Tải bản đầy đủ (.doc) (78 trang)

Miễn trách nhiệm hình sự theo pháp luật hình sự việt nam từ thực tiễn tỉnh bình phước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (356.17 KB, 78 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LÊ THỊ THÙY LINH

MIỄN TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ
THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM

TỪ THỰC TIỄN TỈNH BÌNH PHƯỚC

LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ

HÀ NỘI, năm 2019


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LÊ THỊ THÙY LINH

MIỄN TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ
THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
TỪ THỰC TIỄN TỈNH BÌNH PHƯỚC

Ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 8.38.01.04

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS.NGUYỄN TẤT VIỄN


HÀ NỘI, năm 2019


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn Thạc sĩ Luật học “Miễn trách nhiệm hình sự theo
pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Bình Phước” là công trình nghiên
cứu của riêng tôi, hoàn toàn do tôi thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của
PGS.TS. Nguyễn Tất Viễn. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm
bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực.
Tác giả luận văn

Lê Thị Thùy Linh


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU....................................................................................................................................................... 4
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ MIỄN TRÁCH NHIỆM
HÌNH SỰ....................................................................................................................................................... 9
1.1. Khái niệm trách nhiệm hình sự và miễn trách nhiệm hình sự................................... 9
1.2. Đặc điểm của miễn trách nhiệm hình sự.............................................................................. 11
1.3. Khái quát lịch sử hình thành và phát triển của các quy định về miễn trách
nhiệm hình sự trong luật hình sự Việt Nam từ sau cách mạng Tháng Tám năm
1945 đến nay................................................................................................................................................ 13
1.4. Phân biệt miễn trách nhiệm hình sự với miễn hình phạt, miễn trách nhiệm
hình sự với các trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự...................................................... 19
1.5. Quy định của Bộ luật hình sự một số nước trên thế giới về miễn trách nhiệm
hình sự.............................................................................................................................................................. 22
CHƯƠNG 2: CÁC QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ
MIỄN TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TRÊN ĐỊA
BÀN TỈNH BÌNH PHƯỚC............................................................................................................... 26

2.1. Quy định về miễn trách nhiệm hình sự trong Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa
đổi, bổ sung năm 2017)........................................................................................................................... 26
2.2. Thực tiễn áp dụng các quy định về miễn trách nhiệm hình sự trên địa bàn
tỉnh Bình Phước.......................................................................................................................................... 47
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM ÁP DỤNG ĐÚNG CÁC QUY
ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ VỀ MIỄN TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH BÌNH PHƯỚC.................................................................................... 62
3.1.Một số kiến nghị nhằm áp dụng đúng các quy định của Bộ luật hình sự về
miễn trách nhiệm hình sự trên địa bàn tỉnh Bình Phước....................................................... 62
KẾT LUẬN.................................................................................................................................................. 69
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................................... 71

1


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BLHS

: Bộ luật Hình sự

BLTTHS

: Bộ luật tố tụng hình sự

TNHS

: Trách nhiệm hình sự

2



DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1. Thống kê tổng số vụ án, tổng số người bị khởi tố, truy tố, xét xử trên
địa bàn tỉnh Bình Phước.................................................................................................................... 48
Bảng 2.2. Số bị can, bị cáo được áp dụng miễn TNHS giai đoạn điều tra, truy tố,
xét xử trên địa bàn tỉnh Bình Phước trong giai đoạn 05 năm (2014-2018)...........49
Bảng 2.3. Tình hình áp dụng Điều 29 BLHS, Điều 157 và Điều 155 BLTTHS
trong giai đoạn 05 năm (2014-2018).......................................................................................... 53
Biểu đồ 2.1. Tổng số vụ án được các cơ quan tiến hành tố tụng tỉnh Bình Phước
áp dụng miễn trách nhiệm hình sự trong giai đoạn 05 năm (2014-2018)...............51
Biểu đồ 2.2. Tổng số bị can, bị cáo được các cơ quan tiến hành tố tụng tỉnh Bình
Phước áp dụng miễn TNHS trong giai đoạn 05 năm (2014-2018)............................. 52
Biểu đồ 2.3. Tổng số vụ án và tổng số bị can, bị cáo được miễn TNHS trong giai
đoạn 05 năm (2014-2018)................................................................................................................ 53

3


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nghị quyết số 49-NQ/TW, ngày 02/06/2005 của Bộ chính trị “Về chiến lược
cải cách tư pháp đến năm 2020” xác định chủ trương đề cao hiệu quả phòng
ngừa và tính hướng thiện trong việc xử lý người phạm tội. Sự hoàn thiện pháp
luật hình sự không chỉ nằm ở quá trình đấu tranh, phòng chống tội phạm ngày
càng hiệu quả hơn mà song song với nhiệm vụ đó còn là đảm bảo quyền con
người, quyền công dân trong hoạt động tư pháp. Trên tinh thần đó, Nghị quyết
số 41/2017/QH14, ngày 20 tháng 6 năm 2017 của Quốc hội khóa XIVvề việc thi
hành BLHS năm 2015(sửa đổi, bổ sung năm 2017) đã cụ thể hóa chính sách
hình sự nhân đạo: “xóa bỏ một tội phạm, một hình phạt, một tình tiết tăng nặng;
quy định hình phạt nhẹ hơn, tình tiết giảm nhẹ mới; miễn trách nhiệm hình sự,

