Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

Luật dân sự việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (123.67 KB, 17 trang )

Chủ thể của luật dân sự
I. Cá nhân: Đây là chủ thể chủ yếu tham gia vào quan hệ pháp luật dân sự và tham
gia thường xuyên bao gồm: công dân Việt Nam, người nước ngoài , người không
có quốc tịch sống ở Việt Nam được quy định tại Chương III Bộ luật Dân sự. Để có
tư cách chủ thể thì cá nhân phải có các điều kiện đầy đủ năng lực pháp luật dân sự
(Điều 14)
1. Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân là khả năng của cá nhân có quyền dân sự
và nghĩa vụ dân sự.
2. Mọi cá nhân đều có năng lực pháp luật dân sự như nhau.
3. Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân có từ khi người đó sinh ra và chấm dứt
khi người đó chết”. và năng lực hành vi dân sự (Điều 17) “Năng lực hành vi dân
sự của cá nhân là khả năng của cá nhân bằng hành vi của mình xác lập, thực hiện
quyền, nghĩa vụ dân sự.” Năng lực hành vi dân sự của cá nhân chỉ có được khi đạt
độ tuổi nhất định:
- Năng lực hành vi dân sự đầy đủ: Theo quy định tại Điều 19 người có năng lực
hành vi dân sự đầy đủ khi đủ 18 tuổi trở lên nhưng không bị mắc bệnh tâm thần,
bệnh khác (Điều 22) hoặc người nghiện ma túy, nghiện các chất kích thích khác
(Điều 23).
- Năng lực hành vi một phần: Điều 20 quy định Năng lực hành vi dân sự của người
chưa thành niên từ đủ sáu tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi khi xác lập, thực hiện
giao dịch dân sự phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý, trừ giao dịch
nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày phù hợp với lứa tuổi hoặc pháp luật có
quy định khác, trường hợp có tài sản riêng bảo đảm thực hiện nghĩa vụ thì có thể tự
mình xác lập, thực hiện giao dịch dân sự mà không cần phải có sự đồng ý của
người đại diện theo pháp luật, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
- Không có năng lực hành vi dân sự : là người chưa đủ 6 tuổi theo quy định Điều 21
- Mất năng lực hành vi dân sự và hạn chế năng lực hành vi dân sự theo quy định
Điều 22 và Điều 23


II. Pháp nhân:


Cơ quan, tổ chức, chủ thể khác tham gia quan hệ pháp luật một cách độc lập có các
kiện quy định tại Điều 84 về Pháp nhân: Một tổ chức được công nhận là pháp nhân
khi có đủ 4 điều kiện sau đây:
-

Thứ nhất, là được thành lập hợp pháp: thành lập theo đúng trình tự, thủ tục do
pháp luật quy định.

-

Thứ hai, là có cơ cấu tổ chức chặt chẽ.

-

Thứ ba, là có tài sản độc lập với cá nhân, tổ chức khác và tự chịu trách nhiệm
bằng tài sản đó: pháp nhân phải có tài sản riêng không phụ thuộc và bị chi phối
bởi bất kì chủ thể tham gia quan hệ pháp luật nào khác, trên cơ sở tài sản riêng
đó pháp nhân phải chịu trách nhiệm, thực hiện nghĩa vụ tài sản của mình.

-

Thứ tư, là nhân danh mình tham gia các quan hệ pháp luật một cách độc lập: vì
tham gia vào quan hệ pháp luật một cách độc lập nên pháp nhân sẽ được hưởng
các quyền và gánh vác các nghĩa vụ dân sự phù hợp với pháp nhân nên pháp
nhân phải nhân danh chính mình.

III. Tổ gia đình, tổ hợp tác:
A.

Chủ thể quan hệ pháp luật dân sự là hộ gia đình:

Điều 106 quy định: “Hộ gia đình mà các thành viên có tài sản chung, cùng đóng
góp công sức để hoạt động kinh tế chung trong sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp
hoặc một số lĩnh vực sản xuất, kinh doanh khác do pháp luật quy định là chủ thể
khi tham gia quan hệ dân sự thuộc các lĩnh vực này.”
Để có tư cách chủ thể hộ gia đinh phải xác định được các thành viên của hộ. Chi
những hộ gia đình đáp ứng đủ các điều kiện sau mới trở thành chủ thể của quan
hệ dân sự:

-

Các thành viên trong hộ gia đình có tài sản chung
Cùng đóng góp công sức hoạt động kinh tế chung
Phạm vi những loại việc dân sự mà hộ gia đình tham gia chi giới hạn trong một
số lĩnh vực do pháp luật quy định.


Thời điểm phát sinh và chấm dứt tư cách chủ thể của hộ gia đình là không xác định.
Tư cách chủ thể của hộ gia đình được xác định thông qua mục đích của giao dịch
và lĩnh vực giao dịch.
B.

