Tải bản đầy đủ (.doc) (242 trang)

Giáo dục và khoa cử nho học đại việt thế kỷ XVII XVIII

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (7.35 MB, 242 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRỊNH THỊ HÀ

GIÁO DỤC VÀ KHOA CỬ NHO HỌC
ĐẠI VIỆT THẾ KỶ XVII -XVIII

Ngành: Lịch sử Việt Nam
Mã số: 9.22.90.13

LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS VŨ DUY MỀN

Hà Nội – 2019


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu do tôi thực hiện. Các tư liệu
sử dụng trong Luận án là trung thực, có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng. Những kết
quả nghiên cứu của Luận án chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào. Tôi
hoàn toàn chịu trách nhiệm về công trình nghiên cứu này.
Hà Nội, tháng 12 năm 2019
Tác giả Luận án


MỤC LỤC


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
2 Mục đích và nhiệm vụ của luận án
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
7. Cấu trúc của luận án
Chương 1: TỔNG QUAN TƯ LIỆU VÀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
VẤN ĐỀ
1.1 Nguồn tư liệu
1.1.1 Trong nước
1.1.2 Nước ngoài
1.2 Tình hình nghiên cứu trong nước
1.2.1 Nhóm công trình viết về giáo dục và khoa cử Nho học Việt Nam
1.2.2 Nhóm công trình nghiên cứu về giáo dục và khoa cử Nho học Đại Việt
thế kỷ XVII, XVIII
1.3 Tình hình nghiên cứu ngoài nước
1.4 Những vấn đề liên quan đến đề tài đã được các công trình nghiên cứu
giải quyết
1.5. Những vấn đề luận án cần tiếp tục nghiên cứu
Chương 2: GIÁO DỤC NHO HỌC
2.1 Mục đích của giáo dục Nho học
2.1.1 Học để làm người
2.1.2 Học để làm quan
2.1.3 Học để lưu danh muôn đời
2.2 Giáo dục Nho học Đàng Ngoài
2.2.1 Chính sách giáo dục Nho học của chính quyền Lê -Trịnh
2.2.2 Tổ chức giáo dục Nho học
2.3 Giáo dục Nho học Đàng Trong

2.3.1 Chúa Nguyễn đối với giáo dục Nho học
2.3.2 Tổ chức giáo dục Nho học
Tiểu kết chương 2
Chương 3: KHOA CỬ NHO HỌC
3.1 Khoa cử Nho học Đàng Ngoài
3.1.1 Khảo hạch
3.1.2 Thi Hương
3.1.3 Thi Hội
3.1.4 Thi Đình
3.1.5 Các khoa thi khác
3.1.6 Chính sách đãi ngộ dành cho người đỗ đạt
3.2 Khoa cử Nho học Đàng Trong
3.2.1 Xuân thiên quận thí
3.2.2 Thu vi Hội thí (thi Hội vào mùa thu)
3.2.3 Các khoa thi khác

TRANG

1
1
2
2
4
6
7
8
9
9
9
12

12
12
18
26
28
30
31
31
31
31
32
33
33
36
53
53
57
73
75
75
75
76
83
89
95
98
104
104
105
109



3.2.4 Chính sách đãi ngộ dành cho người đỗ đạt
Tiểu kết chương 3
Chương 4: THÀNH TỰU, HẠN CHẾ CỦA GIÁO DỤC VÀ KHOA CỬ
NHO HỌC
4.1 Đào tạo, cung cấp đội ngũ trí thức Nho học
4.1.1 Số lượng Tiến sĩ và việc bổ dụng của Nhà nước
4.1.2 Số Hương cống và việc bổ dụng của Nhà nước
4.1.3 Hình thành đội ngũ quan chức trung nghĩa, nhà Nho có đức nghiệp
4.1.4 Các Nho sĩ tiêu biểu
4.2 Duy trì và phát huy truyền thống hiếu học
4.2.1 Thêm nhiều địa phương có người đỗ đạt
4.2.2 Hình thành nhiều làng khoa bảng, dòng họ khoa bảng
4.3. Một số hạn chế
4.3.1 Coi trọng bằng cấp, đề cao văn chương
4.3.2 Coi trọng học thuộc lòng trong dạy học và thi cử
4.3.3 Các hiện tượng tiêu cực khác
Tiểu kết chương 4

110
113
115
115
115
119
124
128
133
133

134
138
138
139
140
143

KẾT LUẬN

145

TÀI LIỆU THAM KHẢO

152


DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU

Danh mục các bảng biểu
Bảng 3.1: Các khoa thi thời chúa Nguyễn
Bảng 4.1: Thống kê số Tiến sĩ chia ba giáp
Bảng 4.2: Phẩm hàm và chức quan cao nhất các Tiến sĩ chia theo 3 giáp
triều Lê -Trịnh
Bảng 4.3 Chức vụ cao nhất của Hương cống triều Lê - Trịnh

Trang

108
115
117

120


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Cb
CTQG
ĐHKHXHVNV

HN
KHXHVN
NCLS
Nxb
QTG
QGHN
TP.HCM
TTHĐ VHKH

Tr
UBND
VHKH
VHNT
VHTT

Chủ biên
Chính trị Quốc gia
Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn
Hán Nôm
Khoa học Xã hội Việt Nam
Nghiên cứu Lịch sử
Nhà xuất bản

Quốc Tử Giám
Quốc gia Hà Nội
Thành phố Hồ Chí Minh
Trung tâm hoạt động văn hóa Khoa học
Trang
Ủy ban Nhân dân
Văn hóa khoa học
Văn hóa Nghệ thuật
Văn hóa Thông tin


MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Thế kỷ XVII, XVIII là giai đoạn lịch sử “khá đặc biệt” với nhiều biến cố, trong đó
nổi bật là tình trạng cát cứ: vua Lê chúa Trịnh ở Đàng Ngoài, chúa Nguyễn ở Đàng
Trong. Ở Đàng Ngoài, không chỉ có triều đình Lê -Trịnh đóng đô ở Kinh đô Thăng
Long tồn tại theo định chế vừa có Vua lại vừa có Chúa, mà ở vùng đất Cao Bằng còn
có sự quản lý của nhà Mạc tồn tại cho đến năm 1677 mới chấm dứt. Trong khi đó, sự
xuất hiện của chúa Nguyễn ở Đàng Trong trên vùng đất phía Nam của đất nước, tồn tại
trên một miền đất mới, lại mang dáng dấp của một quốc gia độc lập vừa tạo nên sự đa
dạng nhưng cũng không kém phần phức tạp về mặt chính trị. Chính bối cảnh chính trị
này đã có tác động không nhỏ đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội Đại Việt thế kỷ
XVII, XVII. Trong đó, giáo dục và khoa cử Nho học là một trong những nhân tố quan
trọng vừa tạo nên nét riêng biệt trong bản sắc văn hóa của từng vùng miền, cùng với
những thành tựu và giá trị của nó đã có đóng góp to lớn vào việc tạo nên tính phong
phú trong bản sắc văn hóa chung của dân tộc Việt Nam.
Nghiên cứu tình hình Đại Việt trong hai thế kỷ XVII, XVIII đã có nhiều công trình
được công bố, phản ánh được một số lĩnh vực quan trọng trong đời sống như chính trị,
kinh tế, văn hóa, xã hội, tôn giáo.v.v… Riêng với vấn đề giáo dục và khoa cử Nho học
ở thời kỳ này đã nhận được sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu. Một số vấn đề cơ

bản thuộc giáo dục và khoa cử Nho học thế kỷ XVII, XVIII đã được tìm hiểu nhưng
mới dừng lại ở mức độ là một phần nội dung trong các công trình chuyên khảo khi
nghiên cứu về lịch sử hình thành, sự phát triển của chế độ giáo dục và khoa cử thời
quân chủ nói chung. Hoặc một số khía cạnh cụ thể thuộc về giáo dục hoặc khoa cử
Nho học của cả quốc gia, hoặc của từng vùng cụ thể (Đàng Ngoài, Đàng Trong) cũng
đã có một số công trình nghiên cứu đề cập đến. Tuy nhiên, những công trình đó chủ
yếu là những nghiên cứu riêng lẻ, chưa trình bày một cách đầy đủ, bao quát tất cả các
vấn đề của giáo dục và khoa cử Nho học của hai thế kỷ này. Nhất là vấn đề giáo dục
và khoa cử Nho học của chúa Nguyễn ở Đàng Trong lại chưa được giới nghiên cứu
quan tâm nhiều, do vậy, có thể thấy đây vẫn còn là một khoảng trống trong nghiên cứu
về giáo dục và khoa cử Nho học Việt Nam dưới thời quân chủ.
Một vấn đề rất quan trọng khi tìm hiểu giáo dục, khoa cử trong xã hội cổ truyền đó
là làm thế nào để mô tả và thấy được tính kế thừa, tiếp nối về truyền thống giáo dục,
truyền thống khoa bảng trong các gia đình, dòng họ nơi làng xã theo tiến trình lịch sử.
Trong hai thế kỷ XVII, XVIII, mặc dù xảy ra rất nhiều biến cố về mặt chính trị, xã hội
song những chính sách trong giáo dục và khoa cử của Nhà nước, chủ yếu là của triều
Lê -Trịnh ở Đàng Ngoài đã góp phần không nhỏ vào việc tiếp tục củng cố và phát huy
truyền thống hiếu học, đỗ đạt của nhiều dòng họ ở nhiều làng xã, nhất là làng xã vùng
1


đồng bằng Bắc bộ và Bắc Trung bộ. Sau này, khi triều đình Nguyễn đặt kinh đô tại
Huế, trung tâm giáo dục của cả nước được chuyển vào trong Huế, thì giáo dục, khoa
cử của vùng Đàng Ngoài đã không còn “khởi sắc” khi số người đỗ đại khoa dưới triều
Nguyễn không nhiều như các triều đại trước đây. Dù vậy, truyền thống giáo dục Nho
học của các gia đình, dòng họ ở các làng xã nơi đây vẫn tiếp tục được duy trì. Do vậy,
việc tìm hiểu giáo dục, khoa cử Nho học Đại Việt trong hai thế kỷ XVII, XVIII cũng
đồng thời là cơ sở để thấy được sự tiếp nối trong truyền thống hiếu học của dân tộc ta.
Xuất phát từ các mục đích trên, với mong muốn tìm hiểu một cách hệ thống, chi tiết
hơn về tình hình giáo dục và khoa cử Đại Việt trong hai thế kỷ XVII, XVIII, thấy được

