Tải bản đầy đủ (.pdf) (86 trang)

Luận văn tội buôn lậu theo pháp luật hình sự việt nam từ thực tiễn tỉnh quảng ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (802.8 KB, 86 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

PHẠM VĂN HOAN

TỘI BUÔN LẬU THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG NINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ

HÀ NỘI, NĂM 2019


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

PHẠM VĂN HOAN

TỘI BUÔN LẬU THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG NINH

Ngành: Luật hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 8.38.01.04

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
GS.TS. VÕ KHÁNH VINH

HÀ NỘI, NĂM 2019



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn “Tội buôn lậu theo pháp luật hình sự Việt
Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Ninh” là công trình nghiên cứu do chính tôi thực
hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của GS.TS Võ Khánh Vinh. Các nội dung,
thông tin được trình bày trong luận văn là trung thực.
Tôi xin chịu trách nhiệm về lời cam đoan trên của mình.
Hà Nội, ngày 28 tháng 06 năm 2019
Tác giả luận văn

Phạm Văn Hoan


MỤC LỤC
MỞ ĐẦ U .......................................................................................................... 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ TỘI
BUÔN LẬU ...................................................................................................... 6
1.1. Những vấn đề lý luận về tội buôn lậu .................................................. 6
1.2. Những vấn đề pháp luật về Tội buôn lậu theo pháp luật hình sự
Việt Nam ................................................................................................... 16
Chương 2: ÁP DỤNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ TỘI BUÔN LẬU
TẠI TỈNH QUẢNG NINH ........................................................................... 31
2.1. Khái quát về các đặc điểm có tác động, ảnh hưởng tới việc áp dụng
pháp luật hình sự về tội buôn lậu tại tỉnh Quảng Ninh ............................. 31
2.2. Định tội danh tội buôn lậu tại tỉnh Quảng Ninh ................................ 33
2.3. Áp dụng các hình thức trách nhiệm hình sự đối với tội buôn lậu ...... 56
Chương 3: CÁC GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO ÁP DỤNG ĐÚNG CÁC
QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ TỘI BUÔN LẬU ........... 65
3.1. Hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự về tội buôn lậu ........ 65
3.2. Tổng kết thực tiễn gắn với Hướng dẫn áp dụng các quy định của
pháp luật hình sự về tội buôn lậu .............................................................. 68

3.3. Các giải pháp khác ............................................................................. 71
KẾT LUẬN .................................................................................................... 76
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 78


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BLHS

: Bộ luật hình sự

BLTTHS

: Bộ luật tố tụng hình sự

CQTHTT

: Cơ quan tiến hành tố tụng

CTTP

: Cấu thành tội phạm

TAND

: Tòa án nhân dân

VKSND

: Viện kiểm sát nhân dân


TNHS

: Trách nhiệm hình sự

BCĐ

: Ban chỉ đạo


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong giai đoạn hiện nay, nước ta đang tập trung đẩy mạnh việc tiếp tục
hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa từ nay đến
năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 theo Nghị quyết số 11-NQ/TW, ngày
03/6/2017, Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung Đảng khóa XII; công
cuộc đổi mới đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế đã đạt được nhiều thành
tựu to lớn, đưa nước ta thoát khỏi nhóm thu nhập thấp, trở thành nước có
nhóm thu nhập trung bình, vị thế của nước ta trên trường quốc tế không
ngừng được mở rộng và nâng cao. Sức mạnh tổng hợp từ nguồn nội lực của
đất nước không ngừng được củng cố và phát triển, tình hình chính trị, xã hội
ổn định, đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân không ngừng được cải
thiện và nâng cao, được bạn bè quốc tế đánh giá cao. Tuy nhiên, bên cạnh các
thành tựu đã đạt được thì tự do thương mại, hội nhập kinh tế quốc tế cũng đã
làm nảy sinh các vấn đề tiêu cực, một số loại hành vi vi phạm pháp luật, tội
phạm có chiều hướng gia tăng, trong đó có tội phạm “Buôn lậu”.
Buôn lậu được xác định là một trong những loại tội phạm nguy hiểm,
trong nền kinh tế thị trường, buôn lậu không chỉ làm ảnh hưởng đến sự phát
triển bình thường, làm thiệt hại cho nền kinh tế của đất nước, gây thất thu
thuế cho Nhà nước mà nó còn đe dọa phá vỡ chính sách kinh tế đất nước, gây

mất an ninh trật tự và làm ảnh hưởng tiêu cực đến quyền lợi người tiêu dùng.
Ở nước ta trong những năm gần đây tội phạm buôn lậu có chiều hướng gia
tăng và diễn biến phức tạp, với quy mô ngày càng mở rộng trên nhiều lĩnh
vực, giá trị hàng hóa lớn; các đối tượng buôn lậu sử dụng nhiều phương thức,
thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt, hoạt động có tổ chức, manh động, sẵn sàng đối
phó, chống trả quyết liệt các lực lượng chức năng nhằm cướp lại, tẩu tán hàng
hóa,…Nhà nước, các cơ quan chức năng và các địa phương cũng đã có nhiều

1


biện pháp, giả pháp ngăn chặn, song tội phạm buôn lậu vẫn đang diễn biến
phức tạp, gây nguy hiểm cho nền kinh tế và xã hội.
Quảng Ninh là tỉnh miền núi, biên giới, hải đảo, nằm ở phía Đông Bắc
Tổ quốc, có vị trí địa lý thuận lợi và nhiều tiềm năng, lợi thế đặc thù; nằm
trong khu vực hợp tác “hai hành lang, một vành đai kinh tế” Việt Nam Trung Quốc, nhịp cầu quan trọng của khu vực mậu dịch tự do ASEAN Trung Quốc. Có nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, với trữ lượng than
đá chiếm hơn 90% cả nước và lớn nhất Đông Nam Á. Có diện tích đất liền hơn
6.100 km2 và diện tích biển tương đương, với 2.077 hòn đảo lớn nhỏ; dân số gần
1,2 triệu, với 22 dân tộc; 4 thành phố trực thuộc, 2 thị xã và 8 huyện; là tỉnh duy
nhất có cả đường biên giới trên biển và trên bộ, trong đó 10/14 huyện, thị xã,
thành phố tiếp giáp biển, có đường phân định Vịnh Bắc Bộ trên biển dài trên
191 km, có 01 thành phố và 02 huyện với 118,825 km đường biên giới trên bộ
tiếp giáp với nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa [4]. Bên cạnh các thành tựu về
kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh mà tỉnh Quảng Ninh đã đạt được trong
những năm qua thì Quảng Ninh cũng được xác định là một trong những địa bàn
trọng điểm trong các tỉnh biên giới phía Bắc về tội phạm buôn lậu.
Chính vì vậy, việc nghiên cứu tội buôn lậu trên phương diện lý luận và
thực tiễn để phát hiện, đề xuất, kiến nghị giải quyết các vấn đề hạn chế, vướng
mắc trong thực tiễn đấu tranh với tội phạm buôn lậu là hết sức cần thiết. Do đó,
Học viên đã chọn đề tài “Tội buôn lậu theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực

tiễn tỉnh Quảng Ninh” làm đề tài luận văn Thạc sỹ cho mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong thực tế những năm gần đây đã có nhiều công trình, đề tài nghiên
cứu về tội buôn lậu dưới góc độ lý luận và thực tiễn. Điển hình có:
- “ Buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới đất
liền Việt – Trung. Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả phòng ngừa và

2


đấu tranh của Bộ đội Biên phòng tỉnh Quảng Ninh” (Luận án Tiến sỹ của tác
giả Vũ Đình Nông – 1997);
- “ Chống buôn lậu và gian lận thương mại” (của PGS. Lê Thanh Bình,
NXB Chính trị quốc gia năm 1998);
- “ Một số vấn đề về đấu tranh phòng chống tội buôn lậu” (của tác giả
Ngô Ngọc Thủy, Trường Đại học Luật Hà Nội, năm 1995);
- “ Đấu tranh phòng chống buôn lậu trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh”
(Luận văn Thạc sỹ của tác giả Dương Thị Nhàn, năm 2006);
- “Điều tra các vụ án buôn lậu của cơ quan Hải quan” (Luận văn Thạc
sỹ của tác giả Dương Xuân Sinh, năm 2016).
Ngoài ra còn nhiều công trình, bài viết nghiên cứu của các tác giả khác
trên các báo, tạp chí Kiểm sát, Hải Quan, Công an nhân dân,….Các công
trình, đề tài nghiên cứu trên về cơ bản đã làm rõ về mặt lý luận và thực tiễn
trong công tác đấu tranh, phòng chống tội buôn lậu, đồng thời cũng đã phát
hiện, kiến nghị các giải pháp nâng cao hiệu quả trong phòng ngừa, đấu tranh,
xử lý tội phạm buôn lậu. Tuy nhiên trong thời điểm hiện nay, khi nước ta tiếp
tục hội nhập kinh tế quốc tế ở mức độ đa dạng hơn, sâu hơn, toàn diện hơn
thông qua nhiều hiệp định thương mại song phương và đa phương; mặt khác
còn có sự sửa đỏi, bổ sung các quy đinh của pháp luật, trong đó có pháp luật
Hình sự liên quan trực tiếp tới tội buôn lậu thì tội phạm buôn lậu cũng đã có

những thay đổi, xuất hiện nhiều phương thức thủ đoạn mới, đòi hỏi các cơ
quan, lực lượng chức năng thực thi phòng, chống buôn lậu, các học giả tiếp
tục nghiên cứu, bổ sung cho phù hợp và hiệu quả.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu “Tội buôn lậu theo pháp luật hình sự Việt Nam
từ thực tiễn tỉnh Quảng Ninh” nhằm đánh giá một cách khoa học, toàn diện
về tội phạm buôn lậu; trên cơ sở đó đề xuất các giải pháp góp phần nâng cao

3


hiệu quả trong phòng ngừa, đấu tranh, xử lý tội phạm buôn lậu trong thời
gian tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, nhiệm vụ cơ bản của luận văn cần đặt ra và
giải quyết là:
- Phân tích những vấn đề lý luận cơ bản về tội buôn lậu trong Luật hình
sự Việt Nam;
- Nghiên cứu đánh giá tình hình tội phạm buôn lậu và thực hiện áp dụng
pháp luật hình sự về tội buôn lậu trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh;
- Dự báo tình hình và đưa ra những kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy
định pháp luật hình sự Việt Nam về tội buôn lậu.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu những vấn
đề lý luận về tội buôn lậu trong Luật hình sự Việt Nam và thực tiễn công tác
đấu tranh, xử lý tội buôn lậu theo quy định.
4.2. Phạm vi nghiên cứu: Phạm vi nghiên cứu từ thực tiễn tỉnh
Quảng Ninh, giai đoạn 2014-2018.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Cơ sở lý luận: Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận và
phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, các
quan điểm của Đảng, Nhà nước ta về xây dựng Nhà nước pháp quyền, cải
cách tư pháp, chính sách hình sự trong giai đoạn hiện nay liên quan trực tiếp
tới tội buôn lậu.
5.2. Phương pháp nghiên cứu: Sử dụng đồng thời các phương pháp
suy luận, logic, thống kê, tổng hợp, so sánh, phân tích, chứng minh; tham
khảo ý kiến chuyên gia, tài liệu, sách, báo, tạp chí.

4


6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn được nghiên cứu một cách bài bản, có hệ thống và toàn diện
về tội phạm buôn lậu từ thực tiễn tỉnh Quảng Ninh, nên kết quả rút ra qua
nghiên cứu có ý nghĩa lý luận và thực tiễn.
6.1. Ý nghĩa lý luận: Ở góc độ lý luận, luận văn góp phần từng bước
hoàn thiện lý luận chuyên ngành luật hình sự và tố tụng hình sự.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn: Ở góc độ thực tiễn, với những đề xuất có tính
thực tế và khả thi sẽ là tư liệu tham khảo để các cơ quan chức năng đưa ra các
biện pháp, giải pháp nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh, phòng ngừa và xử
lý tội phạm buôn lậu.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo; luận văn có
kết cấu chia làm ba chương, gồm:
- Chương 1. Những vấn đề lý luận và pháp luật về tội buôn lậu
- Chương 2. Áp dụng pháp luật hình sự về tội buôn lậu tại tỉnh Quảng Ninh
- Chương 3. Các giải pháp đảm bảo áp dụng đúng các quy định của
pháp luật hình sự về tội buôn lậu