Chủ thể quan hệ pháp luật dân sự là Tổ hợp tác:

Quy định tại Điều 111: “1. Tổ hợp tác được hình thành trên cơ sở hợp đồng hợp
tác có chứng thực của Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn của từ ba cá nhân trở
lên, cùng đóng góp tài sản, công sức để thực hiện những công việc nhất định,
cùng hưởng lợi và cùng chịu trách nhiệm là chủ thể trong các quan hệ dân sự.”
Tư cách tổ hợp tác được hình thành khi có hợp đồng hợp tác và tiến hành đăng ký
tại UBND cấp xã.
Trên đây là các loại chủ thế trong quan hệ pháp luật dân sự theo quy định mới

nhất của bộ luật dân sự 2015. Việc xác định chủ thể vô cùng quan trọng bởi nó sẽ
tác động đến việc vấn đề đó có thuộc phạm vi điều chinh của pháp luật dân sự hay
không? Từ đó xác định được rõ văn bản pháp luật điều chinh vấn đề đó.

Quan hệ pháp luật dân sự
1. Khái niệm:

Là quan hệ xã hội do các quan hệ pháp luật dân sự điều chinh, tức là quan hệ xã
hội phát sinh trong lĩnh vực dân sự, các quan hệ liên quan đến yếu tố nhân thân và
tài sản trong các lĩnh vực dân sự, hôn nhân gia đình, lao động, thương mại…
Các quan hệ xã hội này rất đa dạng và rất rộng.
2. Đặc điểm:
a. Chủ thể tham gia quan hệ pháp luật dân sự rất đa dạng nhưng độc lập về tài sản

và tổ chức: Bởi vì quan hệ pháp luật dân sự là các quan hệ nhân thân và quan
hệ tài sản phát sinh thường nhật đáp ứng nhu cầu sinh hoạt, tiêu dùng, cho hoạt
động sản xuất và kinh doanh.
Đây là những quan hệ xã hội phát sinh thường nhật trong một phạm vi rất rộng,
đáp ứng nhu cầu của bất cứ chủ thể nào trong xã hội.
-

Biểu hiện của sự đa dạng: Chủ thể trong quan hệ pháp luật dân sự bao gồm: Cá
nhân pháp nhân, tổ hợp tác, hộ gia đình, Nhà nước.


-

Độc lập về tổ chức: Chủ thể khi tham gia vào quan hệ dân sự đều độc lập,
không lệ thuộc về mặt tổ chức. Tránh trường hợp đổ lỗi trách nhiệm cho nhau.


-

Độc lập về tài sản: Có sự rành rẽ, độc lập về tài sản.

b. Địa vị pháp lý của các chủ thể dựa trên cơ sở bình đẳng và không phụ thuộc

vào các yếu tố xã hội khác.
-

Các chủ thể luôn bình đẳng với nhau về địa vị pháp lý, không có sự phân biệt
về thành phần xã hội, tôn giáo, dân tộc, trình độ văn hóa, nghề nghiệp…

-

Thể hiện của đặc điểm này trong quan hệ pháp luật dân sự:

+ Các chủ thể bình đẳng về tài sản: Các bên bình đẳng với nhau, thực hiện
quyền và nghĩa vụ bằng tài sản của mình.
+ Bình đẳng về mặt tổ chức: Các chủ thể không lệ thuộc với nhau về mặt tổ
chức, phải tự chịu trách nhiệm về những thiệt hại do mình gây ra.
c. Lợi ích chủ yếu là lợi ích kinh tế là tiền đề cho các quan hệ pháp luật dân sự.
-

Lý do để khẳng định lợi ích chủ yếu là lợi ích kinh tế là tiền đề cho các quan
hệ pháp luật dân sự:

+ Thứ nhất là các quan hệ pháp luật dân sự chủ yếu là quan hệ tài sản nên nó
cũng mang các đặc điểm là có tính chất hàng hóa, tiền tệ và tính chất đền bù tương
đương nên lợi ích về vật chất là một biểu hiện phổ biến trong quan hệ dân sự.
+ Các bên thiết lập một quan hệ dân sự nhằm một mục đích nhất định, tức là

đều hướng đến một lợi ích nhất định có thể là lợi ích tinh thần hoặc lợi ích vật chất
từ các quan hệ nhân thân hay quan hệ tài sản.
d. Các biện pháp cưỡng chế đa dạng không chi do pháp luật quy định mà có thể

các bên trong quan hệ pháp luật dân sự quy định các biện pháp không trái với
pháp luật.
Các biện pháp cưỡng chế trong quan hệ dân sự có nhiều biện pháp như các biện
pháp mang tính chất tinh thần như xin lỗi, cải chính công khai…Chủ yếu nhằm
mục đích khắc phục các vấn đề thuộc về đời sống tinh thần, về các giá trị nhân
thân.
3. Các yếu tố cấu thành quan hệ pháp luật dân sự:


Thành phần của quan hệ pháp luật dân sự là các yếu tố cấu thành nên quan hệ đó.
Quan hệ pháp luật dân sự được cấu thành bởi các thành tố sau: Chủ thể, khách thể,
nội dung.
a. Chủ thể

Chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự là những “người” tham gia vào các quan hệ
đó. Phạm vi “người” tham gia vào quan hệ pháp luật dân sự bao gồm: Cá nhân,
(công dân Việt Nam, người nước ngoài, người không quốc tịch), pháp nhân, hộ
gia đình, tổ hợp tác và trong nhiều trường hợp, Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam tham gia với tư cách là chủ thể đặc biệt của quan hệ pháp luật dân
sự.

