Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

các loại hạt tải thuốc nano

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.15 MB, 21 trang )

Công Nghệ Nano là gì ?
 Công nghệ nano là ngành công nghệ liên quan đến việc thiết kế, phân tích,
chế tạo, ứng dụng các cấu trúc, thiết bị với kích thước, hình dáng ở qui mô
nanomet.
 Đối tượng là vật liệu nano
 Công Nghệ nano gồm các vấn đề chính:
o Cơ sở khoa học nano
o Phương pháp quan sát và can thiệp ở qui mô nanomet
o Chế tạo Vật liệu nano
o Ứng dụng vật liệu nano
 Cơ sở khoa học của công nghệ nano:
o Chuyển tiếp từ tính chất cổ điển đến tính chất lượng tử -> kích thước
tới hạn ( các tính chất vật lý hóa học của vật liệu đều có 1 kích thước
tới hạn, nếu vật liệu nhỏ vượt kích thước giới hạn thì tính chất vật
lý ,hóa học của nó sẽ hoàn toàn thay đổi, cụ thể là tính chất lượng tử
sẽ thể hiện rõ ràng hơn.)
o Hiệu ứng bề mặt: ở thế giới nanomet, số nguyên tử nằm trên bề mặt
vật liệu sẽ chiếm phần lớn tổng số nguyên tử -> hiệu ứng liên quan
đến bề mặt đa dạng tạo nên các ứng dụng đặt trưng cho công nghệ
nano, vd: phủ nano diệt khuẩn, chống nước, chống trầy xước,... )
(Nguồn : truy cập 2h50,
13/11/2019)

Một số ứng dụng tiêu biểu của công nghệ nao trong
thế kỉ 21:
 Quần áo, vớ,... phủ nano có khả năng diệt khuẩn, khử mùi hôi.
 Ứng dụng trong chế tạo phân bón, thuốc xịt nhằm tăng khả năng hấp hấp thụ
dinh dưỡng của cây cũng như diệt sâu bệnh.
 ứng dụng của trong y học, cụ thể là chữa trị bệnh ung thư dạ dày.



Cấu tạo hạt nano vàng oxit

 Negatively charged iron oxide core: Lõi oxit sắt tích điện âm.
 Positively charged cationic polymer layer: Lớp polymer tích điện dương.
 Negatively charged gold seeds: Nhiều hạt vàng tích điện âm.
 Complete gold: Phủ hoàn toàn lớp vàng.
 Các hạt nano oxit sắt mạ vàng để có thể an toàn, chúng được bao phủ xung
quanh bởi một hợp chất cao phân tử có tính tương thích sinh học cao như
PVA (Polymers) , Silica (SiO2) hoặc vàng . Chất bao phủ có tác dụng chức
năng hóa bề mặt để có thể liên kết với các phân tử khác như nhóm chức
carboxyl, biotin, avidin, carbodiimide,…

Liên kết bề mặt của nano [4]


 Bề mặt của vàng liên kết gắn chặt với thiol (-SH) và chứa các phân tử khác
qua liên kết cộng hoá trị. (Các thiol gọi là mecaptan là các hợp chất hữu cơ
chứa nhóm sulfhydryl-SH gắn vào nguyên tử C.) [6]


Khi có sự hiện diện của Sulfo-NHS hiệu quả của khớp nối qua trung gian
EDC được tăng lên cho kết hợp với kháng thể và cái phân tử khác bằng liên
kết cộng hoá trị. Este NHS phản ứng amin hoặc este Sulfo-NHS có thể được
tạo ra với bất kỳ phân tử có chứa carboxyl.[5]