5


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT
VỀ TỘI BUÔN LẬU
1.1. Những vấn đề lý luận về tội buôn lậu
1.1.1. Khái niệm và các dấu hiệu pháp lý của tội buôn lậu
1.1.1.1. Khái niệm tội buôn lậu
Tội phạm nói chung và tội buôn lậu nói riêng là một hiện tượng tiêu cực
của xã hội mà nguồn gốc của nó là từ xã hội và sự phát triển của nó gắn liền
với sự phát triển của xã hội. Mỗi một quốc gia, để bảo vệ lợi ích của đất nước
mình, phù hợp với tập quán thương mại quốc tế đều đưa ra những chính sách
ngăn chặn và làm giảm bớt tác hại của loại tội phạm này.
Điều 8 BLHS của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm
2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017 (sau đây gọi tắt là BLHS năm 2015)
quy định: “1. Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong
Bộ luật Hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân
thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền,
thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ
kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi
ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm quyền con người, quyền, lợi ích hợp
pháp của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã
hội chủ nghĩa mà theo quy định của Bộ luật này phải bị xử lý hình sự. 2.
Những hành vi tuy có dấu hiệu của tội phạm nhưng tính chất nguy hiểm cho
xã hội không đáng kể thì không phải là tội phạm và được xử lý bằng các biện
pháp khác” [11]. Theo pháp luật hình sự, các hành vi thỏa mãn các yếu tố
được quy định trong Điều 8 BLHS nêu trên mới được coi là tội phạm. Chính
vì lí do đó, hành vi buôn lậu để được coi là tội phạm cũng phải thỏa mãn các
yếu tố được quy định trong Điều 8 BLHS năm 2015. Tội buôn lậu được quy

định tại Điều 188 thuộc “Chương XVIII – Các tội xâm phạm trật tự quản kinh

6


tế” của BLHS năm 2015. Để hiểu được khái niệm của tội buôn lậu cũng như
đặc điểm, ý nghĩa vị trí của tội buôn lậu trong BLHS, cần phải tìm hiểu, làm
rõ khái niệm những cụm từ, thuật ngữ có liên quan của tội danh này.
Theo Từ điển tiếng Việt, “buôn” được hiểu là việc mua đi bán lại một
loại hàng hóa nào đó nhằm kiếm lợi nhuận, “lậu” chỉ sự không chính đáng,
lén lút, trái pháp luật, “buôn lậu là buôn bán hàng hóa trốn thuế hoặc hàng
quốc cấm” [6]. Theo đó, nếu hiểu theo nghĩa thông thường, buôn lậu chỉ đơn
giản là hành vi buôn bán những mặt hàng cấm hoặc những hàng hóa trốn
đóng thuế theo quy định của pháp luật. Cụ thể hơn khái niệm tại Từ điển tiếng
Việt, Từ điển bách khoa Việt Nam giải thích như sau: “Buôn lậu là hành vi
buôn bán trái phép qua biên giới những loại hàng hóa hoặc ngoại tệ, kim khí
và đá quý, những vật phẩm thuộc về di tích lịch sử, văn hóa, những hàng cấm
xuất khẩu hay nhập khẩu hoặc buôn bán hàng hóa nói chung mà trốn thuế và
trốn sự kiểm tra của Hải quan” [7].
Tuy rõ ràng hơn nhưng khái niệm này vẫn chưa thật sự thuyết phục bởi
chưa khái quát được đầy đủ bản chất của hành vi buôn lậu làm cơ sở phân biệt
nó với các vi phạm hay hành vi phạm tội khác. Chính vì vậy, để tìm ra khái
niệm chính xác về hành vi buôn lậu và tội buôn lậu, bên cạnh việc tìm hiểu
khái niệm các cụm từ, thuật ngữ tạo nên tên tội danh, người nghiên cứu cũng
cần tìm hiểu nguồn gốc và bản chất của hành vi buôn lậu. Buôn lậu xuất hiện
trước hết là do có sự chênh lệch, khác nhau của sự phát triển kinh tế, chính trị,
văn hóa xã hội, dẫn đến sự không đồng nhất giữa các quốc gia có trình độ
phát triển sản xuất khác nhau, đặc biệt là các nước trong cùng khu vực về sức
sản xuất (nguồn cung), nhu cầu tiêu dùng (cầu).
Trong điều kiện quốc tế hóa và hội nhập kinh tế quốc tế cùng với sự

phát triển của khoa học và công nghệ, việc phân công sản xuất mang tính
chuyên môn hóa cao đã giúp các nước có nền kinh tế phát triển ngày càng tiết
kiệm triệt để chi phí sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm dẫn đến giá

7


thành hạ trong khi sản phẩm chất lượng vượt trội hơn hẳn các quốc gia đang
phát triển hoặc chậm phát triển. Sự chênh lệch ngày càng lớn về giá thành,
chất lượng sản phẩm giữa các nước trong cùng một khu vực tạo ra lợi nhuận
siêu ngạch cho người làm lưu thông hàng hóa. Đây chính là điều kiện sâu xa
khiến hành vi buôn lậu tồn tại và phát triển như một tất yếu khách quan. Với
bản chất là một hoạt động kinh tế bất hợp pháp mang tính xã hội, buôn lậu
luôn chịu sự tác động của các quy luật kinh tế và các quy luật xã hội. Việc
quan niệm về buôn lậu của từng quốc gia trong từng giai đoạn và điều kiện
chính trị, văn hóa, xã hội cũng vì thế mà khác nhau. Những quốc gia có nền
kinh tế phát triển thì khuyến khích xuất khẩu hàng hóa ra nước ngoài để
chiếm lĩnh thị trường, nâng tầm thương hiệu quốc gia – vấn đề được các quốc
gia phát triển đặc biệt quan tâm, do vậy, pháp luật các quốc gia này không tập
trung vào các biện pháp hạn chế xuất khẩu hàng hóa mà chỉ thắt chặt các biện
pháp hạn chế nhập khẩu. Đối với các quốc gia có nền kinh tế kém phát triển
hơn, sức sản xuất hạn chế, giá cả hàng hóa cao, nhu cầu tiêu dùng của xã hội
lớn, hành vi buôn lậu trở nên phức tạp hơn rất nhiều, bao gồm các hành vi
nhập khẩu (phổ biến là hàng hóa tiêu dùng, linh kiện, hàng cấm...) và xuất
khẩu (phổ biến là tài nguyên thiên nhiên, động thực vật quý hiếm...).
Với những đặc điểm nói trên, BLHS năm 2015 quy định tội buôn lậu tại
Điều 188: “1. Người nào buôn bán qua biên giới hoặc từ khu phi thuế quan
vào nội địa hoặc ngược lại trái pháp luật hàng hóa, tiền Việt Nam, ngoại tệ,
kim khí quý, đá quý trị giá từ 100.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng
hoặc dưới 100.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây,

thì bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 300.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 06
tháng đến 03 năm: a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi quy định
tại Điều này hoặc tại một trong các điều 189, 190, 191, 192, 193, 194, 195,
196 và 200 của Bộ luật này hoặc đã bị kết án về một trong các tội này, chưa
được xóa án tích mà còn vi phạm; b) Vật phạm pháp là di vật, cổ vật…….

