Tải bản đầy đủ (.pdf) (47 trang)

Đánh giá chất lượng nước một số suối thuộc huyện văn yên, tỉnh yên bái bằng sinh vật chỉ thị là động vật không xương sống cỡ lớn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.42 MB, 47 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA SINH - KTNN

======

NGÔ XUÂN MẠNH

ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG NƯỚC MỘT SỐ
SUỐI THUỘC HUYỆN VĂN YÊN, TỈNH YÊN
BÁI BẰNG SINH VẬT CHỈ THỊ LÀ ĐỘNG
VẬT KHÔNG XƯƠNG SỐNG CỠ LỚN
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Môi trường

Người hướng dẫn khoa học
TS. NGÔ XUÂN NAM

HÀ NỘI - 2018


LỜI CẢM ƠN

Trước hết tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến TS. Ngô Xuân Nam Viện Sinh Thái và Bảo vệ công trình - Viện Khoa học Thủy lợi Việt Nam, Bộ
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Thầy là người đã định hướng và tận
tình chỉ bảo, giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu khoa học và
hoàn thiện khóa luận tốt nghiệp của mình.
Đồng thời, qua đây tôi cũng xin gửi lời cảm ơn đến ban lãnh đạo cùng
các thầy giáo, cô giáo tổ Động vật, Khoa Sinh - KTNN, Trường Đại học Sư
phạm Hà Nội 2, những người đã truyền đạt kiến thức và tạo điều kiện thuận
lợi giúp đỡ tôi trong suốt quá trình hoàn thành khoá luận tốt nghiệp của mình.
Cuối cùng, tôi xin được gửi lời cảm ơn tới gia đình và bạn bè đã động


viên và là chỗ dựa vững chắc cho tôi trong quá trình học tập và nghiên cứu
khoa học.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

Hà Nội, ngày…..tháng…..năm 2018
Sinh viên

Ngô Xuân Mạnh


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết
quả nghiên cứu, các số liệu trình bày trong luận văn là do nghiên cứu, thực
tiễn đảm bảo tính trung thực và chưa được công bố trong bất cứ công trình
khoa học, trong các tạp chí chuyên ngành và các hội thảo khoa học, sách
chuyên khảo,… nào khác.
Hà Nội, ngày…..tháng…..năm 2018
Sinh viên

Ngô Xuân Mạnh


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

ASPT

: Average Srores Per Taxon
Điểm số trung bình cho các đơn vị phân loại

BMWP


: Biological Monitoring Working Party
Một tổ chức nghiên cứu về quan trắc sinh học

C1 – C7

: Điểm thu mẫu từ 1 đến 7

ĐVKXS

: Động vật không xương sống

SVCT

: Sinh vật chỉ thị


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ....................................................................................... 1
2. Mục đích nghiên cứu ................................................................................. 2
3. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn...................................................... 2
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU ........................................................... 3
1.1. Khái quát về tình hình sử dụng ĐVKXS cỡ lớn đánh giá chất
lượng nước trên thế giới ................................................................................ 3
1.2. Khái quát về tình hình sử dụng ĐVKXS cỡ lớn đánh giá chất
lượng nước ở Việt Nam ................................................................................ 6
CHƯƠNG 2. ĐỐI TƯỢNG, ĐỊA ĐIỂM, THỜI GIAN, NỘI DUNG VÀ
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU................................................................... 11
2.1. Đối tượng nghiên cứu .......................................................................... 11

2.2. Địa điểm, thời gian nghiên cứu ............................................................ 11
2.2.1. Địa điểm nghiên cứu ..................................................................... 11
2.2.2. Thời gian nghiên cứu .................................................................... 12
2.3. Nội dung nghiên cứu ............................................................................ 12
2.4. Phương pháp nghiên cứu...................................................................... 13
2.4.1. Phương pháp nghiên cứu ngoài thực địa....................................... 13
2.4.2. Phương pháp nghiên cứu trong phòng thí nhiệm.......................... 14
2.4.3. Phương pháp phương pháp xử lý số liệu: ..................................... 14
2.4.4. Phương pháp xác định hệ thống tính điểm BMWPVIET và chỉ
số sinh học ASPT .................................................................................... 14
2.5. Khái quát điều kiện tự nhiên các xã Đông An, Phong Dụ Hạ và Xuân
Tầm, huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái………………………………………16
CHƯƠNG 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN ........................ 18


3.1. Thành phần các họ ĐVKXS cỡ lớn tại các xã Đông An, Phong Dụ
Hạ và Xuân Tầm, huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái........................................ 18
3.2. Đánh giá chất lượng môi trường nước tại khu vực nghiên cứu ........... 22
Đánh giá chất lượng nước bằng hệ thống điểm BMWPVIET và chỉ
số ASPT................................................... Error! Bookmark not defined.
3.3. Một số nguyên nhân ảnh hưởng đến chất lượng nước và giải pháp
để sử dụng tài nguyên nước một cách hợp lí tại các xã Đông An,
Phong Dụ Hạ và Xuân Tầm, huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái ...................... 23
3.3.1. Một số yếu tố ảnh hưởng đến môi trường nước ở khu vực nghiên
cứu ........................................................................................................... 23
3.3.2. Một số đề xuất sử dụng tài nguyên nước một cách hợp lý tại
khu vực nghiên cứu ................................................................................. 24
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ......................................................................... 26
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 28
PHỤ LỤC