nét chung, nét riêng của vấn đề này trong từng vùng không gian (Đàng Ngoài, Đàng
Trong), tôi chọn vấn đề “Giáo dục và khoa cử Nho học Đại Việt thế kỷ XVII -XVIII”
làm đề tài luận án Tiến sĩ của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1 Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu về giáo dục và khoa cử Nho học thời Lê -Trịnh ở Đàng
Ngoài, chúa Nguyễn ở Đàng Trong thế kỷ XVII và XVIII, luận án sẽ làm sáng rõ tình
hình tổ chức giáo dục và khoa cử Nho học Đại Việt ở cả hai miền đất nước. Từ đó,
thấy được đóng góp của nền giáo dục và khoa cử Nho học đối với việc phát triển của
quốc gia Đại Việt trong hai thế kỷ này.
2.2 Nhiệm vụ nghiên cứu của luận án:
Để đạt được mục đích trên, đề tài sẽ thực hiện các nhiệm vụ sau:
- Phân tích khái quát bối cảnh chính trị - xã hội Đại Việt thế kỷ XVII, XVIII tác
động đến chính sách, tình hình giáo dục và khoa cử thời kỳ này.
-Trình bày khái quát mục tiêu của giáo dục và khoa cử Nho học Đại Việt thế kỷ
XVII, XVIII. Tìm hiểu về chính sách giáo dục cũng như làm rõ tình hình tổ chức giáo
dục của thời kỳ này thông qua việc lựa chọn những sự kiện lịch sử tiêu biểu về tổ chức
trường lớp (gồm cấp trung ương và địa phương), chương trình học tập, chế độ khảo
thí... của cả vùng Đàng Ngoài, Đàng Trong, qua đó làm rõ sự kế thừa, nét riêng biệt về
giáo dục giữa hai vùng.
-Trình bày, phân tích tình hình khoa cử Nho học của triều Lê -Trịnh ở Đàng Ngoài
và chúa Nguyễn ở Đàng Trong thông qua việc tìm hiểu về thể lệ thi cử, quá trình tổ
chức các khoa thi cụ thể của hai chính quyền. Từ đó góp phần làm rõ đặc điểm khoa
cử Nho học của mỗi vùng miền.
- Phân tích những thành tựu, hạn chế của giáo dục và khoa cử Nho học Đại Việt
trong hai thế kỷ XVII, XVIII, chủ yếu là thành tựu, để qua đó, thấy được vai trò và ảnh
hưởng của tầng lớp trí thức Nho học được giáo dục, tuyển chọn qua khoa cử đối với sự
phát triển xã hội trên nhiều khía cạnh, nhất là trong lĩnh vực chính trị, văn hóa.
2



3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1 Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của luận án là giáo dục và khoa cử Nho học, thực trạng và
đóng góp của nền giáo dục, khoa cử này đối với xã hội Đại Việt thế kỷ XVII, XVIII.
3.2 Phạm vi nghiên cứu:
Về không gian: Đề tài giới hạn nghiên cứu về giáo dục và khoa cử Nho học của
quốc gia Đại Việt gồm vùng Đàng Ngoài và Đàng Trong.
Vùng đất Đàng Ngoài được giới hạn từ Bắc sông Gianh trở ra (phía Bắc huyện Bố
Trạch ngày nay), Đàng Trong được giới hạn từ vùng đất Nam sông Gianh đến Hà Tiên
thời chúa Nguyễn, tương ứng với các tỉnh từ Quảng Bình, Quảng Trị đến hết các tỉnh
Nam Bộ ngày nay.
Đàng Ngoài ở thế kỷ XVII gồm triều Lê - Trịnh ở Thăng Long và nhà Mạc ở Cao
Bằng cùng trị vì. Tuy nhiên, do hạn chế về mặt tư liệu nên tác giả luận án giới hạn vấn
đề nghiên cứu thuộc phạm vi không gian đặt dưới sự trị vì của chính quyền Lê -Trịnh
mà chưa tìm hiểu giáo dục, khoa cử vùng không gian thuộc nhà Mạc ở Cao Bằng.
Vùng đất Đàng Trong từ thế kỷ XVII cho đến hết thế kỷ XVIII gồm các thể chế
chính quyền khác nhau cùng cai trị, ngoài chính quyền của chúa Nguyễn trị vì từ 1558
đến năm 1777, từ năm 1778 đến 1802 là thời kỳ quản lý của vương triều Tây Sơn và
Nguyễn Ánh. Tuy nhiên, trong luận án tác giả chủ yếu nghiên cứu về tổ chức giáo dục
và khoa cử Nho học vùng đất Đàng Trong dưới thời trị vì của các chúa Nguyễn, đến
hết đời Nguyễn Phúc Thuần (1777). Đây là thời điểm Đàng Trong với tư cách là một
khu vực địa - chính trị trong ý nghĩa phân biệt, đối sánh và cả đối đầu với khu vực địa
lý - chính trị Đàng Ngoài chính thức được xác lập.
Đại Việt tuy bị chia cắt làm hai miền nhưng không phải là hai miền tách biệt khi cả
Đàng Ngoài và Đàng Trong luôn có ý thức là người Việt Nam, đều lấy niên hiệu vua
Lê Trung hưng để tính thời gian. Trong chế độ quan chế của chúa Nguyễn tuy có thay
đổi, nhưng cơ bản vẫn kế thừa, mô phỏng theo chế độ quan chế chính quyền Lê
-Trịnh. Do đó, luận án khuôn giới hạn phạm vi không gian nghiên cứu về giáo dục và
khoa cử Nho học của vua Lê chúa Trịnh ở Đàng Ngoài, chúa Nguyễn ở Đàng Trong

