Tải bản đầy đủ (.pdf) (75 trang)

TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC TỪ THỰC TIỄN CÁC TÒA ÁN QUÂN SỰ Ở VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (876.5 KB, 75 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HOC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TĂNG VƯƠNG TRỌNG

TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI
CHO SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC TỪ THỰC TIỄN
CÁC TÒA ÁN QUÂN SỰ Ở VIỆT NAM

Ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 8.38.01.04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS TRẦN HỮU TRÁNG

HÀ NỘI – 2019


LỜI CAM ĐOAN
Trước hết tôi gửi lời cảm ơn đến gia đình, người thân đã động viên tôi
rất nhiều, quý thầy cô và bạn bè đã giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và tạo
điều kiện để tôi hoàn thành luận văn của khóa học. Và đặc biệt em xin trân
thành cảm ơn thầy PGS.TS Trần Hữu Tráng là người hướng dẫn đã tận tình
chỉ bảo, hướng dẫn em trong suốt quá trình làm luận văn vừa qua.
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu,
kết quả nêu trong luận văn là trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn
chưa được công bố trong bất cứ công trình nghiên cứu nào trước đây.
Thái Nguyên, tháng 6 năm 2019
Tác giả



Tăng Vương Trọng


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

ADPL

:

Áp dụng pháp luật

BLHS

:

Bộ luật hình sự

CYGTT

:

Cố ý gây thương tích

HĐTP

:

Hội đồng thẩm phán


HĐXX

:

Hội đồng xét xử

TNHS

:

Trách nhiệm hình sự

TANDTC

:

Tòa án nhân dân tối cao


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................................ 1
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT
HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY
TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC ................................................ 8
1.1. Những vấn đề lý luận về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
của người khác ................................................................................................................ 8
1.2. Quy định của BLHS2015 về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác trong sự so sánh với BLHS 1999 ................................................ 19
Chương 2. ĐỊNH TỘI DANH VÀ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT ĐỐI VỚI TỘI
CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA

NGƯỜI KHÁC TẠI CÁC TÒA ÁN QUÂN SỰ VIỆT NAM ................................. 28
2.1. Định tội danh tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác trong quá trình xét xử tại các Tòa án Quân sự...................................................... 28
2.2. Thực tiễn quyết định hình phạt đối với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của người khác trong quá trình xét xử tại Tòa án Quân sự. ........................ 45
2.3. Nguyên nhân của hạn chế, bất cập ......................................................................... 54
Chương 3. CÁC YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH
CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC
GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC TRONG QUÂN ĐỘI 57
3.1. Yêu cầu hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự về tội cố ý gây thương
tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác ...................................................... 57
3.2. Các giải pháp bảo đảm áp dụng các quy định của pháp luật hình sự về định tội
danh và quyết định hình phạt tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
của người khác .............................................................................................................. 60
KẾT LUẬN .................................................................................................................. 67
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................... 69


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm gần đây tình hình tội phạm xâm phạm đến tính
mạng, sức khỏe con người trong cả nước đã và đang diễn biến hết sức phức
tạp, luôn chiếm tỷ lệ cao so với tổng số án thụ lý, xét xử và ngày càng có xu
hướng gia tăng. Tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác để lại
hậu quả đặc biệt nghiêm trọng. Người bị hại phải gánh chịu những hậu quả về
sức khỏe, tinh thần, tổn thương cơ thể, trí tuệ.... Hậu quả xảy ra mà người bị
hại có thể làm gánh nặng cho xã hội, gia đình.
Tuy đã có nhiều văn bản hướng dẫn giải quyết một số vướng mắc trong
quá trình áp dụng các quy định của pháp luật hình sự về tội này như: phạm tội
có tính chất côn đồ hoặc tái phạm nguy hiểm, gây cố tật nhẹ cho nạn nhân,

phạm tội nhiều lần đối với cùng một người hoặc đối với nhiều người, phạm tội
đối với người khác không có khả năng tự vệ… Tuy nhiên, do nhiều nguyên
nhân khác nhau như việc chưa nắm rõ, chắc các dấu hiệu pháp lý; việc áp dụng
không thống nhất các quy định của pháp luật,... của các cơ quan tiến hành tố
tụng, đặc biệt chưa có hướng dẫn ADPL nên việc định tội danh giữa hai tội này
còn nhiều nhầm lẫn hoặc gây nên tranh luận, khiếu kiện kéo dài.
Để nhận thức đúng, áp dụng thống nhất quy định của BLHS Việt Nam
và áp dụng đúng những quy định mới của BLHS về tội CYGTT hoặc gây tổn
hại cho sức khỏe của người khác phù hợp với thực tiễn thì việc làm sáng tỏ
những vấn đề lý luận, nghiên cứu thực tiễn ADPL về tội tội CYGTT hoặc gây
tổn hại cho sức khỏe của người khác là rất quan trọng. Qua đó chỉ ra những
vấn đề bất cập, những hạn chế thiếu sót trong định tội danh và quyết định
hình phạt đối với tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
nhằm góp phần nâng cao chất lượng xét xử của các Tòa án quân sự. Từ những
vấn đề nêu trên, tác giả lựa chọn đề tài “Tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho

1


sức khỏe của người khác từ thực tiễn các Tòa án Quân sự ở Việt Nam” làm
luận văn Thạc sĩ Luật học.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Cho đến nay đã có khá nhiều công trình nghiên cứu Tội CYGTT hoặc
gây tổn hại cho sức khỏe của người khác dưới góc độ Luật hình sự được công
bố, có thể kể đến một số công trình như sau (tác giả chia thành ba nhóm):
Thứ nhất, hệ thống các giáo trình, sách tham khảo liên quan đến vấn
đề tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác như:
- Bình luận khoa học BLHS năm 2015, nhà xuất bản Lao Động, Hà Nội
tháng 6-2016;
- Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (phần các tội phạm) (2016), trường