DANH MỤC BẢNG
Bảng 2.1. Mối liên quan giữa chỉ số sinh học ASPT và mức độ ô nhiễm ...... 16
Bảng 3.1. Thành phần các họ ĐVKXS cỡ lớn tại khu vực nghiên cứu .......... 18
Bảng 3.2. Số lượng họ thuộc các nhóm ĐVKXS cỡ lớn tại ......................... 22
Bảng 3.3. Mức độ ô nhiễm hữu cơ của nước tại các điểm nghiên cứu........... 23


DANH MỤC HÌNH
Hình 3.1. Tỷ lệ % các nhóm ĐVKXS cỡ lớn tại khu vực nghiên cứu............ 22


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong công tác quản lí, giám sát và quan trắc môi trường nước hiện nay,
việc đánh giá chất lượng nước thông qua phương pháp phân tích các chỉ tiêu
lý hóa đang được sử dụng rộng rãi, người ta có thể giám sát chất lượng nước
bằng cách phân tích hóa học, nhưng việc dự báo một cách chắc chắn về các
tác động của các hợp chất hóa học đến hệ sinh thái, đến đời sống của sinh vật
cũng như sức khỏe con người trong nhiều trường hợp còn gặp nhiều khó
khăn. Trái lại, phương pháp quan sinh trắc học khắc phục được một số hạn
chế của phương pháp trên như cung cấp các dẫn liệu về thời gian, tiện lợi
trong sử dụng và cho kết quả nhanh, trực tiếp về ảnh hưởng của hiện trạng ô
nhiễm đến sự phát triển của hệ thống thủy sinh vật. Vì thế, quan trắc sinh học
nước ngọt ngày càng trở nên quan trọng như là một phần bổ sung hoặc thậm
chí thay thế cho những phân tích hóa học.
Việc sử dụng ĐVKXS cỡ lớn ở nước làm SVCT để đánh giá chất lượng
nước và giám sát sinh học bằng SVCT có rất nhiều ưu điểm nên từ lâu đã
được sử dụng rộng rãi ở châu Âu. Những năm gần đây, việc áp dụng quan

trắc sinh học đã được chú ý tại Thái Lan và các nước Đông Nam Á khác,
trong đó có Việt Nam.
Đông An, Phong Dụ Hạ và Xuân Tầm là ba xã thuộc huyện Văn Yên,
tỉnh Yên Bái, với địa hình tương đối phức tạp, hệ thống sông, suối dày đặc là
nơi sinh sống và tồn tại của nhiều nhóm động vật thủy sinh, trong đó có nhóm
ĐVKXS cỡ lớn. Tuy nhiên, các sông, suối ở đây đang có dấu hiệu ô nhiễm.
Cho đến nay vẫn chưa có đề tài nghiên cứu nào sử dụng ĐVKXS cỡ lớn làm
SVCT để đánh giá chất lượng nước ở khu vực này.
Dựa vào cở sở lí luận là thực tiễn trên, chúng tôi tiến hành nghiên cứu:
‘‘Đánh giá chất lượng nước một số suối thuộc huyện Văn Yên, tỉnh Yên

1


Bái bằng sinh vật chỉ thị là động vật không xương sống cỡ lớn’’ để tìm
hiểu thực trạng chất lượng nước tại khu vực này.
2. Mục đích nghiên cứu
Đánh giá chất lượng môi trường nước tại một số thủy vực dạng suối
thuộc địa phận các xã Đông An, Phong Dụ Hạ và Xuân Tầm, huyện Văn Yên,
tỉnh Yên Bái bằng sinh vật chỉ thị là nhóm ĐVKXS cỡ lớn sử dụng hệ thống
điểm BMWPVIET và chỉ số ASPT.
Tìm hiểu một số nguyên nhân ảnh hưởng đến chất lượng nước và đề
xuất giải pháp sử dụng hợp lý tài nguyên nước ở khu vực nghiên cứu.
3. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn
3.1. Ý nghĩa khoa học
Đề tài cung cấp danh lục các họ ĐVKXS cỡ lớn tại các suối thuộc địa
phận các xã Đông An, Phong Dụ Hạ và Xuân Tầm, huyện Văn Yên, tỉnh Yên
Bái là cơ sở cho các nghiên cứu chuyên sâu sau này.
Bước đầu tìm hiểu chất lượng nước ở khu vực nghiên cứu bằng cách sử
dụng nhóm ĐVKXS cỡ lớn.

3.2. Ý nghĩa thực tiễn
Thông qua việc sử dụng ĐVKXS cỡ lớn để đánh giá thực trạng môi
trường nước, tìm ra nguyên nhân ảnh hưởng đến chất lượng nước từ đó đưa ra
giải pháp sử dụng tài nguyên nước ở địa phương một cách hợp lý.