trong hệ thống của nền giáo dục và khoa cử Nho học chính thống.
Về thời gian: Phạm vi thời gian nghiên cứu của luận án là từ thế kỷ XVII đến thế kỷ
XVIII.
Ở Đàng Ngoài, tuy đề tài xác định thời gian nghiên cứu từ thế kỷ XVII đến hết thế
kỷ XVIII (từ năm 1600 -1799) nhưng trong quá trình triển khai nội dung luận án, tác
giả có điều chỉnh thời gian viết từ năm 1592 cho đến khi sự tồn tại của triều Lê kết
thúc vào năm 1788. Năm 1592 là thời điểm họ Trịnh đánh đổ nhà Mạc, nhanh chóng
đón vua Lê trở về Kinh thành Thăng Long. Đây là sự kiện có ý nghĩa rất quan trọng,
đặt nền tảng để vua Lê, chúa Trịnh từng bước thiết lập, xây dựng chính quyền, trong
đó có vấn đề tổ chức khoa cử. Năm 1595 và 1598, triều Lê -Trịnh đã cho mở hai khoa
3


thi Hội đầu tiên ở Thăng Long, sang thế kỷ XVII vấn đề giáo dục, khoa cử được triều
đình quan tâm, tổ chức đều đặn hơn. Từ việc tìm hiểu vấn đề nghiên cứu đó để thấy
được sự liền mạch khi nghiên cứu khoa cử triều Lê -Trịnh, từ khi chính thức cầm
quyền ở Thăng Long cho đến khi vương triều này bị lật đổ.
Ở Đàng Trong, năm 1777 chính quyền chúa Nguyễn bị sụp đổ bởi phong trào Tây
Sơn, Nguyễn Ánh rời Thuận Hóa đi vào Gia Định. Vùng đất Đàng Trong từ năm 1777
cho đến hết thế kỷ XVIII đặt dưới sự quản lý của triều Tây Sơn và Nguyễn Ánh (vùng
Gia Định). Xét về mặt thể chế chính trị, chính quyền chính thống của họ Nguyễn đóng
đô ở Phú Xuân đã không còn tồn tại. Nhưng khoa cử Nho học của họ Nguyễn vẫn tiếp
tục được duy trì, khi vào năm 1788 chúa Nguyễn Ánh đã cho mở khoa thi ở Gia Định,
tuyển chọn được nhiều danh sĩ có những đóng góp cho triều Nguyễn sau này.
Tuy nhiên, vì mục đích nghiên cứu của đề tài nhằm làm rõ tình hình giáo dục và
khoa cử Nho học của Đại Việt, trong đó có vấn đề giáo dục, khoa cử của chính quyền
chúa Nguyễn ở Đàng Trong tồn tại với tư cách một chính quyền độc lập ở vùng đất
phía Nam, đối sánh với triều Lê -Trịnh ở Đàng Ngoài, do vậy, trong luận án, tác giả
không đề cập đến giáo dục và khoa cử Nho học vùng đất Đàng Trong thuộc triều Tây
Sơn và chính quyền của chúa Nguyễn Ánh ở Gia Định.

Phạm vi nội dung:
Đề tài tập trung nghiên cứu về tổ chức giáo dục và khoa cử Nho học của cư dân
người Việt (người Kinh) đặt trong sự quản lý của chính quyền vua Lê chúa Trịnh ở
Đàng Ngoài, chính quyền chúa Nguyễn ở Đàng Trong. Luận án chủ yếu nghiên cứu về
hoạt động dạy và học theo hệ thống trường lớp do Nhà nước mở, lớp học của các Nho
sĩ, lớp học tư gia. Riêng việc học chữ Nho tại các cơ sở khác như nhà chùa, hoặc việc
học của bộ phận cư dân người Khơme, người Chăm... luận án chưa đề cập đến.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
4.1 Phương pháp luận:
Đề tài sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của chủ nghĩa
Mác - Lênin làm cơ sở phương pháp luận nghiên cứu.
Phương pháp duy vật biện chứng được vận dụng trong luận án nhằm làm rõ mối
quan hệ giữa bối cảnh lịch sử xã hội, nhu cầu đào tạo tuyển chọn nhân tài của Nhà
nước qua khoa cử có tác động tới tình hình giáo dục, khoa cử trong hai thế kỷ XVII,
XVIII và ngược lại. Do đó để có nhận thức và đánh giá đúng thành tựu, hạn chế của
giáo dục, khoa cử thời kỳ này cần đặt vấn đề nghiên cứu trong bối cảnh lịch sử cụ thể.
Phương pháp duy vật lịch sử được vận dụng trong luận án nhằm làm rõ quá trình
vận động, phát triển của giáo dục, khoa cử Nho học của Đại Việt trong hai thế kỷ
XVII, XVIII được tiếp nối từ các thời kỳ lịch sử trước đó. Đồng thời thông qua việc
đối sánh về giáo dục, khoa cử giữa hai vùng Đàng Ngoài và Đàng Trong của thời kỳ
lịch sử này để thấy được điểm tương đồng, khác biệt.
4


4.2 Phương pháp nghiên cứu:
Nhằm đạt được mục đích đề tài đặt ra, các phương pháp nghiên cứu của khoa học
được sử dụng gồm những phương pháp cơ bản sau:
- Phương pháp lịch sử và phương pháp lôgic là hai phương pháp chủ yếu được sử
dụng kết hợp nhằm làm rõ nội dung của luận án. Trong đó sử dụng phương pháp lịch
sử nhằm đặt sự kiện lịch sử theo lịch đại và đồng đại, trình bày, mô tả một cách đầy đủ