Đại học Luật Hà Nội, Nhà xuất bản Công an nhân dân, Hà Nội;
- GS.TS. Võ Khánh Vinh, Bình luận khoa học BLHS (phần các tội
phạm) (2013), Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội.
Thứ hai, hệ thống các Luận văn Thạc sĩ, Luận án Tiến sĩ Luật Học:
Công trình: “Đặc điểm tội phạm học của tội phạm CYGTT hoặc gây tổn
hại cho sức khỏe của người khác ở Việt Nam hiện nay và các giải pháp nâng
cao hiệu quả phòng ngừa”, của Nguyễn Hữu Cầu, Luận án tiến sĩ Luật học,
Học viện Cảnh sát Nhân dân, Hà Nội, 2002;
Luận văn (2014) “Các tội CYGTT hoặc gây tổn hại sức khỏe của người
khác trong luật hình sự Việt Nam” của tác giả Lê Đình Tĩnh, Luận văn thạc sĩ
luật học, khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội;
Luận văn “Tội CYGTT hoặc gây tổn hại sức khỏe của người khác trong
trạng thái tinh thần bị kích động mạnh trong luật hình sự Việt Nam” của
Đặng Thị Hương Dung, Luận văn Thạc sĩ;
Luận văn “Tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh”, của
Đinh Thị Hoài Thu, Luận văn thạc sĩ Luật học, Học viện Khoa học xã hội.

2


Nguyễn Thị Minh Nguyệt, “Đấu tranh phòng, chống tội CYGTT hoặc
gây tổn hại cho sức khỏe của người khác tại địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế”
Luận văn Thạc sĩ, Khoa luật đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2002;
Lê Đình Tĩnh, “Các tội CYGTT hoặc gây tổn hại đến sức khỏe người
của người khác trong luật hình sự Việt Nam”, Luận văn thạc sĩ, Khoa luật Đại
học Quốc gia Hà Nội, năm 2014.
Thứ ba, hệ thống các bài viết, đề tài khoa học:
Bài viết “Một số vấn đề về tình tiết: CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác thuộc trường hợp đặc biệt nghiêm trọng” của Đinh Văn

Quế, đăng trên Tại chí Tòa án nhân dân kỳ I tháng 9/2010 (số 17);
Bài viết “N phạm tội CYGTT do vượt quá giới hạn phòng vệ chính
đáng”, Tạp chí TAND, số 3, năm 2011” của tác giả An Văn Khoái đăng trên
Tạp chí TAND, số 3, năm 2011;
Bàn về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác tại Điều 134 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm
2017 / Nguyễn Văn Hùng, Tòa án nhân dân. Số 1/2018, tr. 19 – 26;
Thứ tư, các công trình nghiên cứu liên quan:
Luật thi hành án hình sự, GS.TS Võ Khánh Vinh, TS Cao Thị Oanh
nhà xuất bản Khoa học xã hội. Hà Nội năm 2013;
Giáo trình Tội phạm học. Chủ biên PGS.TS Lê Thị Sơn, Nhà xuất bản
Công an nhân dân, Hà Nội 2012;
Lý luận chung về định tội danh GS. TS Võ Khánh Vinh, Nhà xuất bản
Khoa học xã hội, Hà Nội 2013;
Phân biệt tội giết người với tội cố ý gây thương tích dẫn đến chết người
trong Bộ luật Hình sự năm 2015, Đinh Văn Quế, Kiểm sát. Số 7/2018, tr. 50 – 54;
Qua nghiên cứu các công trình đã công bố có liên quan đến đề tài luận
văn trong thời gian qua, tác giả nhận thấy các công trình nghiên cứu về vấn đề
lý luận và quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội CYGTT hoặc gây

3


tổn hại cho sức khỏe của người khác đã được các nhà khoa học quan tâm
nghiên cứu khá sớm và sâu sắc, ở nhiều mức độ khác nhau; Đa số các công
trình đã đánh giá những kết quả đạt được, đồng thời chỉ ra những hạn chế, bất
cập trong các quy định pháp luật cũng như trong ADPL vào xét xử các tội
CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên nhiều địa bàn
khác nhau; hầu hết các công trình nghiên cứu đã nêu ra những quan điểm, ý
kiến về các giải pháp góp phần hoàn thiện các quy định của pháp luật hinh sự

về tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác. Tuy nhiên,
chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu thực tiễn định tội danh, quyết định
hình phạt Tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong
quá trình xét xử tại các Tòa án Quân sự. Việc nghiên cứu đề tài này có ý
nghĩa quan trọng trong nghiên cứu khoa học pháp lý hình sự và trong công tác
đấu tranh phòng chống tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác tại các đơn vị quân đội.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài này là từ việc phân tích để làm rõ
các vấn đề lý luận về tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác trong việc định tội danh và quyết định hình phạt, tổng kết thực tiễn định
tội danh và quyết định hình phạt đối với tội phạm này từ thực tiễn xét xử tại
các Tòa án Quân sự, đánh giá thực tiễn ADPL trong quá trình xét xử tại các
tòa án quân sự, luận văn hướng đến mục đích nhằm đề xuất yêu cầu và những
giải pháp hoàn thiện quy định của BLHSvề tội phạm này và nâng cao chất
lượng, hiệu quả của công tác xét xử.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Từ mục đích nghiên cứu nêu trên, luận văn đặt ra những nhiệm vụ
nghiên cứu cụ thể như sau:

4


Thứ nhất, nghiên cứu các tài liệu và làm rõ những vấn đề lý luận về tội
CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác;
Thứ hai, thu thập, phân tích số liệu, bản án, khảo sát và đánh giá thực
tiễn định tội danh và quyết định hình phạt đối với Tội CYGTT hoặc gây tổn
hại cho sức khỏe của người khác qua thực tiễn xét xử tại các tòa án Quân sự;
Thứ ba, nghiên cứu, đề xuất giải pháp hoàn thiện quy định của BLHS

về tội phạm này và các giải pháp bảo đảm định tội danh và quyết định hình
phạt đúng đối với Tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn: những vấn đề lý luận và quy định
của Luật hình sự Việt Nam về Tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác qua các giai đoạn, thực tiễn áp dụng quy định của BLHS năm
1999 và BLHS năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 về “Tội CYGTT hoặc
gây tổn hại cho sức khỏe của người khác” trong thực tiễn xét xử của các tòa
án Quân sự.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung: Đề tài luận văn được nghiên cứu trong phạm vi chuyên
ngành Luật Hình sự và Tố tụng hình sự;
Về không gian: Luận văn nghiên cứu thực tiễn ADPL hình sự về tội
CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác của các tòa án Quân sự;
Về thời gian: Luận văn sử dụng dữ liệu nghiên cứu được thu thập qua
thực tiễn xét xử tại các Tòa án Quân sự từ năm 2014 đến năm 2018. Các dữ
liệu nghiên cứu được dùng trong luận văn là các số liệu của các Tòa án Quân
sự trong thời gian 05 năm, từ năm 2014 đến năm 2018. Luận văn sử dụng Bộ
luật Hình sự 1999 sửa đổi bổ sung 2009 và Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi bổ
sung năm 2017 để nghiên cứu và và đánh giá thực tiễn xét xử các vụ án trong
khoảng thời gian này.

5


5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận biện chứng
duy vật của Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm đường

lối Đảng, Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về đường lối đổi
mới đất nước, định hướng cải cách tư pháp và chiến lược xây dựng và hoàn
thiện hệ thống pháp luật phục vụ hoạt động đấu tranh phòng, chống tội phạm
nói chung và Tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
nói riêng.
5.2. Phương pháp nghiên cứu:
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả sử dụng linh hoạt các
phương pháp nghiên cứu cụ thể sau đây: phương pháp so sánh, phương
pháp tiếp cận hệ thống, phương pháp thống kê, phân tích và tổng hợp số
liệu dựa trên những bản án, quyết định, số liệu thống kê, báo cáo tổng kết
của Tòa án quân sự trung ương và các tòa án quân sự quân khu, các thông
báo kiểm tra án để phân tích các tri thức khoa học luật hình sự và luận
chứng các vấn đề tương ứng được nghiên cứu.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần làm rõ các vấn đề lý luận
của Tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác theo pháp luật
hình sự Việt Nam. Qua đó góp phần nâng cao hiệu quả trong công tác đấu
tranh phòng chống tội phạm, đảm bảo an ninh, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ
kỷ luật, kỷ cương trong môi trường quân đội.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của luận văn cung cấp những thông tin về nghiên
cứu thực tiễn định tội danh và quyết định hình phạt đối với Tội CYGTT hoặc
gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong quá trình xét xử tại các Tòa án

6


Quân sự, có giá trị tham khảo cho các cơ quan tiến hành tố tụng, đặc biệt là
Tòa án Quân sự trong thực hiện công tác xét xử được khách quan, công bằng

và có căn cứ pháp luật.
Kết quả nghiên cứu của luận văn cũng là tài liệu tham khảo hữu ích cho
các cán bộ, giảng viên, nhà nghiên cứu và học viên, sinh viên trong các cơ sở
đào tạo luật trên cả nước.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm ba chương với tên gọi như sau:
Chương 1. Những vấn đề lý luận và quy định của pháp luật hình sự việt nam
về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác
Chương 2. Định tội danh và quyết định hình phạt tội cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác tại các tòa án quân
sự việt nam
Chương 3. Các yêu cầu và giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật
hình sự về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
của người khác trong quân đội

7


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH
SỰ VIỆT NAM VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN
HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC
1.1. Những vấn đề lý luận về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn
hại cho sức khỏe của người khác
1.1.1. Khái niệm về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác
1.1.1.1. Khái niệm về tội phạm
Điều 8 BLHS năm 2015 sửa đổi 2017 quy định về tội phạm như sau:

Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong BLHS,
do người có năng lực TNHS hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một cách
cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ
Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc
phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức,
xâm phạm quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm
những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo quy định
của Bộ luật này phải bị xử lý hình sự [3, tr.19-20].
Tội phạm hiểu theo nghĩa khái quát nhất là hiện tượng xã hội tiêu cực,
trái pháp luật hình sự, mang tính giai cấp và thay đổi theo quá trình của lịch
sử; được thể hiện ở một tổng hợp các tội phạm cụ thể đã xảy ra trong xã hội
và trong khoảng thời gian nhất định [23, tr.91]. Hành vi gây nguy hiểm cho
xã hội do người có năng lực hành vi dân sự gây ra, hành vi đó phải có lỗi và
phải chịu hình phạt. Khi xuất hiện tội phạm cũng là xuất hiện và ra đời của
Nhà nước, và pháp luật, khi xã hội phân chia thành giai cấp đối kháng. Để bảo
vệ quyền lợi của giai cấp thống trị, Nhà nước đã quy định các hành vi gây
nguy hiểm cho xã hội là tội phạm và áp dụng TNHS đối với người nào thực
hiện các hành vi đó nên tội phạm mang bản chất là một hiện tượng pháp lý.

8


Tội phạm cũng là hiện tượng tiêu cực mang thuộc tính xã hội, lịch sử và pháp
lý, tội phạm luôn chứa đựng trong mình đặc tính chống lại Nhà nước, chống
lại xã hội, đi ngược với lợi ích chung của cộng đồng, trật tự xã hội, xâm phạm
đến quyền, tự do và các lợi ích hợp pháp của con người.
1.1.1.2. Khái niệm về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác
Tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác có thể hiểu
là hành vi làm cho người khác bị thương, xâm phạm tới quyền được bảo hộ về

