Tải bản đầy đủ (.doc) (97 trang)

ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH THỰC HIỆN KHÁM CHỮA BỆNH MIỄN PHÍ CHO TRẺ EM dưới 6 TUỔI tại xã tứ CƯỜNG, HUYỆN THANH MIỆN, TỈNH hải DƯƠNG năm 2008

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.65 MB, 97 trang )

i

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BHYT

: Bảo hiểm y tế

BVBMTE

: Bảo vệ bà mẹ trẻ em

CBYT

: Cán bộ y tế

CSSK

: Chăm sóc sức khỏe

CSSKBĐ

: Chăm sóc sức khỏe ban đầu

CSBVSKND

: Chăm sóc bảo vệ sức khỏe nhân dân

DVYT

: Dịch vụ y tế


GSV

: Giám sát viên

KCB

: Khám chữa bệnh

KCBMP

: Khám chữa bệnh miễn phí

KHHGĐ

: Kế hoạch hóa gia đình

TTB

: Trang thiết bị

TTYTDP

: Trung tâm Y tế dự phòng

TYT

: Trạm Y tế

TW


: Trung ương

LĐ – TB&XH

: Lao động – Thương binh và Xã hội

UBND

: Ủy ban Nhân dân

UBDS- GĐ&TE

: Ủy ban Dân số Gia đình và Trẻ em

VSPD

: Vệ sinh phòng dịch

YHDT

: Y học dân tộc

YTCS

: Y tế cơ sở


ii

MỤC LỤC

ĐẶT VẤN ĐỀ .............................................................................................

Trang
1

MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU .........................................................................

4

1. Mục tiêu chung ................................................................................. 4
2. Mục tiêu cụ thể .................................................................................

4

Chương 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU............................................................. 5
1.1. Khái niệm về sức khỏe……………………………………………... 5
1.2. Xu thế toàn cầu hóa trong chăm sóc sức khoẻ……………………..

5

1.3. Tình hình sức khỏe trẻ em - Bệnh tật và tử vong…………………..

7

1.4. Vấn đề cung cấp và sử dụng DVYT……………………………….. 9
1.4.1. Các nghiên cứu ở một số nước trên thế giới……………………... 9
1.4.2. Một số nghiên cứu về cung cấp và sử dụng DVKCB cho trẻ em
ở Việt nam………………………………………………………………. 10
1.5. Vai trò của y tế cơ sở trong chăm sóc sức khỏe ban đầu và sức
khỏe trẻ em……………………………………………………………...


12

1.5.1. Hệ thống y tế Việt Nam…………………………………………..

12

1.5.2. Vị trí, vai trò của y tế cơ sở trong hệ thống y tế quốc gia………... 14
1.5.3. Tình hình cung cấp dịch vụ y tế của TYT xã…………………….. 15
1.6. Tổng quan các văn bản, chỉ thị hiện hành liên quan đến chính sách
khám chữa bệnh miễn phí cho trẻ em dưới 6 tuổi………………………

19

1.7. Một số thông tin về địa điểm nghiên cứu…………………………..

21

Chương 2: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ...............................................

24

2.1. Đối tượng nghiên cứu........................................................................

24

2.2. Thời gian và địa điểm nghiên cứu ...................................................

24


2.3. Thiết kế nghiên cứu...........................................................................

24

2.4. Mẫu và phương pháp chọn mẫu........................................................

24

2.5. Biến số nghiên cứu và các khái niệm dùng trong nghiên cứu...........

26

2.6. Phương pháp thu thập số liệu............................................................

31


iii

2.7. Xử lý và phân tích số liệu..................................................................

32

2.8. Đạo đức của nghiên cứu....................................................................

33

2.9. Hạn chế của nghiên cứu....................................................................

33


Chương 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ........................................................

35

3.1. Thực trạng sử dụng dịch vụ KCBMP của trẻ em dưới 6 tuổi...........

35

3.1.1. Thông tin chung về các bà mẹ có con dưới 6 tuổi.........................

35

3.1.2. Thông tin hiểu biết của bà mẹ về chính sách KCBMP cho TE
dưới 6 tuổi…………………………………………………

37

3.1.3. Thực trạng ốm đau và sử dụng dịch vụ KCBMP ..........................

41

3.1.4.Nhận xét của các bà mẹ có con ốm về chất lượng DV KCBMP.....

48

3.2. Thực trạng triển khai hoạt động KCBMP.......................................... 50
3.2.1. Thực trạng cung cấp dịch vụ KCBMP tại TYT xã.........................

50


3.2.2. Thực trạng triển khai chính sách KCBMP cho trẻ em dưới 6 tuổi

56

3.3. Những thuận lợi khó khăn khi thực hiện KCBMP cho trẻ em dưới
6 tuổi tại TYT xã............................................................................... 65
3.3.1. Thuận lợi......................................................................................... 65
3.3.2. Khó khăn.......................................................................................

66

Chương 4: BÀN LUẬN................................................................................

70

4.1.Thực trạng ốm đau và việc sử dụng dịch vụ KCBMP......................

70

4.1.1. Tình hình sức khỏe trẻ em dưới tuổi trong 4 tuần trước cuộc
điều tra....................................................................................................

70

4.1.2. Thực trạng sử dụng dịch vụ KCBMP..........................................

71

4.1.3. Nhận xét của các bà mẹ về chất lượng dịch vụ KCBMP.............


73

4.2. Thực trạng triển khai hoạt động KCBMP.......................................

75

4.2.1. Thực trạng cung cấp dịch vụ KCBMP tại TYT xã......................

75

4.2.2. Thực trạng triển khai chính sách KCBMP tại TYT xã................

78

4.3. Thuận lợi, khó khăn trong việc triển khai chính sách KCBMP .....

81

4.3.1. Thuận lợi......................................................................................

81

4.3.2. Khó khăn.....................................................................................

82


iv


KẾT LUẬN ...................................................................................................

83

KHUYẾN NGHỊ…........................................................................................

85

TÀI LIỆU THAM KHẢO..............................................................................

86

PHỤ LỤC:
1. Bảng các bên liên quan và mối quan tâm.................................................

90

2. Câu hỏi và chỉ số đánh giá........................................................................ 92
3. Cây vấn đề................................................................................................

95

4. Phiếu hỏi................................................................................................... 96
5. Danh sách các cán bộ tham gia nghiên cứu.............................................. 106
6. Mô hình tổ chức thực hiện KCBMP tại huyện Thanh miện..................... 107
7. Dự kiến phổ biến kết quả tới các bên liên quan.......................................

108

8. Bản đồ địa bàn nghiên cứu, các hình ảnh trong nghiên cứu..................... 110



v

MỤC LỤC BẢNG
Trang
Bảng 3.1
Bảng 3.2
Bảng 3.3

Thông tin chung về đối tượng nghiên cứu.
Tỉ lệ các bà mẹ biết chính sách KCBMP qua các kênh thông tin
Tỉ lệ các bà mẹ biết thủ tục để cấp thẻ KCBMP cho trẻ em dưới

35
37
39

Bảng 3.4
Bảng 3.5
Bảng 3.6

6 tuổi.
Tỉ lệ các bà mẹ biết quy định thủ tục khi KCBMP tại TYT xã.
Tỉ lệ trẻ em dưới 6 tuổi được cấp thẻ KCBMP.
Tỉ lệ trẻ em dưới 6 tuổi khám chữa bệnh được miễn phí các

39
40
40


Bảng 3.7
Bảng 3.8

khoản
Tỉ lệ trẻ dưới 6 tuổi bị ốm trong 4 tuần qua trước cuộc điều tra.
Tỉ lệ mắc chứng/ bệnh của trẻ dưới 6 tuổi bị ốm trong 4 tuần

41
41

Bảng 3.9
Bảng 3.10

trước cuộc điều tra.
Phân bố mức độ bệnh trẻ dưới 6 tuổi bị ốm trong 4 tuần qua.
Phân bố cách xử trí ban đầu khi trẻ bị ốm của các bà mẹ có con

42
43

Bảng 3.11
Bảng 3.12
Bảng 3.13
Bảng 3.14
Bảng 3.15
Bảng 3.16

dưới 6 tuổi trong 4 tuần qua.
Tỉ lệ bà mẹ có con dưới 6 tuổi không đưa con KCBMP tại TYT.

