Tải bản đầy đủ (.doc) (65 trang)

Đặc điểm ngoại hình và khả năng sinh sản của gà đông tảo nuôi tại các nông hộ ở xã đông tảo, huyện khoái châu, tỉnh hưng yên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (7.06 MB, 65 trang )

Khóa luận tốt nghiệp

Dương Thị Liên – CNTYBK55

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan: Khóa luận “Đặc điểm ngoại hình và khả năng sinh
sản của gà Đông Tảo nuôi tại các nông hộ ở xã Đông Tảo, huyện Khoái
Châu, tỉnh Hưng Yên” là công trình nghiên cứu của tôi, các số liệu trong khóa
luận là hoàn toàn trung thực và chưa hề được sử dụng trong bất kỳ công trình
nghiên cứu nào khác.
Tôi xin cam đoan rằng, mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện khóa luận này
đã được cám ơn và các thông tin được trích dẫn trong khóa luận này đã được ghi
rõ nguồn gốc.
Hà Nội, ngày 21 tháng 8 năm 2014
Sinh viên

Dương Thị Liên

Khoa Chăn nuôi & NTTS – Học Viện Nông nghiệp Việt Nam

i


Khóa luận tốt nghiệp

Dương Thị Liên – CNTYBK55

LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành khóa luận tốt nghiệp này, ngoài sự cố gắng của bản thân,
tôi đã nhận được sự giúp đỡ nhiệt tình của Ban Chủ nhiệm Khoa, của các thầy
cô trong khoa Chăn nuôi và Nuôi trồng thủy sản - Học Viện Nông Nghiệp Việt


Nam sự động viên khích lệ của gia đình và toàn thể bạn bè trong cả quá trình
học tập.
Có được kết quả ngày hôm nay, tôi xin trân trọng gửi lời cảm ơn tới Ban
Chủ nhiệm Khoa cùng các quý thầy cô trong khoa Chăn nuôi và Nuôi trồng
thủy sản nói riêng và các thầy cô trong Học Viện Nông Nghiệp Việt Nam nói
chung đã giúp tôi trong suốt 4 năm học vừa qua.
Đặc biệt tôi tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS.TS. Vũ Đình Tôn, Hán Quang
Hạnh và ThS. Đào Thị Hiệp đã tận tình giúp đỡ tôi trong suốt quá trình thực
hiện đề tài và hoàn thành khóa luận tốt nghiệp.
Tôi xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ quý báu của các hộ gia đình cùng
ban lãnh đạo xã Đông Tảo, huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên đã tạo điều kiện
giúp đỡ tôi trong suốt thời gian thực hiện đề tài.
Tôi xin chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè đã giúp đỡ tôi trong suốt
quá trình thực hiện đề tài và hoàn thành khóa luận tốt nghiệp.
Xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 21 tháng 8 năm
2014
Sinh viên

Dương Thị Liên

Khoa Chăn nuôi & NTTS – Học Viện Nông nghiệp Việt Nam

ii


Khóa luận tốt nghiệp

Dương Thị Liên – CNTYBK55


MỤC LỤC

Khoa Chăn nuôi & NTTS – Học Viện Nông nghiệp Việt Nam

iii


Khóa luận tốt nghiệp

Dương Thị Liên – CNTYBK55

DANH MỤC BẢNG
Bảng 1. Số lượng và sự phân bố gà Đông Tảo thuần tại huyện Khoái Châu (n=80)
..........................................................................Error: Reference source not found
Bảng 2. Cơ cấu đàn gà Đông Tảo giống gốc trong các hộ điều tra (n= 80). .Error:
Reference source not found
Bảng 3. Thông tin chung về các hộ chăn nuôi gà Đông Tảo giống gốc (n= 80)
..........................................................................Error: Reference source not found
Bảng 4. Loại hình chăn nuôi và kiểu chuồng trại trong chăn nuôi gà Đông Tảo
..........................................................................Error: Reference source not found
Bảng 5. Các loại thức ăn và phương thức cho ăn trong chăn nuôi gà Đông Tảo
..........................................................................Error: Reference source not found
Bảng 6. Các bệnh phổ biến trong chăn nuôi gà Đông TảoError: Reference source
not found
Bảng 7. Đặc điểm ngoại hình của gà trống Đông Tảo sinh sản...Error: Reference
source not found
Bảng 8. Kích thước các chiều đo cơ thể gà trống sinh sảnError: Reference source
not found
Bảng 9. Đặc điểm ngoại hình của gà mái Đông Tảo sinh sản.....Error: Reference
source not found

Bảng 10. Kích thước các chiều đo cơ thể gà mái sinh sản (n=156)..............Error:
Reference source not found
Bảng 11. Tuổi và khối lượng thành thục của gà Đông Tảo.........Error: Reference
source not found
Bảng 12. Tỷ lệ ấp nở của gà Đông Tảo............Error: Reference source not found
Bảng 13. Khối lượng và các chiều đo của trứng gà Đông Tảo (n=226).......Error:
Reference source not found

Khoa Chăn nuôi & NTTS – Học Viện Nông nghiệp Việt Nam

iv


Khóa luận tốt nghiệp

Dương Thị Liên – CNTYBK55

Bảng 14. Các chỉ số của trứng gà Đông Tảo màu trắng hồng (n=103)........Error:
Reference source not found
Bảng 15. Các chỉ số của trứng gà Đông Tảo màu trắng (n=123) Error: Reference
source not found
Bảng 16. Hiệu quả kinh tế của 1 gà mái/năm...Error: Reference source not found

Khoa Chăn nuôi & NTTS – Học Viện Nông nghiệp Việt Nam

v


Khóa luận tốt nghiệp


Dương Thị Liên – CNTYBK55

DANH MỤC ẢNH
Ảnh 1. Gà Đông Tảo sơ sinh............................Error: Reference source not found
Ảnh 2. Gà Đông Tảo trống (mã mận)...............Error: Reference source not found
Ảnh 3. Gà Đông Tảo mái (mã thó)...................Error: Reference source not found

Khoa Chăn nuôi & NTTS – Học Viện Nông nghiệp Việt Nam

vi


Khóa luận tốt nghiệp

Dương Thị Liên – CNTYBK55

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Giá trị trung bình.
m

Sai số trung bình.

Cv%

Hệ số biến động.

SS

Sơ sinh.


TNTĂ

Thu nhận thức ăn.

TTTĂ

Tiêu tốn thức ăn.



Thức ăn.

TT

Tăng trọng.