 Bề mặt giá mang nano được ghép với poly ethylene glycol (PEG). Ở đó, các
chuỗi ethylene glycol hình thành liên kết với các phân tử nước, dẫn đến sự
hình thành một lớp hydrat. Lớp hydrat này cản trở sự hấp phụ protein và
thực bào của hệ thực bào đơn nhân
 Ngoài ra, có thể bao phủ các hạt nano bằng lớp màng tế bào chiết xuất từ tế

bào bạch cầu hoặc hồng cầu, giúp cho bề mặt nano được “mô phỏng sinh
học”. Các hạt nano bao phủ lớp mô phỏng sinh học này giảm sự hấp phụ
bởi protein (IgG và albumin) 10 lần, giảm 50-70% sự thực bào, giảm tích
lũy trong gan và lách.
Các ứng dụng khác
-Dựa vào tính chất và mục đích sử dụng ta có các ứng dụng khác nhau của hạt
nano vàng trong chẩn đoán và điều trị. Các hạt nano được sử dụng trong nhiều mục
đích như: liệu pháp nhiệt ảnh, ngắm mục tiêu, phân phối thuốc, hình ảnh, phân
phối axit nucleic, và như một chất bổ trợ....


Các ứng ụng khác của nano [3]

Nguyên lý hoạt động:
Hạt nanô từ tính có tính tương hợp sinh học được gắn kết với thuốc điều trị. Lúc
này hạt nanô có tác dụng như một hạt mang. Thông thường các hạt nano vàng oxit
tạo thành một chất lỏng từ và đi vào cơ thể thông qua hệ tuần hoàn .Ví dụ ở đây ta
sử dụng hạt nano vàng oxit bề mặt có gắn kháng thể nhắm mục tiêu và thuốc
doxorubicin để diệt tế bào khối u...
Thông thường các hạt nano thường được tiêm vào các tĩnh mạnh, động mạch (hoặc
có thể tiêm trực tiếp vào vị trí khối u ) nên các thông số thủy lực như thông lượng
máu, nồng độ chất lỏng từ, thời gian tuần hoàn đóng vai trò quan trọng như các
thông số sinh lý học như khoảng cách từ vị trí của thuốc đến nguồn từ trường, mức
độ liên kết hạt nano, và thể tích của khối u. Thực chất Gradient từ trường có tác
dụng tập trung các hạt . Hiệu quả của việc dẫn truyền thuốc phụ thuộc vào cường
độ từ trường, gradient từ trường, thể tích và tính chất từ của hạt nanô.
Các hạt có kích thước micrô mét (tạo thành từ những hạt siêu thuận từ có kích
thước nhỏ hơn) hoạt động hiệu quả hơn trong hệ thống tuần hoàn đặc biệt là ở các
mạch máu lớn và các động mạch.



Sử dụng nam châm tập trung các hạt nano trong mạch máu

Nguồn từ trường thường là nam châm NdFeB có thể tạo ra một từ trường khoảng
0,2 T và gradient từ trường khoảng 8 T/m với động mạch đùi và khoảng 100 T/m
với động mạch cổ. Điều này cho thấy quá trình dẫn thuốc bằng hạt nanô từ tính có
hiệu quả ở những vùng máu chảy chậm và gần nguồn từ trường.[21]
Khi các hạt nano đi vào mạch máu, người ta dùng một gradient từ trường ngoài rất
mạnh để tập trung các hạt vào một vị trí nào đó trên cơ thể.
Một khi các hạt nano được tập trung tại vị trí khối u các hạt nano sẽ kết dính với bề
mặt của tế bào khối u .
Vì trên bề mặt của tế bào khối u xuất hiện nhiều thụ thể vai trò như kháng nguyên.


Bề mặt tế bào khối u [2]
Khi gặp các kháng thể trên hạt nano , nó sẽ liên kết với nhau theo nguyên tắc chìa
khoá ổ khoá .

Liên kết hạt nano với bề mặt khối u [2]
Quá trình nhả thuốc có thể diễn ra thông qua cơ chế hoạt động của các enzym
hoặc các tính chất sinh lý học do các tế bào ung thư gây ra như độ pH, quá trình
khuyếch tán hoặc sự thay đổi của nhiệt độ.[20]
Khi các hạt nano đã gắn lên bề mặt khối u thì nó bắt đầu xâm nhập nội bào , có
nghĩa là cái hạt nano nó sẽ được xâm nhập vào bên trong tế bào khối u.