Tỉ lệ bà mẹ có con dưới 6 tuổi chọn KCBMP tại TYT xã.
Tỉ lệ sử dụng dịch vụ KCBMP tại các cơ sở y tế công lập.
Tỉ lệ trẻ em dưới 6 tuổi được cấp thuốc tại TYT xã.
Tỉ lệ kết quả điều trị tại TYT xã cho trẻ em dưới 6 tuổi .
Tỉ lệ mức độ hài lòng của các bà mẹ có con dưới 6 tuổi sử dụng

44
45
46
46
47
47

Bảng 3.17
Bảng 3.18
Bảng 3.19
Bảng 3.20
Bảng 3.21
Bảng 3.22
Bảng 3.23
Bảng 3.24
Bảng 3.25

dịch vụ KCBMP tại TYT xã.
Nhận xét về khả năng đáp ứng điều trị của CBYT – TYT xã.
Nhận xét về thái độ phục vụ.
Nhận xét về TTBYT của TYT.
Nhận xét về mức sẵn có thuốc của TYT.
Nhận xét về thời gian chờ KCB tại TYT.
Nhận xét về thủ tục KCB.

Tình hình nhân lực đang công tác tại TYT xã.
Tình hình cung cấp thuốc của TYT xã.
Phân bố trẻ em KCB tại TYT xã trung bình 1 tháng trước

48
48
49
49
49
50
51
52
53

Bảng 3.26

KCBMP và sau KCBMP.
Tình hình chuyển tuyến

54


vi

Bảng 3.27
Bảng 3.28
Bảng 3.29
Bảng 3.30

Tỉ lệ trẻ em dưới 6 tuổi được cấp thẻ KCBMP

Tình hình sử dụng kinh phí tính từ1/1/2006 đến 30/6/2008.
Chi bình quân cho mỗi lựợt đến khám và điều trị tại TYT xã.
Các khoản chi cho KCBMP tại TYT xã.

60
62
62
63

:
.

MỤC LỤC BIỂU ĐỒ

Biểu đồ 3.1
Biểu đồ 3.2
Biểu đồ 3.3
Biểu đồ 3.4
Biểu đồ 3.5
Biểu đồ 3.6
Biểu đồ 3.7
Biểu đồ 3.8

Phân bố nhóm tuổi của các bà mẹ
Trình độ học vấn của các bà mẹ
Nghề nghiệp của các bà mẹ
Khoảng cách nhà của trẻ đến TYT xã
Nguồn thông tin về chính sách
Bà mẹ biết thủ tục cấp thẻ KCBMP cho trẻ em dưới 6 tuổi
Chứng/bệnh ở những trẻ bị ốm trong 4 tuần qua

Mức độ bệnh ở những trẻ ốm

Trang
36
36
37
37
38
39
42
43


vii

Biểu đồ 3.9
Biểu đồ 3.10

Cách xử trí ban đầu với trẻ ốm
Lý do bà mẹ có con dưới 6 tuổi không chọn DVKCBMP tại

44
45

Biểu đồ 3.11

TYT xã
Mức độ hài lòng của bà mẹ về DVKCBMP tại TYT xã

48


TÓM TẮT LUẬN VĂN
Đảng và Chính phủ Việt Nam luôn luôn quan tâm đến công tác chăm sóc sức
khỏe (CSSK) trẻ em nói chung và trẻ em dưới 6 tuổi nói riêng. Nhiều văn bản quy
phạm pháp luật, quyết định đã được ban hành ở nhiều cấp khác nhau nhằm tạo điều
kiện và nâng cao chất lượng CSSK trẻ em. Năm 2005, Luật Bảo vệ, chăm sóc và
giáo dục trẻ em đã được Quốc hội khóa XI, kỳ họp thứ 5 thông qua, có hiệu lực thi
hành kể từ ngày 01/01/2005. Tại khoản 2 điều 15 quy định:“Trẻ em có quyền được
chăm sóc, bảo vệ sức khỏe. Trẻ em dưới 6 tuổi được CSSK ban đầu, được khám
bệnh, chữa bệnh không phải trả tiền ở các cơ sở y tế công lập”. Luật thể hiện sự
quan tâm của Đảng và Nhà nước dành cho trẻ em. Việc triển khai ở mỗi địa phương
được thực hiện khác nhau. Câu hỏi được đặt ra sau 3 năm triển khai thực hiện khám
chữa bệnh miễn phí (KCBMP) cho trẻ em dưới 6 tuổi: Tình hình triển khai và thực
hiện chính sách KCBMP ở TYT xã ra sao? Tìm hiểu những bất cập trong quá trình


viii

thực hiện về KCB cho trẻ em? Đề xuất khuyến nghị nhằm phù hợp với tuyến y tế cơ
sở đồng thời phổ biến kết quả đánh giá để liên ngành biết và điều hành.
Đó là nền tảng và lý do chúng tôi tiến hành nghiên cứu“Đánh giá tình hình
thực hiện khám chữa bệnh miễn phí cho trẻ em dưới 6 tuổi tại xã Tứ Cường,
huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương, năm 2008”.
Nghiên cứu được tiến hành tại địa bàn xã Tứ Cường, thời gian từ tháng 5 đến
tháng 9 năm 2008. Sử dụng phương pháp mô tả cắt ngang, kết hợp phương pháp
nghiên cứu định lượng (điều tra hộ gia đình có con dưới 6 tuổi và hồi cứu số liệu
thứ cấp) với nghiên cứu định tính (phỏng vấn sâu và thảo luận nhóm) bằng bộ câu
hỏi được thiết kế sẵn.
Kết quả nghiên cứu cho thấy tỉ lệ ốm đau của trẻ trong 4 tuần qua trước cuộc
điều tra là 37,1%. Có 62,8% sử dụng dịch vụ KCBMP cho trẻ em dưới 6 tuổi tại

TYT xã và 100% trẻ được miễn phí hoàn toàn. Việc triển khai chính sách KCBMP
còn có một số hạn chế như thủ tục thanh quyết toán chưa phù hợp, khoản chi chủ
yếu là thuốc, cơ chế cấp thẻ hiện nay đang vướng mắc, quy định nơi KCB trên thẻ
không cụ thể, nhân lực TYT xã quá mỏng, cơ sở vật chất và trang thiết bị y tế
không phù hợp. Việc giám sát của các nhà quản lý còn lơi lỏng...
Nghiên cứu cũng đưa ra một số khuyến nghị: Tăng cường đầu tư bổ sung cho
TYT xã về cơ sở nhà trạm, nhân lực,TTB y tế, thuốc để phục vụ nhu cầu KCB cho
trẻ em tại TYT xã được tốt hơn; Thay đổi mô hình quản lý TYT xã để tăng cường
phối hợp và giám sát, chỉ đạo của cơ quan chuyên môn về việc thực hiện chính sách
KCBMP cho trẻ em dưới 6 tuổi tại TYT.