sức khỏe của con người, khiến người khác có những thương tích nhất định
như: Vết bỏng, vết rách trên da thịt, tổn thương hoặc mất đi một số bộ phận
trên cơ thể... [19, tr.79].
Trong tình hình kinh tế xã hội của đất nước ta hiện nay, với sự hòa
nhập của nền kinh tế thị trường thì sự gia tăng tội phạm nói chung, trong đó
có tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khácngày càng diễn
biến phức tạp và có chiều hướng gia tăng.Điều đó đặt ra cho các nhà lập pháp
phải có các quy định chặt chẽ hơn, sắc bén hơn về phòng chống loại tội phạm
này. Tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác được quy
định tại điều 134 BLHS 2015, được chia thành 6 khoản. Trong đó khoản 1
quy định cấu thành cơ bản đối với tội danh này, các khoản 2, 3, 4, 5, 6 quy
định cấu thành tăng nặng cho người mà thực hiện hành vi. Mức cao nhất của
tội này được quy định tại khoản 5 điều 134 BLHS 2015 là tù chung thân.
1.1.2. Các dấu hiệu pháp lý của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn
hại cho sức khoẻ của người khác
1.1.2.1. Khách thể của tội phạm
Khách thể của tội phạm CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của
người khác đó là những chủ thể có quyền được tôn trọng và bảo vệ về tính
mạng, sức khỏe – những người đang sống, đang tồn tại với tư các là thực thể
của xã hội [8; tr.410]. Điều 134 BLHS là tội ghép: Tội CYGTT và tội cố ý

9


gây tổn hại cho sức khoẻ người khác. Việc quy định điều luật này trong
BLHS nhằm mục đích bảo vệ sức khoẻ cho mọi công dân. Như vậy, khách thể
trực tiếp của tội phạm này là xâm phạm đến sức khoẻ của người khác. Người
khác ở đây được hiểu là một con người cụ thể đang sống, đang tồn tại theo
quy luật của tự nhiên. Nếu một người tự gây thương tích hoặc gây tổn hại cho
sức khoẻ cho chính mình thì không được coi là tội phạm, trừ trường hợp

người đó tự gây thương tích cho chính mình để thực hiện một tội phạm khác.
Ví dụ: Tự gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ cho chính mình để
trốn tránh nghĩa vụ quân sự thì vi phạm vào điểm a khoản 2 Điều 332 BLHS.
Tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là hành vi cố
ý làm cho người khác bị thương hoặc tổn hại đến sức khỏe một cách trái pháp
luật. Tội phạm xâm phạm đến quyền được bảo hộ về sức khỏe của con người.
Khách thể của tội CYGTT hoặc gây tổn hại sức khỏe của người khác
chính là quyền được bảo vệ sức khỏe và tôn trọng quyền của con người mà
được luật pháp bảo hộ. Tội CYGTT hoặc gây tổn hại sức khỏe của người
khác thì khách thể trực tiếp chính là sức khỏe của con người. Vì chủ thể của
hầu hết mọi quan hệ xã hội là con người, khi quyền được tôn trọng và bảo vệ
sức khỏe của con người bị xâm phạm nó làm phá vỡ sự ổn định của các quan
hệ xã hội đó.
1.1.2.2. Mặt khách quan của tội phạm
Mặt khách quan của tội hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là
những hành vi có tính chất gây tổn hại cho sức khỏe của con người. Những hành
vi đó có thể là hành động hoặc không có thể là không hành động [8; tr.410]
Mặt khách quan của tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ người
khác bao gồm các dấu hiệu biểu hiện ra bên ngoài gồm: Hành vi nguy hiểm
cho xã hội; hậu quả nguy hiểm; mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu
quả; phương pháp, phương tiện, công cụ, thủ đoạn để thực hiện hành vi nguy
hiểm; thời gian, không gian, địa điểm xảy ra hành vi nguy hiểm.

10


Hành vi khách quan của tội phạm thể hiện có các đặc tính sau: tính
nguy hiểm cho xã hội; tính trái pháp luật hình sự; có sự kiểm soát của ý thức
và phải có sự điều khiển của ý chí.
Hành vi khách quan của tội phạm có thể thực hiện bằng hành động

hoặc không hành động, bằng hành động tức là người phạm tội thực hiện các
hành vi tác động vào cơ thể người khác làm cho người đó bị thương hoặc bị
tổn hại sức khỏe bằng các công cụ, phương tiện như: Đâm, chém, bắn, đốt
cháy, đầu độc… hoặc không có công cụ, phương tiện phạm tội như: Đấm, đá,
cắn... hoặc có thể thông qua súc vật như: Thả chó cắn, trâu húc, ngựa đá...hay
có thể thông qua người khác như: Nắm chân người khác quăng để gây thương
tích cho người thứ 3, hay ôm người này ném vào người khác... Bằng không
hành động như Y tá cố tình không tiêm cho bệnh nhân....
Hậu quả của tội CYGTT là thương tích, là tổn thương để lại trên cơ thể
con người. Ví dụ: Giập gan, gẫy chân, vỡ đầu... Tội cố ý gây tổn hại cho sức
khoẻ người khác phải có hậu quả xảy ra là làm tổn hại các chức năng, bộ phận
trên cơ thể con người. Ví dụ: làm rối loạn hệ thần kinh, hệ tuần hoàn, tiêu
hoá... Nạn nhân bị thương tích hoặc bị tổn hại đến sức khoẻ ở mức đáng kể,
nếu thương tích không đáng kể thì chưa phải là tội phạm. Theo Điều 134
BLHS thì lấy tỷ lệ thương tật của nạn nhân làm căn cứ để xác định TNHS và
định khung hình phạt đối với người phạm tội, người bị thương tích hoặc bị
tổn hại đến sức khỏe phải có tỷ lệ thương tật từ 11% trở lên thì người phạm
tội mới bị truy cứu TNHS hoặc gây thương tích dưới 11% nhưng thuộc các
trường hợp: Dùng hung khí nguy hiểm hoặc dùng thủ đoạn gây nguy hại cho
nhiều người...Căn cứ để xác định tỉ lệ thương tật là kết luận của Hội đồng
giám định y khoa, trong trường hợp ở nơi nào không tổ chức được Hội đồng
giám định y khoa thì có thể căn cứ vào Thông tư 20/2014/TT-BYT ngày 12
tháng 6 năm 2014 của Bộ Y tế quy định tỷ lệ tổn thương cơ thể sử dụng trong
giám định pháp y, giám định pháp y tâm thần.