2


CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Khái quát về tình hình sử dụng ĐVKXS cỡ lớn đánh giá chất lượng
nước trên thế giới
Việc sử dụng quan trắc sinh học để đánh giá chất lượng nước sông đầu
tiên hình thành ở châu Âu do hai nhà khoa học Kolkwitz (1908) và Marsson
(1909) thực hiện. Mức độ nhiễm bẩn của nước sông được chia thành 4 loại là
bẩn ít, bẩn vừa α, bẩn vừa β và rất bẩn, mức độ được xác định dựa vào chỉ số
độ nhiễm bẫn (Saprobic index). Dựa vào danh các loài chỉ thị người ta chia
thành các giá trị nhiễm bẩn phù hợp với sự chống chịu ô nhiễm của từng loài.
Mặc dù hệ thống này được chấp nhận rộng rãi ở các nước Châu Âu nhưng nó
cũng gặp những chỉ trích như phương pháp dựa trên sự nhiễm bẩn chỉ thiên về
chỉ số sinh học và hệ thống điểm số đơn giản [24], [25].
Ở Anh
Ở Anh, việc quan trắc sinh học tiếp tục mở rộng với các chỉ số đánh giá
mức độ ô nhiễm dựa trên nguyên tắc các nhóm sinh vật chống chịu ô nhiễm
khác nhau. Hai chỉ số được đánh giá cao là chỉ số định lượng “Chỉ số Trent”
(TBI) của Woodiwis (1964) và chỉ số bán định lượng “Điểm số Chandler
(CBS) của Chandler (1970).
Việc sử dụng chỉ số TBI và điểm số CBS chỉ phù hợp đánh giá chất
lượng nước sông trong phạm vi nhỏ mà không phù hợp áp dụng cho diện
rộng. Vì thế năm 1976, một tổ chức nghiên cứu quan trắc sinh học

“Biological Monitoring Woring Party” ra đời đã đưa ra hệ thống điểm số
BMWP, sự phân loại mức độ ô nhiễm nước dựa vào số loài và phân bố của
ĐVKXS cỡ lớn [23].
Ở Tây Ban Nha

3


Năm 1988, Alba - Tercedor và Sanchoz - Ortega đã áp dụng phương
pháp sử dụng chỉ số BMWP tại khu vực bán đảo Iberia (ở Tây Ban Nha). Kết
quả nghiên cứu cho thấy xuất hiện một số họ mới và điểm số của một số họ
cũng có sự biến đổi. Sau đó Carmen Zamora cùng một số người tiến hành một
nghiên cứu để giải thích sự biến thiên của chỉ số BMWP và chỉ số ASPT theo
nhiệt độ và xác định sự phụ thuộc của các chỉ số này theo mùa. Cuộc nghiên
cứu trong vòng 2 năm đã cho kết quả: đối với thủy vực không ô nhiễm, sự
tương quan giữa chỉ số BMWP và nhiệt độ là không đáng kể, các thủy vực bị
ô nhiễm thì chỉ số BMWP phụ thuộc nhiều vào nhiệt độ, còn đối với chỉ số
ASPT thì không phụ thuộc vào nhiệt độ ngay cả khu vực ô nhiễm hay không
ô nhiễm. Qua đây các nhà nghiên cứu khẳng định chỉ số BMWP phụ thuộc
vào mùa vụ còn chỉ số ASPT thì không, do vậy mà chỉ số ASPT được đánh
giá là ưu việt hơn [16].
Ở New Zeland
Các nhà nghiên cứu đã nhận thấy những hiệu quả trong việc sử dụng hệ
thống điểm số BMWP trong việc đánh giá chất lượng nước sông nhất là loại ô
nhiễm hữu cơ. Do đó họ đã tiếp nhận hệ thống điểm số này và phát
triển chúng cho phù hợp với đất nước mình, chỉ số được biến đổi gọi là MCI
(Macroinvertebrate Community Index) tương tự như điểm trung bình bậc
phân loại ASPT của Anh [26].
Ngoài ra, hệ thống điểm số BMWP còn được ứng dụng và đạt hiệu quả
cao trong việc đánh giá chất lượng nước sông ở một số các nước như Thụy

Điển, Bồ Đào Nha, Braxin, Italia, Pháp ….
Ở Ấn Độ
Ở Ấn Độ, năm 1994, De Zwart và Trivedi đã chuyển đổi điểm số
BMWP cho phù hợp với Ấn Độ là loại ra một số họ không có và thêm vào
một số họ có ở Ấn Độ. Một vài điểm số đã được phân phối trong điểm gốc

4


cũng được thay thế để phản ánh các mức độ khác nhau về sự chống chịu của
các họ nhất định đã tìm thấy tại các cửa sông của Ấn Độ.
Tác giả Sabib nghiên cứu ở sông Shendumi nhận định rằng dựa vào kích
thước cộng đồng ĐVKXS cỡ lớn có thể xác định được tình trạng chất lượng
nước sông, hồ. Tác giả, Maruthaynayagan và các cộng sự nghiên cứu ở hồ
Thirukulam qua nghiên cứu của mình thì khẳng định kích thước ĐVKXS phụ
thuộc vào mùa, cao nhất vào mùa mưa và thấp nhất vào mùa hè (dẫn theo Lê
Văn Khoa và cộng sự (2007) [6], và Mustow (1998) [27].
Ở Thái Lan
Năm 1977, Mustow đã nghiên cứu quần xã ĐVKXS cỡ lớn ở 23 điểm
thuộc sông MaePing và đưa ra một số thay đổi phù hợp với điều kiện ở Bắc
Thái Lan. Kết quả nghiên cứu cho thấy có những họ ở Thái Lan thì không có
trong bảng gốc của Anh, cũng có họ vừa có ở cả Thái Lan và Anh. Từ đó ông
đã đề nghị sửa đổi 10 họ cần điều chỉnh, Mustow nhận thấy BMWP cho điểm
Bộ Odonata là cao sẽ không phản ánh chính xác mối liên hệ với sự chống ô
nhiễm ở Thái Lan nên đã hạ điểm của họ này từ 8 điểm xuống 6 điểm, còn họ
Thiaridae chống chịu ô nhiễm tốt nên cho 3 điểm. Hệ thống BMWP được sửa
đổi ở Thái Lan được gọi là hệ thống BMWPTHAI (dẫn theo Nguyễn Vũ Thanh
và Tạ Huy Thịnh (2001) [12].
Sau khi có hệ thống BMWPTHAI thì phương pháp này đã được nghiên
cứu, ứng dụng và phát triển thêm để đánh giá chất lượng nước nhằm quản lí