1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Việc ra đời của Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, Nghị định
36/2005/NĐ-CP ngày 17/3/2005 của Chính phủ quy định chi tiết về việc thi hành
một số điều của Luật này thể hiện sự quan tâm của Đảng và Nhà nước dành cho trẻ
em. Trong Nghị định 36 có quy định và hướng dẫn cụ thể việc cấp và sử dụng thẻ
khám bệnh, chữa bệnh miễn phí (KCBMP) cho trẻ em dưới 6 tuổi.
Tình hình chung, trong những năm gần đây bệnh tật chủ yếu của trẻ em nước
ta vẫn là bệnh nhiễm khuẩn và suy dinh dưỡng. Tỉ lệ suy dinh dưỡng dưới 5 tuổi
dao động từ 18,9% đến 34,5% tùy theo vùng sinh thái [6]. Các bệnh có tỉ lệ mắc và
chết cao nhất ở trẻ em nước ta là nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính, tiêu chảy cấp tính
[4].Theo một số nghiên cứu của Đơn vị Chăm sóc sức khỏe ban đầu Bộ Y tế, nhu
cầu khám chữa bệnh (KCB) đặc biệt cao ở nhóm trẻ dưới 5 tuổi (3,22 lần
ốm/trẻ/năm). Tuy nhu cầu KCB cao nhưng người dân sử dụng dịch vụ KCB tại
Trạm Y tế (TYT) xã lại rất thấp. Chỉ có 14,3% số người ốm đến TYT để khám bệnh
đa số người dân tự mua thuốc để chữa bệnh khi bị ốm [17].
Để đảm bảo quyền được chăm sóc sức khỏe (CSSK) cho trẻ em, đã có nhiều

văn bản hướng dẫn thực hiện cũng như quy định thanh quyết toán để nâng cao hiệu
quả sử dụng nguồn kinh phí khám chữa bệnh (KCB) cho trẻ em. Đây chính là thể
hiện sự quan tâm của Đảng và Nhà nước ta trong việc CSSK cho trẻ em mà y tế cơ
sở đóng một phần rất quan trọng. Song song với chính sách KCBMP đó là việc TYT
cơ sở đang thực hiện Chuẩn Quốc gia về y tế nhằm củng cố và nâng cao chất lượng
khám chữa bệnh ở các tuyến đặc biệt là tuyến y tế cơ sở. Nơi các bà mẹ có thể chọn
KCB ban đầu nhằm giảm sự quá tải tuyến trên.
Kết quả đánh giá thực hiện chính sách khám chữa bệnh miễn phí cho trẻ em
dưới 6 tuổi tại Ninh Bình, Đà Nẵng và Tiền Giang của các tác giả Viện Chiến lược
và chính sách y tế được thực hiện tháng 10/2005 cho thấy người dân đánh giá cao
chính sách này của Nhà nước [26]. Tuy nhiên vẫn còn một số hạn chế khi sử dụng
thẻ như: phải khám theo tuyến mà TYT xã chưa có đủ trang thiết bị (TTB) và nhân


2

lực đảm bảo chất lượng cho công việc này, thủ tục còn phức tạp, khám tại các bệnh
viện lớn phải chờ đợi quá lâu. Ngoài ra việc phổ biến, tuyên truyền cho người dân
về các quyền lợi cũng như quy định dùng thẻ khám chữa bệnh miễn phí cho trẻ em
dưới 6 tuổi còn chưa đầy đủ [26].
Huyện Thanh Miện là một huyện thuần nông có trên 90% dân số sinh sống
bằng nông nghiệp. Thu nhập bình quân đầu người thấp vào khoảng 800 kg quy
thóc, tỉ lệ hộ nghèo là 14,5% (2007). Huyện có 19/19 xã đạt Chuẩn quốc gia về y tế
từ năm 2005. Hiện nay, 100% TYT xã, thị trấn đã triển khai KCBMP cho trẻ em
dưới 6 tuổi. Tuy nhiên, tình trạng quá tải ở khoa Nhi bệnh viện huyện vẫn luôn diễn
ra, trung bình mỗi ngày có 30-50 trẻ điều trị nội trú, những tháng mùa hè số trẻ nằm
viện tăng, thậm chí nhiều trường hợp trẻ chỉ mắc các bệnh thông thường như: cúm,
tiêu chảy, viêm phế quản....cha mẹ trẻ đã đưa đến bệnh viện huyện. Thực tế với
những bệnh như vậy chỉ cần điều trị tại TYT xã không phải khám chữa bệnh vượt
tuyến.

Trạm Y tế xã Tứ Cường trung bình mỗi ngày có từ 6-10 trẻ ra khám chữa
bệnh miễn phí, chỉ có một bác sĩ kiêm trưởng TYT tất cả mọi việc từ tuyên truyền
làm công tác phong trào đến chữa “tất tật” các loại bệnh nội ngoại cho cả người lớn
lẫn trẻ em....Hơn nữa về nguyên tắc bệnh nhân phải qua tuyến cơ sở tại địa bàn cư
trú nếu TYT xã không đảm đương được thì sẽ chuyển lên tuyến trên, trong khi trang
thiết bị tại TYT xã còn nghèo nàn, quá cũ khiến cho nhiều người chưa thực sự yên
tâm tới khám bệnh. Đó cũng là điều bất cập trong việc thực hiện KCBMP cho trẻ
em dưới 6 tuổi tại TYT xã.
Một trong những vấn đề được nhiều cán bộ y tế cơ sở quan tâm là việc chỉ
đạo, giám sát, hướng dẫn chuyên môn cụ thể KCB do bệnh viện huyện và Trung
tâm Y tế dự phòng huỵện nhưng lại không quản lý trực tiếp các TYT xã. Trong khi
đó Phòng Y tế huyện có nhiệm vụ quản lý trực tiếp và toàn diện các TYT xã, khi mà
nhân lực lại rất hạn chế.
Theo ý kiến của lãnh đạo Phòng Y tế huyện thì đây là vấn đề mà địa phương
đang quan tâm, đặc biệt công tác KCBMP cho trẻ em dưới 6 tuổi đã được triển khai


3

3 năm nay, kết quả đánh giá có thể giúp tìm ra những điều chỉnh phù hợp và hiệu
quả cho các hoạt động KCB cho trẻ em nói riêng và khám chữa bệnh cho nhân dân
nói chung đang tiến hành tại huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương.
Câu hỏi được đặt ra sau 3 năm triển khai thực hiện KCBMP cho trẻ em dưới
6 tuổi là:
Tình hình sử dụng dịch vụ KCBMP tại TYT xã ra sao? Trẻ em dưới 6 tuổi có
được hưởng quyền lợi chính sách KCBMP không? Gia đình trẻ em dưới 6 tuổi có
thường xuyên sử dụng dịch vụ KCBMP cho con em mình tại TYT xã không? TYT
xã có đáp ứng dịch vụ KCBMP cho trẻ em dưới 6 tuổi không? Mô hình quản lý thực
hiện KCBMP cho trẻ em dưới 6 tuổi hiện nay có những bất cập gì? Những khó
khăn, tồn tại trong quá trình triển khai dịch vụ KCBMP đã ảnh hưởng đến hoạt động

KCB cho trẻ em dưới 6 tuổi tại TYT xã? Công tác giám sát, đánh giá có được các
nhà quản lí quan tâm thường xuyên không?
Để trả lời những câu hỏi trên, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài “Đánh
giá tình hình thực hiện khám chữa bệnh miễn phí cho trẻ em dưới 6 tuổi tại xã
Tứ Cường, huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương, năm 2008”.


4

MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
Mục tiêu chung
Đánh giá thực trạng khám chữa bệnh miễn phí cho trẻ em dưới 6 tuổi tại xã
Tứ Cường, huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương năm 2008 và đề xuất các giải pháp
nâng cao hiệu quả khám chữa bệnh cho trẻ em dưới 6 tuổi tại trạm Y tế xã.
Mục tiêu cụ thể
1. Đánh giá thực trạng ốm đau và sử dụng dịch vụ khám chữa bệnh miễn phí
cho trẻ em dưới 6 tuổi tại Trạm Y tế xã.
2. Đánh giá tình hình triển khai chính sách khám chữa bệnh miễn phí cho trẻ
em dưới 6 tuổi tại xã Tứ Cường, huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương.
3. Phân tích thuận lợi, khó khăn trong việc cung cấp dịch vụ khám chữa
bệnh miễn phí cho trẻ em dưới 6 tuổi tại Trạm Y tế xã.