Để tham gia vào một quan hệ pháp luật dân sự cụ thể, các chủ thể phải có đủ tư
cách chủ thể. Cho nên, có loại quan hệ chủ thể là công dân, như công dân
có quyền để lại di sản thừa kế còn các tổ chức chi được hưởng thừa kế theo di
chúc; có loại chủ thể chi được tham gia vào loại quan hệ nhất định, như hộ gia
đình được tham gia trong các quan hệ sử dụng đất, sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp

hay Nhà nước là chủ sở hữu (thực hiện quyền của chủ sở hữu) đối với các tài
nguyên thiên nhiên và đất đai… Trong phần lớn các quan hệ pháp luật dân sự, các
chủ thể tham gia là công dân, pháp nhân, Nhà nước, hộ gia đình, tổ hợp tác như
các quan hệ về quyền sở hữu, nghĩa vụ hợp đồng, bồi thường thiệt hại…

Trong quan hệ pháp luật dân sự, chủ thể quyền luôn luôn được xác định, chủ thể
nghĩa vụ có thể là một “người” cụ thể, cũng có thể là tất cả những người còn lại.
b. Khách thể
c. Khách thể của quan hệ pháp luật là một phạm trù pháp lí, là bộ phận cấu

thành của quan hệ pháp luật. Đó là những cái mà các chủ thể của quan hệ
pháp luật hướng tới, tác động vào. Nói cách khác, là những lợi ích vật chất,
lợi ích tinh thần mà pháp luật bảo vệ cho các chủ thể trong quan hệ pháp luật.
Khách thể của quan hệ pháp luật dân sự có thể là bộ phận của thế giới vật
chất, cũng có thể là những giá trị tinh thần. Khách thể của quan hệ pháp luật
dân sự được chia thành năm nhóm sau:


– Tài sản

Theo quy định tại Điều 163 BLDS năm 2005, tài sản bao gồm vật, tiền, các
giấy tờ có giá và các quyền tài sản.

Vật với ý nghĩa là một phạm trù pháp lí, là bộ phận của thế giới vật chất có
thể đáp ứng được nhu cầu nào đó của con người nhưng không phải bất cứ bộ
phận nào của thế giới vật chất đều được coi là vật với tư cách là khách thể của
quan hệ pháp luật dân sự. Có những bộ phận của thế giới vật chất ở dạng này
không được coi là vật nhưng ở dạng khác lại được coi là vật, ví dụ: Không
khí trong tự nhiên, nước sông, nước biển… nếu được đóng vào chai, bình thì
có thể được coi là vật với tư cách là khách thể của quan hệ pháp luật dân

sự. Khái niệm vật ở đây có thể được mở rộng do sự phát triển của khoa học
công nghệ, như chất thải nếu được dùng lại…

Tiền là loại tài sản đặc biệt có giá trị trao đổi với các loại hàng hoá khác. Tiền
do Nhà nước ban hành, giá trị của tiền được xác định bằng mệnh giá ghi trên
đồng tiền đó. Những đồng tiền có giá trị lưu hành mới được coi là tiền.
Giấy tờ có giá là loại tài sản đặc biệt do Nhà nước hoặc các tổ chức phát hành
theo trình tự nhất định. Có nhiều loại giấy tờ có giá khác nhau với những quy
chế pháp lí khác nhau như: Công trái, trái phiếu, kì phiếu, cổ phiếu, séc…
Giấy tờ có giá là hàng hoá trong một thị trường đặc biệt – thị trường chứng
khoán.

Quyền tài sản là quyền trị giá được bằng tiền có thể chuyển giao trong lưu
thông dân sự, bao gồm cả quyền sở hữu trí tuệ, đó là: Quyền đòi nợ, yêu
cầu bồi thường thiệt hại, quyền đối với tác phẩm, quyền sở hữu công
nghiệp…
Cần phân biệt vật với hàng hóa. Khái niệm hàng hóa được đề cập trong chính
trị – kinh tế học được hiểu là sản phẩm do con người tạo ra để trao đổi, nó có
giá trị và giá trị sử dụng. Giá trị của hàng hóa được xác định bằng lao động xã


hội đã bỏ ra để sản xuất hàng hóa đó. Đất đai, tài nguyên thiên nhiên được coi
là vật nhưng không phải là hàng hóa. Mọi hàng hóa đều là vật nhưng không
phải mọi vật là hàng hóa.