miễn hình phạt, giảm hình phạt, xóa án tích”… “thì được áp dụng đối với cả
những hành vi phạm tội xảy ra trước 0 giờ ngày 01/01/2018…”.
Trong Luật hình sự, miễn TNHS là một trong những chế định thể hiện tính
nhân đạo rõ nét, phản ánh sắc nét nguyên tắc xử lý “nghiêm trị nghiêm trị kết
hợp với khoan hồng, trừng trị kết hợp với giáo dục thuyết phục”, cũng như phản
ánh yêu cầu “không cần thiết phải truy cứu trách nhiệm hình sự, mà vẫn bảo
đảm yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm và giáo dục cải tạo người phạm
tội”.
Đi sâu hơn để nghiên cứu các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam hiện
hành về miễn TNHS có thể nhận thấy những vướng mắc, bất cập còn tồn đọng
khá nhiều trong cả việc hiểu lẫn áp dụng trên thực tiễn chế định này, nhất là sau
khi BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) có hiệu lực đã có nhiều thay
đổi, dẫn đến các trường hợp nhầm lẫn với những quy định khác có tính chất
tương đồng, không đảm bảo được tính chính xác khi áp dụng xử lý người phạm
tội, đồng thời bên cạnh đó còn nhiều vấn đề chưa được các nhà làm luật nước ta

4


quy định cụ thể. Hiện nay trên địa bàn nhiều tỉnh thành cả nước nói chung và
tỉnh Bình Phước nói riêng, các cơ quan tiến hành tố tụng vẫn còn gặp nhiều
vướng mắc trong việc áp dụng quy định của BLHS về miễn TNHS.
Trong nghiên cứu về chế định miễn TNHS, đã có nhiều công trình đề cập từ
nhiều chiều cạnh khác nhau. Tuy nhiên chưa có công trình nào nghiên cứu tổng
thể về áp dụng chế định miễn trách nhiệm hình sự từ thực tiễn tỉnh Bình Phước.
Từ các lý do nêu trên học viên đã chọn đề tài “Miễn trách nhiệm hình sự
theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Bình Phước” làm luận văn
cao học.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Miễn TNHS là một chế định quan trọng, có liên quan chặt chẽ và mật thiết

với các chế định khác trong pháp luật hình sự Việt Nam. Ở nước ta hiện nay đã
có khá nhiều công trình nghiên cứu về chế định miễn TNHS.
Một số công trình tiêu biểu có thể kể đến như: 1) Giáo trình luật hình sự Việt
Nam (phần chung), Tập thể tác giả do TSKH Lê Cảm chủ biên, Nxb. Đại học
quốc gia Hà Nội, 2001 và 2003 (tái bản lần thứ nhất); 2) Trách nhiệm hình sự và
hình phạt, Tập thể tác giả do PGS.TS Nguyễn Ngọc Hòa chủ biên, Nxb. Công
an nhân dân, Hà Nội, 2001; 3) Trách nhiệm hình sự và miễn trách nhiệm hình
sự, Nxb. Tư Pháp, Hà Nội, 2005; 4) Tội phạm và trách nhiệm hình sự, Nxb.
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2013;...
Các công trình dưới góc độ tạp chí trong nước như: 1) Chế định miễn trách
nhiệm hình sự trong luật hình sự Việt Nam, Tạp chí Khoa học, số 4/1997; 2)
Trách nhiệm hình sự và miễn trách nhiệm hình sự, Tạp chí Luật học, số 5/1997;
3) Một số ý kiến về miễn trách nhiệm hình sự, Tạp chí Tòa án nhân dân, số
2/1993; 4) Phân biệt miễn trách nhiệm hình sự và miễn hình phạt, Tạp chí Khoa
học pháp lý, số 2/2004;...

5


Tuy nhiên, từ đó đến nay vẫn chưa có công trình nào nghiên cứu về vấn đề
miễn trách nhiệm hình sự theo pháp luật hình sự Việt Nam, nhất là sau khi
BLHS 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) có hiệu lực, cũng như đánh giá được
thực tiễn áp dụng trên địa bàn tỉnh Bình Phước. Vì vậy, việc lựa chọn đề tài đã
nêu để nghiên cứu, đánh giá thực tiễn áp dụng trên địa bàn tỉnh Bình Phước có
tính thiết thực và góp phần hoàn thiện hơn hiệu quả áp dụng trong thực tế hiện
nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài
3.1. Mục đích của đề tài
Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận về miễn TNHS và thực tiễn áp dụng
chế định miễn TNHS trên địa bàn tỉnh Bình Phước, luận văn đề xuất một số kiến

nghị bảo đảm áp dụng đúng đắn các quy định về miễn TNHS.
3.2. Nhiệm vụ của đề tài
Làm rõ những vấn đề lý luận về miễn TNHS (sự cần thiết quy định chế định
miễn TNHS,khái niệm, đặc điểm, nội dung chế định miễn TNHS, phân biệt với
các chế định tha miễn khác);
Khái quát sự hình thành và phát triển của các quy định về miễn TNHS theo
luật hình sự Việt Nam từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến nay,so sánh
quy định trong BLHS Việt Nam hiện hành với BLHS một số nước trên thế giới
về miễn TNHS;
Phân tích quy định BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung 2009) và BLHS năm
2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) về miễn TNHS và đánh giá thực tiễn áp dụng
trên địa bàn tỉnh Bình Phước trong các năm 2014 – 2018;
Đề xuất các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng các quy định về miễn TNHS.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu

6


Đối tượng nghiên cứu của luận văn: Miễn TNHS theo luật hình sự Việt Nam
và thực tiễn áp dụng trên địa bàn tỉnh Bình Phước.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi không gian: Tại địa bàn tỉnh Bình Phước, bao gồm các cơ quan
Công an, Viện kiểm sát, Tòa án.
Phạm vi thời gian: Sử dụng số liệu thống kê trong giai đoạn 05 năm (2014 2018).
5. Cơ sở luận và phương pháp nghiên cứu
5.1.Cơ sở luận
Luận văn thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghiã duy vật lịch sử. Các quy luật của phép duy vật biện chứng
như quy luật phủ định của phủ định, quy luật lượng đổi-chất đổi được sử dụng

nghiên cứu cơ sở của miễn TNHS, những thay đổi về bối cảnh kinh tế-xã hội
dẫn đến những thay đổi về pháp luật hình sự khi quy định về các chế định tha,
miễn TNHS, miễn hình phạt. Các cặp phạm trù như nội dung và hình thức, cái
chung và cái riêng, nguyên nhân và kết quả,... được vận dụng để phân tích ý
nghĩa, nội dung của các quy định về miễn TNHS trong số các biện pháp tha
miễn, vai trò của các biện pháp này trong bảo đảm quyền con người, quyền công
dân trong hoạt động tư pháp.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Các phương pháp nghiên cứu cụ thể được sử dụng trong luận văn gồm:
Phương pháp hệ thống, phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê, phân tích tài liệu
thứ cấp.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Nghiên cứu tổng hợp các cơ sở lý luận và thực tiễn về miễn TNHS, luận văn
là công trình nghiên cứu chuyên sâu về mặt lý luận và thực tiễn của chế định
miễn TNHS. Chỉ ra những bất cập, hạn chế trong quy định của pháp luật hình sự

7


Việt Nam về miễn TNHS. Từ đó, đề xuất hệ thống các giải pháp mang tính giá
trị pháp lý và thực tiễn, góp phần hoàn thiện và nâng cao hiệu quả việc áp dụng
chế định miễn TNHS trong thực tiễn đối với các cơ quan tư pháp.
Bên cạnh đó, luận văn còn góp phần bổ sung thêm nguồn tài liệu tham khảo
cho công tác học tập và nghiên cứu. Mang đến một góc nhìn mới và đa dạng
hơn về chế định miễn TNHS.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn gồm ba chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về miễn trách nhiệm hình sự.
Chương 2: Các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam từ năm 1945 đến nay

về miễn trách nhiệm hình sự.
Chương 3: Thực tiễn áp dụng các quy định về miễn trách nhiệm hình sự trên
địa bàn tỉnh Bình Phước và một số kiến nghị.

8


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ MIỄN TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ
1.1. Khái niệm trách nhiệm hình sự và miễn trách nhiệm hình sự
Trách nhiệm hình sự là một thuật ngữ của khoa học luật hình sự thể hiện hậu
quả pháp lý của việc thực hiện tội phạm. Theo Đại từ điển tiếng Việt, thuật ngữ
“trách nhiệm” được hiểu là “điều phải làm, phải gánh vác hoặc phải nhận lấy về
mình”. Từ đó có thể hiểu rộng hơn thuật ngữ “trách nhiệm” trong “trách nhiệm
hình sự” là những hậu quả mà cá nhân phải chịu khi thực hiện những hành vi vi
phạm bổn phận, trách nhiệm, nghĩa vụ của mình trước Nhà nước, xã hội hoặc cá
nhân khác.
Từ trước đến nay, xung quanh vấn đề hiểu “trách nhiệm hình sự” là gì, vẫn
còn nhiều luồng ý kiến khác nhau.Theo GS.TS Đỗ Ngọc Quang quan niệm
“trách nhiệm hình sự là một dạng trách nhiệm pháp lý, là trách nhiệm của
người khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong pháp luật
hình sự bằng một hậu quả bất lợi do Tòa án áp dụng tùy thuộc vào tính chất và
mức độ nguy hiểm của hành vi mà người đó đã thực hiện” 31,tr. 14. Đối với
tác giả TSKH Lê Cảm thì “trách nhiệm hình sự là hậu quả pháp lý của việc thực
hiện tội phạm và được thể hiện bằng việc áp dụng đối với người phạm tội một
hoặc nhiều biện pháp cưỡng chế của Nhà nước do luật hình sự quy định” 9,tr.
122. Trong khi đó, PGS.TS Nguyễn Ngọc Hoà và TS. Lê Thị Sơn thì cho rằng
“trách nhiệm hình sự là một dạng của trách nhiệm pháp lý bao gồm nghĩa vụ
phải chịu sự tác động của hoạt động truy cứu trách nhiệm hình sự, chịu bị kết
tội, chịu biện pháp cưỡng chế của trách nhiệm hình sự (hình phạt, biện pháp tư

pháp) và chịu mang án tích”21, tr. 126;
Có nhiều quan điểm khác nhau về “trách nhiệm hình sự” dưới nhiều góc độ
nhìn nhận và phân tích. Tuy nhiên, nhìn tổng thể, các quan điểm trên đều có
điểm chung tương đồng mà tổng kết lại dưới góc độ khoa học luật hình sự Việt