Hạt nano xâm nhập nội bào vào trong khối khu [2]
Những phần tử nano này nhạy cảm với pH sao cho giảm độ pH từ mức pH sinh lý
(7,4) đến mức pH nội bào (~ 6,4) gây ra co giãn thuận nghịch của hạt nano trong
kích thước kích thước từ 55 nm đến 340 nm; điều này tạo thuận lợi cho việc phóng



thích thuốc doxorubicin vào dịch bào tương (cytosol). Một khi các tế bào (ung thư)
đã bị chết do doxorubicin và phân rã, các hạt nano chuyển đến các tế bào lân cận
và chu trình được lặp đi lặp lại.[1]

Hạt nano nhả thuốc bên trong tế bào khối u [2]
LIPID NANOCARRIER

1. Giời thiệu
-Lipid là các phân tử amphiphilic, trong đó một phần của phân tử là ưa nước và
một số khác kỵ nước. Khi lipit được đặt tiếp xúc với nước, các tương tác bất lợi
của các phân đoạn kỵ nước của phân tử với dung môi dẫn đến việc tự lắp ráp lipid,
thường ở dạng liposome.
-Liposome bao gồm một lõi nước bao quanh bởi một lớp lipid kép, giống như một
tấm màng ngăn cách lõi nước bên trong với phần lớn bên ngoài.

Hình 1: Cấu trúc của Liposome


-Liposome

được coi là một hệ vận chuyển lý tưởng với khả năng chứa, bảo vệ, vận
chuyển và giải phóng hoạt chất vào những vị trí mong muốn trong cơ thể một cách
chính xác và đúng liều lượng .
-Liposome đã được sử dụng để cải thiện chỉ số điều trị của thuốc mới bằng cách
điều chỉnh sự hấp thụ thuốc, giảm chuyển hóa, kéo dài thời gian bán hủy sinh học
hoặc giảm độc tính. Sự phân phối thuốc sau đó được kiểm soát chủ yếu bởi các đặc
tính của chất mang và không còn phụ thuộc bởi các đặc tính hóa lý của thuốc.

Hình 2: Cấu trúc và thiết kế cho việc cung cấp thuốc liposome.


Liposome có thể được chức năng hóa bề mặt để cung cấp khả năng tàng hình thông
qua PEGylation và để thúc đẩy endocytosis qua trung gian thụ thể bằng cách sử
dụng các phối tử nhắm mục tiêu như kháng thể, peptide, protein, carbohydrate và
các phân tử nhỏ khác.

2. Ứng dụng của Liposome:
-Các hệ thống phân phối thuốc mới như liposome được phát triển khi các phương
thức hiện tại không phù hợp. Trong số tất cả các nền tảng nano, liposome đã chứng


minh rằng mình là một nền tảng nano uy tín nhất với một số công thức được FDA
phê chuẩn để điều trị ung thư và có tác động lớn nhất đến ung thư cho đến nay, bởi
vì kích thước, tính tương hợp sinh học, khả năng phân hủy sinh học, tính ưa nước
và tính kỵ nước. độc tính và miễn dịch.
-Dựa trên các đặc tính này, một số chế độ phân phối thuốc có thể được liệt kê:
+các chế độ chính là tăng khả năng hòa tan thuốc (ví dụ amphotericin B,
minoxidil).
+bảo vệ các phân tử thuốc nhạy cảm (ví dụ như cytosine arabinose, DNA,
RNA, antisense olgionucleotide, ribozyme).
+tăng cường hấp thu nội bào (tất cả các tác nhân, bao gồm cả thuốc chống
ung thư, kháng sinh và thuốc chống vi rút).
+thay đổi tính phân phối sinh học của thuốc.

Hình 3: Sơ đồ phân phối tế bào và mục tiêu cụ thể của các hạt nano chứa thuốc
(liposome thường xuyên nhất) thông qua nội tiết và thụ thể trung gian.