Vật và tài sản cũng không đồng nghĩa với nhau. Tài sản có thể là một vật, có
thể là tập hợp các vật – khối tài sản. Tài sản còn gồm cả các quyền và nghĩa
vụ tài sản như quyền đòi nợ, nghĩa vụ trả nợ…

– Hành vi và các dịch vụ


Nếu coi khách thể của quan hệ pháp luật dân sự là cái mà xử sự của các chủ
thể hướng tới, tác động vào thì hành vi của các chủ thể trong quan hệ nghĩa
vụ là khách thể của quan hệ nghĩa vụ. Đó là cái mà quyền cũng như nghĩa vụ
của các chủ thể hướng tới đầu tiên, trực tiếp, đó là xử sự của các chủ thể được
thể hiện dưới dạng hành động hoặc không hành động tùy theo các quan hệ
pháp luật cụ thể.

Có những hành vi mà kết quả của nó được thể hiện dưới dạng vật chất cụ thể.
Trong trường hợp này, muốn xem xét hành vi có thực hiện đúng hay không
phải căn cứ vào kết quả của việc thực hiện hành vi đó và như vậy hành vi này
được vật chất hóa. Vì vậy, có quan điểm cho rằng kết quả của hành vi là
khách thể của quan hệ pháp luật dân sự. Điều này không thể giải thích được
trong các quan hệ dân sự mà hành vi không được vật chất hóa như tư vấn
pháp luật với hành vi tư vấn… Trong các trường hợp như vậy, căn cứ đánh
giá chi có thể là hành vi của người phải thực hiện hành vi mà thôi. Trong
trường hợp hành vi được thể hiện bằng không hành động thì bản thân “sự
không hành động” đó cũng đủ cấu thành khách thể của quan hệ pháp luật dân
sự.


Hiện nay, trong khoa học pháp lí chưa có quan điểm thống nhất về khái niệm
dịch vụ nhưng thuật ngữ “dịch vụ” đã được sử dụng thực tế trong khoa học
pháp lí và khoa học kinh tế. Có thể nói rằng dịch vụ là một hoặc nhiều công
việc mà kết quả của nó có thể vật chất hoá nhưng nó không tạo ra vật mới mà
nó được thể hiện bằng công việc đã thực hiện xong như sửa chữa tài sản…
hoặc không được vật chất hóa, như dịch vụ tư vấn pháp lí, gửi giữ, vận tải…
Dịch vụ không trực tiếp tạo ra vật chất nhưng tạo tiền đề cho quá trình sản
xuất ra của cải vật chất, tinh thần cho các chủ thể và xã hội. Ti lệ giá trị dịch
vụ trong thu nhập quốc dân ngày càng tăng theo đà tăng trưởng của nền kinh

tế.

– Kết quả của hoạt động tinh thần sáng tạo

Con người không chi tạo ra của cải vật chất để thoả mãn các nhu cầu của
mình mà còn tạo ra các giá trị tinh thần, các sản phẩm trí tuệ để phục vụ nhu
cầu tinh thần cũng như phục vụ cho quá trình sản xuất vật chất. Khoa học, kĩ
thuật và công nghệ là thành tố của lực lượng sản xuất, trực tiếp tham gia vào
quá trình sản xuất và là động lực quan trọng của sản xuất xã hội. Lao động
sáng tạo là lao động đặc biệt và kết quả của quá trình sáng tạo này là những
“sản phẩm trí tuệ”, là khách thể trong các quan hệ về quyền tác giả, quyền sở
hữu công nghiệp. Sản phẩm trí tuệ được thể hiện dưới dạng:

– Các tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học… Đây là những hình thức biểu
hiện kết quả của quá trình sáng tạo và chúng được thể hiện dưới nhiều dạng
khác nhau như viết, nói hay bằng các phương tiện kĩ thuật…

– Các đối tượng của sở hữu công nghiệp là sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu
dáng công nghiệp… Những đối tượng này chi được bảo vệ khi được cơ quan
nhà nước có thẩm quyền công nhận chúng là đối tượng của sở hữu công
nghiệp.


– Các giá trị nhân thân

Các giá trị nhân thân là khách thể trong các quyền nhân thân của công dân, tổ
chức. Bảo vệ quyền nhân thân là một trong những nguyên tắc được ghi nhận
trong BLDS. Các quyền nhân thân của cá nhân được Nhà nước bảo hộ ngày càng
mở rộng do sự phát triển của xã hội. Quyền nhân thân như là một bộ phận cấu
thành của quyền con người như danh dự, nhân phẩm, uy tín, tên gọi, quốc tịch,

hình ảnh, bí mật đời tư… (từ Điều 24 đến Điều 51 BLDS năm 2005). Về nguyên
tắc chung, các quyền nhân thân luôn gắn với chủ thể và không thể dịch chuyển
được trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

– Quyền sử dụng đất

Đây là một loại tài sản đặc biệt của Nhà nước. Trong khi pháp luật quy định:
“Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước thống nhất quản lí” thì quyền sử
dụng đất của cá nhân, hộ gia đình được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, để lại
thừa kế… và Nhà nước công nhận các quyền của người sử dụng đất. Quyền sử
dụng đất được pháp luật quy định là một quyền dân sự và có thể được chuyển
giao trong lưu thông dân sự, kinh tế. Pháp luật đất đai quy định người sử dụng
đất có quyền: Chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, tặng cho, cho thuê lại,
góp vốn, thế chấp, thừa kế quyền sử dụng đất. Vì vậy, quyền sử dụng đất là đối
tượng trong các hợp đồng chuyển quyền sử dụng đất và là di sản trong việc thừa
kế quyền sử dụng đất.