8


6. Pháp nhân thương mại phạm tội quy định tại Điều này, thì bị phạt
như sau:
a) Thực hiện hành vi quy định tại khoản 1 Điều này với hàng hóa, tiền
Việt Nam, ngoại tệ, kim khí quý, đá quý trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới
300.000.000 đồng; hàng hóa trị giá dưới 200.000.000 đồng nhưng là di vật,
cổ vật; hàng hóa, tiền Việt Nam, ngoại tệ, kim khí quý, đá quý trị giá từ
100.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm
hành chính về hành vi quy định tại Điều này hoặc tại một trong các điều 189,
190, 191, 192, 193, 194, 195, 196 và 200 của Bộ luật này hoặc đã bị kết án về
một trong các tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền
từ 300.000.000 đồng đến 1.000.000.000 đồng;……
d) Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 4 Điều này, thì bị phạt
tiền từ 7.000.000.000 đồng đến 15.000.000.000 đồng hoặc đình chỉ hoạt động
có thời hạn từ 06 tháng đến 03 năm;
đ) Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại Điều 79 của Bộ luật này, thì
bị đình chỉ hoạt động vĩnh viễn;
e) Pháp nhân thương mại còn có thể bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng
đến 300.000.000 đồng, cấm kinh doanh, cấm hoạt động trong một số lĩnh vực
nhất định hoặc cấm huy động vốn từ 01 năm đến 03 năm”.
Căn cứ vào Điều 188 BLHS năm 2015 có thể đưa ra khái niệm về tội
buôn lậu như sau: “Tội buôn lậu là hành vi buôn bán qua biên giới hoặc từ

khu phi thuế quan vào nội địa hoặc ngược lại trái pháp luật hàng hóa, tiền
Việt Nam, ngoại tệ, kim khí quý, đá quý , di vật, cổ vật; do người hoặc pháp
nhân thương mại có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý
nhằm mục đích kiếm lời”.
Từ khái niệm trên có thể thấy rằng “buôn lậu” với vị trí là một tội phạm
trong BLHS phải có yếu tố bắt buộc là “qua biên giới hoặc từ khu phi thuế
quan vào nội địa hoặc ngược lại”, nếu hành vi buôn bán các mặt hàng kể trên

9


mà không qua biên giới hoặc từ khu phi thuế quan vào nội địa hoặc ngược lại
thì đó không phải là hành vi buôn lậu. Đồng thời, đối tượng của hành vi buôn
lậu theo Luật hình sự Việt Nam được cụ thể bao gồm: hàng hóa, tiền Việt
Nam, ngoại tệ, kim khí quý, đá quý trị giá ….; Vật phạm pháp là di vật, cổ
vật, bảo vật quốc gia; đồng thời tội buôn lậu trong BLHS còn có thêm dấu
hiệu mục đích của người phạm tội là mục đích kiếm lời, đây là một dấu hiệu
quan trọng nhằm phân biệt giữa tội buôn lậu và tội vận chuyển trái phép hàng
hóa, tiền tệ qua biên giới.
1.1.1.2. Các dấu hiệu pháp lý cơ bản của tội buôn lậu
a) Khách thể của tội phạm
Khách thể của tội phạm này là trật tự quản lý kinh tế mà cụ thể là trật tự
quản lý việc xuất, nhập khẩu hàng hoá, tiền tệ, kim khí đá quý, di vật, cổ vật,
vật có giá trị lịch sử, văn hóa, bảo vật quốc gia.
Đối tượng tác động của tội buôn lậu là hàng hoá, tiền Việt Nam, ngoại
tệ, kim khí quý, đá quý, vật phạm pháp có giá trị từ 100.000.000 đồng đến
dưới 300.000.000 triệu đồng và vật phạm pháp là di vật, cổ vật. Khi xác định
đối tượng tác động, nếu cần phải trưng cầu giám định của cơ quan chuyên
môn thì các cơ quan tiến hành tố tụng phải trưng cầu giám định.
b) Mặt khách quan của tội phạm

- Hành vi khách quan: mặt khách quan của tội buôn lậu được thể hiện ở
hành vi buôn bán qua biên giới hoặc từ khu phi thuế quan vào nội địa hoặc
ngược lại trái quy định của pháp luật các loại hàng hoá, tiền Việt Nam, ngoại
tệ, kim khí quý, đá quý, di vật, cổ vật và bảo vật quốc gia.
Buôn bán trái với qui định của của pháp luật là các hành vi rất đa dạng,
thủ đoạn tinh vi như: không khai báo hải quan, khai báo không đúng, giả mạo
giấy tờ, vi phạm tiêu chuẩn, định mức hàng hóa miễn thuế, lợi dụng các hình
thức ưu đãi đối với hàng hóa khu chế xuất, gia công đầu tư nước ngoài, khu
kinh tế cửa khẩu, tạm nhập tái xuất,...