Khoa Chăn nuôi & NTTS – Học Viện Nông nghiệp Việt Nam

vii


Khóa luận tốt nghiệp

Dương Thị Liên – CNTYBK55
Phần I

MỞ ĐẦU
1.1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Các giống gia cầm nội nước ta hiện nay đang phải đối mặt với rất nhiều
khó khăn, cho nên cần được sự quan tâm của cơ quan chức năng cũng như là

toàn bộ người dân. Các giống gà công nghiệp, giống gà ngoại với năng suất tốt,
lợi nhuận cao đã và đang được phát triển, mở rộng mạnh mẽ. Các giống gia cầm
nội có chất lượng thịt thơm ngon nhưng khối lượng nhỏ, hoặc khả năng sinh sản
thấp ít lợi nhuận nên phạm vi nuôi bị thu hẹp, một số gần bị tuyệt chủng.
Với khả năng thích cao, chất lượng thơm ngon phù hợp khẩu vị của người
tiêu dùng, cũng như sự đa dạng về giống loài của nước ta nên cần phải bảo tồn,
lưu giữ, phát huy nhưng giống gen quý này. Điều này cần thực hiện trên các
giống nội nói chung và giống gà Đông Tảo nói riêng.
Gà Đông Tảo là giống gà quý, lâu đời ở nước ta, nhưng hiện tại đang
phải đối mặt với nhiều vấn đề khó khăn khi ít người được tiếp cận và chăn nuôi,
phạm vi nuôi bị thu hẹp tại các hộ gia đình, tập trung ở xã Đông Tảo huyện
Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên. Bị các giống gà thương phẩm lấn áp và lai tạp
nhiều. Ngoài ra, giống gà Đông Tảo ngày càng khó nuôi, khả năng thích nghi kém
hơn, khả năng sinh sản thấp, khối lượng cơ thể và chân dần nhỏ lại, không đạt được
như trước đây. Tuy được quan tâm và đầu tư nhiều nhưng kết quả lại kém cũng như
tài liệu về giống ít, không rõ ràng. Một phần còn ở người dân khi chưa nắm rõ cách
chăn nuôi chăm sóc, cách phát triển đàn gà cũng như phòng dịch.
Vì vậy chúng tôi tiến hành đề tài: “Đặc điểm ngoại hình và khả năng
sinh sản của gà Đông Tảo nuôi tại nông hộ xã Đông Tảo, huyện Khoái Châu,
tỉnh Hưng Yên” với mục đích dựa vào khả năng sinh sản của gà Đông Tảo để
phát huy, mở rộng đàn gà trên diện rộng, duy trì bảo tồn loại gen quý cũng như
Khoa Chăn nuôi & NTTS – Học Viện Nông nghiệp Việt Nam

1


Khóa luận tốt nghiệp

Dương Thị Liên – CNTYBK55


giống gà quý lâu đời của nước ta. Cũng như tăng hiểu biết cho người dân để về
cách chăm sóc, phát triển và quảng bá đàn gà Đông Tảo ở nước ta không chỉ
người dân trong nước mà còn cả bạn bè, anh em nước ngoài.
1.2. MỤC TIÊU CỦA ĐỀ TÀI
Đánh giá thực trạng chăn nuôi gà Đông Tảo nuôi tại xã Đông Tảo, huyện
Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên.
Mô tả đặc điểm ngoại hình và đánh giá sức sản xuất của giống gà Đông Tảo.

Khoa Chăn nuôi & NTTS – Học Viện Nông nghiệp Việt Nam

2


Khóa luận tốt nghiệp

Dương Thị Liên – CNTYBK55
Phần II

TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
2.1.1. Phân loại khoa học
Phân loại khoa học hay phân loại sinh học là một phương pháp theo đó
các nhà sinh học gom nhóm và phân loại các loài sinh vật. Phân loại khoa học
cũng có thể được gọi là phân loại học khoa học, cần được phân biệt với phân
loại học dân gian, là phương pháp thiếu cơ sở khoa học hơn. Phân loại khoa học
hiện đại dựa trên cơ sở công trình của Carolus Linnaeus, người đã sắp xếp các
loài dựa trên đặc điểm hình thái của chúng. Phân loại khoa học thuộc về khoa
học phân loại hay hệ thống học sinh vật. Theo Nguyễn Văn Thiện (1995) thì
phân loại khoa học của gà là:
Giới (Kingdom): Animal

Ngành (Phylum): Chordata
Lớp (Class): Aves
Bộ (Order): Galli formes
Họ (Family): Phasianidae
Chủng (Genus): Gallus
Loài (Species): Gahusgaluss
2.1.2. Nguồn gốc
Có rất nhiều giả thuyết về nguồn gốc của gà nhà hiện nay nhưng thuyết
phục hơn cả là giả thuyết cho rằng tổ tiên của các giống gà nhà hiện nay có
nguồn gốc từ gà rừng Gallus Banquiva, hiện đang tồn tại ở miền bắc Ấn Độ và
bán đảo Đông Dương. Gà được nuôi ở Ấn Độ khoảng 2000 năm trước công
nguyên. Theo Nguyễn Mạnh Hùng và cộng sự (1994), ở Việt Nam gà được nuôi
cách đây khoảng hơn 3000 năm.
Khoa Chăn nuôi & NTTS – Học Viện Nông nghiệp Việt Nam

3


Khóa luận tốt nghiệp

Dương Thị Liên – CNTYBK55

Theo Đac Uyn, gà nhà có nguồn gốc từ gà rừng bao gồm 4 chủng khác nhau:
-

Gallus sonnerati, có lông màu xám bạc, có nhiều ở miền tây và nam Ấn Độ
Gallus lafeyetti sống ở Srilanca
Gallus varius sống ở đảo Gia-va
Gallus Banquiva có màu lông đỏ, có nhiều ở Ấn Độ, bán đảo Đông


Dương, Philippine
Gà nhà ở nước ta bắt nguồn từ gà rừng Gallus Banquiva, chúng được
thuần hóa sớm nhất ở Hà Bắc, Vĩnh Phú, Hà Tây…. Cách đây hơn 3000 năm từ
giống gà hoang ban đầu, trải qua thời gian dài nhân dân ta đã tạo ra được nhiều
giống gà mang các đặc điểm riêng biệt khác nhau như: gà chọi, gà Đông Tảo, gà Hồ,
gà Mía, gà Ri được phân bố rộng rãi (Nguyễn Mạnh Hùng và cộng sự, 1994).
2.1.3. Các giống gà nội
Việt Nam là một nước nông nghiệp nổi tiếng, ngành chăn nuôi đang phát
triển mạnh mẽ, qua đó các giống ngoại có ưu thế kinh tế đang được ưa chuộng
và chăn nuôi rộng rãi. Với sự tràn vào mạnh mẽ của các giống gà ngoại thì
dường như người dân đang dần chỉ biết giống gà nội qua sách báo, trên internet
hay là qua truyền miệng. Các giống gà nội đang bị lai tạp và thu hẹp lại ở một số
hộ gia đình nuôi nhỏ lẻ, không phát triển. Những giống gà nội còn được nhắc
đến là do khả năng sống, khối lượng, chất lượng thịt, sản lượng trứng nổi trội
của nó. Cần phải tích cực bảo tồn, phát huy, tuyên truyền làm sống lại các giống
gà nội của nước ta. Một số giống gà nội còn được biết như gà Ri, gà Hồ, gà
Đông Tảo, gà Tre, gà Mía,…
2.1.3.1. Gà Ri
Gà Ri là giống phổ biến nhất ở nước ta và được phân bố rộng rãi trong cả
nước. Hiện nay gà Ri pha tạp nhiều nên nhiều người còn gọi là gà Ri pha. Gà Ri
có tầm vóc nhỏ, thân hình thanh tú, nhỏ xương, thịt thơm ngon. Màu lông không
đồng nhất, gà mái thường có màu vàng và màu nâu nhạt hoặc thẫm, gà trống có
lông màu đỏ tía, cánh và đuôi có điểm lông màu đen. Đầu gà Ri thanh, hầu hết