2.1. Bào chế thuốc
-Liposome được ứng dụng nhiều trong lĩnh vực bào chế thuốc nhờ 4 tính năng:
Hòa tan hiệu quả các khoáng chất khó tan như sắt, magie, kẽm…; tăng khả năng



hấp thu của màng tế bào với hoạt chất; giảm thiểu tác dụng phụ của thuốc điều trị
ung thư với cơ thể; cung cấp phospholipid giúp bảo vệ dạ dày, tá tràng khỏi viêm
loét.
-Trong y học, có nhiều loại thuốc mà khoảng cách từ liều “điều trị hiệu quả” đến
liều “gây độc” khá gần nhau. Với các loại thuốc này, việc tăng liều cho bệnh nhân
khá nguy hiểm.
-Công nghệ Liposome được áp dụng đối với thuốc chống ung thư, các đoạn gene,
protein tái tổ hợp... Nhờ đặc điểm dược động học của Liposome, các hoạt chất sẽ
được vận chuyển đến tế bào đích chính xác, giúp nâng cao hiệu quả điều trị, giảm
độc tính so với dạng thuốc truyền thống.

Trong điều chế dược phẩm, Liposome còn giúp các hoạt chất kém tan thẩm thấu
vào thành ruột non, giúp cơ thể hấp thu nhanh và tăng hiệu quả điều trị. Sắt là một
trong những chất khó tan có thể ứng dụng công nghệ Liposome, khiến người uống
không cảm thấy vị tanh đặc trưng của kim loại. Ngoài ra, các hiện tượng khó chịu
thường gặp khi uống viên sắt như ợ nóng, buồn nôn, táo bón... cũng giảm đáng kể.
2.2. Điều chế thuốc chống nấm
Amphotericin B là một kháng sinh chống nấm được sử dụng trong các trường hợp nhiễm nấm
nghiêm trọng, có thể gây tử vong hoặc ngăn ngừa nhiễm khuẩn nấm ở những bệnh nhân bị sốt,
lượng bạch cầu trong máu thấp (bạch cầu trung tính) hoặc bệnh nhân có hệ miễn dịch suy yếu
(người nhiễm HIV, ghép tạng hoặc ung thư).


Hình 4: Thuốc chống nấm Amphotericin B
Amphotecirin B hoạt động bằng cách ngăn chặn sự phát triển của nấm nhờ gắn vào sterol (chủ
yếu là ergosterol) ở màng tế bào nấm làm biến đổi tính thấm của màng. Nó cũng gắn với sterol
bào chất của người (chủ yếu cholesterol) nên giải thích được một phần độc tính của thuốc đối với
người. Để khắc phục độc tính này, dựa vào đặc điểm không tan trong nước của amphotericin B

để bào chế thuốc dưới dạng liposome bằng cách tạo phức với phospholipid kép của lớp vỏ
liposome.
2.3. Trị liệu ung thư (thiếu cơ chế hoạt động của thuốc)

Hình 5: Hoạt động của thuốc trị ung thư đến các khối u thông qua các thụ thể
-Doxorubicin là một loại anthracycline hóa trị được sử dụng đơn độc hoặc kết hợp điều trị ung
thư lâu nay.

Hình 6: Công thức hóa học của Doxorubicin


-Doxorubicin hoạt động bằng cách làm chậm hoặc ngăn chặn sự phát triển của tế bào ung thư.
Thuốc được tiêm vào tĩnh mạch với liều lượng dựa trên tình trạng y tế, kích thước cơ thể và khả
năng đáp ứng điều trị của người bệnh.
-Tuy nhiên độc tính của Doxorubicin cũng rất cao. Tác dụng phụ thường gặp có thể có như rụng
tóc, ức chế tủy xương, nôn mửa, phát ban và viêm miệng. Các tác dụng phụ nghiêm trọng hơn có
thể bao gồm các phản ứng dị ứng như sốc phản vệ, tổn thương tim, tổn thương mô tại chỗ
tiêm, bỏng phóng xạ và ung thư bạch cầu liên quan đến điều trị. Người ta cũng thường thấy nước
tiểu đổi màu đỏ trong vài ng
-Để khắc phục những độc tính của thuốc này đối với người dùng và người chăm sóc, người ta đã
bào chế dạng thuốc tiêm liposome với dược phẩm doxorubicin chữa ung thư.

