằng hình phạt và trách nhiệm hình sự là hai phạm vi hoàn
toàn không đồng nhất với nhau.
1.1.1.4. Trách nhiệm hình sự và án tích
Về vấn đề án tích có thuộc nội dung của trách nhiệm hình sự hay không,
hiện nay trong pháp luật hình sự cũng có hai quan điểm khác nhau. Quan điểm
thứ nhất: án tích không phải là sự thể hiện nội dung của trách nhiệm hình sự.
Theo quan điểm này, trách nhiệm hình sự đã kết thúc từ thời điểm một người đã
chấp hành xong hình phạt hoặc được miễn chấp hành hình phạt.
Quan điểm thứ hai cho rằng án tích là một trong những hình thức thể
hiện trách nhiệm hình sự. Thời điểm một người được xóa án tích là thời
điểm kết thúc của trách nhiệm hình sự. Bảo vệ quan điểm này có tác giả
cho rằng, trách nhiệm hình sự bao gồm: "nghĩa vụ phải chịu sự tác động của
hoạt động truy cứu trách nhiệm hình sự, chịu bị kết tội, chịu biện pháp cưỡng
chế của trách nhiệm hình sự (hình phạt, biện pháp tư pháp) và mang án tích"
[13, tr.121]. Chính vì vậy, những hậu quả bất lợi mà người phạm tội phải
gánh chịu là kết quả của trách nhiệm hình sự. Do đó, việc người ta cho rằng:
"Trách nhiệm của người phạm tội phải chịu những hậu quả pháp lý bất lợi về
hành vi phạm tội của mình" [27] đã chứng minh rằng án tích cũng là một trong
những hành vi bất lợi của trách nhiệm hình sự mà người phạm tội gây ra. Cụ thể,
khi người phạm tội bị tác động bằng hình phạt hoặc miễn hình phạt thì đều bị
mang án tích và ghi vào lý lịch tư pháp. Hậu quả pháp lý của nó nếu chưa được
xóa án tích mà phạm tội thì bị coi là tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm.
1.1.1.5. Khái niệm trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm sức

khỏe người khác
Như đã trình bày với nhận thức rằng: Trách nhiệm hình sự là hậu quả
pháp lý bất lợi đối với chủ thể đã thực hiện hành vi phạm tội và phải gánh

16


chịu một hoặc nhiều biện pháp cưỡng chế của nhà nước do pháp luật hình sự
quy định. Vì vậy, trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm sức khỏe của
người khác theo tác giả sẽ được hiểu là: hậu quả pháp lý bất lợi đối với người
đã thực hiện hành vi phạm tội được quy định từ Điều 134 đến Điều 140 của
Bộ luật hình sự và phải gánh chịu một hoặc nhiều biện pháp cưỡng chế của
nhà nước do pháp luật hình sự quy định.
Với khái niệm đó, việc người phạm tội phải gánh chịu hình phạt, các
biện pháp cưỡng chế và án tích đều là hậu quả pháp lý của hành vi phạm tội.
Tuy nhiên, trong khái niệm này cũng lưu ý là, nếu như với trách nhiệm hình
sự nói chung thì chủ thể của hành vi phạm tội có thể là cá nhân và pháp nhân.
Tuy nhiên, đối với các tội xâm phạm sức khỏe của người khác thì chủ thể chỉ
có thể là cá nhân.
1.1.2. Đặc điểm trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm sức
khỏe của người khác
1.1.2.1. Đặc điểm trách nhiệm hình sự
Do trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm sức khỏe của người
khác được hiểu là hậu quả pháp lý bất lợi đối với người phạm tội nên nó
mang những đặc điểm sau:
Thứ nhất, Trách nhiệm hình sự là hậu quả pháp lý của việc thực hiện
hành vi phạm tội. Vì vậy, hậu quả này chỉ phát sinh khi có người thực hiện
hành vi nguy hiểm cho xã hội bị PLHS cấm hoặc không thực hiện những
nghĩa vụ mà PLHS yêu cầu. Với đặc điểm này có thể thấy trách nhiệm hình
sự chỉ phát sinh khi có hành vi phạm tội. Trong thực tế khách quan, nếu như

không có việc thực hiện tội phạm thì cũng sẽ không xuất hiện trách nhiệm
hình sự. Trách nhiệm hình sự chính là dạng trách nhiệm pháp lý nghiêm khắc
nhất so với bất kỳ dạng trách nhiệm pháp lý nào khác. Bởi vì, các dạng trách
nhiệm pháp lý khác không đưa đến hậu quả bất lợi nghiêm trọng đối với chủ

17


×