9


Nam có thể định nghĩa như sau: “Trách nhiệm hình sự là hậu quả pháp lý của
một hay nhiều người thực hiện tội phạm và được thể hiện bằng việc áp dụng
biện pháp cưỡng chế của Nhà nước do luật hình sự quy định tùy thuộc vào tính
chất và mức độ nguy hiểm của hành vi do người đó thực hiện”.
Diễn giải sơ bộ có thể hiểu TNHS là một dạng của trách nhiệm pháp lý bao
gồm nghĩa vụ phải chịu sự tác động của hoạt động truy cứu TNHS, chịu bị kết
tội, chịu biện pháp cưỡng chế của TNHS (hình phạt, biện pháp tư pháp) và mang
án tích.
Bắt đầu từ khi một người thực hiện tội phạm cũng là lúc mối quan hệ pháp
luật hình sự giữa Nhà nước và người đó được hình thành. Tức là từ thời điểm đó
người phạm tội có nghĩa vụ phải chịu TNHS do Nhà nước áp dụng. Tuy nhiên
cần lưu ý rằng khi tội phạm không bị phát hiện, hết thời hiệu truy cứu TNHS
hoặc người phạm tội được miễn TNHS theo quy định của Luật hình sự thì nghĩa
vụ phải chịu TNHS của họ sẽ không được thực hiện trên thực tế.
Bàn về TNHS không thể không nói tới miễn TNHS. Miễn TNHS xuất hiện
khi có TNHS, các vấn đề xung quanh miễn TNHS về cả khái niệm lẫn nội dung
đều bắt nguồn từ TNHS. Khái niệm miễn TNHS gắn liền và quan hệ chặt chẽ
với khái niệm TNHS. Theo như quan điểm khoa học của PTS. Lê Thị Sơn đã
viết: “Trách nhiệm hình sự là trách nhiệm pháp lý đặt ra đối với người phạm tội
thì miễn trách nhiệm hình sự, miễn hậu quả pháp lý của việc phạm tội cũng chỉ
có thể đặt ra đối với người phạm tội. Chúng ta không thể áp dụng miễn trách
nhiệm hình sự đối với người không có đủ dấu hiệu pháp lý của sự cấu thành tội

phạm được quy định trong luật hình sự”. Để đi tìm một khái niệm nhất quán và
chính xác nhất về TNHS không hề dễ thì ở đây miễn TNHS cũng gặp phải
trường hợp tương tự. Hiện nay, trong khoa học luật hình sự tồn tại khá nhiều
quan điểm khác nhau, cụ thể như:

10


“Miễn trách nhiệm hình sự là một chế định nhân đạo của luật hình sự Việt
Nam và được thể hiện bằng việc xóa bỏ hậu quả pháp lý của việc thực hiện
hành
vi nguy hiểm cho xã hội bị luật hình sự cấm đối với người bị coi là có lỗi trong
việc thực hiện hành vi đó”5, tr. 7;
“Miễn trách nhiệm hình sự có nghĩa là miễn những hậu quả pháp lý đối với
một tội phạm do pháp luật quy định” 43, tr. 269;
“Miễn trách nhiệm hình sự có nghĩa là miễn những hậu quả pháp lý về các
tội phạm đối với người thực hiện tội phạm khi có những điều kiện theo quy định
của pháp luật”9, tr. 109;
“Miễn trách nhiệm hình sự là không buộc người phạm tội phải chịu trách
nhiệm hình sự về tội mà người đó đã phạm” 22, tr. 166;
Dựa trên cơ sở thống nhất các quan điểm của nhiều tác giả khác nhau đồng
thời phân tích dưới góc độ khoa học luật hình sự, có thể định nghĩa một cách
đơn giản và dễ hiểu nhất như sau: Miễn TNHS là một chế định nhân đạo của
pháp luật hình sự Việt Nam và được thể hiện bằng văn bản với nội dung hủy bỏ
hậu quả pháp lý của việc thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị luật hình sự
cấm đối với người bị coi là có lỗi trong việc thực hiện hành vi đó, do các cơ
quan tư pháp hình sự có thẩm quyền tùy thuộc vào giai đoạn tố tụng hình sự
tương ứng áp dụng khi có đầy đủ căn cứ pháp lý và những điều kiện luật định.
1.2. Đặc điểm của miễn trách nhiệm hình sự
Miễn TNHS có những đặc điểm sau: Thứ nhất, miễn TNHS là một trong

những biện pháp hữu hiệu của Nhà nước ta để phân hóa và thể hiện nguyên tắc
xử lý “nghiêm trị kết hợp với khoan hồng”, “trừng trị kết hợp với giáo dục,
thuyết phục, cải tạo”. Cũng như TNHS, miễn TNHS thể hiện sự phản ứng (lên
án) đối với người có hành vi phạm tội từ phía Nhà nước và xã hội đồng thời
phản ánh chính sách phân hóa tội phạm và người phạm tội trong luật hình sự
Việt Nam. Chính sách phân hóa này cũng là một cách hiệu nghiệm của việc thực


11


hiện tốt nguyên tắc không để lọt tội phạm và người phạm tội…việc quy định chế
định miễn TNHS, chứng tỏ rằng con đường cơ bản, hậu quả cơ bản của tội phạm
là TNHS, hình phạt và chấp hành hình phạt, còn tha miễn chỉ là trường hợp cá
biệt, cụ thể, khi hoàn cảnh đòi hỏi.
Thứ hai, miễn TNHS chỉ có thể được đặt ra đối với người mà hành vi của họ
thõa mãn các dấu hiệu của một cấu thành tội phạm cụ thể được quy định trong
phần tội phạm của BLHS, đồng thời họ có những căn cứ và những điều kiện do
luật định để không phải gánh chịu hậu quả pháp lý của việc thực hiện tội phạm
đó.
Thứ ba, miễn TNHS do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định phải
được thể hiện bằng văn bản tố tụng.Tùy thuộc vào từng giai đoạn tố tụng hình
sự, cơ quan có thẩm quyền (Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án) áp dụng
miễn TNHS cho người phạm tội khi có đủ các căn cứ có tính chất bắt buộc hoặc
tùy nghi do pháp luật hình sự quy định.
Thứ tư, đối tượng được áp dụng miễn TNHS theo quy định của pháp luật
đương nhiên chỉ có thể là cá nhân người phạm tội. Và cụ thể hơn với mỗi giai
đoạn tố tụng người phạm tội có thể được miễn TNHS, mà tương ứng với từng
giai đoạn có thể là bị can, bị cáo hoặc người bị kết án.
Thứ năm, người được miễn TNHS không phải chịu hậu quả pháp lý, cụ thể

như họ không phải chịu hình phạt, biện pháp cưỡng chế về hình sự khác và
không bị coi là có án tích. Những người được miễn TNHS tức là đã bị truy cứu
TNHS, bị tiến hành điều tra về hành vi phạm tội trên thực tế của mình. Vì vậy,
người được miễn TNHS vẫn có thể phải chịu một hoặc nhiều biện pháp tác động
về mặt pháp lý thuộc các ngành luật khác như: Dân sự, hành chính,…vào thời
điểm trước hoặc sau khi miễn TNHS.