và bảo tồn các lưu vực sông ở Thái Lan. Một trong những nghiên cứu đó là
“Nghiên cứu sự tương quan giữa ĐVKXS cỡ lớn ở nước ngọt và các yếu tố
chất lượng môi trường trong lưu vực sông Nam Pong, Thái Lan” được thực
hiện bởi Khoa Sinh học của Đại học Khon Kaen năm 1998, với 27 địa điểm
thu mẫu trong lưu vực sông Nam Pong gần sông Pong, sông Cheon, sông Chi.

5


Mục đích nhằm nghiên cứu những ảnh hưởng của chất lượng môi trường
nước đến cộng đồng ĐVKXS cỡ lớn sống trong đó [20], [28].
Ở Malaysia
Công trình nghiên cứu ở Malaysia vào năm 1999 do Bộ Môi trường
Malaysia thực hiện trên sông Linggi nhằm đánh giá tiềm năng của việc sử
dụng ĐVKXS cỡ lớn trong việc đánh giá, giám sát chất lượng nước.
Cùng thời điểm này, Khoa Sinh học, Trường Đại học Putra cũng tiến
hành nghiên cứu sử dụng hệ thống BMWP để đánh giá chất lượng sông
Langat với 4 khu vực lấy mẫu ở thượng nguồn và 4 khu vực lấy mẫu ở hạ
nguồn. Kết quả nghiên cứu cho thấy ở thượng nguồn thu được 54 loài còn ở
hạ nguồn thu được 49 loài, chất lượng nước sông cũng giảm dần khi chảy đến
hạ nguồn do chịu ảnh hưởng của nguồn ô nhiễm từ khu dân cư [14].
1.2. Khái quát về tình hình sử dụng ĐVKXS cỡ lớn đánh giá chất lượng
nước ở Việt Nam
Việc nghiên cứu, đánh giá mức độ ô nhiễm các thủy vực ở Việt Nam đã
được quan tâm từ lâu nhưng đến năm 1995 vẫn chưa có hệ thống phân loại độ
nhiễm bẩn các thủy vực. Các hệ thống phân loại độ nhiễm bẩn cùng với
những chỉ tiêu trong các thang bậc phân loại đều là những dẫn liệu nghiên cứu
ở vùng ôn đới, hoàn toàn khác với điều kiện tự nhiên cũng như đặc tính sinh
học của các thủy vực ở nước ta.
Trên cơ sở nghiên cứu trong 10 năm (1985 - 1995) cùng với dẫn liệu đã

biết trước đây về các thủy vực có nước thải vùng Hà Nội, Nguyễn Xuân
Quýnh (1995) đã đề xuất một hệ thống phân loại độ nhiễm bẩn các thủy vực
có nước thải ở Hà Nội dựa trên một số chỉ tiêu cơ bản về sinh học.
Từ năm 1997 đến năm 1999, với sự tài trợ của quỹ Darwin của chính
phủ Anh, hội nghiên cứu thực địa và sinh thái nước ngọt Anh Quốc đã phối
hợp với Khoa Sinh học, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc

6


gia Hà Nội thực hiện chương trình nghiên cứu “Bảo tồn đa dạng sinh học
thông qua việc sử dụng ĐVKXS cỡ lớn làm vi sinh vật chỉ thị quan trắc và
đánh giá chất lượng nước ở Việt Nam” [9].
Năm 2000, Nguyễn Xuân Quýnh và các cộng sự đã đưa ra khoá định
loại đến họ các nhóm ĐVKXS ở nước ngọt phục vụ cho việc nghiên cứu đánh
giá chất lượng nước bằng SVCT. Cũng trong năm này quy trình quan trắc và
đánh giá chất lượng nước ngọt bằng việc sử dụng SVCT là ĐVKXS cỡ lớn
của Nguyễn Xuân Quýnh và các cộng sự cũng đã được công bố. Năm 2004,
Nguyễn Xuân Quýnh và cộng sự trên cơ sở các công trình nghiên cứu về giám
sát sinh học nước ngọt bằng SVCT, mà đặc biệt là kết quả từ năm 1998 2000, đã thiết lập một quy trình lấy mẫu và một hệ thống tính điểm sử dụng
trong quan trắc sinh học đối với các thuỷ vực nước ngọt tại Việt Nam. Đã
xuất bản cuốn sách “Giám sát sinh học môi trường nước ngọt bằng động vật
không xương sống cỡ lớn”. Đây là tài liệu đầu tiên của Việt Nam được xuất
bản làm cơ sở nghiên cứu đánh giá chất lượng nước thông qua SVCT là
ĐVKXS cỡ lớn [9].
Những nghiên cứu đầu tiên được các nhà khoa học Khoa Sinh học,
Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội thực hiện ở các
khu vực phía Bắc và khu vực phía Nam Việt Nam. Phía Bắc, các địa điểm lấy
mẫu từ con suối chảy ra từ núi Tam Đảo ra khu vực đồng bằng và cuối cùng đổ
ra sông Cầu tiếp nơi tiếp nhận các nguồn thải từ các thành phố, thị trấn. Ở phía