Khoa Chăn nuôi & NTTS – Học Viện Nông nghiệp Việt Nam

4


Khóa luận tốt nghiệp


Dương Thị Liên – CNTYBK55

có mào đơn, đôi khi có con mào nụ, da màu vàng. Gà Ri có tính đòi ấp, chúng
ấp trứng và nuôi con khéo. Trứng gà Ri nhỏ, vỏ có màu nâu nhạt, gà càng già thì
khối lượng trứng càng cao hơn. Gà Ri có khối lượng cơ thể ở tuổi trưởng thành
như sau: con trống từ 1800 - 2500g, con mái từ 1300 - 1800g. Sản lượng trứng
của gà mái trong một năm đẻ từ 80 - 120 quả, khối lượng trứng bình quân 38 42g. Gà mái có tuổi đẻ quả trứng đầu tiên là 140 - 180 ngày. Tỷ lệ trứng có phôi
cao là 95%. Tỷ lệ ấp nở trên tổng số trứng đưa vào ấp từ 70 - 75%. Tỷ lệ nuôi
sống gà con từ mới nở đến 2 tháng tuổi là 80 - 90%.
Đây là giống gà thích hợp với khí hậu và điều kiện chăn nuôi quảng canh
ở nước ta. Gà rất chịu khó kiếm ăn khi nuôi chăn thả trong vườn hay ngoài
đồng. Hàng ngày người chăn nuôi chỉ phải cho ăn ít, ngoài ra chúng tự kiếm đủ
thức ăn ngoài vườn. Hiện nay, người chăn nuôi còn cho ăn thêm thức ăn công
nghiệp để rút ngắn thời gian sinh trưởng cũng như tăng giá trị kinh tế.
2.1.3.2. Gà Hồ
Gà Hồ còn gọi là gà Đông Hồ hay gà tiến vua, có nguồn gốc từ làng Lạc
Thổ,xã Song Hồ, huyện Thận Thành, tỉnh Bắc Ninh.
Gà Hồ có tầm vóc tương đối lớn, ngoại hình cân đối, đi lại chậm chạp,
khá thuần. Gà trống có màu lông tía, người dân ở đây lại phân biệt màu lông là
mã mận và mã lĩnh. Con mái có màu nâu xám (mã sẻ), màu vàng nhạt (mã nhãn)
hay màu trắng sữa (mã thó). Ngoại hình gà có đầu thô gộc, mào xuýt hoặc nụ,
mỏ có màu vàng nhạt, chân có màu đỗ nành. Da thường có màu vàng, gà con ít
lông, khi lớn mới phủ kín thân. Nhìn chung gà Hồ có ngoại hình tương đối giống
gà Đông Tảo, nhất là về màu lông nhưng cơ thể cân đối, thanh hơn, đặc biệt là
chân to vừa phải, cao và rất tròn, vảy chân mượt, không xù xì.
Ở tuổi trưởng thành, con trống nặng 3,5 - 4,5 kg; con mái nặng 2,5 - 3,5
kg, nếu được nuôi dưỡng tốt con trống có thể đạt 5,5 kg và con mái đạt 4,0 kg.
Sản lượng trứng trung bình 55 - 60 quả/mái/năm, khối lượng trứng 52 - 58g/quả.
Tuổi đẻ quả trứng đầu tiên khoảng 210 ngày, tỷ lệ trứng có phôi bình quân 85%.

Khoa Chăn nuôi & NTTS – Học Viện Nông nghiệp Việt Nam

5


Khóa luận tốt nghiệp

Dương Thị Liên – CNTYBK55

Tỷ lệ ấp nở khoảng 60 - 65% trên tổng số trứng đưa vào ấp. Tỷ lệ nuôi sống gà
con đến 2 tháng tuổi từ 80 - 85%.
Gà Hồ có tính đòi ấp nhưng khả năng ấp rất kém, gà mái nuôi con không
khéo, khả năng tự kiếm mồi không cao và chúng chậm chạp hơn so với gà Ri. Hiện
nay, gà Hồ bị lại tạp nhiều, những cá thể thuần chủng dường như không còn.
2.1.3.3. Gà Đông Tảo
Gà Đông Tảo hay còn gọi là gà Đông Cảo, có nguồn gốc từ thôn Đông
Cảo, xã Đông Tảo, huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên. Hiện nay, tên xã và
huyện cũng có sự thay đổi, huyện Khoái Châu bây giờ là huyện Châu Giang.
Gà Đông Tảo có tầm vóc tương đối to, gà trống có lông màu đỏ sẫm pha
lông màu đen, còn gọi là gà trống tía, con mái lông màu nâu hoặc vàng nhạt,
lông cổ có màu nâu sẫm hơn. Giống gà này có đầu to, mắt sâu, mào nụ. Ngoại
hình của gà rất thô, đặc biệt là xương ống chân rất to, có nhiều hàng vẩy sưng xù
xì. Gà con sau khi rụng lớp lông tơ sơ sinh, lông chính thức mọc lại rất chậm
nên một thời gian kéo dài từ 1 - 3 hay 4 tháng tuổi rất ít lông, nếu gặp thời tiết
lạnh trong mùa đông thì tỷ lệ nuôi sống sẽ rất thấp. Gà Đông Tảo có tiếng gáy
đục và ngắn khác hẳn với gà Ri có tiếng gáy vang và dài.
Số lượng gà thuần chủng hiện nay còn rất ít. Trước đây, người dân Đông
Cảo không cho phép nuôi các giống lạ, người làng giữ giống gà của mình không
bị pha tạp để phục vụ cho việc thờ cúng, tế lễ. Nhưng đến nay, tục lệ này không
còn được giữ, việc giao lưu tự do đã dẫn đến tình trạng giảm sút số lượng gà

thuần chủng.
2.1.3.4. Gà Tre
Được nuôi ở các tỉnh Nam Bộ, vóc dáng nhỏ, thịt thơm ngon. Khả năng
tăng trọng thấp, sáu tháng tuổi con trống nặng 800 - 850 g, con mái nặng 600 620 g. Ngoại hình gà có đầu nhỏ, mào hạt đậu, con trống thường có màu vàng ở
cổ và đuôi, phần còn lại màu đen, lông con mái thường có màu xám xen lẫn màu

Khoa Chăn nuôi & NTTS – Học Viện Nông nghiệp Việt Nam

6


Khóa luận tốt nghiệp

Dương Thị Liên – CNTYBK55

trắng. Sản lượng trứng đạt 50 - 60 quả/mái/năm, nặng 21 - 22 g. Gà Tre thường
được nuôi làm cảnh và thi chọi ở nhiều nơi trong nước.
2.1.3.5.