về mục đích giáo dục, chính sách, tình hình tổ chức giáo dục và khoa cử ở cả hai vùng
Đàng Ngoài, Đàng Trong. Với vấn đề trường lớp, việc vận dụng phương pháp lịch sử
nhằm thấy được quá trình ra đời, sự thay đổi về diện mạo, kiến trúc của trường Quốc
Tử Giám cùng các nội dung liên quan thuộc ngôi trường Quốc học này như: chế độ
tuyển chọn giáo quan, tuyển chọn Giám sinh, chương trình học tập... từ các triều đại
Lý, Trần, Lê sơ, Mạc. Đây là cơ sở quan trọng để đề tài triển khai sâu hơn khi tìm hiểu
về hoạt động giáo dục trường Quốc Tử Giám ở hai thế kỷ XVII, XVIII. Đặc biệt,
phương pháp lịch sử giúp đề tài làm rõ nội dung quan trọng là từ thế kỷ XVIII trở đi,
làng xã Đàng Ngoài đã xuất hiện loại hình trường học mới “trường dân lập” do nhân
dân đóng góp tiền của, đất đai xây dựng. Loại hình trường học này chỉ có từ thế kỷ
XVIII. Trong cái nhìn đồng đại, luận án đặt những vấn đề giáo dục, khoa cử Đàng
Ngoài so sánh với Đàng Trong để thấy được sự kế thừa chính quyền Đàng Trong trong
việc áp dụng một số thể lệ thi cử của Đàng Ngoài, cũng như điểm riêng biệt về tổ chức
giáo dục, khoa cử của hai vùng này.
- Phương pháp lôgic cho phép tác giả trình bày các vấn đề liên quan theo mối quan
hệ nhân quả khi lý giải, phân tích khái quát bối cảnh lịch sử đã có tác động như thế
nào đến chính sách cũng như thực trạng giáo dục và khoa cử của chính quyền Đại Việt
trong hai thế kỷ XVII, XVIII? Đồng thời, phương pháp lôgic còn cho chúng ta thấy
chính sách trọng dụng nhân tài của Nhà nước, khi bổ dụng các Nho sĩ xuất thân từ
chốn “Cửa Khổng, Sân Trình” vào trong bộ máy chính quyền. Trên cương vị làm
quan, các Nho sĩ đó, đã có những đóng góp gì cho vương triều mà họ tôn phò? Đó
chính là ảnh hưởng của nền giáo dục, khoa cử đến đời sống kinh tế, chính trị, văn hóa,
xã hội trong hai thế kỷ XVII, XVIII.
-Phương pháp thống kê sử dụng trong luận án được áp dụng với hướng tiếp cận
nghiên cứu lịch sử xã hội. Dựa trên các bộ chính sử, tác giả luận án tiến hành thống kê,
phân tích các số liệu liên quan đến người học, người thi và quan trường như: số Giám
sinh trường Quốc Tử Giám thời Lê -Trịnh, danh sách các chức quan của trường Quốc
Tử Giám; danh sách trường tư của các Nho sĩ trong hai thế kỷ XVII, XVIII; số người
đỗ trong từng khoa thi của Đàng Ngoài và Đàng Trong; nguồn gốc của các Tiến sĩ; số
lượng, phẩm hàm quan trường... Ưu điểm của phương pháp thống kê cho nhận thức

khách quan về vấn đề nghiên cứu trên cơ sở của phương pháp định lượng.

5


-Phương pháp so sánh cũng rất hữu ích trong việc đúc rút những kết luận, nhận xét,
đánh giá trong luận án được khách quan và chính xác hơn. Trong đó phương pháp so
sánh được sử dụng để thấy được sự tương đồng, khác biệt khi so sánh giáo dục, khoa
cử Nho học Đàng Ngoài với Đàng Trong; giữa triều Lê-Trịnh với các triều Lê sơ, Mạc.
Từ sự so sánh đó thấy được những ưu điểm, hạn chế của giáo dục, khoa cử Nho học
trong hai thế kỷ này.
Ngoài ra, luận án còn sử dụng phương pháp khảo sát điền dã trong việc khảo cứu
những dấu tích các trường Nho học tại một số địa phương, sưu tầm tư liệu gia phả của
các dòng họ về các nhà khoa bảng đỗ đạt trong hai thế kỷ XVII, XVIII, qua đó góp
phần làm rõ truyền thống hiếu học của các địa phương thời kỳ này.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
Trên cơ sở của các nguồn tài liệu, phương pháp nghiên cứu cũng như đối tượng và
phạm vi nghiên cứu, đóng góp của luận án tập trung vào một số nội dung chính sau:
Thứ nhất: trên cơ sở nguồn sử liệu gốc và các nghiên cứu, tác giả thống kê, phân
tích và hệ thống các vấn đề liên quan đến tổ chức trường lớp của Đại Việt trong hai thế
kỷ XVII, XVIII.
Ở Đàng Ngoài: Theo các nghiên cứu trước đều chỉ ra dưới thời Lê -Trịnh ở Đàng
Ngoài rất quan tâm đến tổ chức giáo dục cao cấp tại trường Quốc Tử Giám. Tuy nhiên,
đối tượng theo học, học quan gồm những chức quan gì, chế độ đãi ngộ của Nhà nước
dành cho họ ra sao thì những công trình nghiên cứu trước đây chỉ nói chung chung, đặt
trong nội dung nghiên cứu liên tục từ triều Lý đến triều Nguyễn mà chưa đề cập cụ
thể. Trên cơ sở nghiên cứu từ nhiều nguồn tư liệu, tác giả luận án góp phần làm rõ
những vấn đề này.
Ở Đàng Trong: Trên cơ sở khảo cứu tư liệu, bước đầu tác giả đưa ra nhận định dưới
thời các chúa Nguyễn đã chủ trương xây dựng một ngôi trường có tên là “Học Cung”