5

Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Khái niệm về sức khỏe
“Sức khỏe là trạng thái đầy đủ về thể chất, tinh thần và xã hội. Nó không chỉ
có nghĩa là không có bệnh hoặc tật”. Từ định nghĩa trên hiểu rằng, hoạt động khám

chữa bệnh là một bộ phận trong toàn bộ các hoạt động chăm sóc bảo vệ sức khỏe
nhân dân (CSBVSKND). Một hệ thống y tế tiên tiến, hiệu quả cần phải kết hợp hài
hòa giữa chăm sóc y tế truyền thống lấy khám chữa bệnh (KCB), phòng bệnh là
chính với chăm sóc sức khỏe ban đầu (CSSKBĐ), tăng cường nâng cao sức khỏe
cho mỗi cá nhân và cho toàn thể cộng đồng.
Tuyên ngôn Alma - Ata còn nhấn mạnh rằng: “Mọi người đều có quyền và
đều có nhiệm vụ tham gia với tư cách cá nhân hoặc tư cách tập thể vào việc hoạch
định và thực hiện chăm sóc sức khỏe cho cuộc sống riêng của mình” [22].
1.2. Xu thế toàn cầu hóa trong chăm sóc sức khỏe
Từ sau hội nghị Alma - Ata, hệ thống y tế các quốc gia có những chuyển đổi
mạnh mẽ, y tế công cộng đươc chú trọng, các dịch vụ chăm sóc không chỉ dừng lại
ở các bệnh viện (BV) mà được triển khai sâu rộng ở cộng đồng.
Năm 1999, Tổng thư ký Tổ chức Y tế thế giới (WHO) kêu gọi tạo chuyển
biến bước ngoặt trong CSSK để chuẩn bị bước sang thế kỷ 21. Tuyên bố nêu ra
những thách thức chủ yếu về sức khỏe đối với Chính phủ, cộng đồng và xã hội văn
minh vào thế kỷ 20 sắp kết thúc trong đó có làm thế nào phát triển các hệ thống y tế
cho phép mọi người tiếp cận được các dịch vụ KCB miễn phí (hoặc phí thấp) ở các
cơ sở cung ứng với giá hiệu quả tốt nhất. Báo cáo của WHO năm 2000 nhấn mạnh
yêu cầu các dịch vụ y tế phải tốt hơn, phải tạo ra sự cân bằng, thu chi tốt hơn.
Chính quyền Mỹ có hình thức chữa bệnh miễn phí cho người nghèo trong
điều kiện giá dịch vụ KCB ngày càng đắt đỏ với tên gọi là Medicaid và CSSK miễn
phí cho người già trên 65 tuổi với tên gọi là Medicare [33].


6

Năm 1993, Ngân hàng Thế giới (WB) đưa ra khái niệm “Đầu tư cho sức
khỏe” (Investment for health), “Gói chăm sóc lâm sàng” (Clinical care package) với
ý tưởng thực hiện các dịch vụ chữa bệnh, phòng bệnh thiết yếu, tối thiểu cho người
dân mà Ngân sách nhà nước phải đầu tư và WB có thể cho các Chính phủ vay vốn

vào việc này. Ở Mehico M.A Goalez Block đưa ra “Gói chăm sóc cơ bản” (Pakage
of basic services-PBS) bao gồm những nội dung phòng bệnh, KCB thiết yếu cho
toàn dân, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em [33].
Ở Canada, Chính phủ tăng chi phí cho y tế công cộng, phát triển các thầy
thuốc gia đình và thầy thuốc thực hành đa khoa để phục vụ ở cộng đồng [33].
Ở Trung quốc ban hành “quyết định về cải tổ và phát triển y tế nhằm tăng
cường xã hội hóa việc CSSK, củng cố hệ thống y tế hợp tác xã, tăng cường trách
nhiệm của người dân về CSSK, tăng cường quản lý khoa học và giám sát các dịch
vụ y tế ở các vùng nông thôn Trung quốc [33].
Ở Inđônêsia, từ cuối những năm 1980, Chính phủ đã thúc đẩy một số cải tổ
trong Ngành Y tế nhằm nâng cao tính hiệu quả và công bằng trong CSSK. Trong
suốt 25 năm (1968-1993) Chính phủ Inđônêsia kiên trì mở rộng các cơ sở y tế
công cộng trong cả nước, các trạm được phát triển ở các cộng đồng để người
dân tiếp cận dễ dàng [33].
Ở Thái lan, phần lớn người dân nông thôn được sử dụng các dịch vụ CSSK
công cộng của Bộ Y tế, chia ra 3 cấp phục vụ rõ rệt [33].
Ngay từ những năm đầu Cách mạng, y tế nước ta đã hướng về nông thôn,
đẩy mạnh công tác vệ sinh phòng bệnh để phục vụ cho đông đảo quần chúng nhân
dân. Sau giải phóng miền Nam thống nhất đất nước, chúng ta đã tập trung thực hiện
tuyên ngôn tại Hội nghị Alma-Ata năm 1978. Sức khỏe cho mọi người đến năm
2000 với những nội dung CSSKBĐ để mọi người có thể nhận được những chăm sóc
y tế cơ bản thiết yếu. Mạng lưới y tế cơ sở được củng cố và phát triển cả về cơ sở
vật chất, trang thiết bị, thuốc thiết yếu cũng như về nhân lực. Nhiều chương trình
phòng chống dịch bệnh đã được triển khai rộng rãi tại cộng đồng, kể cả những nơi
vùng sâu, vùng xa. Nhờ vậy, đến nay chúng ta đã đạt được nhiều thành tích to lớn


7

được cả nước và quốc tế công nhận như thanh toán bại liệt, ngăn chặn và đẩy lùi

dịch sốt rét, bướu cổ. Tình hình sức khỏe nhân dân ngày càng được cải thiện, các
chỉ số cơ bản về sức khỏe như tuổi thọ trung bình, tỉ suất chết mẹ và trẻ em của
nước ta cải thiện rất nhiều.
Xu thế cải cách và đổi mới Hệ thống y tế Việt nam trong thời kỳ đổi mới
được thể hiện tập trung đầy đủ và sớm nhất trong Nghị quyết Hội nghị lần thứ IV –
BCHTW Đảng Cộng sản Việt nam khóa VII về những vấn đề cấp bách của sự
nghiệp CSBVSKND ngày 14 tháng 1 năm 1993. Dưới ánh sáng của Nghị quyết
Ngành Y tế đã có những chuyển biến to lớn để thích nghi với sự phát triển của sự
nghiệp đổi mới, vượt qua được những khó khăn trở ngại để củng cố và phát triển hệ
thống Y tế quốc gia, đáp ứng được nhu cầu CSSK ngày càng nhiều, đa dạng và chất
lượng ngày càng cao của các tầng lớp nhân dân.
Cùng với công cuộc công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước, Đảng và
Chính phủ đã chỉ đạo chặt chẽ công tác CSSKND. Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ
IX và Chiến lược CSBVSKND giai đoạn 2001-2010 đã vạch ra phương hướng phát
triển và các giải pháp tổng thể để phát triển sự nghiệp CSSK nhân dân trong tình
hình mới. Đặc biệt ngày 22 tháng 1 năm 2002, Ban chấp hành Trung ương Đảng đã
ra chỉ thị số 06-CT/TW về củng cố và hoàn thiện mạng lưới y tế cơ sở nhằm tăng
cường hơn nữa công tác CSSKBĐ, nâng cao chất lượng các dịch vụ y tế.
1.3. Tình hình sức khỏe trẻ em – Bệnh tật và tử vong
Trẻ em là nhóm dân cư được quan tâm nhất trong các dịch vụ CSSK. Nhiều
chương trình y tế công cộng và hoạt động của TYT tập trung vào đối tượng trẻ em.
Quỹ Nhi đồng Liên hiêp quốc (UnitedNations Chidren’s Fund – UNICEF) và WHO
cũng ưu tiên vào các chương trình bảo vệ sức khỏe trẻ em. Theo Điều tra biến động
dân số và nguồn lao động năm 2003 của Tổng cục Thống kê, trẻ em dưới 6 tuổi
chiếm khoảng 11,6% dân số chung của cả nước [4]. Với dân số nước ta năm 2007
khoảng 85 triệu người thì ước tính số trẻ dưới 6 tuổi là khoảng 9 - 9,5 triệu trẻ.
Trong một báo cáo mới nhất về tình hình trẻ em trên thế giới năm 2008,
UNICEF cho biết, mặc dù thế giới đã có những bước tiến rõ rệt trong việc chẩn