11


Cố ý gây thương tích dẫn đến hậu quả chết người là trường hợp người
phạm tội cố ý với việc gây thương tích nhưng vô ý với hậu quả chết người.

Cũng coi là cố ý gây thương tích dẫn đến chết người trong trường hợp nạn
nhân là người cao tuổi, sức yếu hoặc người bị bệnh nặng chỉ cần tác động
không mạnh cũng đã làm cho nạn nhân bị chết, nhưng vì người phạm tội
không biết tình trạng bệnh tật của nạn nhân. Nhưng nếu người phạm tội biết
rõ tình trạng bệnh tật, sức khỏe của nạn nhân mà vẫn cố ý gây thương tích
nhằm để nạn nhân chết thì nên định tội giết người. Không được coi là cố ý
gây thương tích dẫn đến chết người trong trường hợp nạn nhân bị thương nhẹ,
nhưng vì lý do khác mà nạn nhân chết.
Xét mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả thương tích thì đây
là dấu hiệu bắt buộc của CTTP. Hành vi trái pháp luật phải là nguyên nhân
gây ra hậu quả thương tích hoặc tổn hại sức khoẻ, tức là có mối quan hệ nhân
quả giữa hành vi và hậu quả. Để xem xét mối quan hệ nhân quả ta phải dựa
vào những căn cứ sau: Hành vi gây thương tích (được coi là nguyên nhân)
phải là hành vi nguy hiểm cho xã hội; hành vi gây thương tích phải xảy ra
trước hậu quả gây thương tích về mặt thời gian; hậu quả nguy hiểm phải do
chính hành vi nguy hiểm gây thương tích gây ra chứ không phải là hành vi
nào khác; hành vi gây thương tích đó làm phát sinh hậu quả là nguyên nhân
trực tiếp, hậu quả xảy ra đúng là sự hiện thực hoá khả năng thực tế phát sinh
hậu quả của hành vi trái pháp luật. Ví dụ: do mâu thuẫn cá nhân A đã cầm dao
chém đứt tay của B, mọi người vội vàng đưa B đưa đi cấp cứu thì bị tai nạn
làm B bị gẫy chân, giám định tổng tỷ lệ thương tích B mất 40% sức khoẻ.
Nếu xác định A cầm dao chém B gây tỷ lệ thương tích là 40% là không có
quan hệ nhân quả. Vì hành vi của A dùng dao chém B làm đứt bàn tay B,
Aphải chịu TNHS về thương tích không phải chịu TNHS về thương tích B bị
gẫy chân do không có quan hệ nhân quả.

12


Những dấu hiệu khác như: Phương pháp, phương tiện, công cụ phạm

tội, thời gian, không gian, địa điểm, hoàn cảnh v.v... Có ý nghĩa quan trọng
trong việc đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội là cơ
sở để định khung hình phạt và quyết định hình phạt.
1.1.2.3. Chủ thể của tội phạm
Chủ thể của tội phạm theo quy định của BLHS 2015 bao gồm cả cá
nhân và pháp nhân thương mại. Căn cứ Điều 76 BLHS thì Pháp nhân thương
mại không phải chịu TNHS về tội CYGTT hoặc gây tổn hại đến sức khỏe của
người khác. Do vậy chủ thể tội CYGT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác là cá nhân.
Cá nhân là chủ thể của tội phạm là người có năng lực chịu TNHS và đạt
độ tuổi theo quy định, Điều 12 của BLHS 2015 quy định về tuổi chịu TNHS:
“1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu TNHS về mọi tội phạm, trừ
những tội phạm mà Bộ luật này có quy định khác.
2. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự
về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại
một trong các điều 123, 134, 141, 142, 143, 144, 150, 151, 168, 169, 170,
171, 173, 178, 248, 249, 250, 251, 252, 265, 266, 286, 287, 289, 290, 299,
303 và 304 của Bộ luật này”
Như vậy, người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu TNHS quy định từ
khoản 1 đến khoản 6 Điều 134 BLHS.
Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu TNHS quy định tại
khoản 3, 4, 5 Điều 134 BLHS năm 2015. (Vì các khoản 1, 2, 6 Điều 134
BLHS thuộc trường hợp tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng)
Năng lực TNHS là điều kiện cần thiết để có thể xác định con người có
lỗi khi họ thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội. Chỉ người có năng lực
TNHS mới có thể là chủ thể của tội phạm [8.Tr122]. Người có năng lực
TNHS trong tội CYGTT hoặc gây tổn hại đến sức khỏe người khác là người

13



khi thực hiện hành vi gây thương tích họ nhận thức được tính chất nguy hiểm
về sức khỏe cho người khác của hành vi của mình và có khả năng điều khiển
được hành vi ấy.
1.1.2.4. Mặt chủ quan của tội phạm
Mặt chủ quan của tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người
khác bao gồm lỗi, động cơ, mục đích phạm tội.
Lỗi trong hành vi phạm tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ
người khác được thực hiện do cố ý, lỗi cố ý này có thể trực tiếp hoặc gián
tiếp. Tức là người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình nhất định hoặc có
thể gây ra thương tích hoặc tổn hại cho sức khoẻ của người khác nhưng mong
muốn hoặc có ý thức để mặc,chấp nhận hậu quả đó xẩy ra.[13;414] Lỗi cố ý
gián tiếp là trường hợp người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là có
thể gây hậu quả thương tích cho người khác, tuy không mong muốn nhưng
vẫn có ý thức để mặc cho hậu quả xẩy ra.
Động cơ, mục đích không phải là dấu hiệu bắt buộc của tội CYGTT
hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ người khác. Tuy nhiên, động cơ, mục đích có
thể làm thay đổi tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội và cũng là
một trong các căn cứ xem xét phân biệt tội danh với tội danh khác.
1.1.3 Phân biệt tội giết người với tội cố ý gây thương tích
1.1.3.1. Phân biệt trường hợp giết người (tội phạm hoàn thành) với Cố
ý gây thương tích dẫn đến hậu quả chết người.
Giết người là hành vi cố ý tước đoạt tính mạng của người khác một cách
trái pháp luật; giữa hành vi phạm tội và hậu quả chết người có mối quan hệ
nhân quả; hành vi phạm tội là nguyên nhân trực tiếp gây ra hậu quả chết người.
Cố ý gây thương tích dẫn đến hậu quả chết người là trường hợp người
phạm tội cố ý với việc gây thương tích nhưng vô ý với hậu quả chết người.
Hậu quả chết người xẩy đến là do nguyên nhân khác như: không cấp cứu kịp,
do bị đánh nhưng lại đập đầu xuống đất.