Nam, các địa điểm lấy mẫu nằm trong và xung quanh thành phố Đà Lạt, các
điểm thuộc suối Đac Ta Jun và các điểm thuộc sông Đa Nhim [9].
Năm 2001 - 2002, Nguyễn Vũ Thanh và Tạ Huy Thịnh thuộc Viện Sinh
thái và Tài nguyên Sinh vật đã thực hiện nghiên cứu tại 28 điểm quan trắc
thuộc lưu vực sông Cầu tại các tỉnh Bắc Giang, Bắc Cạn, Bắc Ninh, Thái
Nguyên. Qua nghiên cứu nước tại 28 điểm quan trắc đều thuộc loại ô nhiễm

7


vừa đến ô nhiễm nặng, những loài đại diện cho môi trường nước sạch như bộ
cánh úp đã không được tìm thấy ở đây khẳng định môi trường nước ở đây
đang bị tác động nghiêm trọng. Ngoài kết quả nghiên cứu tác giả còn bổ sung
thêm 7 họ mới vào bảng điểm BMWPVIET bao gồm 5 họ côn trùng thủy sinh
Ecdyonuridae, Polymitarcyidae, Sicomyzidae, Muscidae và 2 họ thân mềm
Stenothyridae và Hyalidae [12].
Năm 2003, tác giả Nguyễn Thị Mai thuộc bộ môn Sinh học, Khoa Khoa
học, Trường Đại học Nông Lâm, Thành phố Hồ Chí Minh đã thực hiện
nghiên cứu nhằm đánh giá sự đa dạng về thành phần loài ĐVKXS cỡ lớn và
sử dụng chúng để đánh giá chất lượng nước sông Sài Gòn thuộc quận 2,
Thành phố Hồ Chí Minh. Nghiên cứu được thực hiện trên 3 điểm và kết quả
thu được trong 2 đợt lấy mẫu, lấy đợt 1 gồm 23 họ và đợt 2 là 25 họ, qua xác
định chỉ số ASPT cho thấy nước khúc sông này thuộc loại bẩn vừa α, cùng
với đó kết quả này còn cho thấy chất lượng nước và thành phần loài liên quan
đến nhau. Điều này càng khẳng định việc sử dụng ĐVKXS cỡ lớn để đánh giá
chất lượng nước là có cơ sở [7].
Năm 2006, tác giả Trương Thanh Cảnh và Ngô Thị Trâm Anh thuộc
Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Đai học Quốc gia Thành phố Hồ Chí
Minh tiến hành khảo sát thành phần ĐVKXS cỡ lớn của 4 hệ thống kênh
chính của Thành phố Hồ Chí Minh (Tham Lương - Vàm Thuật, Nhiêu Lộc Thị Nghè, kênh Đôi - Tẻ - Tàu Hủ - Bến Nghé, hệ thống sông khu vực

Nam Sài Gòn [1].
Năm 2008, tác giả Ngô Xuân Quảng công bố kết quả nghiên cứu về đa
dạng sinh học quần xã ĐVKXS và đánh giá chất lượng môi trường nước hệ
thống các con suối ở Vườn Quốc Gia Núi Chúa, tỉnh Ninh Thuận. Tại khu
vực miền Trung vào năm 2010, Nguyễn Văn Khánh và Trần Ngọc Sơn đã
ứng dụng hệ thống quan trắc sinh học BMWPVIET giám sát chất lượng

8


môi trường nước sông ở Thành phố Đà Nẵng. Các chỉ số sinh học đã phản
ánh được hiện trạng chất lượng môi trường nước sông và cho chúng ta cái
nhìn toàn diện hơn về những tác động tổng hợp của chất ô nhiễm đến hệ sinh
thái và đời sống sinh vật [5].
Tuy nhiên, hầu hết các nghiên cứu chỉ tập trung ở miền Bắc và miền
Nam mà chưa quan tâm đến khu vực miền Trung. Gần đây phương pháp này
được nghiên cứu ở khu vực miền Trung tiêu biểu như tác giả Nguyễn Văn
Khánh và cộng sự thuộc Khoa Sinh - Môi trường, Trường Đại học Sư Phạm,
Đại học Đà Nẵng đã thực hiện những nghiên cứu dùng ĐVKXS cỡ lớn để
đánh giá chất lượng nước ở các khu vực trên địa bàn Thành phố Đà Nẵng.
Các nghiên cứu được thực hiện tại sông Phú Lộc, sông Cu Đê, hệ thống sông
Cầu Đỏ - Tuý Loan, cánh đồng Xuân Thiều. Qua xác định chỉ số BMWP và
ASPT cho thấy trên hầu hết các khu vực chất lượng nước đều thuộc loại “bẩn
vừa” α đến “rất bẩn”, các kết quả này hoàn toàn phù hợp với những kết quả
phân tích lí hoá đi kèm càng khẳng định việc sử dụng ĐVKXS trong đánh giá
chất lượng nước là có hiệu quả [3], [4], [5]. Ngoài ra còn có nghiên cứu của
Hoàng Đình Trung và Mai Phú Quý (2014) tại suối Truồi, huyện Phú Lộc,
tỉnh Thừa Thiên - Huế [13]. Điều đó góp phần làm đa dạng các phương pháp
đánh giá chất lượng môi trường nước tại khu vực miền Trung.
Các công trình nghiên cứu nêu trên cho thấy phương pháp quan trắc sinh

học thông qua ĐVKXS cỡ lớn là tối ưu, đã phần nào phát triển và đang ngày
càng được áp dụng rộng rãi ở Việt Nam. Việc sử dụng hệ thống điểm
BMWPVIET và chỉ số ASPT đã nâng cao độ chính xác trong việc đánh giá chất
lượng nước, phục vụ cho việc công tác quản lý môi trường nước hiệu quả hơn.
Tình hình sử dụng ĐVKXS cỡ lớn đánh giá chất lượng nước ở các thủy
vực dạng suối tại xã Đông An, Phong Dụ Hạ và Xuân Tầm, huyện Văn Yên,