8

đoán, điều trị bệnh tật nhưng mỗi năm trên trái đất vẫn còn gần 10 triệu trẻ em, chủ
yếu là tại các nước nghèo tử vong vì những căn bệnh có thể phòng ngừa và chữa trị
một cách dễ dàng. Vì vậy UNICEF kêu gọi chính phủ các nước hãy hành động để
tiếp cận với hàng triệu trẻ em chưa được hưởng các dịch vụ và các hoạt động chăm
sóc y tế căn bản bao gồm việc tiêm chủng, thuốc, chăm sóc trẻ nhỏ...
UNICEF thống kê hiện nay trên thế giới có khoảng 200 triệu trẻ em dưới 5
tuổi không được chăm sóc y tế căn bản để chống chọi với những căn bệnh có nguy
cơ tử vong cao nhưng lại có thể phòng ngừa được như viêm phổi, tiêu chảy, sởi, sốt
rét.....Hơn nữa, nhiều người đã không trả nổi những chi phí đắt đỏ nên đã hoãn việc
chạy chữa cho trẻ.
Là nước đầu tiên ở châu Á và thứ hai trên thế giới phê chuẩn Công ước Quốc
tế về Quyền trẻ em năm 1990, Việt Nam luôn coi chăm sóc và bảo vệ trẻ em là ưu
tiên hàng đầu, đã triển khai nhiều chính sách cải thiện phúc lợi trẻ em trong điều
kiện thu nhập bình quân đầu người còn thấp. Trong những năm qua, nhờ thực hiện
tốt và có sáng tạo những nội dung CSSKBĐ, sức khỏe nhân dân Việt Nam trong đó
sức khỏe trẻ em đã được cải thiện rõ rệt trong những thập kỷ qua. Hệ thống chăm
sóc sức khỏe trẻ em ngày càng được mở rộng, cơ bản không còn xã trắng về y tế,
mạng lưới y tế thôn bản được khôi phục. Hiện đã có gần 98% trẻ em dưới 6 tuổi
được phát thẻ khám chữa bệnh miễn phí. Từ năm 2005 đến nay, hàng năm Nhà
nước đầu tư hàng ngàn tỷ đồng cho hoạt động này. Việc thực hiện cam kết với
quốc tế về giảm tỉ lệ trẻ em bị suy dinh dưỡng, tai nạn thương tích đã đạt
được những tiến bộ rõ rệt.
Theo kết quả điều tra của Điều tra Y tế quốc gia năm 2002, hơn một phần ba
dân số nước ta có vấn đề sức khỏe trong 4 tuần, đặc biệt trẻ em dưới 5 tuổi hay ốm
hơn (chiếm khoảng 16-18%), trung bình có gần 2,5 đợt ốm một năm. Các bệnh
nhiễm khuẩn đường hô hấp có mức độ phổ biến cao đặc biệt là với trẻ em.
Chăm sóc sức khỏe trẻ em luôn là nhiệm vụ ưu tiên hàng đầu của Ngành Y
tế. Nhiều chương trình y tế hướng tới trẻ em được triển khai thực hiện như tiêm

chủng mở rộng, phòng chống suy dinh dưỡng, phòng chống tiêu chảy, phòng chống


9

nhiễm khuẩn hô hấp, giảm tỉ lệ tử vong sơ sinh. Từ năm 2005, Chính phủ đã bố trí
ngân sách để trẻ em được KCBMP tại tất cả các cơ sở y tế công lập....Nhờ vậy, các
chỉ số cơ bản về sức khỏe trẻ em được cải thiện rõ rệt. Theo số liệu của Tổng cục
Thống kê; năm 1994 tỷ lệ chết trẻ em dưới 1 tuổi là 36,7% o, tỉ lệ chết trẻ em dưới 5
tuổi là 61,6 %o; đến năm 2004 tỷ lệ chết trẻ em dưới 1 tuổi đã giảm xuống còn
18,1%o, tỉ lệ chết trẻ em dưới 5 tuổi là 28,5 %o.
Theo báo cáo năm 2005 của ba bệnh viện nhi (Trung ương, Nhi đồng I và
Nhi đồng II) trẻ em điều trị nội trú mắc các bệnh về hô hấp chiếm tới 36,7% và các
bệnh nhiễm khuẩn và ký sinh trùng khác là 24,6 %.
Theo kết quả Điều tra Y tế quốc gia trong khoảng thời gian 4 tuần giữa hai
lần phỏng vấn có 19% trẻ em dưới 5 tuổi bị ho kết hợp sốt kéo dài trên 1 ngày, đây
là triệu chứng chính của nhiễm khuẩn hô hấp cấp. Tiêu chảy là bệnh thứ 2 phổ biến
ở trẻ em, có 5,8% trẻ em dưới 5 tuổi bị tiêu chảy kéo dài trên 1 ngày trong 4 tuần
giữa hai cuộc phỏng vấn. Uớc tính cho một trẻ dưới 5 tuổi bị tiêu chảy trong 1
năm là 0,8 lần và bị ho sốt 2,5 lần so với trẻ 5-15 tuổi chỉ 0,2 lần tiêu chảy và
1,0 bị ho sốt [4].
1.4. Vấn đề cung cấp và sử dụng DVYT
1.4.1. Các nghiên cứu ở một số nước trên thế giới
Cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội của nhiều quốc gia trên thế giới, các
loại hình dịch vụ y tế ngày càng đa dạng, phong phú, người dân có thể tự do lựa
chọn loại hình dịch vụ phù hợp với bản thân mình. Nghiên cứu sử dụng dịch vụ y tế
trên thế giới được Falk đã nghiên cứu và thấy rằng chỉ có khoảng dưới 50% số bệnh
nhân ở Mỹ đến bác sĩ khám chữa bệnh nhưng đến năm 1965 đã có đến 2/3 dân số
đến khám chữa bệnh ít nhất một lần trong một năm. Số người đến khám chữa bệnh
trung bình tăng từ 2,6 lần đến 4,5 lần cũng trong cùng thời gian [40]. Nghiên cứu tại

Trung quốc cho kết quả quyết định của người bệnh đi đâu, làm gì khi ốm phụ thuộc
khá nhiều vào chất lượng dịch vụ y tế, giá thành và loại bệnh, đồng thời tác giả
cũng cho biết việc tự chữa bệnh của người ốm thường phụ thuộc vào tình trạng
bệnh nhẹ hay giai đoạn đầu của bệnh [39].