Hình 7: Cấu trúc của thuốc tiêm Liposome Doxorubicin
-Theo kết quả thí nghiệm, thuốc chữa ung thư hướng trúng đích Liposome Doxorubicin đã thử
nghiệm thành công trong điều trị trên chuột được gắn tế bào ung thư người. Thuốc chỉ diệt khối u
ác tính mà không gây tổn hại đến phần lành, giảm thấp nhất độc tính của thuốc đối với cơ thể.

Như vậy, liposome đã cho thấy khả năng vận chuyển thuốc nội bào cùng với việc
tăng cường phân phối thuốc đến các vị trí gây bệnh do có khả năng tuần hoàn kéo
dài và hiện đã có một số sản phẩm được chấp nhận sử dụng trên lâm sàng.


Hình 8: Onivyde (dạng liposome chứa
irinotecan) được FDA chấp thuận 10/2015
trong điều trị phối hợp với 5-flourouracil và
leucovorin để điều trị cho bệnh nhân ung thư
tuyến tụy di căn có tiến triển

Hình 9: Vyxeos (dạng liposome chứa
Daunorubicin và Cytarabin) được FDA chấp
nhận năm 8/2017 trong điều trị bệnh bạch cầu
myeloid thể cấp tính


NGUYÊN LÝ HOẠT ĐỘNG:
Hạt nanô từ tính có tính tương hợp sinh học được gắn kết với thuốc điều trị.

Lúc này hạt nanô có tác dụng như một hạt mang. Thông thường hệ thuốc/hạt tạo ra một chất lỏng
từ và đi vào cơ thể thông qua hệ tuần hoàn. Khi các hạt đi vào mạch máu, người ta dùng một
gradient từ trường ngoài rất mạnh để tập trung các hạt vào một vị trí nào đó trên cơ thể. Một khi
hệ thuốc/hạt được tập trung tại vị trí cần thiết thì quá trình nhả thuốc có thể diễn ra thông qua cơ
chế hoạt động của các enzym hoặc các tính chất sinh lý học do các tế bào ung thư gây ra như độ
pH, quá trình khuyếch tán hoặc sự thay đổi của nhiệt độ.


Quá trình vật lý diễn ra trong việc dẫn truyền thuốc cũng tương tự như trong phân tách tế bào.
Gradient từ trường có tác dụng tập trung hệ thuốc/hạt. Hiệu quả của việc dẫn truyền thuốc phụ
thuộc vào cường độ từ trường, gradient từ trường, thể tích và tính chất từ của hạt nanô.

Các chất mang (chất lỏng từ) thường đi vào các tĩnh mạnh hoặc động mạch nên các thông số
thủy lực như thông lượng máu, nồng độ chất lỏng từ, thời gian tuần hoàn đóng vai trò quan trọng

như các thống số sinh lý học như khoảng cách từ vị trí của thuốc đến nguồn từ trường, mức độ
liên kết thuốc/hạt, và thể tích của khối u.

Các hạt có kích thước micrô mét (tạo thành từ những hạt siêu thuận từ có kích thước nhỏ hơn)
hoạt động hiệu quả hơn trong hệ thống tuần hoàn đặc biệt là ở các mạch máu lớn và các động
mạch. Nguồn từ trường thường là nam châm NdFeB có thể tạo ra một từ trường khoảng 0,2 T và
gradient từ trường khoảng 8 T/m với động mạch đùi và khoảng 100 T/m với động mạch cổ. Điều
này cho thấy quá trình dẫn thuốc bằng hạt nanô từ tính có hiệu quả ở những vùng máu chảy
chậm và gần nguồn từ trường.
Tuy nhiên, khi các hạt nanô chuyển động ở gần thành mạch máu thì chuyển động của chúng
không tuân theo định luật Stoke nên với một gradient từ trường nhỏ hơn quá trình dẫn thuốc vẫn
có tác dụng.