12


1.3. Khái quát lịch sử hình thành và phát triển của các quy định về miễn
trách nhiệm hình sự trong luật hình sự Việt Nam từ sau cách mạng Tháng
Tám năm 1945 đến nay.
1.3.1. Quy định pháp luật về miễn trách nhiệm hình sự từ năm 1945 đến
trước pháp điển hóa lần thứ nhất
Tháng Tám năm 1945, nhân dân Việt Nam đã đứng lên làm cuộc Cách mạng
tháng Tám vĩ đại xóa bỏ chế độ thực dân – phong kiến, lập nên chính thể Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa. Từ Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đến trước pháp
điển hóa lần thứ nhất cho thấy, Nhà nước ta đã đề cập đến vấn đề miễn TNHS ở
các mức độ và tên gọi khác nhau tại các văn bản pháp lý. Ngày 03/09/1945 tại
phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói:
“Trước ta đã bị chế độ quân chủ chuyên chế cai trị, rồi đến chế độ thực dân
không kém phần chuyên chế, nên nước ta không có hiến pháp, nhân dân ta
không được hưởng quyền tự do dân chủ. Chúng ta phải có một hiến pháp dân
chủ. Tôi đề nghị Chính phủ phải tổ chức càng sớm càng hay cuộc tuyển cử với
chế độ phổ thông đầu phiếu”. Người đã đề nghị sớm tổ chức tuyển cử và xây
dựng Hiến pháp. Cũng trong thời gian đó, nhiều văn bản để xây dựng và củng cố
chính quyền nhân dân được ban hành, có thể nhắc đến như: Sắc lệnh số 33C/SL
về thiết lập các Tòa án quân sự, có thẩm quyền “xử tất cả các người nào vi
phạm vào một việc gì có phương hại đến nền độc lập của nước Việt Nam dân

chủ cộng hòa”. Để có cơ sở pháp lý cho việc xét xử, Chủ tịch Chính phủ lâm
thời đã ban hành Sắc lệnh số 47/SL ngày 10/10/1945 với nội dung là cho đến khi
ban hành được những bộ luật pháp duy nhất cho toàn cõi nước Việt Nam, các
luật lệ hiện hành ở Bắc, Trung và Nam bộ vẫn tạm thời giữ nguyên như cũ, nếu
những luật lệ ấy không trái với những nguyên tắc độc lập của nước Việt Nam và
chính thể cộng hòa. Trong số luật lệ cũ, có những quy định liên quan đến miễn
TNHS, miễn hình phạt, ân xá. Tiếp đó, ngày 19/9/1945, Chủ tịch Chính phủ lâm

13


thời Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa đã ban hành sắc lệnh 33Đ về đại xá. Sắc lệnh
số 52/SL ngày 20/10/1945 xá miễn cho một số tội phạm trước ngày 19/08/1945;
Thông tư số 314-TTg ngày 09/11/1954 của Thủ tướng chính phủ về đại xá; Pháp
lệnh trừng trị các tội phản cách mạng ngày 30/10/1967;…Đơn cử có thể nhắc
đến như tại Sắc lệnh số 52/SL ngày 20/10/1945 có quy định “những người vì
chiến đấu cho nền độc lập của nước Việt Nam mà đã bị kết án trước ngày 19
tháng 8 dương lịch năm 1945 như là chính trị phạm hay thường phạm đều được
xá tội”(Điều thứ 2) hay“những khinh tội phạm trước ngày 19 tháng 8 năm 1945
mà Tòa án xử phạt tiền, hoặc tù treo, hoặc cả hai thứ hình phạt đó, đều được xá
miễn” (Điều thứ 3).
Trong giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1988, trước khi có BLTTHS, Chủ tịch
nước có 29 lần ra quyết định về đặc xá tha tù trước thời hạn cho những người
phạm tội hoặc đang bị tập trung giáo dục cải tạo đã ăn năn hối cải, có quá trình
cải tạo tốt trong trại giam. Vào đầu những năm 1970, trước những bất ổn về tình
hình an ninh trật tự, Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản riêng của công
dân số 150-LCT ngày 21/10/1970 được ban hành nhằm bảo hộ tài sản riêng của
công dân, giữ gìn trật tự, trị an, đảm bảo điều kiện thuận lợi cho mọi người tham
gia xây dựng chủ nghĩa xã hội và kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Đồng thời
đề cao đạo đức xã hội chủ nghĩa, chống những hành động xâm phạm tài sản

riêng của công dân.Tại Điều 2 của Pháp lệnh đã thể hiện rõ “Nguyên tắc trừng
trị các tội xâm phạm tài sản riêng của công dân là: nghiêm trị bọn lưu manh
chuyên nghiệp, bọn tái phạm, bọn phạm tội có tổ chức, bọn lợi dụng chức vụ,
quyền hạn để phạm tội, bọn gây hậu quả nghiêm trọng đến đời sống của người
bị thiệt hại; xử nhẹ hoặc miễn hình phạt cho những kẻ tự thú, thật thà hối cải, tố
giác đồng bọn hoặc tự nguyện bồi thường thiệt hại đã gây ra”.Đồng thời Điều
19 cũng nêu rõ những trường hợp xử nhẹ hoặc miễn hình phạt “Kẻ nào phạm