14


Hai trường hợp trên giống nhau chủ thể đều từ 14 tuổi trở lên có năng
lực trách nhiệm hình sự, cùng có hành vi xâm phạm thân thể người khác như
bắn, chém, đấm, đá…. để lại hậu quả chết người. Vì để lại hậu quả chết người
nên người ta hay căn cứ vào hậu quả để định tội là giết người nên rất dễ nhầm
lẫn. Tuy nhiên, phân tích kỹ các yếu tố cấu thành tội phạm, hai tội trên khác
nhau ở điểm sau:
Xét mặt chủ quan, với tội giết người người phạm tội cố ý tước đoạt tính
mạng của người khác một cách trái pháp luật, người phạm tội thấy trước hậu
quả chết người sẽ hoặc có thể xảy ra và mong muốn hoặc để mặc hậu quả xẩy
ra. Trong tội “Cố ý gây thương tích” dẫn đến hậu quả chết người phạm tội chỉ
cố ý gây thương tích nhưng hậu quả chết người đã xẩy ra. Người phạm tội cố
ý với việc gây thương tích và vô ý với hậu quả chết người. Trước, trong và
sau khi thực hiện hành vi chưa bao giờ người phạm tội phạm tội nhận thức
rằng hành vi sẽ dấn đến hậu quả chết người hoặc có có ý thức để mặc hậu quả
chết người xẩy ra. Hậu quả chết người xảy ra là ngoài ý muốn chủ quan của
người phạm tội, đồng thời đây là tình tiết định khung tăng nặng trong tội Cố ý
gây thương tích.
Mục đích người phạm tội trong tội giết người là tước đoạt đi tính mạng
của người khác. Mục đích người phạm tội trong tội cố ý gây thương tích là
gây thương tích, tổn hại đến sức khỏe của người khác.
Về mặt khách quan của hai tội tương tự nhau hành vi nhưng lại khác
nhau về mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả chết người. Hậu quả
chết người của tội giết người là do chính hành vi của người phạm tội trực tiếp
gây nên, ngoài ra không còn nguyên nhân nào khác (quan hệ nhân quả trực
tiếp). Hậu quả chết người của tội cố ý gây thương tích dẫn đến hậu quả chết
người không chỉ do hành vi của người phạm tội gây nên, hành vi của người
phạm tội không phải là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến chết người mà nạn

nhân chết còn do những nguyên nhân khác. Ví dụ: A dùng dao gọt hoa quả

15


đâm vào đùi B không may trúng động mạnh đùi, B được đưa đi cấp cứu
nhưng do nhà xa bệnh viện nên khi đến bệnh viện đã bị chết do mất máu. A
đâm vào đùi B  mất máu là nguyên nhân trực tiếp gây lên hậu quả chết
người. Do vậy A phạm tội cố ý gây thương tích dẫn đến hậu quả chết người.
1.1.3.2. Phân biệt giết người chưa đạt với cố ý gây thương tích
Giết người chưa đạt là trường hợp người phạm tội mong muốn giết
người nhưng hậu quả chết người chưa xảy ra do nguyên nhân ngoài ý muốn
chủ quan của người phạm tội. Giết người chưa đạt thuộc trường hợp tội phạm
chưa hoàn thành, nhưng tội phạm chưa hoàn thành không phải có mỗi trường
hợp tội phạm chưa đạt mà bao gồm cả việc chuẩn bị phạm tội. Chuẩn bị phạm
tội giết người và giết người chưa đạt là hành vi phạm tội chưa hoàn thành ở
các mức độ khác nhau. Một bên ở gian đoạn chuẩn bị điều kiện cần thiết thực
hiện tội phạm. Một bên đã có hành vi xâm phạm thân thể người bị tấn công.
Giết người chưa đạt xảy ra với lỗi cố ý trực tiếp vì ý thức chủ quan của người
phạm tội là mong muốn hậu quả chết người xảy ra; Cố ý gây thương tích là
hành vi cố ý làm người khác bị thương hoặc gây tổn hại đến sức khỏe một
cách trái pháp luật.
Hai trường hợp trên dễ nhầm lẫn vì giống nhau về mặt khách quan, đều
có hành vi xâm phạm thân thể người khác như bắn, chém, đấm, đá….và chỉ
để lại hậu quả gây thương tích, không có hậu quả chết người. Vì để lại hậu
quả thương tích nên nhiều ngươì đã vội vàng căn cứ vào tỷ lệ thương tích để
định tội Cố ý gây thương tích hoặc chưa chết người thì không phải tội giết
người dẫn đến định tội danh sai.
Hai trường hợp trên khác nhau ở khách thể, chủ thể và chủ quan của tội
phạm.

Xét về khách thể, khách thể bị xâm phạm của tội giết người là tính
mạng con người, còn khách thể bị xâm phạm của tội cố ý gây thương tích dẫn
đến hậu quả chết người là sức khỏe của con người.