10

Tuy vậy hệ thống y tế của nhiều nước trên thế giới vẫn còn tình trạng sử
dụng dịch vụ chăm sóc sức khỏe chưa cao, đặc biệt ở tuyến cơ sở. Đây cũng là một
thách thức lớn đang tồn tại ở hệ thống y tế của nhiều nước [21].
Một cuộc điều tra về việc sử dụng dịch vụ y tế ở trẻ em Philippin cho thấy
55,2% sử dụng y học hiện đại; 11% sử dụng y học cổ truyền; 37% tự điều trị.
Việc sử dụng y học cổ truyền không phụ thuộc vào thu nhập mà phụ thuộc vào
trình độ người mẹ [39].
Nghiên cứu ở Thái Lan cho thấy việc tiếp cận và sử dụng dịch vụ của người
dân phụ thuộc vào việc cung cấp dịch vụ y tế và chất lượng dịch vụ. Ở nông thôn chỉ có
15,5% (1970) và 0,8 lần tiếp xúc/người/năm tìm kiếm dịch vụ y tế nhà nước [40].
Tại Cu ba, các dịch vụ y tế được miễn phí và phát triển rộng khắp trên toàn
quốc. Ở giai đoạn một tuổi, bình quân mỗi trẻ em Cu ba được theo dõi khám sức
khỏe 25 lần và được tiêm chủng liên tục để có sức đề kháng chống lại những căn
bệnh mà trẻ em dễ mắc phải [2].
Chính phủ Indonesia mở rộng các cơ sở y tế công cộng trong cả nước, các
trạm (Pukesmas) được phát triển ở các cộng đồng để người dân tiếp cận dễ dàng. Cả
nước có 7000 Trung tâm Y tế và 25000 Trạm y tế lớn nhỏ được thành lập và
được Nhà nước hỗ trợ giá dịch vụ y tế người dân phải trả chỉ bằng 1/4-1/5 dịch
vụ y tế giá thực tế [27].
1.4.2. Một số nghiên cứu về cung cấp và sử dụng DVKCB cho trẻ em ở Việt nam

Cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội, mô hình bệnh tật của Việt Nam cũng

đã có sự thay đổi nhất định, đòi hỏi hệ thống y tế Việt Nam phải có sự phát triển
tương xứng. Hệ thống y tế công lập được xây dựng và phát triển rộng khắp từ trung
ương đến xã. Mọi người dân khi ốm đau đều dễ dàng tiếp cận đến dịch vụ KCB tại
các TYT xã và hệ thống chuyển tuyến. Theo số liệu Điều tra Y tế quốc gia cho thấy
ở khu vực các tỉnh phía Bắc và Tây nguyên có tỉ lệ sử dụng dịch vụ khám chữa
bệnh ngoại trú tại tuyến xã cao hơn các vùng còn lại.


11

Bảng 1.1: Lựa chọn cơ sở KCB theo vùng sinh thái (%)
Cơ sở
Ngoài
công lập
Tuyến
trên
Tuyến


ĐB.S
Hồng

Đông
Bắc

Tây
Bắc

Bắc
Nam

Trung Trung
bộ
bộ

Tây
Đông
Nguyên Nam
Bộ

ĐB.S
Cửu
Long

48,8

23,5

13,9

35,3

62,0

50,5

65,6

59,2

15,4


19,5

12,2

14,5

14,4

13,2

17,4

13,5

3,8

51,7

74,0

50,2

23,4

36,3

17,0

27,3


(Nguồn: Điều tra Y tế quốc gia, 2002)
Cho đến nay việc nghiên cứu đánh giá về tình hình KCBMP cho trẻ em còn
rất hạn chế, ít nghiên cứu và diện nghiên cứu còn hạn hẹp. Tại các thời điểm nghiên
cứu, ở tuyến xã thông tin rất ít chưa đủ để rút ra những kết luận chính xác, đầy đủ.
Tuy vậy các báo cáo và nghiên cứu đánh giá cũng góp phần mô tả thực trạng về
hoạt động KCBMP cho trẻ em hiện nay tại TYT xã.
Nghiên cứu về chất lượng khám chữa bệnh cho trẻ em của cán bộ y tế tuyến
xã tại hai tỉnh An Giang và Bình Thuận. Kết quả cho thấy các TYT có sẵn các trang
bị và thuốc thiết yếu phục vụ khám chữa bệnh cho trẻ em thấp. Kỹ năng xử trí trẻ
bệnh và phân loại, điều trị còn nhiều hạn chế, đặc biệt tình trạng lạm dụng kháng
sinh và hạ sốt còn cao (42,2% và 65,1% ) [20].
Một nghiên cứu khác về các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng dịch vụ khám
chữa bệnh cho trẻ em dưới 5 tuổi ở vùng nông thôn miền Bắc Việt Nam. Đối tượng
nghiên cứu là cha mẹ của trẻ bị ốm trong vòng 7 ngày. Kết quả cho thấy trong số
các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định lựa chọn dịch vụ y tế để đưa trẻ ốm đi khám,
chữa bệnh thì trình độ chuyên môn cao và có thuốc tốt là quan trọng nhất. Những
yếu tố khác như thời gian chờ đợi và quen biết nhân viên y tế ít ảnh hưởng hơn [41].
Theo báo cáo của Sở Y tế Ninh Bình, năm 2004 trẻ em dưới 15 tuổi được
khám là 151.387 lượt, trong đó điều trị nội trú là 38.284 lượt. Trong khi đó tổng
kinh phí nhà đầu tư cho Ngành Y tế tỉnh là 67.052 triệu đồng, chi phí cho KCB là
26.541 triệu đồng (chiếm 40% ngân sách), chi phí KCB cho trẻ em dưới 6 tuổi chỉ


12

có 942 triệu đồng [8]. Như vậy đầu tư từ Nhà nước cho KCB nói chung và cho trẻ
em dưới 6 tuổi nói riêng còn quá thấp.
Báo cáo của Sở Y tế Ninh Bình cho thấy hiện nay mạng lưới KCB nhi khoa
của tỉnh không hoàn thiện, chỉ có bệnh viện đa khoa có khoa nhi với quy mô 60

giường, còn các bệnh viện tuyến huyện thường ghép với phòng cấp cứu hoặc khoa
nội với quy mô 10-20 giường [8]. Cán bộ y tế nhất là bác sĩ chuyên khoa nhi còn
thiếu nhiều. Các tuyến dưới chủ yếu là BS đa khoa KCB cho trẻ em. Cơ sở vật chất
nhà cửa, phòng ốc rất thiếu thốn, trang thiết bị vừa thiếu vừa lạc hậu và không đồng
bộ. Đối với cơ chế chính sách và sự ưu đãi đối với chuyên ngành nhi hầu như chưa
có, chính vì vậy bác sỹ mới tuyển dụng đưa về công tác tại khoa nhi đều từ chối.
Mặt khác các cơ sở y tế còn nặng tư tưởng bao cấp, chưa tìm mọi biện pháp để đảm
bảo đầy đủ quyền lợi cho các cháu khi có vướng mắc về thủ tục, rất lo ngại về tài
chính xuất toán khi có những vận dụng, danh mục thuốc còn nhiều bất cập và chưa
phù hợp nên hiệu quả công tác KCB cho trẻ em chưa cao.
TTYT thị xã Đồ Sơn, thành phố Hải Phòng thực hiện KCB miễn phí cho trẻ
em dưới 6 tuổi không hoàn toàn, chỉ miễn phí tiền khám bệnh, tiền giường, tiền xét
nghiệm cơ bản (công thức máu, nước tiểu), nhưng tiền thuốc, tiền xét nghiệm khác
gia đình phải trả [9].
Kết quả nghiên cứu tại Hải Phòng và Hà Tây đều cho thấy việc thực thanh
thực chi có tính ưu việt và không khống chế mức trần, nhưng vấn đề là lại có thêm
một bộ phận quản lý quỹ trong khi đó Ngành Y tế rất thiếu nhân lực quản lý.
1.5. Vai trò của y tế cơ sở trong chăm sóc sức khỏe ban đầu và sức khỏe trẻ em
1.5.1. Hệ thống y tế Việt Nam
Từ khi giành được chính quyền Cách mạng, Đảng và Nhà nước đã luôn chú
trọng chăm lo xây dựng hệ thống y tế để CSSK cho nhân dân. Có thể thấy để đảm
bảo tính phổ cập, hệ thống y tế Việt Nam về cơ bản được xây dựng theo bậc thang
hành chính của Nhà nước. Hệ thống chuyển tuyến của các cơ sở y tế cũng căn bản
dựa theo thang bậc hành chính. Các mặt hoạt động trong khuôn khổ CSSKBĐ
(VSPD,BVBMTE và KHHGĐ, khám điều trị bệnh đơn giản...) được triển khai rộng
rãi thông qua mạng lưới từ thôn bản đến xã, huyện (gọi chung là y tế cơ sở). Y tế cơ