Gà Mía

Gà Mía có nguồn gốc từ làng Mía, xã Đường Lâm, huyện Tùng Thiện nay
là huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội. Gà Mía có tầm vóc tương đối lớn, ngoại hình
thô, đi lại chậm chạp. Lông gà trống màu tía, gà mái màu nâu xám hoặc vàng, cổ
có điểm lông nâu, cánh và đuôi có điểm lông đen. Đầu to, mắt sâu, mào đơn rất
phát triển, chân thô vừa phải, da bụng đỏ. Tiếng gáy ngắn và đục. Gà con ít lông,
khi lớn lông mới phủ kín thân.
Gà Mía có khối lượng cơ thể ở tuổi trưởng thành: con trống nặng 3,0 4,0kg, con mái nặng 2,5 - 3,0kg. Sản lượng trứng 55 - 60 quả/mái/năm, có khối
lượng trứng 55 - 58g. Tuổi đẻ quả trứng đầu tiên vào khoảng 200 ngày. Tỷ lệ
trứng có phôi là 85%, tỷ lệ ấp nở khoảng 60 - 70% trên tổng số trứng ấp. Tỷ lệ

nuôi sống gà con đến hai tháng tuổi khoảng 80 - 90%.
Gà Mía có tính đòi ấp cao, tuy vậy con mái ấp trứng vụng và nuôi con không
khéo, gà con mọc lông muộn, thường đến 15 tuần tuổi gà mới mọc kín lông.
2.1.3.6. Gà Chọi
Gà Chọi có số lượng không nhiều, rải rác nhiều nơi, thường tồn tại chủ
yếu ở những địa phương có phong tục truyền thống văn hóa chơi chọi gà như
tỉnh Hà Tây, Hà Nội, Bắc Ninh, Huế, thành phố Hồ Chí Minh (huyện Hóc Môn).
Đặc điểm ngoại hình: chân cao, mình dài, cổ cao, mào xuýt (mào kép)
màu đỏ tía; cựa sắc và dài (con trống có lông màu mận chín pha lông đen ở
cánh, đuôi, đầu). Tích và dái tai màu đỏ, con mái màu xám (là chuối khô) hoặc
màu vàng nhờ điểm đen, mỏ và chân màu chì, mắt đen có vòng đỏ.
Theo hội chăn nuôi Việt Nam (2002), gà trống 1 năm tuổi đạt 2,5 - 3,0kg,
gà mái 1,8 - 1,9kg. Khi trưởng thành gà trống nặng 3,0 - 4,0kg, gà mái nặng 2,0
- 2,5kg (trích dẫn từ Bùi Hữu Đoàn, 2009).

Khoa Chăn nuôi & NTTS – Học Viện Nông nghiệp Việt Nam

7


Khóa luận tốt nghiệp

Dương Thị Liên – CNTYBK55

Sử An Ninh và cộng sự (2003), sản lượng trứng 50 - 70 quả/mái/năm, vỏ
trứng màu hồng. Khối lượng trứng 50 - 55 g/quả (trích dẫn từ Bùi Hữu Đoàn, 2009).
Gà có sức khỏe tốt nhưng đẻ ít, khả năng nhân đàn chậm. Được người dân
nuôi để làm gà chọi trong các cuộc lễ hội. Một số địa phương như vùng Hóc
Môn và các tỉnh miền Đông thường cho lai với gà ta để nuôi lấy thịt.
2.1.3.7. Gà Ác

Gà Ác được thuần dưỡng phát triển đầu tiên ở các tỉnh Trà Vinh, Long
An, Kiên Giang. Đặc điểm ngoại hình: thân hình nhỏ, nhẹ, thịt xương màu đen,
lông trắng tuyền xù như bông, mỏ, chân cũng màu đen, mào cờ phát triển, màu đỏ
tím, khác với các giống gà khác là chân có 5 ngón nên còn gọi là gà ngũ chảo.
Gà trên 4 tháng tuổi có khối lượng trung bình 640 - 760g. Tuổi đẻ trứng
đầu tiên là 110 - 120 ngày, sản lượng trứng 70 - 80 quả/mái/năm, trứng nặng 30
- 32g (Hội chăn nuôi Việt Nam, 2002), tỷ lệ trứng có phôi 90%, tỷ lệ ấp nở/trứng
xấp xỉ 64%. Gà mái có thể sử dụng tới 2,5 năm (Bùi Đức Lũng và Lê Hồng
Mận, 2003).
Gà Ác có khối lượng nhỏ, tỷ lệ thân thịt ít nhưng lại là loại gà thuốc,
bồi dưỡng (tỷ lệ sắt trong thịt cao hơn gà thường 45%, tỷ lệ axit amin cao hơn
25%). Gà Ác được nuôi chủ yếu để hầm với thuốc bắc hoặc ngâm rượu để bồi
bổ sức khỏe và trị bệnh.
2.1.3.8. Gà Mán
Gà Mán có nguồn gốc từ đồng bào Dao, H’Mông, Nùng ở các huyện của
tỉnh Cao Bằng và một số tỉnh miền núi phía Bắc. là vật nuôi truyền đời của
người dân ở đây.
Đặc điểm ngoại hình nổi bật của gà Mán là có chân màu vàng, trên da có
những chấm xanh, màu hoa mơ. Lông màu hoa mơ hoặc màu nâu thẫm. Con
trống trưởng thành mào đơn hoặc mào nụ rất phát triển, thân dài, ngực rộng và
sâu, lông đuôi cong dài. Gà Mán có nhiều màu sắc: xám vàng, nâu đất. Đặc biệt,
hầu hết các con mái trưởng thành (80%) có bộ râu rất phát triển, đó là một chùm
Khoa Chăn nuôi & NTTS – Học Viện Nông nghiệp Việt Nam