Các hạt nanô từ tính thường dùng là ô-xít sắt (magnetite Fe3O4, maghemite a-Fe2O3 ) bao phủ
xung quanh bởi một hợp chất cao phân tử có tính tương hợp sinh học như PVA, detran hoặc
silica. Chất bao phủ có tác dụng chức năng hóa bề mặt để có thể liên kết với các phân tử khác
như nhóm chức carboxyl, biotin,...

-Hạt sử dụng liên kết hoá học : polymer , liposome ,…
Nanocapsules
Là hệ thống có nhiều lỗ hỏng, trong đó thuốc được giới hạn trong một khoang gồm một
lõi bên trong chất lỏng bao quanh bởi một màng polymer. Các hoạt chất thường được hòa
tan trong lõi bên trong, nhưng cũng có thể được hấp thụ lên bề mặt viên nang

Nanopheres
Hạt hình cầu có cấu tạo đơn khối – cấu trúc dạng ma trận, trong đó thuốc được phân tán
hoặc hấp thụ trên bề mặt của hạt hoặc được bao bọc trong nang. Lúc này được phân tán
tự nhiên và đồng đều nhau



1. Phospholipid là một loại lipid và là thành phần chính của tất cả các màng tế bào
2. Hydrophilic : chất ưa nước ( có xu hướng tan trong nước )
3. Lipophilic : Tính ưa ẩm, đề cập đến khả năng của một hợp chất hóa học hòa tan trong
chất béo, dầu, lipit và các dung môi không phân cực như hexane hoặc toluene.

Dựa theo bản chất của hạt tải thuốc


Ng` nói : vì time có hạn nên mình xin chỉ trình bày polymeric nanoparticles,
dendrimer và Liposome
Polymeric nanoparticles
Kích thước trong khoảng 10-100nm
Hạt nano polymer này có khả năng phân hủy sinh học và được tổng hợp nên từ phản ứng
trùng hợp polymer. Những polymer được ứng dụng trong dẫn truyền thuốc như
poly(lactic acid) ( PLA), poly ( ethylene glycol) (PEG) , poly ( lactic-co-glycolic acid)
(PLGA) …
Để tránh độc tính của các polymer tổng hợp thì ngày này người ta đã dần dần thay
polymer tổng hợp bằng các polymer tự nhiên như chitosan ( chế biến từ vỏ tôm ) hay
gelatin.
Chitosan được sử dụng làm nguyên liệu điều chế hạt nano chitosan trong những năm gần
đây vì những tính chất ưu việt của nó ở kích thước nano. Chitosan là dạng deacetyl hóa từ
chitin, có cấu trúc polysaccharide, được tìm thấy ở loài động vật giáp xác, côn trùng và
một vài loại nấm. Với nhiều tính năng như tính tương thích sinh học, phân hủy sinh học ,
bám dính màng và không độc hại, nó trở thành nguyên liệu cho nhiều ứng dụng dược
sinh học . Do đó, hạt nano chitosan trở thành hệ thống phân phối thuốc có tiềm năng lớn.
Nano chitosan do có kích thước siêu nhỏ ( từ 10 đến 1000nm) nên dễ dàng đi qua màng
tế bào, có thể đưa vào cơ thể qua nhiều đường khác nhau như dùng ngoài da, dùng qua
đường miệng, qua mũi … Nano chitosan có diện tích và điện tích bề mặt cực lớn nên
được ứng dụng nhiều trong sinh y học như mang thuốc, vaccine, vector chuyển gen,

chống khuẩn, thuốc điều trị ung thư… Khi sử dụng nano chitosan làm chất dẫn thuốc,
thuốc điều trị được bảo vệ bởi những hạt nano chitosan khỏi phân hủy sinh học. Do kích
thước rất nhỏ, những hạt này có tác dụng thấm sâu vào cơ thể, đưa thuốc đến đúng mục
tiêu, nâng cao hiệu quả điều trị

Dendrimers
Dendrimers là các đại phân tử có cấu trúc phân nhánh ba chiều đối xứng trong không
gian, có kích thước cỡ 1-10nm. Cấu trúc dendrimers gồm 3 phần : Lõi , nhánh và lớp vỏ
bên ngoài