tại thủ phủ Phú Xuân. Tác giả cũng góp phần làm rõ vấn đề về chức quan giảng dạy
đối với con cháu trong hoàng tộc chúa Nguyễn, chỉ ra nét riêng trong tổ chức giáo dục
Đàng Trong là thường gửi các Công tử tới nhà các quan viên để họ giảng dạy. Đây là
những vấn đề ít được các công trình chuyên khảo đề cập đến.
Về trường tư: Tác giả cố gắng thống kê hệ thống trường tư của các Nho sĩ ở cả hai
miền để thấy được việc học trong hai thế kỷ XVII, XVIII đã có sự phát triển khởi sắc.
Nhất là vùng Đàng Trong, khi trường công chưa phát triển, thì trường tư của các Nho
sĩ giữ vai trò rất quan trọng trong việc cung cấp đội ngũ Nho sinh tham dự các khoa thi
của chính quyền chúa Nguyễn.
Đối với trường học cấp làng xã: Tác giả cố gắng mô tả và trình bày loại hình trường
dân lập - trường học do người dân tự quyên góp ruộng đất hoặc tiền để xây dựng nên,
đây là trường học xuất hiện ở Đàng Ngoài từ thế kỷ XVIII. Nhất là chính

6


sách khuyến học ở làng xã dành cho việc học và người đỗ đạt khoa cử từ nhiều tư liệu
khác nhau.
Thứ hai: Bước đầu tác giả thống kê được số lượng các khoa thi, số người lấy đỗ của
kì thi Hương, thi Hội, thi Đình của triều Lê -Trịnh ở Đàng Ngoài; các kì thi Thu
vi Hội thí (gồm Chính đồ, Hoa văn), Thám phỏng, Tam ty của chúa Nguyễn ở Đàng
Trong. Việc bổ dụng chức quan của chính quyền Đại Việt dành cho người đỗ đạt, họ
chính là đội ngũ trí thức có những đóng góp quan trọng trong mọi lĩnh vực của đời
sống xã hội thế kỷ XVII, XVIII.
Thứ ba: Trên cơ sở so sánh thể lệ, tính chất trong giáo dục và khoa cử của triều Lê
-Trịnh và các chúa Nguyễn, tác giả chỉ ra được sự kế thừa, nét riêng biệt về chế độ
giáo dục và khoa cử giữa hai chính quyền này. Mặc dù nền giáo dục, khoa cử Nho học
ở Đàng Trong hình thành muộn nhưng về tính chất, mục đích dạy học, nội dung thi cử
của vùng đất này lại mang tính cởi mở hơn so với Đàng Ngoài. Tuy chúa Nguyễn đã
mở được một số khoa thi, lấy được khá nhiều người đỗ Hương cống nhưng lại chưa tổ

chức được kì thi Hội để lấy học vị Tiến sĩ như ở Đàng Ngoài.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
Trên cơ sở phương pháp luận, phương pháp nghiên cứu khoa học và nguồn tài liệu
tin cậy, luận án cung cấp những kết quả nghiên cứu về thực trạng, đặc điểm của giáo
dục, khoa cử Nho học của Đại Việt trong hai thế kỷ XVII, XVIII, góp phần hiểu biết
sâu sắc hơn về giáo dục Nho học Việt Nam trong quá khứ.
Luận án “Giáo dục và khoa cử Nho học Đại Việt thế kỷ XVII -XVIII” cho thấy mối
quan hệ biện chứng giữa giáo dục, khoa cử Nho học với nhu cầu phát triển xã hội, giữa
tổ chức khoa cử với chính sách của Nhà nước. Mối quan hệ đó thể hiện ở góc độ bối
cảnh xã hội là nhân tố quan trọng đặt ra nhu cầu giáo dục, thi cử để đào tạo nhân tài
tham gia bộ máy Nhà nước; ngược lại chính đội ngũ trí Nho học được Nhà nước trọng
dụng, bổ dụng vào các vị trí khác nhau, bằng tài năng và tâm huyết đã có những đóng
góp quan trọng đối với sự phát triển quốc gia dân tộc trên mọi lĩnh vực chính trị, kinh
tế, văn hóa, giáo dục, xã hội, an ninh quốc phòng.
Trong bối cảnh đất nước ta ngày càng hội nhập sâu rộng vào quá trình toàn cầu hóa
trên nhiều lĩnh vực, thì vai trò của giáo dục trong sự nghiệp đào tạo nhân tài cho đất
nước tiếp tục được khẳng định. Luận án ít nhiều đưa ra những bài học kinh nghiệm đối
với Việt Nam trong việc lựa chọn phương thức giáo dục, đào tạo phù hợp cùng chính
sách đãi ngộ đối với nhân tài, một trong chính sách đó là bổ dụng đội ngũ trí thức vào
những cương vị phù hợp trong bộ máy Nhà nước. Đồng thời, luận án sẽ cung cấp hệ
thống tài liệu cho việc nghiên cứu, giảng dạy và học tập về lịch sử giáo dục Nho học
thời quân chủ nói chung, nghiên cứu các vấn đề lịch sử cụ thể của hai thế kỷ XVII,
XVIII nói riêng.