d. Nội dung

Mọi quan hệ pháp luật đều là mối liên hệ pháp lí giữa các chủ thể tham gia vào
các quan hệ đó được thể hiện dưới dạng quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia.
Vì vậy, nội dung của quan hệ pháp luật dân sự là tổng hợp các quyền và nghĩa vụ
của các bên tham gia vào các quan hệ đó. Quyền của một bên tương ứng với
nghĩa vụ của bên kia tạo thành mối liên hệ biện chứng, mâu thuẫn và thống nhất
trong một quan hệ pháp luật dân sự cụ thể. Không có quyền của một bên thì cũng
không có nghĩa vụ của bên kia và ngược lại. Trong những quan hệ đơn giản, có
thể dễ dàng xác định trong đó một bên chi có quyền và một bên chi có nghĩa vụ
(người cho vay và người vay tài sản…). Nhưng thông thường, các quan hệ pháp



luật dân sự là những quan hệ phức tạp, trong đó các bên có quyền đồng thời có
nghĩa vụ với nhau (trong quan hệ mua bán, cho thuê tài sản…).

– Quyền dân sự
Theo quy định của pháp luật, quyền dân sự là cách xử sự được phép của
người có quyền năng.
Quyền dân sự của các chủ thể trong các quan hệ pháp luật dân sự cụ thể khác
nhau thì có nội dung khác nhau (những xử sự khác nhau phù hợp với nội
dung của quan hệ đó). Chủ thể quyền trong các quan hệ dân sự có thể thực
hiện những hành vi khác nhau phù hợp với nội dung, mục đích của quyền
năng đó như chủ sở hữu có các quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt những
tài sản thuộc quyền sở hữu của mình trong khuôn khổ pháp luật quy định…
Thông qua hành vi của mình thoả mãn quyền của mình hoặc quyền yêu cầu
người khác (người có nghĩa vụ) thực hiện các hành vi nhất định (trả tiền,
chuyển giao tài sản, làm hoặc không làm một việc…). Chủ sở hữu có thể thực
hiện quyền của mình thông qua hành vi của người khác (uỷ quyền).

Khi quyền dân sự bị vi phạm, chủ thể quyền có thể sử dụng các biện pháp bảo
vệ mà pháp luật cho phép (tự bảo vệ, các biện pháp tác động…) hoặc yêu cầu
cơ quan nhà nước có thẩm quyền bảo vệ quyền dân sự của mình khi quyền đó
bị xâm hại.

Trong khoa học pháp lí tồn tại khái niệm quyền chủ quan và quyền khách
quan. Quyền khách quan là quyền dân sự được pháp luật quy định cho các
chủ thể, là nội dung năng lực pháp luật của chủ thể (khả năng có thể có của
chủ thể). Quyền chủ quan là quyền dân sự của chủ thể trong một quan hệ dân
sự cụ thể đã được xác lập. Quyền chủ quan phải phù hợp với quyền khách
quan mà pháp luật đã quy định.
– Nghĩa vụ dân sự


Là cách xử sự bắt buộc của người có nghĩa vụ. Cách xử sự của các chủ thể
cũng rất khác nhau tùy theo từng quan hệ dân sự cụ thể. Trong các quy


phạm pháp luật dân sự, các quy phạm tùy nghi cho phép các chủ thể lựa chọn
cách thực hiện khi tham gia vào quan hệ dân sự phát huy quyền tự định đoạt
của mình. Các quy phạm mệnh lệnh dưới dạng “cấm không được làm” hoặc
“phải làm” có một ý nghĩa đặc biệt. Từ các quy phạm này, phát sinh nghĩa vụ
của các bên tham gia quan hệ dân sự. Những nghĩa vụ dạng này do pháp luật
quy định cho tất cả các bên tham gia vào quan hệ dân sự không chi có ý nghĩa
đối với các bên tham gia mà đó còn là nghĩa vụ của các chủ thể và có ý nghĩa
đối với Nhà nước, đối với xã hội.

Thông thường, trong các quan hệ dân sự, nghĩa vụ của một chủ thể tương ứng với
quyền của chủ thể khác – những chủ thể xác định. Người có nghĩa vụ có thể phải
thực hiện những hành vi tích cực dưới dạng hành động (như trả tiền, giao vật trong
mua bán; thực hiện công việc trong dịch vụ, gia công…). Trong một số trường hợp,
nội dung của quan hệ pháp luật quy định người có nghĩa vụ có thể lựa chọn cách
thức xử sự có lợi nhất cho họ. (Ví dụ: Để bồi thường thiệt hại do hành vi gây thiệt
hại gây ra, người có nghĩa vụ có thể bồi thường bằng tiền hoặc hiện vật hay sửa
chữa đồ vật bị hư hỏng). Nếu người có nghĩa vụ không thực hiện hoặc thực hiện
không đúng, không đầy đủ nghĩa vụ của họ một cách tự nguyện sẽ bị “buộc” phải
thực hiện đúng nghĩa vụ đó. Ngoài ra, nếu do không thực hiện hoặc thực hiện
không đúng, không đầy đủ nghĩa vụ mà gây thiệt hại thì phải bồi thường thiệt hại
xảy ra.