10


- Thiệt hại do hành vi buôn lậu gây ra là để lọt những loại hàng cấm
như vũ khí, ma túy, chất nổ, tài liệu phản động,... gây ảnh hưởng an ninh quốc
gia; hàng hóa không đảm bảo tiêu chuẩn chất lượng, vi phạm môi trường, ảnh
hưởng an toàn cộng đồng; không thu đúng, thu đủ được thuế, ảnh hưởng ngân
sách nhà nước; hàng giả, vi phạm sở hữu trí tuệ, lợi dụng các chính sách ưu
đãi, chính sách khuyến khích xuất khẩu, chính sách đối với các mặt hàng
vàng, ngoại tệ, xăng dầu, khoáng sản, lương thực, thủy sản, nhu yếu phẩm,...
ảnh hưởng tới điều tiết kinh tế vĩ mô, phá hoại sản xuất trong nước.
- Một số dấu hiệu khách quan khác là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành
tội phạm như giá trị, số lượng hàng hóa vi phạm, địa điểm phạm tội.
+ Truy cứu trách nhiệm hình sự đối với tội phạm buôn lậu khi hàng hóa,
Việt Nam, ngoại tệ, kim khí quý, đá quý trị giá từ 100 triệu đồng đến dưới
300 triệu đồng hoặc dưới 100 triệu đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành
chính về hành vi quy định tại Điều này hoặc tại một trong các điều 189, 190,
191, 192, 193, 194, 195, 196 và 200 của Bộ luật này hoặc đã bị kết án về một
trong các tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm; hoặc vật phạm pháp
là di vật, cổ vật.

+ Yếu tố qua biên giới và qua danh giới khu phi thuế quan có ý nghĩa
hết sức quan trọng trong xác định dấu hiệu cấu thành tội buôn lậu.
Biên giới là đường phân cách giữa quốc gia này với quốc gia khác. Biên
giới bao gồm biên giới đường bộ, đường thuỷ, đường không.
Khu phi thế quan là khu vực kinh tế nằm trong lãnh thổ Việt Nam có
ranh giới địa lý xác định, được thành lập theo quy định của thủ tướng chính
phủ, quan hệ mua bán, trao đổi hàng hóa giữa khu này và bên ngoài là quan
hệ xuất khẩu, nhập khẩu.
Tuy nhiên, việc xác định hành vi buôn bán trái phép đã qua biên giới
chưa lại không phải căn cứ vào việc hàng hoá đã qua đường biên giới, danh
giới chưa, mà căn cứ vào địa điểm thuộc phạm vi địa bàn kiểm soát của các

11


CQHQ, biên phòng, đường mòn, lối mở biên giới đất liền, khu vực biên giới
trên biển, khu phi thuế quan,... Vì vậy, khi xác định hành vi buôn lậu thông
thường cơ quan có thẩm quyền thường kết hợp xác định địa điểm thuộc khu
vực biên giới, làm rõ các chứng cứ về hành vi giao dịch giữa đối tượng buôn
lậu với đối tác nước ngoài, hành vi trốn tránh sự kiểm tra, kiểm soát cơ quan
Nhà nước,...
c) Chủ thể của tội phạm
- Chủ thể là cá nhân: Chủ thể là cá nhân của tội phạm này là người có
năng lực trách nhiệm hình sự và đến độ tuổi nhất định theo quy định của pháp
luật. Theo quy định tại Điều 12 BLHS năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017
thì người đủ 16 tuổi trở lên mới là chủ thể của tội phạm này.
- Chủ thể là pháp nhân thương mại: Pháp nhân thương mại phải chịu
trách nhiệm hình sự khi có đủ các điều kiện: hành vi phạm tội được thực hiện
nhân danh pháp nhân thương mại; hành vi phạm tội được thực hiện vì lợi ích
của pháp nhân thương mại; hành vi phạm tội được thực hiện có sự chỉ đạo,

điều hành hoặc chấp thuận của pháp nhân thương mại; chưa hết thời hiệu truy
cứu trách nhiệm hình sự.
d) Mặt chủ quan của tội phạm
Người thực hiện hành vi buôn lậu là do cố ý (cố ý trực tiếp), tức là nhận
thức rõ hành vi của mình là hành vi buôn bán trái phép qua biên giới, thấy
trước được hậu quả nguy hiểm của hành vi buôn bán trái phép qua biên giới
và mong muốn cho hậu quả đó xảy ra.
1.1.2. Phân biệt tội buôn lậu với một số tội phạm khác
Việc phân biệt tội buôn lậu với một số tội khác trong BLHS năm 2015
nhằm làm rõ các dấu hiệu, đặc điểm của từng tội phạm gắn với người, pháp
nhân phạm tội; qua đó giúp cho công tác đánh giá, áp dụng pháp luật được
chính xác, khách quan. Trong khuôn khổ luận văn, xin được phân biệt, so
sánh “tội buôn lậu” với một số tội điển hình xâm phạm trật tự quản lý kinh tế:

12


1.1.2.1. Phân biệt tội buôn lậu (Điều 188 BLHS năm 2015) với tội vận
chuyển trái phép hàng hóa tiền tệ qua biên giới (Điều 189 BLHS năm 2015):
Hai tội phạm này về nội dung cấu thành tội phạm có nhiều dấu hiệu giống
nhau như khách thể, chủ thể, đối tượng tác động của tội phạm, lỗi, thủ đoạn
phạm tội. Sự khác nhau cơ bản của hai tội phạm này là ở hành vi khách quan
của nó, thể hiện ở chỗ: Hành vi khách quan của tội buôn lậu là hành vi buôn
bán trái phép qua biên giới hoặc từ khu phi thuế quan vào nội địa hoặc ngược
lại hàng hóa, tiền Việt Nam, ngoại tệ, kim khí quý, đá quý, di vật, cổ vật. Còn
ở tội vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới thì hành vi khách
quan là hành vi vận chuyển trái phép qua biên giới hoặc từ khu phi thuế quan
vào nội địa hoặc ngược lại hàng hóa, tiền Việt Nam, ngoại tệ, kim khí quý, đá
quý, di vật, cổ vật. Như vậy, ở cả hai tội buôn lậu (Điều 188 Bộ luật hình sự
năm 2015) với tội vận chuyển trái phép hàng hóa tiền tệ qua biên giới (Điều