9


tỉnh Yên Bái chưa có công trình nghiên cứu nào sử dụng ĐVKXS cỡ lớn để
đánh giá chất lượng môi trường nước.

10


CHƯƠNG 2
ĐỐI TƯỢNG, ĐỊA ĐIỂM, PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
ĐVKXS cỡ lớn tại một số thủy vực dạng suối thuộc địa phận các xã
Đông An, Phong Dụ Hạ và Xuân Tầm, huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái.
2.2. Địa điểm, thời gian nghiên cứu
2.2..1 Địa điểm nghiên cứu
Các thủy vực dạng suối thuộc địa phận các xã Đông An, Phong Dụ Hạ
và Xuân Tầm, huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái.
Trước khi tiến hành thu mẫu, chúng tôi ghi lại một số đặc điểm, sinh
cảnh chính của các điểm nghiên cứu:
Điểm 1 (ký hiệu C1): Khe Dốc Mít (các cầu treo ngòi Hút 3km, thôn
Dốc Mít), xã Đông An. Nằm tại vĩ độ Bắc N: 21o56,189’, kinh độ Đông E:
104o32,341’. Nước suối tương đối trong và chảy nhẹ, nền đáy nhiều bùn và

sỏi nhỏ, ít đá tảng, hai bên suối là tre và cây bụi nhỏ mọc nhiều, độ che phủ
5-15%, độ sâu trung bình: 15-25cm.
Điểm 2 (ký hiệu C2): Khe Đình (cách khe Dốc Mít khoảng 1km, thôn
Dốc Mít), xã Đông An. Nằm tại vĩ độ Bắc N: 21o55,999’, kinh độ Đông:
104o31,867’. Nền đáy nhiều đá tảng, nhiều cát, nước khe trong, chảy mạnh,
hai bên khe có đất canh tác của dân trồng ngô và cây ăn quả. Độ che phủ 2025%, độ sâu trung bình 20-30cm.
Điểm 3 (ký hiệu C3): Khe Phoi (cách điểm C2 khoảng 2km), thôn 1
xã Xuân Tầm. Nằm tại vĩ độ Bắc: 21o55,558’, kinh độ Đông: 104o30,901’.
Nước suối trong, chảy mạnh, nền đáy nhiều đá tảng và cát, hai bên suối
nhiều tre, nứa và cây bụi. Độ che phủ 5-15%, độ sâu trung bình 20-30cm.
Điểm 4 (ký hiệu C4): Khe Phoi (cách điểm C3 khoảng 3km), thôn 1
xã Xuân Tầm. Nằm tại vĩ độ Bắc: 21o55,041’, kinh độ Đông: 104o31,007’.

11


Lúc Thu mẫu trời có nắng, đôi lúc râm mát. Hai bên suối có đất canh tác của
dân trồng lúa và cỏ voi, hai bên suối có nhiều cỏ và cây bụi mọc nhiều , nền
đáy nhiều đá tảng, nhiều cát và các sinh vật nhỏ. Độ che phủ 15-25%, độ sâu
trung bình 15-35cm.
Điểm 5 (ký hiệu C5): Khe Hao (cách điểm trường Nà Liềng 3km) ,
thôn 9, xã Phong Dụ Hạ. Nằm tại vĩ độ Bắc: 21o54,236’, kinh độ Đông:
104o26,632’. Lúc thu mẫu trời nắng to, gió nhẹ. Hai bên suối có đất canh tác
của dân trồng lúa, suối nhiều đá tảng và sỏi, nước chảy mạnh, sinh vật ít. Độ
che phủ 0-5%, độ sâu trung bình 25-40 cm.
Điểm 6 (ký hiệu C6): Khe Nhón (cách cầu treo Phong Dụ Hạ 2km),
thôn 8, xã Phong Dụ Hạ. Nằm tại vĩ độ Bắc: 21o54,883’, kinh độ Đông:
104o27,350’. Hai bên suối là đất canh tác của dân trồng nhiều lúa, bên bờ
suối có nhiều cỏ thấp, nền đáy nhiều đá cuội và cát, nước chảy mạnh. Độ che
phủ 0-5%, độ sâu trung bình 15-25cm. Suối chảy qua đường đi.