8


Khóa luận tốt nghiệp

Dương Thị Liên – CNTYBK55


lông vũ mọc dưới cằm của gà. Chùm lông này phát triển trở thành một đặc điểm
ngoại hình đặc trưng của gà Mán để phân biệt với các giống khác.
Gà Mán có tầm vóc tương đối lớn so với các gà nội khác. Khối lượng cơ thể
khi mới nở là 34 g, 24 tháng tuổi, gà trống có thể đạt 4,5 - 5,0 kg, gà mái 3,0 - 3,5 kg.
Gà Mán thành thục sinh dục muộn, 200 ngày tuổi mới bắt đầu đẻ trứng
đầu tiên. Sản lượng trứng 48 - 50 quả/mái/năm. Khối lượng trứng 50,34 g/quả,
trứng có phôi đạt tỷ lệ 95,53%; tỷ lệ mới nở 85,66%. Gà Mán có bản năng ấp rất
cao và tốt, nuôi con khéo và kéo dài, tầm vóc lớn nhưng đẻ ít, khả năng tăng đàn
chậm, vì vậy gà Mán thường nuôi để lấy thịt.
2.1.3.9. Gà H’Mông
Gà H’Mông là vật nuôi truyền đời của đồng bào H’Mông, Dao, Tày,
Nùng…ở các tỉnh vùng núi Tây Bắc.
Đặc điểm nổi bật là bộ lông pha tạp như nâu, hoa mơ vàng sẫm… nhưng chủ
yếu là màu đen. Chân, da (nhiều con cả mào) đều có màu đen, tầm vóc cơ thể vừa
phải, thanh gọn. Khối lượng gà trưởng thành, con trống là 1,8 – 2,2 kg; con mái là
1,4 – 1,7 kg. Sản lượng trứng 80 – 100 quả/năm, khối lượng trứng 40 – 45 g/quả,
có màu trắng. Gà H’Mông có sức kháng bệnh rất tốt, thích nghi tốt với điều kiện
chăn thả tại nông hộ nhờ khả năng tự kiếm mồi cao. Chất lượng thịt đặc biệt thơm
ngon và cũng có màu đen rất đặc biệt nên được thị trường ưa chuộng.
2.1.3.10. Gà Đen
Tập trung ở Bắc Hà, Mường Khương, Văn Bàn, Than Uyên và Bát Xát
tỉnh Lào Cai. Gà có nhiều loại hình và màu long; màu lông vàng đất là chủ yếu,
ngoài ra còn có đen tuyền, hoa mơ. Da chân thường có màu đen chì, mào đơn có
4 -5 răng cưa, tích, mỏ, dái tai màu đen, đôi khi có con mào nụ. Thịt, mỡ, xương
và nội tạng đều đen hoặc đen xám. Bắt đầu đẻ lúc 110 ngày tuổi, nếu để gà đẻ
rồi tự ấp, có thể đẻ 2 – 3 lứa/năm, một lứa 8 – 10 trứng, trứng nặng 45g/quả,
màu nâu nhạt. Khối lượng sơ sinh 30 – 32g/con. Gà trống đạt 2,5 kg, gà mái đạt
1,2kg. Thịt ngon, thơm, rất ít mỡ, được người bản xứ dùng làm “thuốc” bồi
dưỡng sức khỏe…

Khoa Chăn nuôi & NTTS – Học Viện Nông nghiệp Việt Nam

9


Khóa luận tốt nghiệp

Dương Thị Liên – CNTYBK55

2.2. CƠ SỞ LÝ LUẬN
2.2.1. Cơ sở khoa học về khả năng sinh sản
Sinh sản là một quá trình hết sức quan trọng và bắt buộc của mọi sinh vật.
Ở gia cầm, quá trình tiến hóa có sự tăng kích thước trứng và thoái hóa phần bên
phải của hệ sinh dục cái. Sự phát triển phôi xảy ra trong trứng tương đối lớn,
được bảo vệ bằng một loại vỏ cứng.
Khả năng sinh sản của gia cầm được thể hiện bởi các chỉ tiêu về sản
lượng trứng, khối lượng, hình dạng, chất lượng trứng, tỷ lệ đẻ, khả năng thụ
tinh và kết quả ấp nở. Đối với các giống gia cầm khác nhau, khả năng sinh
sản cũng khác nhau.
2.2.1.1 Sinh lý sinh sản ở gà mái
Sự hình thành mầm của tuyến sinh dục xảy ra vào thời kỳ đầu của sự phát
triển phôi: phôi gà vào ngày thứ 3, ở vịt và ngỗng vào ngày 4 - 5. Thời kỳ phân biệt
bộ phận sinh dục ở phôi gà được thấy vào ngày ấp thứ 6 - 9. Tới ngày ấp thứ 9, ở
buồng trứng đã thể hiện sự không đối xứng, buồng trứng bên phải ngừng phát triển
và thoái hóa dần, buồng trứng bên trái tiếp tục phát triển, phân thành lớp vỏ và lớp
tủy. Ở vỏ xảy ra quá trình sinh sản của các tế bào sinh dục đầu tiên - noãn bao. Vào
ngày thứ 9, ở phôi gà đếm được 28000 tế bào sinh dục, ngày thứ 17 có 680 nghìn tế
bào, đến cuối kỳ ấp số lượng của chúng giảm còn 480000. Ở ngày ấp thứ 12, ống
dẫn trứng được phân thành loa kèn, phần tiết lòng trắng và tử cung.
a. Sự tạo trứng

Sự phát triển của tế bào trứng gồm 3 thời kỳ: sinh sản, sinh trưởng và chín...
Quá trình phát triển tế bào sinh dục cái xảy ra không chỉ là sự thay đổi cấu trúc và
kích thước của nó mà còn thay đổi cả bộ máy nhiễm sắc thể của nhân tế bào.
Thời kỳ sinh sản xảy ra trong quá trình phát triên phôi và kết thúc khi gà
nở. Khác với tế bào sinh trưởng, trong noãn bào có nhân to với hạt nhân nhỏ và
thể nhiễm sắc, không có trung thể. Sau khi kết thúc quá trình sinh sản, các tế bào
sinh dục được hình thành gọi là noãn bào cấp I.
Khoa Chăn nuôi & NTTS – Học Viện Nông nghiệp Việt Nam

10


Khóa luận tốt nghiệp

Dương Thị Liên – CNTYBK55

Thời kỳ sinh trưởng được chia thành thời kỳ sinh trưởng nhỏ và thời kỳ
sinh trưởng lớn. Thời kỳ sinh trưởng nhỏ kéo dài từ khi gà nở đến khi thành thục
sinh dục. Thời kỳ sinh trưởng lớn dài 4 - 13 ngày và đặc trưng bằng sự lớn rất
nhanh của lòng đỏ.
Thời kỳ chín của noãn bào lại xảy ra 2 phân chia lần liên tiếp của tế bào
sinh dục, số nhiễm sắc thể giảm đi 2 lần, vì vậy sự phân chia này gọi là giảm
nhiễm hay phân chia bào nhiễm. Quá trình này diễn ra tương tự như những tế
bào sinh dục cái khác ở đa số các loài động vật.
Quá trình thoát khỏi buồng trứng của tế bào trứng chín gọi là sự rụng
trứng. Trong nang đã chín, áp suất thẩm thấu của dịch nang tăng lên, dẫn tới sự
phá vỡ vách nang tại vùng lỗ thở (đai trứng - stigma) chỗ đối diện với đĩa phôi,
vách nang mỏng đi do những thay đổi thoái hoá dưới tác dụng của các hocmon,
nên nó bị vỡ ra.
Có ý kiến khác cho rằng, lỗ thở bị kéo ra bằng các sợi cơ riêng, khi đó các

mạch máu ở vùng lỗ thở co lại và nang vỡ không bị chảy máu. Nang vỡ trong
khoảnh khắc. Qua kẽ nứt mới được tạo ra, tế bào trứng rơi vào loa kèn hay là
phễu của ống dẫn trứng. Do chuyển động liên tục của thành phễu mà phễu thu
được trứng ở đây. Nếu có tinh trùng thì việc thụ tinh tế bào trứng sẽ xảy ra ở
ngay trên thành phễu.
Sự rụng trứng ở gà xảy ra một lần trong ngày, thường là sau khi gà đẻ
trứng 30 phút. Nếu gà đẻ sau 16 giờ thì sự rụng trứng sẽ chuyển đến buổi sáng
ngày hôm sau nữa. Trứng bị giữ lại trong ống dẫn trứng làm ngừng trệ sự rụng
trứng tiếp theo. Nếu lấy trứng ra khỏi tử cung, thì cũng không làm tăng nhanh sự
rụng trứng được. Sự rụng trứng ở gà thường xảy ra trong thời gian từ 2 tới 14
giờ hàng ngày.
Tính chu kỳ của sự rụng trứng phụ thuộc vào nhiều yếu tố: điều kiện nuôi
dưỡng và chăm sóc, lứa tuổi và trạng thái sinh lý của gia cầm... việc nuôi dưỡng
kém, không đủ ánh sáng và nhiệt độ không khí trong chuồng cao cũng làm
Khoa Chăn nuôi & NTTS – Học Viện Nông nghiệp Việt Nam