189 Bộ luật hình sự năm 2015) đều có yếu tố là đưa hàng hóa, tiền Việt Nam,
ngoại tệ, kim khí quý, đá quý, di vật, cổ vật qua biên giới hoặc từ khu phi thuế
quan vào nội địa hoặc ngược lại; dấu hiệu để có thể phân biệt hành vi của hai
tội này là: Hành vi “buôn bán” và hành vi “vận chuyển” trái phép qua biên
giới hoặc từ khu phi thuế quan vào nội địa hoặc ngược lại. Hành vi buôn bán
ở tội buôn lậu là hành vi mua, bán, trao đổi hàng hóa, tiền Việt Nam, ngoại tệ,
kim khí quý, đá quý, di vật, cổ vật với mục đích kiếm lời; còn đối với tội vận
chuyển trái phép hàng hóa tiền tệ qua biên giới người phạm tội thực hiện hành
vi vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới, họ không phải chủ
hàng, họ chỉ là người vận chuyển cho chủ hàng, còn người chủ hàng ở đây là
người buôn lậu. Một dấu hiệu rất quan trọng nữa để phân biệt hai tội phạm
này đó là mục đích của tội buôn lậu là buôn bán kiếm lời còn đối với tội vận
chuyển trái phép hàng hóa tiền tệ qua biên giới, mục đích phạm tội không
phải là buôn bán nhằm thu lợi bất chính, họ chỉ vận chuyển thuê để lấy tiền
công, thậm chí còn có trường hợp là vì tình cảm, nể nang mà vận chuyển trái

13


phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới. Theo đó, nếu phát hiện một người đang
vận chuyển trái phép qua biên giới hoặc từ khu phi thuế quan vào nội địa hoặc
ngược lại hàng hóa, tiền Việt Nam, ngoại tệ, kim khí quý, đá quý, di vật, cổ
vật thì cần xác định mục đích phạm tội, nếu người đó thực hiện hành vi vận
chuyển trái phép qua biên giới hàng hóa, tiền tệ nhằm mục đích kiếm lời thì
người đó phạm tội buôn lậu theo Điều 188 BLHS năm 2015, còn nếu người
đó thực hiện hành vi vận chuyển trái phép qua biên giới hoặc từ khu phi thuế
quan vào nội địa hoặc ngược lại hàng hóa, tiền Việt Nam, ngoại tệ, kim khí
quý, đá quý, di vật, cổ vật mà không nhằm mục đích kiếm lời thì người đó
phạm tội vận chuyển trái phép qua biên giới hàng hóa, tiền tệ theo Điều 189
BLHS năm 2015. Tóm lại, theo BLHS năm 2015 thì điểm khác nhau cơ bản

nhất giữa tội buôn lậu so với tội vận chuyển trái phép hàng hóa tiền tệ qua
biên giới là mục đích; Mục đích của tội buôn lậu là kiếm lời, còn mục đích
của tội vận chuyển trái phép hàng hóa tiền tệ qua biên giới là lấy tiền công
vận chuyển.
1.1.2.2. Phân biệt tội buôn lậu (Điều 188 BLHS năm 2015) với tội sản
xuất, buôn bán hàng cấm (Điều 190 BLHS năm 2015): Hai tội này có một số
điểm giống nhau về chủ thể là cá nhân và pháp nhân thương mại có đầy đủ
năng lực trách nhiệm hình sự; đối tượng tác động của tội phạm là hàng hóa;
lỗi cố ý; thủ đoạn phạm tội. Căn cứ phân biệt hai tội phạm đó là:
+ Về khách thể của tội phạm, ở tội buôn lậu, khách thể là trật tự quản lý
kinh tế mà cụ thể là trật tự việc xuất khẩu hàng hóa, tiền Việt Nam, ngoại tệ,
kim khí quý, đá quý, di vật, cổ vật; trong khi đó, khách thể của tội sản xuất,
buôn bán hàng cấm là trật tự quản lý kinh tế bao gồm cả việc sản xuất và
buôn bán các hàng hóa nhà nước cấm sản xuất, cấm buôn bán, cấm lưu hành
trong phạm vi lãnh thổ nước ta.
+ Về hành vi khách quan, ở tội buôn lậu thì đó là hành vi buôn bán trái
phép qua biên giới hoặc từ khu phi thuế quan vào nội địa hoặc ngược lại; còn

14


ở tội sản xuất, kinh doanh hàng cấm thì hành vi khách quan gồm cả việc sản
xuất và buôn bán các hàng hóa nhà nước cấm sản xuất, cấm buôn bán, cấm
lưu hành trong phạm vi lãnh thổ nước ta hay nói cách khác thì phạm vi, địa
điểm phạm tội đối với tội sản xuất, buôn bán hàng cấm không có yếu tố qua
biên giới hoặc từ khu phi thuế quan vào nội địa hoặc ngược lại, điều này hoàn
toàn khác so với tội buôn lậu.
+ Về đối tượng tác động của tội phạm, đối tượng của tội buôn lậu là các
loại hàng hóa, tiền Việt Nam, ngoại tệ, kim khí quý, đá quý, di vật, cổ vật; đối
tượng của tội sản xuất, buôn bán hàng cấm lại hẹp hơn, chỉ là những hàng hóa

mà Nhà nước Việt Nam cấm sản xuất, buôn bán, lưu hành.
1.1.2.3. Phân biệt tội buôn lậu (Điều 188 BLHS năm 2015) với tội trốn
thuế (Điều 200 BLHS năm 2015): Tội buôn lậu và tội trốn thuế có một số
điểm giống nhau về chủ thể chung là cá nhân và pháp nhân thương mại có
đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự; về mục đích là trốn tránh sự kiểm soát
và thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ liên quan đối với nhà nước theo quy định vì
vụ lợi. Tuy nhiên giữa hai tội phạm này có nhiều điểm khác biệt, cụ thể:
+ Về khách thể của tội phạm, ở tội buôn lậu, khách thể là trật tự quản lý
kinh tế mà cụ thể là trật tự quản lý việc xuất - nhập khẩu hàng hóa, tiền Việt
Nam, ngoại tệ, kim khí quý, đá quý, di vật, cổ vật; còn đối với tội trốn thuế,
khách thể của tội phạm này là trật tự quản lý kinh tế mà cụ thể là trật tự quản
lý việc thu thuế nộp ngân sách Nhà nước.
+ Về đối tượng của tội phạm, đối với tội buôn lậu, đối tượng của hành
vi phạm tội hàng hóa, tiền Việt Nam, ngoại tệ, kim khí quý, đá quý, di vật, cổ
vật; còn đối với tội trốn thuế thì đối tượng của tội phạm này là số tiền thuế mà
người phạm tội phải nộp theo quy định của pháp luật, theo đó có thể hiểu rằng
mặt hàng chịu thuế theo quy định của tội phạm này là những mặt hàng mà
Nhà nước cho phép kinh doanh và quy định mức thuế suất công khai.