4. Sự kiện pháp lí:
a. Định nghĩa:

Sự kiện pháp lí cũng là sự kiện thực tế nhưng có ý nghĩa pháp lý, bởi vì nó có khả

năng tạo ra các hậu quả pháp lý. Các hậu quả đó là sự hình thành, thay đổi hoặc
chấm dứt các quan hệ pháp luật.

Sự kiện pháp lí được nhà làm luật dự kiến trước và thường được quy định trong
bộ phận giả định của quy phạm pháp luật điều chinh. Đó là những sự kiện, hoàn
cảnh, tình huống của đời sống thực tiễn có tính phổ biến và có ảnh hưởng đến trật


tự công cộng, cần được điều chinh bởi pháp luật. Chi những sự kiện thực tế nào
chịu sự tác động có ít nhất một quy phạm pháp luật mới được gọi là Sự kiện pháp
lí.
Ví dụ: kết bạn hay kết nghĩa, hãy đính hôn chi là những sự kiện thực tế tồn tại
theo tập quán xã hội; còn việc kết hôn là sự kiện pháp lí được pháp luật quy định
do có nhiều quy định pháp luật điều chinh vấn đề kết hôn giữa nam và nữ.
b. Phân Loại:
1. Căn cứ vào mối liên hệ giữa sự kiện thực tế xảy ra với ý chí của thể tham

gia qua hệ pháp luật, sự kiện pháp lí được chia thành hai loại: sự biến và
hành vi.

Sự biến: là những sự kiện pháp lí xảy ra và hậu quả của nó nằm ngoài ý chí của
chủ thể quan hệ pháp luật. Đó là những hiện tượng tự nhiên như thiên tai, chiến
tranh, dịch bệnh, sinh tử mà sự xuất hiện của chúng đã làm phát sinh, thay đổi
hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ pháp lý của các chủ thể theo quy định pháp
luật.
Những hình tự như thế phải xảy ra trong xã hội, gắn liền với đời sống của con
người mới dẫn tới hậu quả pháp lý. Thiên tai xảy ra ở những nơi hoang vắng,
không có người ở, thì chi là sự kiện thực tế mà thôi. Có những hiện tượng tự
nhiên như mưa, gió, nhật thực, nguyệt thực, hoa quả đâm chồi nảy lộc vào mùa
xuân thì không phải là sự kiện pháp lí vì không dẫn tới hậu quả pháp lý nào.

Hành vi: là sự kiện pháp lí xảy ra do ý chí của chủ thể quan hệ pháp luật. Đó là
những hành vi xử sự do chính con người thực hiện và theo quy định của pháp
luật, chủ thể hoàn toàn có thể nhận thức được hậu quả của nó. Do đó, chi có
những chủ thể có khả năng nhận thức bình thường mới có hành vi pháp lý.
Người mất trí có thể có hành động gây thiệt hại nghiêm trọng cho người khác
( trường hợp người con bị bệnh tâm thần đốt nhà của cha mẹ mình chết người
làm) làm chấm dứt quyền sở hữu và các tài sản bị hư hại, chấm dứt quyền sống
quyền gia đình cùng người thân đã tử vong nhưng đây không phải là hành vi mà
chi là sự biến pháp lý.
Căn cứ vào hậu quả pháp lí, sự kiện pháp lí được chia làm ba loại:

2.


Sự kiện pháp lí làm phát sinh quan hệ pháp luật. Ví dụ sự kiện một ngừơi
chết làm phát sinh quan hệ thừa kế, việc kết hôn dẫn đến hình thành quan hệ
hôn nhân.




Sự kiện pháp lí làm thay đổi quan hệ pháp luật. Ví dụ việc vợ chồng thỏa
thuận phân chia tài sản làm thay đổi tình trạng xã hữu tài sản trong hôn nhân;
dù rằng quan hệ hôn nhân vẫn tiếp tục được duy trì; việc sáp nhập doanh
nghiệp A và doanh nghiệp Bcó thể làm thay đổi chủ thể và cả một số nội
dung của quan hệ hợp đồng còn dang dở mà bên A đã ký kết và đã chuyển
giao cho B tiếp tục thực hiện




Sự kiện pháp lí làm chấm dứt quan hệ pháp luật. Ví dụ sự kiện chị X bị tai
nạn chết sẽ làm chấm dứt quan hệ hôn nhân gia đình, quan hệ xã hội, quan hệ
lao động có liên quan đến chị X. Vậy việc ông Y trả nợ sẽ làm chấm dứt
quan hệ hợp đồng vay tài sản với chủ nợ.