11


Khóa luận tốt nghiệp

Dương Thị Liên – CNTYBK55

chậm sự rụng trứng và đẻ trứng. Người ta đã biết được mối liên quan giữa
việc rụng trứng và chế độ ngày chiếu sáng. Nếu nuôi gà ban ngày trong nhà tối,
còn ban đêm cho ánh sáng nhân tạo, thì sự rụng trứng và đẻ trứng sẽ chuyển
sang ban đêm.
Sự rụng trứng của gia cầm chịu sự điều khiển của các hormone, Các
hormone FSH và LH kích thích sự sinh trưởng và sự chín của các tế bào sinh
dục trong buồng trứng. Phần mình các tế bào tiết estron trong khi trứng rụng,

kích thích hoạt động của ống dẫn trứng. Estron ảnh hưởng lên tuyến yên, ức chế
việc tiết FSH, như vậy sẽ làm chậm việc chín của trứng trong buồng trứng.
Hormone LH điều khiển sự rụng trứng của gia cầm, tuyến yên ngừng tiết nó khi
trong ống dẫn trứng có trứng, do đó ức chế sự rụng trứng của tế bào trứng chín
tiếp theo. LH chỉ được tiết vào buổi tối, sự chiếu sáng làm ngừng tiết nó, do vậy
sự rụng trứng sẽ bị ngừng lại vì thế mà khi nuôi gà đẻ trứng cần có chế độ chiếu
sáng hợp lý để có hiệu quả kinh tế cao nhất.
b. Cấu tạo và chức năng ống dẫn trứng
Ống dẫn trứng có hình ống, ở đó xảy ra sự thụ tinh và hình thành vỏ
trứng. Kích thước ống dẫn trứng thay đổi theo lứa tuổi và tình trạng hoạt động
của hệ sinh dục. Ở gia cầm thành thục sinh dục, ống dẫn trứng có 5 phần sau:
- Phễu: Là phần mở rộng của đầu ống dẫn trứng, dài 4 - 7cm, đường kính
8 - 9cm nằm dưới buồng trứng. Bề mặt niêm mạc phễu xếp nếp, không có tuyến.
Phễu có tác dụng hứng trứng rụng từ buồng trứng và tạo ra lớp lòng trắng trứng
đầu tiên bọc lấy tế bào trứng. Đây cũng là nơi nuôi dưỡng, lưu giữ tinh trùng và
là nơi xảy ra quá trình thụ tinh.
- Phần tạo lòng trắng: là phần dài nhất của ống dẫn trứng, khi gà đẻ mạnh,
phần này dài đến 30 - 50cm. Niêm mạc của ống có nhiều nếp xếp dọc. Trong đó có
nhiều tuyến hình ống, cấu tạo giống như tuyến ở cổ phễu. Chất tiết của tuyến là lòng
trắng, bao quanh lòng đỏ, chúng gồm nhiều lớp: phía trong đặc, phía ngoài loãng.
Thời gian trứng ở trong phần tạo lòng trắng không quá 3 giờ.
Khoa Chăn nuôi & NTTS – Học Viện Nông nghiệp Việt Nam

12


Khóa luận tốt nghiệp

Dương Thị Liên – CNTYBK55


- Phần cổ (eo): Là phần hẹp lại của ống dẫn trứng dài 8cm, ở đây lòng
trắng loãng được bổ sung và còn tiết ra 2 lớp màng chắc dính sát vào nhau có tác
dụng tạo hình dạng của trứng. Thời gian trứng ở đây khoảng gần 1 giờ.
- Phần dạ con: Là đoạn tiếp theo của eo, đó là phần mở rộng, thành dày,
dài 10 - 12cm. Trong thời gian này tuyến của vách dạ con tiết ra chất dịch lỏng,
bổ sung vào lòng trắng, chúng thấm qua các màng dưới vỏ trứng vào lòng trắng.
Ở đây trứng được tăng gấp đôi lên về khối lượng và cũng là nơi trứng được hình
thành lớp vỏ cứng để chuẩn bị đẻ ra ngoài.
- Âm đạo: Là đoạn cuối cùng của ống dẫn trứng, dài 7 - 12cm, niêm mạc
nhăn, không có tuyến. Là nơi có tác dụng tạo ra lớp màng mỏng bao bọc
trứng, khi ra ngoài thì khô lại tạo lớp màng bảo vệ cho trứng khỏi tác nhân
của ngoại cảnh.
c. Yếu tố ảnh hưởng
Toàn bộ các quá trình sinh sản được điều khiển bởi hoạt động của tuyến
yên và vùng dưới đồi thị. Tỷ lệ đẻ của gà phụ thuộc vào nhiều yếu tố: loài,
giống, lứa tuổi, trạng thái sinh lý, đặc điểm cá thể, điều kiện ngoại cảnh, điều
kiện nuôi dưỡng…
Trong các yếu tố môi trường thì ánh sáng có ảnh hưởng nhất đến sự phát
triển và chức năng của cơ quan sinh dục con mái. Kéo dài sự chiếu sáng khác
nhau thì kích thích hoặc ức chế hoạt tính sinh dục của gà. Nuôi gà con trong
điều kiện ngày chiếu sáng dài hơn thì thời gian thành thục sinh dục rút ngắn đi.
Vịt Bắc Kinh nuôi dưỡng từ bé ở điều kiện ngày chiếu sáng 16 giờ thì sự thành
thục sinh dục bắt đầu khi 135 ngày tuổi, còn trong điều kiện chiếu sáng tự nhiên
thì phải đến 240 ngày tuổi. Ngỗng rút ngắn thời gian thành thục sinh dục, khi
chiếu sáng 13 giờ. Dùng thêm ánh sáng nhân tạo, sự thành thục sinh dục ở gà và
gà tây sẽ sớm hơn. Nhưng nếu sự thành thục sinh dục quá sớm thì gà có khối
lượng bé và sẽ đẻ trứng bé. Khi sự thành thục sinh dục muộn thì gà đẻ trứng to
hơn. Trong điều kiện chăn nuôi gà công nghiệp, sự điều chỉnh chế độ ánh sáng
Khoa Chăn nuôi & NTTS – Học Viện Nông nghiệp Việt Nam