14


những tội quy định ở Chương II mà tội phạm thuộc vào một hoặc nhiều trường
hợp sau đây thì được xử nhẹ hoặc miễn hình phạt:
1. Tội phạm chưa bị phát giác mà kẻ phạm tội thành thật thú tội với cơ quan
chuyên trách, khai rõ hành động của mình và của đồng bọn.
2. Kẻ phạm tội đã có những hành động ngăn chặn hoặc làm giảm bớt tác
hại của tội phạm.
3. Trước khi bị xét xử, kẻ phạm tội tự nguyện bồi thường hoặc sửa chữa
thiệt hại đã gây ra.
4. Phạm tội gây thiệt hại không lớn”.
Giai đoạn từ 1945 đến trước khi Bộ luật hình sự 1985 ra đời có thể thấy Nhà
nước ta không những chú trọng đến việc hoàn thiện pháp luật như một nút then
chốt quan trọng trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước mà bên cạnh đó
việc xây dựng song song giữa tính nghiêm minh của pháp luật nhưng vẫn đảm
bảo tính nhân đạo đối với người phạm tội cũng được đặc biệt lưu tâm. Mặc dù
miễn TNHS giai đoạn này chưa được gọi một cái tên cụ thể mà tồn tại dưới
nhiều tên gọi khác nhau nhưng nhìn chung các điều kiện áp dụng được xác định
tương tự như các điều kiện xử nhẹ hoặc miễn hình phạt.
1.3.2. Quy định về miễn trách nhiệm hình sự trong Bộ luật hình sự năm
1985 và Bộ luật hình sự năm 1999

Năm 1985, BLHS Việt Nam đầu tiên của nước ta ra đời với ý nghĩa là nguồn
duy nhất trong đó quy định tội phạm và hình phạt được xây dựng trên cơ sở kinh
tế xã hội của nền kinh tế bao cấp và trên cơ sở thực tiễn của tình hình tội phạm
thời kì đó.Vấn đề miễn TNHS trong giai đoạn này được quy định rõ nét hơn so
với các quy định pháp luật trước đây. Cụ thể, những trường hợp được miễn
TNHS được quy định tại BLHS năm 1985 bao gồm: Miễn TNHS do tự ý nửa
chừng chấm dứt việc phạm tội (Điều 16); do sự chuyển biến của tình hình mà
hành vi phạm tội hoặc người phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa, cho

15


người phạm tội tự thú, thật thà khai báo, ăn năn hối cải (khoản 1 Điều 48); cho
người chưa thành niên phạm tội (khoản 3 Điều 59); cho người phạm tội gián
điệp (khoản 3 Điều 74); cho người phạm tội đưa hối lộ (khoản 5 Điều 227) và
cho người phạm tội không tố giác tội phạm (khoản 2 Điều 247). Tiếp đó tại Nghị
quyết số 02-HĐTP ngày 05/01/1986 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân tối
cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật hình sự cũng đã có những
hướng dẫn chi tiết về vấn đề miễn TNHS trong trường hợp tự ý nửa chừng chấm
dứt việc phạm tội. Nghị quyết đã giải thích rõ các điều kiện, nguyên nhân cơ bản
cũng như việc xem xét tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội trong trường hợp
phạm tội có tổ chức. Tuy nhiên, do Nghị quyết số 02/HĐTP ngày 05/01/1986 chỉ
mới hướng dẫn về việc tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội của người thực
hành tội phạm, chưa có hướng dẫn về việc tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm
tội trong các trường hợp có đồng phạm nên Nghị quyết số 01-HĐTP ngày
19/04/1989 của Hội đồng thẩm phán tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn bổ sung
một số quy định của Bộ luật hình sự được ban hành đã hướng dẫn thêm trong
các vụ án có đồng phạm, đưa ra các điều kiện cụ thể để được miễn TNHS theo
Điều 16 BLHS năm 1985 đối với người người xúi giục, người tổ chức, người
giúp sức.

Tại thời điểm này, tình hình tội phạm dần phức tạp hơn, gây nhiều khó khăn
trong công tác đảm bảo trật tự trị an cũng như phát giác tội phạm. Trước những
diễn biến trên, nhằm thực hiện chính sách khuyến khích người phạm tội ra tự thú
và nâng cao hiệu quả công tác vận động người phạm tội ra tự thú, căn cứ vào
những quy định trong Luật hình sự và Luật tố tụng hình sự, Bộ Nội vụ (nay là
Bộ Công an), Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao và Bộ Tư
pháp đã ban hành thông tư liên ngành số 05/TTLN ngày 02/06/1990 hướng dẫn
thi hành chính sách đối với người phạm tội ra tự thú theo nguyên tắc chung là
những người đã thực hiện hành vi phạm tội, nhưng chưa bị phát hiện hoặc đã bị

16


phát hiện, bị giam giữ, bị phạt tù nhưng trốn khỏi nơi giam giữ, trốn tránh thi
hành án hoặc đang bị truy nã mà ra tự thú được hưởng chính sách khoan hồng
của Nhà nước.
Có thể nói, chính sách nhân đạo được xem như một nhân tố quan trọng trong
việc xây dựng BLHS năm 1985 cũng như tại nhiều Nghị quyết được ban hành
trong giai đoạn này trong việc quy định về việc xử lý người phạm tội. Trong
khoảng 15 năm tồn tại, BLHS năm 1985 đã được sửa đổi, bổ sung 04 lần vào
các năm 1989, 1992 và 1997. Những thay đổi này xuất phát từ thực tiễn trong
thời kì đổi mới. BLHS năm 1999 được xây dựng trên cơ sở kế thừa những nội
dung hợp lý, tích cực của BLHS năm 1985. So với BLHS năm 1985, BLHS năm
1999 có những thay đổi cơ bản mang tính tương đối hoàn thiện thể hiện sự phát
triển mới của Luật hình sự Việt Nam mà cụ thể nội dung chúng ta đang phân tích
và tìm hiểu là vấn đề miễn TNHS.
Tương tự như BLHS năm 1985, BLHS năm 1999 cũng gồm các quy định về
miễn TNHS chia làm hai nhóm thuộc Phần chung và Phần các tội phạm. Bao
gồm các điều trong Phần chung như: Miễn TNHS do tự ý nửa chừng chấm dứt
việc phạm tội (Điều 19); do sự thay đổi của tình hình (khoản 1 Điều 25); do sự