Quyền sỡ hữu
1. Khái niệm:
Khái niệm quyền sở hữu - được hiểu theo hai nghĩa:
- Theo nghĩa khách quan, quyền sở hữu là tổng hợp các quy phạm pháp luật do
Nhà nước ban hành, điều chinh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình chiếm
hữu, sử dụng, định đoạt các tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng trong xã hội. Hay
nói khác đi, quyền sở hữu chính là pháp luật về sở hữu.
- Theo nghĩa chủ quan, quyền sở hữu là khả năng được phép xử sự của chủ sở
hữu trong việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản của mình. Những quyền năng
này cũng chính là nội dung của quyền sở hữu mà chủ sở hữu có được đối với tài
sản. BLDS Việt
Nam hiện hành tuy không định nghĩa trực tiếp như vậy nhưng
có quy định rằng: “quyền sở hữu bao gồm quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và


quyền định đoạt tài sản của chủ sở hữu theo quy định của pháp luật.”.
Tính chất của các quyền của chủ sở hữu - Các quyền của chủ sở hữu có tính độc
nhất, chi có thể bị giới hạn do quy định của pháp luật và tồn tại lâu dài.
2. Nội dung:
1. Quyền sử dụng:
Dùng và thu hoa lợi, lợi tức - Điều 192 BLDS quy định: “quyền sử dụng là quyền
khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản.”. Như vậy, với tư cách là
một trong những nội dung của quyền sở hữu, quyền sử dụng bao gồm quyền khai
thác công dụng của tài sản và quyền thu nhận hoa lợi, lợi tức từ tài sản. “Khai
thác công dụng” nghĩa là chủ sở hữu tự mình thụ hưởng các lợi ích vật chất từ một

tài sản không sinh lợi hoặc không được khai thác về phương diện kinh tế. “Thu
nhận hoa lợi, lợi tức từ tài sản” được hiểu là việc chủ sở hữu được thụ hưởng
những kết quả từ khai thác sự sinh lợi của tài sản mà vẫn bảo tồn chất liệu của tài
sản. Tuy nhiên, cũng cần lưu ý rằng, hai quyền này không nhất thiết phải tồn tại
song song trên cùng một tài sản.
Chủ sở hữu có quyền quyết định phương thức sử dụng tài sản (dùng hay không
dùng tài sản) cũng như cách thức thu hoa lợi, lợi tức (trực tiếp khai thác hoa lợi, tự
nhiên của tài sản, hoặc để cho người khác khai thác thông qua một hợp đồng cho
thuê, cho mượn). Tài sản có thể được sử dụng hoặc được khai thác trực tiếp bằng
chính chủ sở hữu hoặc bởi một người khác không phải là chủ sở hữu (khi được chủ
sở hữu chuyển giao quyền sử dụng hoặc do pháp luật quy định)
Hạn chế quyền sử dụng - Điều 193 BLDS quy định: “Chủ sở hữu có quyền khai
thác công dụng của tài sản, hưởng hoa lợi lợi tức từ tài sản theo ý chí của mình
nhưng không được gây thiệt hại và làm ảnh hưởng đến lợi ích Nhà nước, lợi ích
công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác.”. Đây là nguyên tắc chung
mà luật viết đã dự liệu để hạn chế quyền sử dụng chủ động, ngăn ngừa sự lạm
dụng. Ngoài ra, pháp luật còn có những quy định hạn chế quyền sử dụng thụ động
trong một số trường hợp đặc thù khác đã được thừa nhận trên thực tế.
2. Quyền định đoạt:
Định đoạt vật chất và định đoạt pháp lý - Theo Điều 195 BLDS “Quyền định đoạt
là quyền chuyển giao quyền sở hữu tài sản hoặc từ bỏ quyền sở hữu đó.”. Ngoài ra,
chủ sở hữu còn có thể định đoạt tài sản bằng cách chấm dứt sự tồn tại vật chất của
tài sản. Như vậy, chủ sở hữu có quyền quyết định số phận của tài sản về phương


diện vật chất (tiêu dùng, thiêu hủy, chuyển hóa thành một hình thức tồn tại
khác...), hoặc về phương diện pháp lý (chuyển nhượng, tặng cho, trao đổi, góp vốn
kinh doanh...). Cũng như quyền sử dụng, quyền định đoạt của chủ sở hữu có thể do
chính chủ sở hữu hoặc do một người khác thực hiện Mọi trường hợp định đoạt tài
sản ngoài khuôn khổ giới hạn của quyền tự định đoạt của chủ sở hữu cũng như định