Phần lõi dendrimer là chất khơi mào : có thể tạo dendrimer từ phân tử diaminobutane
(DAB) hoặc cystamine ( CYST). Nếu phân tử thuốc nhỏ thì có thể mang thuốc vào phía
bên trong lõi.
Đơn vị nhánh : đơn vị nhánh bên trong có thể là toàn bộ amin, hỗn hợp amide ( L-lysine
dendrimer) . Dendrimer dùng làm thuốc phải chọn đơn vị nhánh phù hợp với các ứng
dụng dược học ( không độc, tương thích sinh học và tính linh động cao … )

Hạt nano liposome:
-liposome có kích thước 50nm đến vài trăm nm.
Liposome là một túi hình cầu có ít nhất một lớp lipid kép . Những hạt lipid có cấu trúc vi
thể , nhỏ hơn tế bào máu hàng ngàn lần. Khi một dạng lipid gọi là phospholipid trộn hoà
với một chất lỏng để tạo ra thành một vật mang nhỏ có cấu trúc gồm một màng lipid kép
bao quanh một nhân lipid.


-Màng tế bào thường bao gồm một lớp kép phospholipid. Bộ đôi này chứa một nhóm đầu
ưa nước, hay nước, và một cái đuôi yêu lipophilic, hay mỡ, bao gồm một chuỗi
hydrocarbon dài đẩy lùi bằng nước. Do đó, Phospholipids được phân loại là các phân tử
lưỡng tính là kết quả của sự hiện diện của cả hai thành phần kỵ nước và kỵ nước.

-Khi màng tế bào hai lớp phospholipid tiếp xúc với nước, nhóm đầu bị hút nước và tạo
thành một bề mặt đối diện với nước. Đồng thời, đuôi lipophilic bị đẩy lùi bởi nước và sau
đó tạo thành một bề mặt chống lại nước. Trong một ô duy nhất, một lớp của các nhóm
đầu phải đối mặt với bên ngoài của tế bào, trong khi một lớp khác của các nhóm đầu cực
phải đối mặt với môi trường tế bào bên trong. Các đuôi hydrocarbon được gắn vào cả hai
lớp của các nhóm đầu cực đối diện nhau, do đó hình thành cấu trúc hai lớp của màng tế
bào.


-Bề mặt vỏ liposome được thiết kế với thành phần hoá học thích hợp sao cho hạt biết
tránh các tế bào khoẻ mạnh và chỉ có thể tác dụng với tế bào ung thư và nhả thuốc khi
gặp môi trường pH nhất định.

Liposome trong điều trị gen thực chất là phức hợp cationic liposime ( liposome cấu tạo
bởi các phân tử phospholipid mang điện dương ) có khả năng nén nhỏ các phân tử AND
hoặc plasmit cồng kềnh và vận chuyển vào trong tế bào.
–Khả năng ứng dụng liposome như chất thay thế hồng cầu nhằm vận chuyển oxy nhiều
triển vọng.
[ …] />[…] />[…] />
*Tài liệu tham khảo:
1. Liposomes as Potential Drug Carrier Systems for Drug Delivery; by Melis
Çağdaş, Ali Demir Sezer and Seyda Bucak.
Submitted: September 16th 2013.
Reviewed: March 7th 2014.
Published: July 25th 2014.
DOI: 10.5772/58459.


2. Công nghệ liposome và ứng dụng trong ngành dược; HuePharmUniversity
(28/11/2018)

3. Ứng dụng công nghệ Liposome trong bào chế thuốc; />[5] />[20] Alexiou C, Arnold W, Klein R J, Parak F G, Hulin P, Bergemann C, Erhardt
W, Wagenpfeil S and Lubbe A S 2000 Locoregional cancer treatment with
magnetic drug targeting Cancer Res. 60 6641–8
[21] Voltairas P A, Fotiadis D I and Michalis L K 2002 Hydrodynamics of
magnetic drug targeting J. Biomech. 35 813–21
[ 1] />[2] />[3]
/>_diagnosis_and_treatment_of_melanoma_cancer/figures?lo=1
[4] />[6] [ />


×