Điểm 7 (ký hiệu C7): Khe Quyền (gần trường tiểu học Đông An,
điểm lẻ khe Quyền), xã Đông An. Nằm tại vĩ độ Bắc: 21o56,892’, kinh độ
Đông: 104o33,936’. Hai bên suối là tả li và đất canh tác trồng lúa, hai bờ suối
có nhiều cỏ, cây bụi, nước suối chảy nhẹ. Nền đáy nhiều cát, sỏi, nhiều ốc.
Độ che phủ 0-10%, độ sâu trung bình 30-50cm, có chỗ trên 1m.
2.2.2. Thời gian nghiên cứu
Thời gian tiến hành nghiên cứu: từ tháng 8/2016 đến tháng 4/2018.
Trong đó thời gian thu mẫu ngoài thực địa tiến hành từ ngày 01/9/2016 đến
ngày 05/9/2016.
2.3. Nội dung nghiên cứu
- Thành phần các họ ĐVKXS cỡ lớn tại một số thuỷ vực nước ngọt
thuộc địa phận các xã Đông An, Phong Dụ Hạ và Xuân Tầm, huyện Văn Yên,
tỉnh Yên Bái.

12


- Đánh giá chất lượng nước bằng sinh vật chỉ thị là các ĐVKXS cỡ lớn
thông qua điểm số BMWPVIET và chỉ số ASPT.
- Tìm hiểu một số nguyên nhân ảnh hưởng đến chất lượng nước và giải
pháp để sử dụng tài nguyên nước một cách hợp lý thuộc địa phận địa phận các
xã Đông An, Phong Dụ Hạ và Xuân Tầm, huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái.
2.4. Phương pháp nghiên cứu
2.4.1. Phương pháp nghiên cứu ngoài thực địa
- Dụng cụ thu mẫu
Các dụng cụ cần thiết để lấy mẫu ĐVKXS gồm: vợt ao (Pond net), vợt
tay (Hand net); vợt Pond net là một khung hình chữ nhật đỡ một túi lưới với
chiều sâu khoảng 30 - 40cm, kích thước mắt lưới thường có đường kính 1mm,
khung đỡ lưới được nối với một cán dài 1,6m. Dụng cụ này thường dùng để
thu những động vật ven bờ.

- Phương pháp thu mẫu
Trước khi thu mẫu, chúng tôi tiến hành đo tọa độ và độ cao bằng thiết bị
định vị GPS78 và điều tra đặc điểm sinh cảnh ở địa điểm thu mẫu.
Mẫu vật được thu theo phương pháp của Nguyễn Xuân Quýnh và cộng
sự, 2004 [9]. Vật mẫu được thu bằng vợt ao (Pond net) và vợt tay (Hand net)
bằng cách sục vợt vào các đám cỏ, cây bụi thủy sinh ven bờ hoặc các đám cây
thủy sinh sống nổi trên mặt nước. Các loại côn trùng sống trên mặt thủy vực
được thu bằng cách đưa nhanh vợt trên mặt nước. Đối với các loài sống bám
vào các tảng đá, dùng phương pháp đạp nước ở nền suối hoặc nhấc các tảng
đá lên tìm kiếm và dùng panh mềm để nhặt mẫu. Ở những vùng nước nhỏ
hoặc dòng chảy hẹp thì việc thu mẫu được thực hiện bằng vợt cầm tay.
- Phương pháp xử lý mẫu
Mẫu sau khi thu được loại bỏ rác, làm sạch bùn đất. Nhặt qua mẫu ngay
tại thực địa. Sử dụng panh, thìa và khay nhôm để nhặt vật mẫu. Mẫu thu ngoài

13


thực địa được bảo quản trong cồn 800, ghi etiket đầy đủ và đem về lưu trữ,
bảo quản, phân tích và định loại tại Phòng thí nghiệm Động vật học, Khoa
Sinh – Kĩ Thuật Nông Nghiệp, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2.
2.4.2. Phương pháp nghiên cứu trong phòng thí nhiệm
- Phương pháp nhặt mẫu: mẫu được rửa sạch cho ra khay. Dùng panh
nhặt các đại diện của ĐVKXS cỡ lớn, mẫu sau khi nhặt cho vào lọ và bảo
quản trong cồn 800.
- Phương pháp phân tích mẫu vật:
+ Dụng cụ phân tích bao gồm: kính lúp 2 mắt, kính hiển vi, đĩa petri,
panh mềm, kim
+ phân tích.
+ Định loại vật mẫu: mẫu vật được định loại dựa trên đặc điểm hình

thái ngoài của đối tượng nghiên cứu theo các khoá định loại được
công bố trong và ngoài nước của : Đặng Ngọc Thanh và cộng sự
(1980) [10], Đặng Thanh, Hồ Thanh Hải (2001) [11], Nguyễn Văn
Vịnh (2003) [22], Cao Thi Kim Thu (2002) [15], Hoang Duc Huy
(2005) [18], Nguyễn Xuân Quýnh và cộng sự (2001) [8], Meritt và
Cummins (1996) [19],…
2.4.3. Phương pháp phương pháp xử lý số liệu:
Tất cả các kết quả nghiên cứu được xử lý trên máy vi tính bằng phần
mềm Microsoft Office Excel 2010.
2.4.4. Phương pháp xác định hệ thống tính điểm BMWPVIET và chỉ số
sinh học ASPT
Để đi đến những phương pháp chuẩn, một tổ chức nghiên cứu về quan
trắc sinh học “Biological Monitoring Working Party” (BMWP), được thành
lập ở Anh vào năm 1976, đã đưa ra một hệ thống mới đó là hệ thống tính
điểm số BMWP. Trừ lớp giun ít tơ, hệ thống này sử dụng số liệu ở mức độ