đoạt tài sản thuộc sở hữu của người khác đều bị xem là những giao dịch vô hiệu.
Cũng có trường hợp, tài sản được chuyển quyền sở hữu không phải do hiệu lực của
việc thực hiện quyền tự định đoạt của chủ sở hữu, mà do pháp luật quy định (như
trong các trường hợp trưng mua, trưng dụng vì mục đích an ninh quốc phòng, giải
tỏa có đền bù để thực hiện quy hoạch đô thị...).
Hạn chế quyền định đoạt - Quyền định đoạt có thể bị hạn chế trong những trường
hợp có sự xung đột giữa lợi ích của chủ sở hữu với lợi ích của Nhà nước, lợi ích
công cộng hoặc quyền và lợi ích của người khác mà việc bảo vệ những quyền lợi
này hoàn toàn cần thiết và hợp lý. Luật viết quy định nhiều cách thức hạn chế
quyền định đoạt khác nhau, như:
- Quyền định đoạt số phận pháp lý của một tài sản bị Nhà nước cấm hoặc hạn chế
một cách trực tiếp bằng các quy định của pháp luật. Ví dụ, cổ đông sở hữu cổ phần
ưu đãi biểu quyết không được chuyển nhượng cổ phần đó cho người khác (khoản 3,
Điều 81 Luật doanh nghiệp 2005).
- Quyền định đoạt số phận pháp lý của tài sản được Nhà nước hạn chế và kiểm
soát một cách gián tiếp thông qua vai trò của một tổ chức hay một cá nhân.
3. Quyền chiếm hữu:
Chủ sở hữu được thực hiện mọi hành vi theo ý chí của mình để nắm giữ, chi phối
tài sản của mình nhưng không được trái pháp luật, đạo đức xã hội.

3. Biện pháp bảo vệ quyền chiếm hữu:

1. Biện pháp hành chính:

Ngành luật hành chính bảo vệ quyền sở hữu thông qua việc quy định những thể
lệ nhằm quản lý và bảo vệ tài sản của Nhà nước, quy định nhiệm vụ, quyền
hạn cụ thể cho từng cơ quan nhà nước, đơn vị hành chính và cá nhân công dân.
Đồng thời, luật hành chính cũng quy định về các biện pháp hành chính mà Nhà
nước được sử dụng để thực hiện việc bảo vệ quyền sở hữu khi có hành vi xâm
phạm quyền sở hữu tài sản nhà nước như các biện pháp cưỡng chế, phòng

ngừa và ngăn chặn. Chủ thể thực hiện quyền bảo vệ này chính là các cơ quan


Nhà nước và trong một số trường hợp nhất định thì Toà án cũng là chủ thể sử
dụng các biện pháp hành chính nhằm bảo vệ quyền sở hữu.

2. Biện pháp hình sự:

Ngành luật hình sự bảo vệ quyền sở hữu thông qua việc quy định những hành
vi nguy hiểm cho xã hội xâm phạm quyền sở hữu bị coi là tội phạm và quy
định các mức hình phạt tương xứng với những loại hành vi phạm đó. Việc bảo
vệ bằng biện pháp hình sự mang tính chất trừng trị và răn đe. Trong Bộ luật
hình sự, các tội xâm phạm quyền sở hữu tại chương XIV từ điều 133 đến điều
145, trong đó chia làm 2 nhóm chính: các tội xâm phạm quyền sở hữu của
công dân và tội xâm phạm quyền sở hữu của nhà nước. Tùy theo tính chất mức
độ hành vi nguy hiểm cho xã hội và giá trị tài sản xâm phạm mà mỗi hành vi
có một hình phạt tương ứng. Hình phạt thấp nhất là cải tạo không giam giữ và
cao nhất là tử hình. Ngoài ra, người có hành vi xâm phạm quyền sở hữu còn có
thể bị chịu một trong các hình phạt bổ sung như phạt tiền, tịch thu tài sản, cấm
đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định, quản chế
hoặc cấm cư trú.

4. Biện pháp dân sự:

Khác với các biện pháp bảo vệ quyền sở hữu do luật hành chính và luật hình
sự, chủ thể thực hiện hành vi bảo vệ quyền sở hữu do Nhà nước thực hiện thì
thông qua biện pháp dân sự. Ngành luật đân sự bảo vệ quyền sở hữu bằng việc
quy định những phương thức kiện dân sự trước Tòa án để chủ sở hữu có thể
thông qua đó mà đòi lại tài sản của mình đang bị người khác chiếm giữ bất hợp
pháp, yêu cầu người khác chấm dứt hành vi cản trở hoặc có quyền yêu cầu

ngăn chặn khi chủ sở hữu thực hiện quyền sở hữu, quyền chiếm hữu hợp pháp
đối với tài sản; hoặc chủ sở hữu có thể đòi người khác phải bồi thường những
thiệt hại về tài sản nếu người đó có hành vi xâm phạm đến quyền sở hữu,
quyền chiếm hữu của mình. Bộ luật dân sự năm 2005 đã dành hẳn Chương XV
(Phần thứ hai), bao gồm 7 điều từ Điều 255 đến Điều 261 để quy định về bảo
vệ quyền sở hữu và Bộ luật dân sự 2015 sửa đổi, bổ sung cho BLDS 2005
cũng quy định cụ thể, chi tiết hơn về vấn đề bảo vệ quyền sở hữu tại Mục
2 Chương XI. Ngoài ra, quy định về bảo vệ quyền sở hữu còn nằm rải rác ở


một số điều khác, theo đó, chủ sở hữu có quyền bảo vệ quyền sở hữu thông
qua các phương thức nêu sau.



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×