16


Xét về chủ thể, chủ thể của tội giết người là người từ đủ 14 tuổi trở lên
và có năng lực trách nhiệm hình sự. Còn người từ đủ 14 tuổi trở lên đến dưới
16 tuổi chỉ chịu trách nhiệm hình sự theo Khoản 3, 4,5 tội cố ý gây thương
tích. Yếu tố chủ thể này cho thấy cùng là hành vi tấn công thân thể người
khác, nếu xác định đó là giết người thì chủ thể phải chịu trách nhiệm hình sự,
nếu xác định đó là cố ý gây thương tích thuộc Khoản 1, 2 Điều 134 thì chủ thể
từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi không phải chịu trách nhiệm hình sự. Do vậy,
thực tiễn cùng hành vi xâm phạm thân thể người khác nếu đánh giá là tội giết
người thì chủ thể phải chịu TNHS, nếu đánh giá là cố ý gây thương tích thì có
thể chủ thể không phải chịu TNHS.
Xét mặt chủ quan, mặc dù hai tội trên giống nhau lỗi cố ý trực tiếp
nhưng khác nhau ý thức chủ quan của người phạm tội. Nếu người phạm tội
có ý thức tước đoạt tính mạng nạn nhân nhưng vì những lý do khách quan mà
nạn nhân không chết thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội
giết người (chưa đạt).
Ví dụ: Sáng 18/5/2015, Nguyễn Vỹ Hùng chuẩn bị 1 đôi găng tay cao
su và một con dao Thái Lan bỏ vào túi quần rồi trèo qua lan can vào phòng
của chị Phan Thị Tâm để trộm cắp tài sản. Trong lúc Hùng lục lọi tìm tài sản
thị chị Tâm bất ngờ đi vào. Sợ bị phát hiện nên Hùng nấp sau cánh cửa
phòng. Lợi dụng lúc sơ hở, Hùng dùng tay bịt miệng chị Tâm rồi kéo vào
phòng ngủ. Trong lúc hai bên giằng co, Hùng rút dao thủ sẵn trong người ra
đâm chị Tâm 2 nhát vào vùng mặt. Chị Tâm cố vùng bỏ chạy kêu cứu thì bị
Hùng đuổi theo và đâm liên tiếp cho đến khi nạn nhân ngã gục rồi kéo vào

phòng ngủ. Lúc bấy giờ, hàng xóm nghe tiếng kêu cứu chạy đến xem thì
Hùng vứt dao, găng tay rồi bỏ trốn. Hậu quả, chị Tâm bị đâm 12 nhát, thương
tích 35%.
Mặc dù chị Tâm chỉ bị thương tích 35% nhưng bị cáo phạm tội Giết
người chứ không phải tội cố ý gây thương tích bởi vì ý thức chủ quan của bị

17


cáo là mong muốn chị Tâm chết che dấu hành vi trộm cắp. Trước khi phạm
tội, bị cáo đã có ý thức chuẩn bị con dao Thái Lan với ý định nếu hành vi
trộm cắp của mình bị phát hiện thì sẽ đánh lại chủ tài sản. Khi chị Tâm phát
hiện, bị cáo đã đâm 02 nhát vào mặt, bị đâm chị Tâm kêu cứu và vùng dạy bỏ
chạy. Đến đậy, bị cáo hoàn toàn có cơ hội bỏ chạy, nhưng không những
không chạy mà bị cáo còn hành vi hung hãn, quyết liệt hơn đuổi theo đâm
nhiều nhát vào người nạn nhân cho đến khi nạn nhân gục ngã thể hiện ý thức
chủ quan là mong muốn nạn nhân chết đến cùng để che dấu hành vi trộm cắp
(lỗi cố ý trực tiếp). Tuy nhiên nạn nhân không chết do nguyên nhân khách
quan ngoài ý muốn của bị cáo. Do vậy, bị cáo phạm tội Giết người (chưa đạt).
Tóm lại, cơ sở phân biệt lỗi tội Giết người và tội Cố ý gây thương
dựa vào ý thức chủ quan của người phạm tội. Xét về ý chí, người phạm tội
có thấy trước hậu quả chết người xảy ra hay không? Xét về lý chí người
phạm tội mong muốn hay chấp nhận hậu quả này? Nếu người phạm tội
không thấy trước hậu quả chết người thì đó là hành vi cố ý gây thương tích.
Nếu người phạm tội có thể thấy trước hậu quả chết ngườinhưng không
mong muốn hậu quả chết người xẩy ra (có ý thức bỏ mặc hậu quả) thì hậu
quả đến đâu người phạm tội chịu trách nhiệm đến đó. Tuy nhiên, thực tế để
xác định ý thức chủ quan của người phạm tội là điều không thật dễ dàng,
bởi ý thức chủ quan là thái độ tâm lý bên trong người phạm tội, muốn nhận
định yếu tố này không có cách nào khác là đánh giá, đối chiếu, phân tích

các tình tiết khách quan một cách toàn diện và biện chứng. Các tình tiết đó
bao gồm: Thời điểm, hoàn cảnh không gian phạm tội, hung khí tấn công, vị
trí tấn công, cường độ tấn công, thái độ lời nói của bị cáo trước, trong và
sau khi tấn công, kết luận giám định pháp y...

18


1.2. Quy định của BLHS2015 về tội cố ý gây thương tích hoặc gây
tổn hại cho sức khỏe của người khác trong sự so sánh với BLHS 1999
Quốc hội khoá 13 với 500 đại biểu đã biểu quyết thông qua BLHS
2015 ngày 27/11/2015 với 84,01% đại biểu tán thành. Và theo quy định tại
Điều 426 BLHS 2015, ngày 01/7/2016 BLHS sẽ có hiệu lực thi hành ngay.
Nhưng ngày 27/6/ 2016 Ủy ban Thường vụ Quốc hội họp với Trưởng đoàn
đại biểu Quốc hội các tỉnh, thành về tiến trình triển khai BLHS 2015.
Do BLHS 2015 có khoảng 90 lỗi kỹ thuật, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã
gửi phiếu biểu quyết đến các đại biểu để hoãn thi hành đạo luật này.
Ngày 20/6/2017, Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 2015, BLHS
có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2018.So sánh Điều 134 của BLHS 2015
với Điều 104 BLHS năm 1999 chúng ta thấy có rất nhiều những điểm sửa đổi,
bổ sung như sau:
1.2.1. Kết cấu của Điều 134 BLHS 2015
Điều 134 BLHS 2015 quy định:
“1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng
thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ
đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
.............................................
6. Người nào chuẩn bị vũ khí, vật liệu nổ, hung khí nguy hiểm, a-xít

nguy hiểm, hóa chất nguy hiểm hoặc thành lập hoặc tham gia nhóm tội phạm
nhằm gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, thì bị
phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02
năm.”
Điều 134 Bộ luật hình sự 2015 quy định 6 khung hình phạt, tăng về số
lượng 2 khung hình phạt so với Bộ luật hình sự 1999, mức hình phạt thấp nhất