15


+ Về hành vi khách quan của tội phạm, hành vi khách quan của tội buôn
lậu được thể hiện dưới dạng hành động, đó là hành vi buôn bán trái phép qua
biên giới hoặc từ khu phi thuế quan vào nội địa hoặc ngược lại; ở tội trốn
thuế, hành vi khách quan được thể hiện dưới cả 2 dạng là hành động và không
hành động (hành vi không hành động: Không nộp hồ sơ đăng ký thuế; không
nộp hồ sơ khai thuế; Không ghi chép trong sổ kế toán các khoản thu liên quan
đến việc xác định số tiền thuế phải nộp; Không xuất hóa đơn khi bán hàng
hóa, dịch vụ); (thực hiện các hành vi hành động: Sử dụng hóa đơn, chứng từ

không hợp pháp để hạch toán hàng hóa, nguyên liệu đầu vào trong hoạt động
phát sinh nghĩa vụ thuế làm giảm số tiền thuế phải nộp hoặc làm tăng số tiền
thuế được miễn, số tiền thuế được giảm hoặc tăng số tiền thuế được khấu trừ,
số tiền thuế được hoàn; Sử dụng chứng từ, tài liệu không hợp pháp khác để
xác định sai số tiền thuế phải nộp, số tiền thuế được hoàn; Khai sai với thực tế
hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu mà không khai bổ sung hồ sơ khai thuế sau
khi hàng hóa đã được thông quan, nếu không thuộc trường hợp quy định tại
Điều 188 và Điều 189 của Bộ luật này; Câu kết với người gửi hàng để nhập
khẩu hàng hóa, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 188 và Điều
189 của Bộ luật này; Sử dụng hàng hóa thuộc đối tượng không chịu thuế,
miễn thuế, xét miễn thuế không đúng mục đích quy định mà không khai báo
việc chuyển đổi mục đích sử dụng với cơ quan quản lý thuế,…).
1.2. Những vấn đề pháp luật về Tội buôn lậu theo pháp luật hình sự
Việt Nam
1.2.1. Lịch sử phát triển các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam
về tội buôn lậu
Tội buôn lậu với tính chất là một hiện tượng tiêu cực của xã hội đã gây
ra những thiệt hại nghiêm trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất
nước, khiến cho Nhà nước gặp nhiều khó khăn trong kiểm soát được hàng hóa
xuất nhập khẩu, gây thất thoát thuế nhập khẩu và thuế xuất khẩu hàng hóa;

16


làm cho thị trường hàng hóa bị rối loạn, mất ổn định, làm cho sự cạnh tranh
trên thị trường thiếu lành mạnh.
Để đấu tranh với hiện tượng tiêu cực này, Nhà nước ta đã đưa ra rất
nhiều biện pháp để ngăn chặn và tiến tới loại trừ hành vi này. Nhận thức được
tác hại của hành vi buôn lậu nên từ rất sớm, hoạt động chống buôn lậu hàng
hóa qua biên giới đã được các triều đại phong kiến Việt Nam đề cao, coi

trọng. Ngay từ thời Lê (thế kỷ XV) đã có luật pháp quy định việc xử phạt đối
với những hành vi buôn lậu. Điều 221 Bộ Quốc triều Hình Luật quy định về
việc chống buôn lậu đối với các quan lại như sau: “Các quan vâng mệnh triều
đình đi sứ nước ngoài mà chỉ lo buôn bán thì phải tội biếm hay đồ. Nếu là vật
quý lạ, cùng là sách vở, và các thứ thuốc men, thì cho phép được mua. Khi về
nước đến quan ải phải khai rõ từng thứ; quan ở trấn ấy, sai quan cấp dưới đệ
trình các thứ đó về kinh để kiểm soát; nếu có thứ gì đáng dâng lên vua dùng,
thì sẽ trả lại tiền mua thứ ấy; còn các thứ khác sẽ trả lại cho người đi sứ. Nếu
giấu giếm không khai thực hiện đều phải xử tội biếm hay bãi chức, đồ vật sẽ
bị tịch thu sung công” [29]. Điều 615 Bộ Quốc triều Hình Luật còn quy định:
“Người ở Vân Đồn, chở hàng hóa Trung Quốc lên kinh thành, mà không có
giấy An Phủ ty cấp cho, khi đến bến Đông Triều lại không đến kho Đề bạc ty
kiểm soát, đã đem đi bán lén lút thì đều phải biếm một tư và phạt tiền 100
quan; thưởng người tố cáo một phần ba (số tiền phạt). Nếu đem “hàng hóa
đến các nơi làng mạc bán giấu giếm thì xử biếm ba tư và phạt tiền 200 quan;
thưởng cho người tố cáo một phần ba…” [30]. Năm 1802 với sự ra đời của
triều Nguyễn, Vua Gia Long đã ban hành Hoàng Việt Luật lệ (còn gọi là bộ
luật Gia Long), trong bộ luật này, tội buôn lậu cũng được quy định nhưng
chưa rõ ràng, cụ thể là tại Điều 133 Hoàng Việt Luật lệ quy định: “Phàm là
thuyền to của khách buôn từ biển cả cập bến thì phải kê khai thiệt, hết tất cả
các hàng hóa cho quan trích lấy một phần. Nếu ghé vào bến thấp lầy của các
nhà mối lái để buôn bán với họ mà không báo thì phạt 100 trượng. Tuy có

17


khai báo mà không khai báo thiệt thì như tội trên. Các hàng hóa không báo và
báo không hết, cho nhập vào quan, ai cất giấu thì chịu cùng tội. Ai chỉ bắt
được thì được thưởng bạc 20 lạng” [18]. Như vậy, có thể thấy rằng ngay từ
thời phong kiến, mặc dù hành vi mua bán trái phép quabiên giới không được