ăn năn hối cải của người phạm tội (khoản 2 Điều 25); khi có quyết định đại xá
(khoản 3 Điều 25); cho người chưa thành niên phạm tội (khoản 2 Điều 69) và
các điều trong Phần các tội phạm như: Miễn TNHS cho người phạm tội gián
điệp (Điều 80); cho người phạm tội đưa hối lộ (đoạn 2 khoản 6 Điều 289); cho
người phạm tội làm môi giới hối lộ (khoản 6 Điều 290) và cho người phạm tội
không tố giác tội phạm (khoản 3 Điều 314). Bao gồm hai dạng TNHS có tính
chất bắt buộc và tùy nghi.
So với BLHS năm 1985, BLHS năm 1999 có điểm khác biệt hơn về kỹ thuật
lập pháp khi tách vấn đề miễn TNHS thành một chương riêng quy định về thời
hiệu truy cứu miễn TNHS, miễn TNHS, đồng thời còn quy định một điều luật

17


riêng về miễn TNHS có tính chất chung áp dụng cho mọi tội phạm tại Điều 25
của chương này. Nếu như trước đây vấn đề đại xá chỉ được nêu trong Hiến pháp
và các sắc lệnh, thông tư thì tại khoản 3 Điều 25 BLHS năm 1999, lần đầu tiên
cụm từ “Đại xá” được nhắc đến trong BLHS với “tư cách” là một căn cứ để
người phạm tội được miễn TNHS. Đồng thời BLHS năm 1999 đã thay đổi tính
chất không bắt buộc tại khoản 1 Điều 48 BLHS năm 1985 thành bắt buộc tại
khoản 1 Điều 25 BLHS năm 1999, đối với trường hợp “khi tiến hành điều tra
hoặc xét xử, do sự chuyển biến của tình hình mà hành vi phạm tội hoặc người
phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội”.
BLHS năm 1999 ra đời bên cạnh việc được kế thừa những nội dung tích cực,
hợp lí của BLHS năm 1985, đãhoàn thiện thêm một bước các quy định thuộc
Phần chung để đảm bảo tính khoa học và thực tiễn, thay đổi kết cấu các chương
tội phạm theo hướng vừa phù hợp với diễn biến mới của tình hình tội phạm Việt
Nam và vừa phù hợp với xu hướng chung của thế giới, phân hóa TNHS ở mức
độ cao hơn để nâng cao hiệu quả của Luật hình sự trong thực tiễn áp dụng.
1.3.3. Quy định về miễn TNHS trong BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung

năm 2017)
Sau 14 năm BLHS năm 1999 đã bộc lộ những bất cập hạn chế trước diễn
biến tình hình và đòi hỏi của đất nước trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng,
xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Ngày 27/11/2015, tại kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XIII đã thông qua BLHS
năm 2015, đánh dấu một bước tiến quan trọng, tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho
cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm có hiệu quả, góp phần bảo vệ chủ quyền,
an ninh của đất nước, bảo vệ chế độ, bảo vệ quyền con người, quyền công dân,
lợi ích của Nhà nước và tổ chức, bảo vệ và thúc đẩy kinh tế thị trường xã hội chủ
nghĩa phát triển đúng hướng. BLHS năm 2015 có hiệu lực thi hành từ ngày 01
tháng 07 năm 2016.

18


Tuy nhiên, do BLHS năm 2015 có nhiều thiếu sót, cần có thời gian sữa chữa,
bổ sung nên đã lùi hiệu lực thi hành theo Nghị quyết số 144/2016/QH13, ngày
29 tháng 6 năm 2016 của Quốc hội khóa XIII. Ngày 20/06/2017, Quốc hội khóa
XIVđã ban hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 2015. Căn cứ
Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/06/2017 thì BLHS năm 2015 (bao gồm cả
phần sửa đổi, bổ sung năm 2017 – gọi tắt là BLHS năm 2015), có hiệu lực thi
hành kể từ ngày 01/01/2018.
BLHS 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định về miễn TNHS gồm 3 quy
định tại Phần chung và 05 quy định tại phần các tội phạm với những đổi mới về
cả nội dung lẫn hình thức.
1.4. Phân biệt miễn trách nhiệm hình sự với miễn hình phạt, miễn trách
nhiệm hình sự với các trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự
1.4.1. Phân biệt miễn trách nhiệm hình sự và miễn hình phạt
Miễn TNHS và miễn hình phạt là hai trong nhiều chế định quan trọng của
luật hình sự ở nước ta đã được ghi nhận từ rất sớm, xuyên suốt lịch sử lập pháp

hình sự Việt Nam bằng các thuật ngữ khác nhau từ Quốc triều hình luật (Bộ luật
Hông Đức) đến Hoàng Việt luật lệ. Về điểm giống nhau giữa miễn TNHS và
miễn hình phạt, có thể nhận thấy:
Miễn TNHS và miễn hình phạt đều là hai chế định thể hiện chính sách khoan
hồng, nhân đạo của Đảng và Nhà nước ta. Đồng thời đều phản ánh chính sách
phân hóa tội phạm và người phạm tội cũng như các nguyên tắc nghiêm trị kết
hợp với khoan hồng, trừng trị kết hợp với giáo dục, thuyết phục và cải tạo.
Miễn TNHS và miễn hình phạt chỉ áp dụng đối với người bị coi là có lỗi
trong việc thực hiện chính tội phạm đó. Tức là áp dụng đối với người có hành vi
nguy hiểm cho xã hội được Luật hình sự quy định.
Cuối cùng, việc áp dụng miễn TNHS và miễn hình phạt tức là Nhà nước
không cách ly họ khỏi đời sống xã hội. Tạo điều kiện để họ có cơ hội sửa chữa