19


và cao nhất không có gì thay đổi. Tại Điều 104 Bộ luật hình sự 1999 quy định
04 khung hình phạt, khung cơ bản (khoản 1) là phạt cải tạo không giam giữ
đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm, khoản 2 là phạt tù từ hai
năm đến bảy năm, khoản 3 là phạt tù từ năm năm đến mười lăm năm, khoản 4
là phạt tù từ mười năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân. Đối với Điều
134 Bộ luật hình sự 2015 quy định 06 khung hình phạt, khung cơ bản là
(khoản 1) so với quy định của BLHS 1999 thì không thay đổi: Phạt cải tạo
không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm, khoản 2
là phạt tù từ 02 năm đến 06 năm (mức hình phạt cao nhất của khung nhẹ hơn
quy định cũ 01 năm tù), khoản 3 là phạt tù từ 05 năm đến 10 năm (mức hình
phạt cao nhất của khung nhẹ hơn quy định cũ 05 năm tù), khoản 4 là phạt
tù từ 07 năm đến 14 năm (mức hình phạt khởi điểm của khung hình phạt này
thấp hơn quy định cũ 03 năm, mức hình phạt cao nhất của khung thấp hơn
quy định cũ 06 năm tù và không có hình phạt chung thân, khoản 5 là phạt tù
từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân, khoản 6 là quy định đối với người
chuẩn bị phạm tội này, với khung hình phạt là cải tạo không giam giữ đến 02
năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm.
1.2.2. Thay đổi về nội dung của từng khoản trong điều luật
So với quy định tại khoản 1 Điều 104 Bộ luật hình sự 1999 thì khoản 1
Điều 134 Bộ luật hình sự 2015 bổ sung, sửa đổi những nội dung chính như sau:

Khoản 1 Điều 104 Bộ luật hình sự 1999 và khoản 1 Điều 134 Bộ luật
hình sự năm 2015 đều lấy các tình tiết tăng nặng ở khoản 1 làm tình tiết định
khung tăng nặng ở khoản 2 đối với trường hợp bị hại tỷ lệ thương tích, tổn hại
sức khỏe từ 11% đến 30%. Nhưng khoản 1 Điều 134 Bộ luật hình sự mới đã
thay đổi cách quy định này theo hướng lọc bỏ tình tiết định khung cơ bản
không cần thiết, phân loại các tình tiết định khung tăng nặng với mức độ nguy
hiểm, nguy hại khác nhau để giữ một số tình tiết ở khoản 1 và chuyển một số
tình tiết sang khoản 2 theo cấp độ nguy hiểm, nguy hại tương ứng và đưa một

20


trong những tình tiết định khung cơ bản ở khoản 1 làm cơ sở để áp dụng tình
tiết định khung tăng nặng tại các khoản sau của điều luật mới trong trường
hợp tỷ lệ thương tích, tổn hại sức khỏe của bị hại từ 11% đến 30%.
Thay đổi cụm từ “tỷ lệ thương tật” thành cụm từ “tỷ lệ tổn thương cơ
thể”. Theo tác giả thì cụm từ “tỷ lệ tổn thương cơ thể” là phù hợp với quy
định chuyên ngành của “Thông tư liên tịch số 28/2013/TTLT-BYT-BLĐTBXH
ngày 27 tháng 9 năm 2013 của Bộ Y tế và Bộ Lao động – Thương binh và Xã
hội về quy định tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích, Thông tư số
20/2014/TT-BYT ngày 12 tháng 6 năm 2014 của Bộ trưởng Bộ Y tế về ban
hành Bản tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể do thương tích”. Nếu theo Thông
tư cũ (Thông tư liên bộ số 12-TTLB ngày 26 tháng 7 năm 1995 của liên Bộ Y
tế – Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội qui định về tiêu chuẩn thương tật
và tiêu chuẩn bệnh tật) thì xác định cụm từ này là “thương tật”thì hợp
lý. Theo tác giả câu từ mà Bộ luật hình sự 2015 dùng là hoàn toàn chính xác,
có cập nhập theo văn bản mới của Bộ y tế, đây là sự thay đổi có ý nghĩa
chuẩn xác của thuật ngữ pháp lý.
Sửa đổi, bổ sung thêm tình tiết định khung cơ bản quy định tại điểm a
khoản 1. Theo quy định ở Bộ luật 1999 thì chỉ xác định 02 tình tiết là: Tình

tiết “dùng hung khí nguy hiểm” và tình tiết “dùng thủ đoạn gây nguy hại cho
nhiều người” nhưng đối với quy định tại điểm a khoản 1 Điều 134 được chia
thành 04 tình tiết tương ứng với người phạm tội dùng “vũ khí”,“vật liệu
nổ”, “hung khí nguy hiểm” và “thủ đoạn có khả năng gây nguy hại cho nhiều
người”.
Đối với tình tiết “dùng thủ đoạn gây nguy hại cho nhiều người” của
quy định của BLHS 1999 với tình tiết “dùng thủ đoạn có khả năng gây nguy
hại cho nhiều người” của quy định mới. BLHS 2015 bổ sung từ “có khả
năng” vào tình tiết này sẽ giải quyết dứt điểm vướng mắc trong thực tiễn
trước đây là người phạm tội “dùng thủ đoạn” trong thực tế các vụ án thì sau

21


×