định nghĩa rõ ràng là hành vi buôn lậu như BLHS hiện nay nhưng với những
quy định trên cũng đã chứng tỏ rằng trong xã hội phong kiến tác hại của buôn
lậu đã được nhìn nhận và quan tâm, phòng ngừa.
Sau cách mạng Tháng tám 1945, Nhà nước Việt Nam đã ban hành một
số văn bản pháp luật đấu tranh chống loại tội phạm này. Văn bản pháp luật
hình sự đầu tiên phải kể đến đó là Sắc lệnh số 45 ngày 9/10/1945 do Chủ
tịch Hồ Chí Minh ký quy định cấm xuất cảnh kho thóc, gạo, ngô, đỗ hoặc các
chế phẩm thuộc về ngũ cốc, quy định này nhằm góp phần đẩy lùi nạn đói
năm 1945. Sau đó, Nhà nước ta đã ban hành rất nhiều văn bản pháp luật nhằm
đấu tranh với loại tội phạm này và một trong những văn bản quan trọng phải
kể đến đó là “Pháp lệnh trừng trị các tội đầu cơ, buôn lậu, làm hàng giả, kinh
doanh trái phép” ban hành ngày 30/6/1982. Khác với các văn bản trước đó,
Pháp lệnh ngày 30/6/1982 đã quy định rõ ràng một tội danh với các dấu hiệu
pháp lý đặc trưng của nó, có thể nói, tại văn bản này khái niệm tội buôn lậu
mới chính thức được ghi nhận trong văn bản pháp luật hình sự của Nhà nước.
Trong pháp lệnh ngày 30/6/1982, tội buôn lậu được quy định ở hai điều luật
khác nhau: Điều 3 – “Tội buôn lậu, tàng trữ hàng cấm” là hành vi: “…Buôn
lậu, tàng trữ vàng bạc, kim khí quý, đá quý, ngoại tệ, vật tư kỹ thuật hoặc các
hàng hóa khác mà Nhà nước cấm buôn bán, tàng trữ…” và Điều 4 – Tội
buôn lậu hoặc tội vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới là hành vi:
“Buôn bán trái phép hoặc vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên
giới…”[8] (hàng hóa ở đây được hiểu là mọi hàng hóa ngoài những loại
hàng hóa được coi là hàng cấm được quy định tại Điều 3 của Pháp lệnh). Đối
với hành vi buôn bán trái phép hoặc vận chuyển hàng hóa qua biên giới, nếu

18


có mục đích kinh doanh thì đó là buôn lậu, nếu không có mục đích kinh
doanh thì được coi là vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới. Buôn lậu

thời kỳ này được quan niệm như là một tội phạm về kinh tế.
Trước bối cảnh nền kinh tế đất nước ngày càng có sự phát triển mạnh
mẽ, đời sống nhân dân ngày càng được nâng cao, nhưng kéo theo đó là tình
hình tội phạm cũng có xu hướng tăng, thủ đoạn xảo quyệt hơn và diễn biến
ngày càng phức tạp, Nhà nước đã ban hành BLHS năm 1985 quy
định cụ thể, đồng thời thống nhất về tội phạm và hình phạt để đáp ứng công
cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm trong hoàn cảnh mới, trong đó có tội
phạm buôn lậu. Sự ra đời của BLHS năm 1985 đã đánh dấu bước
phát triển mới của ngành lập pháp hình sự nước ta. Trong BLHS năm 1985
(với 4 lần sửa đổi, bổ sung vào các năm 1989, 1991, 1992 và 1997) tội buôn
lậu được quy định trong cùng một điều luật với tội vận chuyển trái phép hàng
hóa tiền tệ qua biên giới tại Điều 97 với tên gọi “Tội buôn lậu hoặc
vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới”. Điều 97 BLHS năm
1985 được quy định như sau:
“1. Người nào buôn bán trái phép hoặc vận chuyển trái phép qua biên
giới hàng hóa, tiền tệ Việt Nam, ngoại tệ, kim khí quý, đá quý hoặc vật phẩm
thuộc di tích lịch sử, văn hóa thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm.
2. Phạm tội trong những trường hợp sau đây thì bị phạt từ năm năm đến
mười hai năm: a) Có tổ chức; b) Vật phạm pháp có số lượng lớn hoặc giá trị
lớn; thu lợi bất chính lớn; c) Lợi dụng chiến tranh; d) Lợi dụng chức vụ,
quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội; đ)
Phạm tội nhiều lần hoặc tái phạm nguy hiểm.
3. Phạm tội trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ
mười năm đến hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình”. Trong thời kỳ này,
Tội buôn lậu hoặc tội vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới lại được
quan niệm là tội phạm thuộc nhóm các tội xâm phạm an ninh quốc gia [9].

19



Sau hơn 10 năm áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự năm 1985
trong đó có tội buôn lậu đã bộc lộ nhiều bất cập. Trước tình hình này ngày
21/12/1999 tại kỳ họp lần thứ VI – Quốc hội khóa X đã thông qua BLHS mới
có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2000 (sau đây gọi là BLHS năm 1999) thay
thế BLHS năm 1985. BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung ngày 19/6/2009) đã
tách riêng tội buôn lậu và tội vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới và
quy định hai tội này ở hai điều luật khác nhau trong đó tội buôn lậu được quy
định tại Điều 153 với nội dung: “Người nào buôn bán trái phép qua biên
giới… hàng hóa, tiền tệ Việt Nam, ngoại tệ, kim khí quý, đá quý có giá trị…
vật phẩm thuộc di tích lịch sử, văn hóa…hàng cấm có số lượng lớn…”. BLHS
năm 1999 coi tội buôn lậu thuộc nhóm các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh
tế mà cụ thể là trật tự quản lý trong lĩnh vực xuất - nhập khẩu [10]. Việc luật
quy định như vậy là phù hợp với bản chất kinh tế của tội buôn lậu, điều đó đã
góp phần không nhỏ trong việc giúp chúng ta nhận thức về loại tội phạm này
cũng như có những biện pháp đấu tranh đề ngăn chặn và tiến tới đẩy lùi tội
phạm buôn lậu.
Sau hơn 15 năm thực hiện BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm
2009) đã xuất hiện nhiều vướng mắc, bất cập khi tình hình kinh tế, xã hội có
nhiều thay đổi, đòi hỏi phải có các quy định phù hợp, hiệu quả trong đấu tranh
phòng chống tội phạm ở nước ta. Ngày 27/11/2015, Quốc hội nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, tại kỳ họp thứ 10 đã thông qua BLHS
năm 2015 (Luật số: 100/2015/QH13), có hiệu lực thực hiện từ ngày 1/7/2016.
Tuy nhiên, do một số sai sót về kỹ thuật, nên Quốc hội đã lùi thời hạn có hiệu
lực của BLHS năm 2015 đến khi Luật sửa đổi, bổ sung BLHS năm 2015 có
hiệu lực (Nghị quyết số 144/2016/QH13 ngày 29/6/2016) và bổ sung dự án
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS số 100/2015/QH13 vào chương
trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2016 [13].

20



×