7


7. Cấu trúc của luận án:
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, Phụ lục, nội dung luận
án được kết cấu làm 4 chương:

Chương 1: Tổng quan tư liệu và tình hình nghiên cứu vấn đề
Chương 2: Giáo dục Nho học
Chương 3: Khoa cử Nho học
Chương 4: Thành tựu, hạn chế của giáo dục và khoa cử Nho học

8


Chương 1:
TỔNG QUAN TƯ LIỆU VÀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ
1.1 Nguồn tư liệu
1.1.1 Trong nước
Nguồn sử liệu quan trọng nhất và chủ yếu nhất được sử dụng trong luận án là các
bộ sử do Nhà nước đứng ra tổ chức biên soạn dưới thời Lê -Trịnh và triều Nguyễn, cụ
thể là: Đại Việt sử ký toàn thư của Ngô Sỹ Liên và các Sử thần triều Lê gồm ba bộ:
Đại Việt sử ký toàn thư (Bản khắc Chính Hòa thứ 18 - 1697) (khắc in và công bố năm
1697 do nhóm Lê Hy biên soạn); Đại Việt sử ký, Bản kỷ tục biên (1676- 1740), tập 1;
Đại Việt sử ký tục biên (1676 -1789); Lê triều chiếu lệnh thiện chính thư; Lê triều
quan chế; Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Đại Nam thực lục phần Tiền
biên; Đại Nam liệt truyện tiền biên; Đại Nam nhất thống chí... Đây là nguồn tư liệu
chính yếu ghi chép trực tiếp chính sách và hoạt động giáo dục, khoa cử Đại Việt thế kỷ
XVII, XVIII gồm cả Đàng Ngoài và Đàng Trong.
Đại Việt sử ký toàn thư gồm ba bản: Đại Việt sử ký toàn thư (Bản khắc Chính Hòa
thứ 18 - 1697) (khắc in và công bố năm 1697 do nhóm Lê Hy biên soạn) biên chép
một cách hệ thống lịch sử dân tộc từ Hồng Bàng đến năm 1675. Bản Đại Việt sử ký
toàn thư, Bản kỷ tục biên (1676- 1740), tập 1: do nhóm Ngô Thì Sĩ (1726-1780), Phạm
Nguyễn Du (1740 -1787), Ninh Tốn (1744-?), Nguyễn Sá ( -?) đồng biên tập dưới
quyền Tổng tài của nhóm Nguyễn Hoãn (1712 -1791), Vũ Miên (1718 -1782) và Lê
Quý Đôn (1726 -11784) chịu trách nhiệm biên soạn, ghi chép từ đời Lê Hy Tông
(1676) đến Lê Ỷ Tông (1740) gồm 63 năm; Đại Việt sử ký tục biên (1676 -1789) do

các sử gia triều Lê biên soạn [38] ghi chép sự kiện lịch sử từ đời Lê Hiển Tông (1740 1786) đến Lê Chiêu Thống (1786 -1788). Đây là bộ chính sử quan trọng nhất, ghi chép
trực tiếp các sự kiện về giáo dục, khoa cử thời kỳ vua Lê - chúa Trịnh ở Đàng Ngoài
với các nội dung được nhắc đến nhiều nhất là thi Hương, thi Hội, thi Đình.
Khâm định Việt sử thông giám cương mục của Quốc sử quán triều Nguyễn được biên
soạn dưới thời Tự Đức, gồm 2 phần Tiền biên và Chính biên. Trong đó phần Chính biên
(chép từ năm Đinh Tiên Hoàng thứ nhất (968) đến năm 1788 đời Lê Chiêu Thống) gồm
19 quyển (từ q.29 - q.47) có ghi chép về thời kỳ Lê -Trịnh, một phần chúa Nguyễn Đàng
Trong. Khâm định Việt sử thông giám cương mục được biên soạn theo lối biên niên, lại có
phần “lời chua”, “lời cẩn án”, “lời các sử gia”, do vậy khi tham khảo bộ sách này, để khảo
cứu các sự kiện giai đoạn vua Lê chúa Trịnh ở Đàng Ngoài, chúa Nguyễn ở Đàng Trong,
luận án thu thập được nhiều tư liệu, làm sáng tỏ nhiều nhân vật, địa danh, đồng thời tiếp
cận được những lời nhận xét, phê phán của Quốc sử quán về một số sự việc liên quan đến
thực trạng giáo dục, khoa cử thời Lê -Trịnh.

9


Đại Nam thực lục gồm 560 quyển do Quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn là
nguồn tư liệu chủ yếu khi tìm hiểu về thời kỳ lịch sử chúa Nguyễn và triều Nguyễn.
Trong đó phần Đại Nam thực lục tiền biên gồm 13 quyển, chép các sự việc của chúa
Nguyễn, bắt đầu từ khi Nguyễn Hoàng vào Trấn thủ vùng Thuận Hóa đến đời chúa
Nguyễn Phúc Thuần trị vì gần hai trăm năm (1558 -1777). Đây là nguồn tư liệu chính
yếu để luận án khai thác các nội dung về tổ chức giáo dục, khoa cử thời chúa Nguyễn.
Tuy không ghi chép cụ thể về giáo dục, khoa cử thời chúa Nguyễn, nhưng Đại Nam
liệt truyện là bộ sử rất có giá trị khi tìm hiểu về hành trạng các nhân vật liên quan thời
chúa Nguyễn. Bộ sách do Quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn bắt đầu từ đời vua
Thiệu Trị thứ 1 (1841), gồm ba phần, 85 quyển: Đại Nam liệt truyện tiền biên, Đại
Nam chính biên liệt truyện sơ tập, Đại Nam chính biên liệt truyện nhị tập. Riêng Đại
Nam liệt truyện tiền biên gồm 6 quyển là phần rất quan trọng trong việc làm rõ thân
thế, công trạng của một số vị danh thần, quan viên trực tiếp tham gia bộ máy chính