13


Khóa luận tốt nghiệp

Dương Thị Liên – CNTYBK55

và dinh dưỡng cần được hết sức chú ý sao cho gia cầm đẻ đúng tuổi, khi cơ thể
đã tương đối hoàn chỉnh và có khối lượng chuẩn, nhằm tăng năng suất sinh sản.
2.2.1.2 Sức sản xuất
Sức đẻ trứng của gia cầm chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố khác nhau,
mỗi yếu tố ảnh hưởng đến sức đẻ trứng ở mức độ nhất định. Một số yếu tố
chính ảnh hưởng đến sức đẻ trứng của gia cầm như các yếu tố di truyền cá thể,
giống dòng gia cầm, tuổi, chế độ dinh dưỡng, điều kiện ngoại cảnh (Nguyễn
Thị Mai và cộng sự, 2009).
a. Các yếu tố di truyền cá thể
Sức đẻ trứng của gia cầm là một tính trạng số lượng có lợi ích kinh tế
quan trọng của gia cầm đối với con người. Có 5 yếu tố di truyền ảnh hưởng đến
sức đẻ trứng của gia cầm: tuổi thành thục sinh dục, cường độ đẻ trứng, tính nghỉ
đẻ, thời gian kéo dài chu kỳ đẻ trứng sinh học và tính ấp bóng.
- Tuổi thành thục sinh dục
Tuổi thành thục sinh dục là tuổi bắt đầu hoạt động sinh dục và có khả
năng tham gia quá trình sinh sản. Ở gà mái tuổi thành thục là tuổi đẻ quả trứng
đầu tiên đối với từng cá thể hoặc được xác định theo tuổi đạt tỷ lệ đẻ 5% đối với
mỗi đàn gà (Trần Thị Mai Phương, 2004). Tuổi thành thục sinh dục của gà
khoảng 170 - 180 ngày, biến động trong khoảng 15 - 20 ngày. Tuổi thành thục
sinh dục sớm hay muộn phụ thuộc vào giống và môi trường. Các giống khác
nhau thì tuổi thành thục về tính cũng khác nhau, ví dụ như tuổi đẻ quả trứng đầu
của gà Ri là 135 - 144 ngày (Nguyễn văn Thạch, 1996).
Thể trạng và độ dài ngày chiếu sáng ảnh hưởng đến khả năng thành thục

sinh dục, những gà thuộc giống có tầm vóc nhỏ thì phần lớn bắt đầu đẻ trứng sớm
hơn những giống gà có tầm vóc lớn. Gà hướng trứng tuổi thành thục sớm hơn gà
hướng thịt. Thời gian gà đẻ mạnh là vào những ngày ngắn của thu đông, điều đó
cũng nói lên rằng thời gian chiếu sáng trong ngày ảnh hưởng đến tuổi thành thục
sinh dục. Theo Đặng Hữu Lanh và cộng tác viên (1999) cho biết, hệ số di truyền
của tính trạng này là h2 = 0,32.
Khoa Chăn nuôi & NTTS – Học Viện Nông nghiệp Việt Nam

14


Khóa luận tốt nghiệp

Dương Thị Liên – CNTYBK55

Tuổi đẻ sớm hay muộn liên quan chặt chẽ đến khối lượng cơ thể ở một
thời điểm nhất định. Những gia cầm có khối lượng nhỏ thường có tuổi thành
thục sớm hơn những gia cầm có khối lượng lớn. Các yếu tố ảnh hưởng đến tuổi
thành thục thời gian nở ra trong năm, khoảng thời gian chiếu sáng tự nhiên hay
nhân tạo. Ngoài ra còn các yếu tố ảnh hưởng đến sinh trưởng, phát triển như tiêm
phòng vắc xin cho gà con sẽ dẫn đến đẻ lùi quả trứng đầu tiên. Khẩu phần ăn cũng
ảnh hưởng mạnh đến chỉ tiêu này.
- Cường độ đẻ trứng
Là sức đẻ trứng trong một thời gian ngắn, có liên quan chặt với sức đẻ
trứng trong năm của gia cầm. Cường độ đẻ trứng mang đặc điểm của từng giống
và đặc trưng riêng cho từng cá thể gà mái và cũng chịu ảnh hưởng của nhiều yếu
tố khác như chế độ nuôi dưỡng, phương thức chăn nuôi. Theo Nguyễn Văn
Thạch (1996), gà Ri nuôi bán thâm canh có tỷ lệ đẻ cao hơn so với gà Ri nuôi
chăn thả (39.43% so với 31.45%).
Sự xuất hiện bản năng đòi ấp hay tính ấp bóng đó là phản xạ không điều

kiện có liên quan đến sức đẻ trứng của gia cầm. Trong tự nhiên, tính ấp bóng
giúp gia cầm duy trì nòi giống. Bản năng đòi ấp rất khác giữa các giống và các
dòng. Các dòng nhẹ cân có tần số thể hiện bản năng đòi ấp thấp hơn các dòng
nặng cân. Bản năng đòi ấp là một đặc điểm di truyền của gia cầm, nó là một
phản xạ nhằm hoàn thiện quá trình sinh sản. Phần lớn các dòng gà ham ấp đều
có sức đẻ trứng kém. Song với thành công trong lĩnh vực ấp trứng nhân tạo, để
nâng cao sản lượng trứng của gia cầm cần rút ngắn và làm mất hoàn toàn bản
năng ấp trứng. Bởi vì bản năng ấp trứng là một yếu tố ảnh hưởng đến sức bền đẻ
trứng và sức đẻ trứng.
- Thời gian nghỉ đẻ
Ở gà, thường có hiện tượng nghỉ đẻ trong một thời gian giữa các chu kỳ
đẻ trứng, từ vài ngày tới vài tuần, thậm chí kéo dài 1 - 2 tháng. Thời gian nghỉ đẻ
thường vào mùa đông, nó có ảnh hưởng trực tiếp đến sản lượng trứng cả năm.
Khoa Chăn nuôi & NTTS – Học Viện Nông nghiệp Việt Nam

15


Khóa luận tốt nghiệp

Dương Thị Liên – CNTYBK55

Gia cầm thường thay lông vào mùa đông nên thời gian này gà nghỉ đẻ. Trong
điều kiện bình thường, lúc thay lông đầu tiên là thời điểm quan trọng để đánh
giá gà đẻ tốt hay xấu. Những đàn gà thay lông sớm, thời gian bắt đầu thay lông
từ tháng 6 - 7 và quá trình thay lông diễn ra chậm, kéo dài 3 - 4 tháng là những
đàn gà đẻ kém. Ngược lại, có những đàn gà thay lông muộn, thời gian thay lông
bắt đầu từ tháng 10 - 11, quá trình thay lông diễn ra nhanh là đàn gà đẻ tốt. Đặc
biệt ở một số đàn gà cao sản, thời gian nghỉ đẻ chỉ 4 - 5 tuần và lại đẻ ngay khi
chưa hình thành xong bộ lông mới. Có con gà đẻ ngay trong thời kỳ thay lông.