13


sở có vị trí chiến lược rất quan trọng trong hệ thống y tế, đó là đơn vị y tế cơ sở gần
dân nhất, phát hiện ra những vấn đề y tế sớm nhất, giải quyết được 80% khối lượng
phục vụ y tế tại chỗ, là nơi thể hiện sự công bằng trong CSSK rõ nhất, nơi trực tiếp thực
hiện và kiểm nghiệm các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước về y tế, là bộ
phận quan trọng nhất của ngành y tế tham gia ổn định chính trị - kinh tế - xã hội [23].
Xu thế cải cải cách hệ thống y tế Việt Nam trong thời kỳ đổi mới được thể
hiện tập trung đầy đủ và sớm nhất trong Nghị quyết Hội nghị lần thứ IV Ban chấp
hành trung ương Đảng CSVN khóa VII về những vấn đề cấp bách của sự nghiệp
CSBVSKND ngày 14 tháng 1 năm 1993. Nghị quyết nêu rõ 5 quan điểm cơ bản,
mục tiêu và chính sách, giải pháp lớn của sự nghiệp y tế nước nhà trong thời kỳ
chuyển đổi cơ chế. Để thực hiện Nghi quyết Hội nghị Trung ương 4, khóa 7 về các
nhiệm vụ cấp bách trong CSSK, Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ đã ban hành
quyết định 58/TTg và Nghị định số 01/CP về hệ thống y tế địa phương. Từ đó mạng
lưới y tế cơ sở đã được củng cố và phát triển. Hầu hết các TYT xã đã có đủ cán bộ y
tế hoạt động, đến nay đã có 97,37% xã, phường có nhà TYT, 74% số thôn, bản, ấp
có nhân viên y tế hoạt động, 52% số TYT xã trong toàn quốc có bác sĩ [22]. Tổ
chức lại hệ thống y tế địa phương theo hướng quản lý, chỉ đạo theo ngành trong
công tác y tế, kết hợp với sự chỉ đạo các cấp ủy Đảng, chính quyền trên địa bàn,
cùng với những nỗ lực phát triển mạng lưới y tế cơ sở là hướng tới việc thực hiện
công bằng trong CSSK và hiệu quả trong quản lý y tế ở địa phương.
Các năm sau này, đường lối đổi mới y tế Việt Nam được tiếp tục phát triển và
cụ thể hóa trong các nghị quyết của Đảng Cộng sản Việt Nam. Gần đây là Nghị
quyết số 35/2001/QĐ - TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 19/3/2001 về Chiến
lược CSBVSKND giai đoạn 2001-2010.
Mặc dù còn là một nước nghèo, Việt Nam luôn coi công tác CSSK nhân dân
là một trong những ưu tiên hàng đầu. Nghị quyết 46/NQ-TW của Bộ Chính trị ngày
23 tháng 2 năm 2005 đã chỉ rõ: “Đổi mới hệ thống y tế theo hướng: công bằng hiệu
quả và phát triển nhằm tạo cơ hội thuận lợi cho mọi người dân được bảo vệ và nâng
cao sức khỏe với chất lượng ngày càng cao, phù hợp với sự phát triển kinh tế của



14

đất nước. Phát triển bảo hiểm y tế toàn dân, nhằm từng bước đạt tới công bằng trong
chăm sóc sức khỏe, thực hiện sự chia sẻ giữa người khỏe và người ốm, người giàu
và người nghèo, người trong độ tuổi lao động với trẻ em, người già, công bằng
trong đãi ngộ với cán bộ y tế” [2].
1.5.2. Vị trí, vai trò của y tế cơ sở trong hệ thống y tế quốc gia
Một trong những ưu thế nổi bật của hệ thống chăm sóc sức khỏe (CSSK) ở
Việt Nam so với nhiều quốc gia đang phát triển là nước ta có một mạng lưới y tế cơ
sở được bao phủ trên khắp nước và được Chính phủ cấp ngân sách hoạt động. Tính
đến 30/12/2007 trên cả nước có 12.626 cơ sở khám chữa bệnh trong đó có 10.851
xã, phường, thị trấn có TYT, tuy còn một số nơi chưa có TYT nhưng đã có nhân
viên y tế hoạt động. Như vậy, trên phạm vi cả nước hiện nay không còn xã trắng về
y tế (Niên giám Thống kê y tế 2007).
Mạng lưới y tế cơ sở chính là nền tảng của hệ thống y tế quốc gia. Mọi chủ
trương, chính sách, mọi hoạt động về CSSKND không thể thực hiện có kết quả nếu
không có mạng lưới y tế cơ sở vững mạnh. Chính vì vậy mà ngay từ những năm 80
của thế kỷ vừa qua, củng cố y tế cơ sở là một nội dung CSSKBĐ của WHO nêu
trong tuyên ngôn Alma-Ata (1978) cho phù hợp với thực tế Việt Nam. Cho đến nay,
nhiệm vụ củng cố y tế cơ sở vẫn đang được tiếp tục đẩy mạnh vì đây là điều kiện để
thực hiện thắng lợi các mục tiêu chiến lược CSBVSKND ở nước ta trong thập niên
đầu thế kỷ 21 là: “Phấn đấu để mọi người dân được hưởng các dịch vụ CSSKBĐ,
có điều kiện tiếp cận và sử dụng các dịch vụ y tế có chất lượng. Mọi người đều
được sống trong cộng đồng an toàn, phát triển tốt về thể chất và tinh thần...”.
Chỉ thị 06 CT/TW của Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam
ngày 22/1/2002 nêu rõ: “Màng lưới y tế cơ sở (bao gồm y tế thôn,bản, xã, phường,
quận, huyện, thị xã) là tuyến y tế trực tiếp gần dân nhất, nằm trong hệ thống y tế
Nhà nước bảo đảm cho mọi người dân được chăm sóc sức khỏe cơ bản với chi phí
thấp nhất và đã được quy định trong Thông tư liên Bộ số 08/TT-LB ngày 20/4/1995

của liên Bộ Y tế - Tài chính - Lao động thương binh và xã hội Ban tổ chức cán bộ
Chính phủ, phối hợp với các ngành, các đoàn thể trong xã, phường tham gia vào