14


họ, mỗi họ được quy cho một điểm số phù hợp với tính nhạy cảm của nó với
sự ô nhiễm hữu cơ. Những điểm số riêng được cộng lại để cho điểm số tổng
của mẫu. Có thể nhận được sự biến thiên của điểm số BMWP bằng cách chia
điểm tổng số cho số họ có mặt, ta được một điểm số trung bình cho các đơn vị
phân loại (ASPT: Average Score Per Taxon).
Chỉ số ASPT được tính theo công thức: ASPT = (∑BMWP)/N.
Trong đó:

N: tổng số họ tham gia tính điểm
BMWP: tổng điểm số BMWP
ASPT: điểm số trung bình trên một đơn vị phân loại


Nhược điểm của điểm số BMWP là ở chỗ căn cứ vào phạm vi của các họ
thì có loài chống chịu, có loài ưa thích với điều kiện sinh thái hẹp. Ví dụ: đại
diện của họ Chironomidae tìm thấy trong hầu hết những nơi sống là nước
ngọt đã được biết đến, trong họ bao gồm những loài và giống có khả năng
chống chịu cao, đôi khi trong một biên độ rộng của sự ô nhiễm, nhưng nó
gồm cả những loài và giống khác rất nhạy cảm và đặc hiệu trong sự ưa thích
và chịu đựng sinh thái. Tuy vậy, toàn bộ họ được phân loại như là mức độ
chống chịu với ô nhiễm bằng điểm số BMWP. Nhận xét tương tự cũng được
áp dụng trong trường hợp này, chúng hoàn toàn được xếp vào loại có khả
năng chống chịu cao.
Hệ thống tính điểm số BMWP rất có hiệu lực trong thực tiễn và tương
đối dễ dàng áp dụng khi đòi hỏi của nó về mức độ kỹ năng phân loại tương
đối bình thường. Kết quả là nó được chấp nhận một cách rộng rãi ở nhiều
nước khác nhau.
Từ kết quả tính điểm theo hệ thống tính điểm BMWPVIET và điểm số
ASPT, chúng ta có thể đánh giá được mức độ ô nhiễm môi trường nước tại
mỗi điểm nghiên cứu hay so sánh mức độ ô nhiễm giữa các điểm nghiên cứu

15


với nhau dựa vào bảng 2.1. Điểm chống chịu tương ứng với các họ được thể
hiện ở Phụ lục 2.
Bảng 2.1. Mối liên quan giữa chỉ số sinh học ASPT và mức độ ô nhiễm
Chỉ số sinh học (ASPT)

Mức độ ô nhiễm

Điểm 0


Nước cực kỳ bẩn (không có ĐVKXS)

Điểm 1- 2,9

Nước rất bẩn (Polysaprobe)

Điểm 3 - 4,9

Nước bẩn vừa ( Mesosaprobe) hay khá bẩn

Điểm 5 - 5,9

Nước bẩn vừa ( Mesosaprobe)

Điểm 6 - 7,9

Nước bẩn ít (Oligosaprobe), hay tương đối sạch

Điểm 8 – 10

Nước sạch

Nguồn: Nguyễn Xuân Quýnh và cộng sự, 2004 [9]
2.5. Khái quát điều kiện tự nhiên các xã Đông An, Phong Dụ Hạ và
Xuân Tầm, huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái
2.5.1. Vị trí địa lý
Vị trí: Huyện Văn Yên là một huyện của tỉnh Yên Bái, cách thành phố
Yên Bái 35km về phía Tây Bắc theo trục đường cao tốc Nội Bài – Lào Cai
Tọa độ: Từ 21o53’14’’ vĩ độ Bắc

Từ 104o35’9’’ kinh độ Đông
Tổng diện tích tự nhiên: 62,01 km2
2.5.2. Địa hình
Địa hình chủ yếu là đồi núi, cao dần từ Đông sang Tây. Phía Đông nằm
sát sông Hồng, về phía Tây là dãy Hoàng Liên Sơn. Văn Yên có hệ thống
sông ngòi dày đặc với các kiểu địa hình khác nhau: vùng núi cao hiểm trở,
vùng đồi bát úp lượn sang nhấp nhô xen kẽ với các thung lũng và bị chia cắt
bởi hệ thống khe, suối.

16


2.5.3. Đất đai
Nhóm đất phù sa phân bổ chủ yếu dọc sông Hồng, và các suối trên địa
bàn có độ phì tự nhiên khá cao thích hợp cho các loại cây lương thực, cây
công nghiệp.
Nhóm đất đồi (gồm đất đỏ vàng, đất mùn vàng) phân bổ rộng khắp trên địa
bàn, nhóm đất này có độ phì nhiêu khá cao thích hợp với cây công nghiệp dài
ngày (cây chè, dứa, mía, quế...).
2.5.4. Khí hậu
Huyện Văn Yên nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới nóng ẩm, chịu ảnh
hưởng của gió mùa Đông Bắc, có lượng mưa lớn, bình quân 1.800 - 2.000
mm/năm, nhiệt độ trung bình 23 - 24ºC, độ ẩm không khí 81 - 86%.
Sương muối: Xuất hiện chủ yếu ở độ cao trên 600 m, nhiệt độ càng
xuống thấp số ngày có sương càng nhiều. Vùng thấp thuộc thung lũng sông
Hồng ít xuất hiện.
Mưa đá: Xuất hiện ở một số nơi vào khoảng cuối mùa xuân, đầu mùa hạ và
thường đi kèm với hiện tượng dông và gió xoáy cục bộ.

17



×