- Tuổi gia cầm
Tuổi gia cầm cũng có liên quan đến năng suất trứng. Sản lượng trứng của
gà giảm dần theo tuổi, thường thì sản lượng năm thứ hai giảm 15 - 20% so với
năm thứ nhất (Nguyễn Thị Mai và cộng tác viên, 2009).
- Chế độ dinh dưỡng
Thức ăn và dinh dưỡng có quan hệ chặt chẽ với khả năng đẻ trứng. Muốn
gia cầm có sản lượng trứng cao, chất lượng trứng tốt thì phải đảm bảo một khẩu
phần ăn đầy đủ và cân bằng các chất dinh dưỡng theo nhu cầu. Quan trọng nhất
là cân bằng giữa năng lượng và protein, cân bằng các axit amin, cân bằng các
chất khoáng và vitamin. Thức ăn có chất lượng kém sẽ không thể cho năng suất
cao, thậm chí còn gây bệnh cho gia cầm. Các loại thức ăn bảo quản không tốt bị
nhiễm nấm mốc, các loại thức ăn bị nhiễm độc kim loại nặng, thuốc bảo vệ thực
vật… Thậm chí các loại thức ăn hỗn hợp đảm bảo đầy đủ và cân bằng các chất
dinh dưỡng nhưng bảo quản không tốt cũng sẽ không phát huy được tác dụng
trong chăn nuôi gia cầm (Nguyễn Thị Mai và cộng sự, 2009).
- Điều kiện ngoại cảnh
Các yếu tố ngoại cảnh như nhiệt độ, độ ẩm, ánh sáng, mùa vụ... ảnh
hưởng rất lớn tới sức đẻ trứng của gia cầm.

Khoa Chăn nuôi & NTTS – Học Viện Nông nghiệp Việt Nam

16


Khóa luận tốt nghiệp

Dương Thị Liên – CNTYBK55

Mùa vụ có ảnh hưởng rõ rệt đến sức đẻ trứng của gà. Ở nước ta vào mùa
hè sức đẻ trứng giảm xuống so với mùa xuân, đến mùa thu thì sức đẻ trứng của

gà lại tăng lên.
Nhiệt độ môi trường xung quanh có liên quan mật thiết với sản lượng
trứng. Nhiệt độ thích hợp cho gia cầm đẻ trứng là 18 - 24 0C (Nguyễn Thị Mai và
cộng sự, 2009).
Liên quan chặt chẽ với nhiệt độ là độ ẩm không khí của chuồng nuôi. Độ
ẩm thích hợp từ 65 - 70%. Độ ẩm thấp sẽ làm lượng bụi trong chuồng nuôi tăng
lên, đây là một tác nhân gây bệnh đường hô hấp. Ngược lại độ ẩm cao là điều
kiện thuận lợi cho các loại vi sinh vật gây bệnh phát triển, nhất là các bệnh
đường tiêu hóa. Độ ẩm cao kết hợp với nhiệt độ cao sẽ gây stress nóng ẩm rất
bất lợi với gia cầm, làm giảm khả năng đẻ trứng, chất lượng trứng và giảm hiệu
quả chăn nuôi.
Ngoài nhiệt độ và độ ẩm, chế độ chiếu sáng cực kỳ quan trọng trong
chăn nuôi gia cầm nói chung và gà đẻ trứng nói riêng. Gia cầm không chỉ cần
ánh sáng để nhìn và tìm thức ăn, nước uống, nơi ở…mà nó còn khởi động cơ
quan sinh dục. Theo Nguyễn Thị Mai và cộng sự (2009) võng mạc và não bộ
của gia cầm rất nhạy cảm với kích thích của ánh sáng. Cơ chế dẫn truyền kích
thích của ánh sáng là cơ chế thần kinh - thể dịch mà tuyến yên là trung tâm
truyền dẫn, chỉ những ánh sáng có bước sóng dài mới đi qua được. Vì vậy,
muốn kích thích cơ quan sinh dục, cần sử dụng ánh sáng ấm với nhiều màu đỏ
và cam. Ánh sáng tác động đến sức đẻ trứng từ hai khía cạnh là thời gian chiếu
sáng và bản chất của ánh sáng. Khi sử dụng chế độ chiếu sáng trong chuồng
nuôi gà, không chỉ đảm bảo thời gian và cường độ chiếu sáng mà còn phải chú
ý đến màu sắc của ánh sáng. Nếu muốn kích thích gà ăn nhiều, hoạt động tìm
ổ đẻ hiệu quả, tránh đẻ rơi trứng trên sàn đối với gà đẻ thì nên sử dụng ánh
sáng trắng với nhiều màu xanh. Cần tăng cường ánh sáng đỏ đối với gà mái đẻ
nhất là giai đoạn chuẩn bị vào đẻ (giai đoạn tiền đẻ trứng). Yêu cầu của gà đẻ về
Khoa Chăn nuôi & NTTS – Học Viện Nông nghiệp Việt Nam

17



Khóa luận tốt nghiệp

Dương Thị Liên – CNTYBK55

thời gian chiếu sáng là từ 12 - 16 giờ/ngày, cường độ chiếu sáng 10,8 lux đủ cho
năng suất trứng cao nhất. Trong chăn nuôi gà đẻ, có thể sử dụng ánh sáng tự nhiên
hoặc nhân tạo để chiếu sáng cho gà với cường độ chiếu sáng từ 3 - 3,5 W/m2 .
b.

Năng suất trứng

Năng suất trứng là số trứng một gia cầm mái sinh ra trong một đơn vị thời
gian. Đối với gia cầm đẻ trứng, đây là chỉ tiêu năng suất quan trọng nhất, phản
ánh trạng thái sinh lý và khả năng hoạt động của hệ sinh dục. Năng suất trứng là
một tính trạng số lượng nên nó phụ thuộc nhiều vào giống, đặc điểm của cá thể,
hướng sản xuất, mùa vụ và dinh dưỡng.
Năng suất trứng là tính trạng có mối tương quan nghịch chặt chẽ với tốc
độ sinh trưởng sớm, do vậy trong chăn nuôi gà sinh sản, cần chú ý cho gà ăn hạn
chế trong giai đoạn gà dò, gà hậu bị để đảm bảo năng suất trứng trong giai đoạn
sinh sản. Năng suất trứng phụ thuộc nhiều vào số lượng và chất lượng thức ăn,
phụ thuộc vào mức năng lượng, hàm lượng protein và các thành phần khác trong
khẩu phần thức ăn.
c. Sản lượng trứng
Là lượng trứng mà gia cầm mái đẻ ra trong một vòng đời. Sản lượng
trứng/năm của một quần thể gà mái cao sản, được thể hiện theo quy luật cường
độ đẻ trứng cao nhất vào tháng thứ hai, thứ ba sau đó giảm dần đến hết năm đẻ.
Năng suất trứng của gà Đông Tảo/36 tuần đẻ đạt 67,71 quả/mái (Nguyễn Đăng
Vang và cộng tác viên, 1999).
d. Khối lượng trứng

Khối lượng trứng là một chỉ tiêu liên quan mật thiết tới chất lượng trứng
giống, kết quả ấp nở, chất lượng và sức sống của gà con. Khối lượng trứng gia
cầm phụ thuộc vào giống, tuổi đẻ, chế độ chăm sóc, nuôi dưỡng…
e. Chất lượng trứng
Trứng gà gồm 3 phần cơ bản: vỏ, lòng đỏ và lòng trắng. Tỷ lệ các phần so
với khối lượng trứng thì vỏ chiếm khoảng 10 - 11,6%, lòng trắng 57 - 60%, lòng
Khoa Chăn nuôi & NTTS – Học Viện Nông nghiệp Việt Nam

18


×