15

hoạt động CSSKND, có nhiệm vụ thực hiện các dịch vụ CSSKBĐ cho nhân dân
trên địa bàn. Đây cũng là thể hiện sự công bằng của Đảng và Nhà nước về y tế và là
bộ phận quan trọng nhất của Ngành Y tế tham gia ổn định chính trị, xã hội [2]. Tuy
nhiên trên thực tế rất nhiều TYT không thực hiện tốt được nhiệm vụ này và nhiều
khi TYT xã chỉ chủ yếu thực hiện các hoạt động phòng bệnh. Trong Điều tra khảo
sát về mức sống dân cư Việt Nam thì cho thấy chỉ 15% người dân đến KCB tại
TYT xã khi ốm đau [19].
Tại thời điểm hiện nay về tổ chức TYT xã lại nằm trong sự quản lý cuả
Phòng Y tế huyện (Theo Nghị định 172/NĐ-CP ban hành ngày 29 tháng 9 năm
2004 thì TYT xã trực thuộc Phòng Y tế huyện mà không trực thuộc Trung tâm Y tế
huyện như trước đây), cụ thể khi triển khai KCBMP cho trẻ em dưới 6 tuổi lại chịu
sự quản lý trực tiếp và toàn diện của Phòng Y tế huyện. Đây là một trong những vấn
đề được nhiều cán bộ y tế cơ sở quan tâm, do phải chia tách 3 bộ phận nên hầu hết
hiện nay cơ sở vật chất cũng như nhân lực còn hạn chế, các địa phương gặp rất
nhiều khó khăn khi triển khai thực hiện Nghị định này. Việc chỉ đạo chuyên môn
nghiệp vụ cho cán bộ y tế xã gặp khó khăn hơn do Bệnh viện huyện và Trung tâm Y
tế dự phòng huyện không quản lý trực tiếp các TYT xã. Phòng Y tế huyện có nhiệm
vụ quản lý toàn diện các TYT xã, trong khi nguồn lực lại rất hạn chế, khó quản lý
các nội dung được triển khai.
1.5.3.Tình hình cung cấp dịch vụ y tế của TYT xã
Trong tình hình hiện nay, nhiều loại hình dịch vụ y tế phát triển, người dân
có nhiều điều kiện lựa chọn cơ sở KCB, các loại hình DVYT chủ yếu tập trung ở
các vùng đô thị phát triển, vùng nông thôn thì y tế cơ sở vẫn đóng vai trò quan
trọng. Nước ta, gần 80% dân số sống ở vùng nông thôn, cơ sở y tế gần với họ nhất,

dễ tiếp cận nhất là TYT xã. Các gia đình có con nhỏ thường sử dụng dịch vụ CSSK
tại TYT xã. Do vậy việc củng cố nâng cao chất lượng hoạt động của TYT xã là rất
cần thiết để tăng khả năng tiếp cận của người dân (trong đó có trẻ em) đối với y tế
cơ sở và đảm bảo công bằng trong CSSKND.


16

Khả năng cung cấp dịch vụ y tế trước hết dựa vào: kinh phí, nhân lực, thuốc
thiết yếu, trang thiết bị, cơ sở vật chất [8].
Về kinh phí: Đối với TYT xã, kinh phí hoạt động chủ yếu là từ nguồn Ngân
sách nhà nước. Trên thực tế cho thấy việc chi trả lương cho cán bộ y tế chiếm một tỉ
trọng lớn trong tổng ngân sách cấp cho TYT xã. Kết quả từ một nghiên cứu của Bộ
Y tế cũng cho thấy ngân sách của Nhà nước cấp cho TYT xã chỉ đảm bảo các khoản
chi lương, phụ cấp cho cán bộ theo chế độ hiện hành....Các khoản chi thường
xuyên cho hoạt động của TYT xã như điện, nước, điện thoại, bông, cồn....đều do
ngân sách xã cấp. Tại các TYT xã khu vực khó khăn, nhiều xã UBND xã không có
kinh phí để chi cho các hoạt động thường xuyên của TYT xã do vậy không đáp ứng
được nhu cầu cơ bản của các TYT xã [4]. Điều này gây khó khăn và sẽ ảnh hưởng
tới chất lượng dịch vụ của một TYT xã.
Từ tháng 1 năm 2005, các cơ sở y tế công lập lại tiếp nhận việc KCB miễn
phí cho trẻ em dưới 6 tuổi. Kinh phí để thực hiện KCBMP cho trẻ em dưới 6 tuổi
chủ yếu do Ngân sách nhà nước cấp cho các cơ sở y tế với mức kinh phí cấp bình
quân mỗi trẻ 70.000 đồng/năm thì các cơ sở y tế chỉ đủ khả năng thực hiện KCB và
cung cấp các dịch vụ kỹ thuật như quy định hiện nay của bảo hiểm. Để điều trị các
bệnh nặng, chi phí tốn kém, cung cấp dịch vụ kỹ thuật cao, cũng như các loại thuốc
đặc trị đắt tiền cho trẻ em, cần phải nâng mức hỗ trợ, hoặc gia đình trẻ em phải thực
hiện cùng chi trả [9].
Về nhân lực y tế và trình độ chuyên môn của cán bộ y tế: là một trong những
yếu tố quan trọng nhất quyết định chất lượng các hoạt động trong các cơ sở y tế.

Đối với tuyến xã, định biên của y tế xã được quy định theo quyết định số 58/TTg
ngày 3/2/1994 của Thủ tướng Chính phủ và thông tư số 08/TTLB quy định mỗi
TYT xã được bố trí từ 3 đến 6 cán bộ y tế tùy theo dân số và địa bàn hoạt động [6].
Nhìn chung số lượng cán bộ y tế xã hàng năm đều tăng, mỗi năm tăng hơn 1.100
người, trình độ chuyên môn của cán bộ y tế xã ngày càng được nâng lên để phù hợp
với nhu cầu chăm sóc sức khỏe nhân dân trong tình hình mới.Tuy số lượng cán bộ y
tế xã hàng năm đều tăng, nhưng bình quân chung cán bộ y tế cho một TYT xã tăng


17

không đáng kể, năm 2004 bình quân là 4,6 CBYT/01 TYT [6]. Theo Chuẩn Quốc
gia về y tế xã của Bộ Y tế thì một TYT xã tối thiểu phải có đủ 3 loại nhân viên y tế
bao gồm bác sĩ hoặc y sĩ đa khoa (khu vực đồng bằng phải có bác sĩ), 01 nữ hộ sinh
trung học hoặc y sĩ sản nhi và 01 y tá. Đối với các trạm y tế xã có từ 4 cán bộ trở lên
phải có 01 cán bộ y học cổ truyền chuyên trách. Ngoài ra nếu có thể, trạm cũng phải
có 01 cán bộ có trình độ dược tá, có thể kiêm nhiệm. So với quyết định 58/TTg là
thiếu cán bộ y tế xã cả về lượng và cơ cấu để thực hiện các nhiệm vụ của TYT xã và
nhất là hiện nay TYT xã phải đảm nhận việc KCB cho đối tượng BHYT và KCBMP
cho trẻ em dưới 6 tuổi.
Ngoài các cán bộ làm việc tại TYT xã, đội ngũ nhân viên y tế thôn bản là
một lực lượng cần thiết trong mạng lưới y tế cơ sở thực hiện công tác CSSK cho
người dân tại cộng đồng.
Về trang thiết bị và cơ sở vật chất của TYT xã: chất lượng của các dịch vụ y
tế phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Có ảnh hưởng rõ rệt nhất đến chất lượng dịch vụ tại
TYT xã trong đó có vấn đề trang thiết bị, cơ sở vật chất. Sự đầu tư không hợp lý
cũng sẽ dẫn đến tình trạng không nâng cao được chất lượng các dịch vụ y tế. Nếu
chỉ đầu tư nhân lực cho TYT xã bằng cách đưa bác sĩ về xã mà không đồng thời đầu
tư về trang thiết bị, củng cố cơ sở vật chất thì cũng không phát huy được vai trò của
bác sĩ tại xã.

Bảng 1.3: Các chỉ số về cơ sở vật chất và trang thiết bị tại TYT xã (%)
Các chỉ số
Cơ sở vật chất của trạm

Thành thị

Nông thôn

Chung

Tỉ lệ trạm đạt tiêu chuẩn của Bộ Y tế
Trang thiết bị y tế

19,4

8,1

9,8

Tỉ lệ trạm có đủ TTB cho KCB thông thường

94,8

97,4

97,0

Tỉ lệ trạm có tủ thiết bị lạnh (tủ lạnh..)

5,0


10,8

9,9

Tỉ lệ trạm có đủ TTB cho CSSK sinh sản

22,0

25,8

24,7

Tỉ lệ trạm có đủ TTB cho CSSK/dinh dưỡng

77,6

87,6

86,1

Tỉ lệ trạm có đủ TTB khám chuyên khoa

14,6

11,7

12,2



×