19


sai phạm cũng như hướng thiện trở thành con người có ích cho xã hội. Bên cạnh
đó miễn TNHS và miễn hình phạt cũng có những điểm khác biệt như:
Thứ nhất, về căn cứ pháp lý miễn TNHS có năm căn cứ chung (Điều 16,
Điều 29, khoản 2 Điều 91 BLHS năm 2015) và năm căn cứ riêng (Điều 110,
Điều 247, Điều 364, Điều 365, Điều 390 BLHS năm 2015). Miễn hình phạt có
hai căn cứ chung quy định tại Điều 59 và Điều 88 cùng một căn cứ riêng quy
định tại Điều 390 BLHS năm 2015.
Thứ hai, so về chủ thể áp dụng thì miễn TNHS có phần rộng hơn so với miễn
hình phạt. Đối với miễn TNHS, tùy thuộc vào từng giai đoạn tố tụng cụ thể, các
cơ quan Công an, Viện kiểm sát, Tòa án có thẩm quyền áp dụng miễn TNHS cho
người phạm tội khi đáp ứng các điều kiện do luật định. Riêng miễn hình phạt thì
chỉ do Tòa án là cơ quan duy nhất có quyền áp dụng ở giai đoạn xét xử.
Thứ ba, từ chủ thể áp dụng có thể suy ra đối tượng bị áp dụng của miễn
TNHS rộng hơn so với miễn hình phạt. Nếu miễn TNHS có thể là bị can, bị cáo

hoặc người bị kết án thì chỉ có người bị kết án là đối tượng duy nhất của miễn
hình phạt. Tức là người phạm tội có thể được miễn TNHS ở mỗi giai đoạn khác
nhau của quá trình tố tụng nếu đáp ứng đủ các yêu cầu do luật định, còn riêng
miễn hình phạt chỉ được áp dụng khi người phạm tội đã bị kết án bằng một bản
án có hiệu lực pháp luật.
Thứ tư, các điều kiện đặt ra của miễn TNHS được quy định rõ ràng và chặt
chẽ hơn so với miễn hình phạt. Người được miễn TNHS đương nhiên không
phải chịu hậu quả pháp lý bất lợi của việc phạm tội do mình thực hiện, nhưng
trên thực tế họ vẫn phải chịu biện pháp tác động từ các ngành luật tương ứng.
Tại Nghị quyết số 02/HĐTP ngày 05/01/1986 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án
nhân dân tối cao về việc hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLHS: “Khi
đã miễn trách nhiệm hình sự thì Tòa án không được quyết định bất kỳ loại hình
phạt nào nhưng vẫn có thể quyết định việc bồi thường cho người bị hại và giải

20


quyết tang vật”. Ngược lại, đối với trường hợp miễn hình phạt, tuy đương nhiên
được xóa án tích nhưng người phạm tội vẫn phải chịu các biện pháp tư pháp
được quy định luật hình sự (các Điều 46-49 BLHS năm 2015).
1.4.2. Phân biệt miễn trách nhiệm hình sự và các trường hợp loại trừ trách
nhiệm hình sự
Loại trừ TNHS trong luật hình sự có ý nghĩa rất quan trọng trong việc xác
định ranh giới giữa hành vi bị coi là tội phạm và hành vi không phải tội phạm,
bảo đảm xử lý đúng người, đúng tội, đúng pháp luật trong mỗi trường hợp tương
ứng, cũng như phát huy tinh thần chủ động đấu tranh phòng chống tội phạm.
Có thể nói miễn TNHS và loại trừ TNHS là một trong những chế định thể
hiện chính sách nhân đạo của Đảng và Nhà nước ta đối với người phạm tội
nhưng vẫn mang tính giáo dục, răn đe đối với họ.
Các trường hợp miễn TNHS so với các tình tiết loại trừ TNHS có bản chất

pháp lý khác nhau. Trên thực tế, nhiều quan điểm cho rằng “Suy cho cùng miễn
trách nhiệm hình sự cũng là không truy cứu trách nhiệm hình sự (căn cứ vào
hậu quả - nếu người phạm tội không bị áp dụng biện pháp xử lí nào)” (5, tr. 7).
Từ sự giống nhau về hậu quả pháp lý cuối cùng là đều không phải chịu TNHS
mà dẫn đến quan điểm hiểu sai khi cho rằng các trường hợp miễn TNHS tức là
loại trừ TNHS.
Miễn TNHS là không buộc người phạm tội phải chịu TNHS về hành vi trái
pháp luật do mình gây ra. Tức hành vi được nói đến ở đây đã thõa mãn các dấu
hiệu pháp lý của một cấu thành tội phạm tương ứng được pháp luật hình sự quy
định phải chịu TNHS nhưng do có những điều kiện nhất định và xét thấy không
cần thiết phải truy cứu TNHS nên họ được miễn TNHS. Ngược lại các tình tiết
loại trừ TNHS là trường hợp người có hành vi gây thiệt hại cho xã hội khi có
một trong các tình tiết được loại trừ TNHS quy định trong luật hình sự thì không

21


×