quyền chúa Nguyễn; hoặc hành trạng của một số Nho sĩ tuy lựa chọn lối sống “ẩn dật”
nhưng vẫn nặng lòng với thời cuộc, có những đóng góp quan trọng về mặt tư tưởng
đối với việc duy trì cơ nghiệp chúa Nguyễn trong giai đoạn nửa sau thế kỷ XVIII.
Nghiên cứu cụ thể hơn về thân thế, hành trạng các vị đại khoa, luận án còn khai
thác thông tin từ nguồn thư tịch về đăng khoa lục (sách ghi chép về tên tuổi và tiểu sử
các vị trúng tuyển các khoa thi) như: Lịch đại danh hiền phổ (không rõ tác giả); Đỉnh
khiết Đại Việt lịch triều Đăng khoa lục của Nguyễn Hoàn, quyển nhì; Từ Liêm huyện
đăng khoa chí của Bùi Xuân Nghi; Thu tỉ đề danh ký (Đăng Khoa lục Thanh Hóa)
(không rõ tác giả); Phượng Dực đăng khoa lục của Đinh Danh Bá; Ngọc Than đăng
khoa lục...Trong đó, Đỉnh khiết Đại Việt lịch triều đăng khoa lục do Vũ Miên, Nguyễn
Hoàn, Phan Trọng Phiên, Uông Sĩ Lăng biên soạn [113] ghi chép khá cụ thể tiểu sử,
quê quán của các vị Tiến sĩ thời Lê -Trịnh, thi đỗ từ khoa thi năm 1694 đến khoa thi
năm 1787. Mặc dù bộ sách không ghi chép gì về năm sinh, năm mất, chức vụ của họ
khi tham gia phục vụ bộ máy chính quyền, nhưng đây vẫn là nguồn tư liệu rất quan
trọng cho tác giả luận án trong việc thống kê, phân loại số người đỗ theo địa phương
cụ thể, qua đó thấy được truyền thống khoa bảng của làng xã Việt Nam dưới thời Lê Trịnh ở Đàng Ngoài đã diễn ra như thế nào.
Luận án còn khai thác, sử dụng một số tác phẩm do các sử gia tư nhân biên soạn như:
Ô châu cận lục của Dương Văn An (1514 -?); Việt Nam khai quốc chí truyện của Nguyễn
Khoa Chiêm (1659 -1736); Thiên Nam liệt truyện Hoan Châu ký của Nguyễn Cảnh Thị,
Kiến văn tiểu lục, Vân đài loại ngữ, Phủ biên tạp lục của Lê Quý Đôn (1726 -1784);
Thượng kinh ký sự của Lê Hữu Trác (1720 -1791); Nghệ An ký của Bùi Dương Lịch (1758
-1827); Hải Dương phong vật chí của Trần Công Hiến (? -1817) và Đạm Trai Trần Huy
Phác (1754 -1834); Nam Hà tiệp lục của Lê Đản (1742 -?); Gia Định thành thông chí của
Trịnh Hoài Đức (1765 -1825); Lịch triều tạp kỷ của Ngô Cao
10


Lãng ( ? - ?); Vũ trung tuỳ bút của Phạm Đình Hổ (1768 -1839); Lịch triều hiến
chương loại chí của Phan Huy Chú (1782-1840); Việt sử cương mục tiết yếu của Đặng
1


Xuân Bảng (1828 -1910) ... Những tư liệu này giúp người nghiên cứu có hình dung rõ
ràng về khoa cử Đại Việt thế kỷ XVII, XVIII. Chẳng hạn quyển “Thể lệ thượng” trong
Kiến văn tiểu lục của Lê Quý Đôn cung cấp những thông tin có giá trị về khoa cử bên
cạnh một số vấn đề khác như lễ nghi, phong tục, quan chức, bổng lộc... của Đại Việt từ
thời Lý đến Lê Trung hưng. Trong phần “Khoa mục chí” của cuốn Lịch triều hiến
chương loại chí của Phan Huy Chú dành hẳn quyển 27 để nói về thể lệ thi Hương, thi
Hội, thi Đình của triều Lê -Trịnh khi trị vì ở Thăng Long.
Luận án sử dụng một số văn bia, gia phả các dòng họ, hương ước của các địa
phương như Hà Nội (gồm Hà Tây cũ), Vĩnh Phúc, Hải Dương, Hưng Yên, Bắc Ninh,
Thanh Hóa, Hà Tĩnh... nhằm thống kê số người đỗ đạt. Đặc biệt, trong thời gian gần
đây, đã có khá nhiều công trình biên soạn mang tính liệt kê về người đỗ khoa cử nói
chung, người đỗ đạt của từng địa phương nói riêng được xuất bản là nguồn tư liệu
tham khảo có giá trị cho luận án trong việc thống kê người đỗ Tiến sĩ, đỗ Hương cống
thời Lê -Trịnh, qua đó thấy được truyền thống hiếu học ở làng xã Việt Nam trong hai
thế kỷ XVII, XVIII. Đó là: Tiến sĩ Nho học Hải Dương (1075 -1919) do Tăng Bá
Hoành (cb), Bảo tàng Hải Dương, 1997; Các nhà khoa bảng Hưng Yên (1075-1919)
do Dương Thị Cẩm biên soạn (Sở VHTT Hưng Yên, 1999); Các nhà khoa bảng Việt
Nam (1075 -1919) của Ngô Đức Thọ (cb), Nxb Văn học 1993 (tái bản 2006); Trạng
nguyên, Tiến sĩ, Hương cống Việt Nam của nhóm tác giả Bùi Hạnh Cẩn, Minh Nghĩa,
Việt Anh biên soạn (Nxb VHTT, 2002); Các nhà khoa bảng Hà Tĩnh (từ đời Trần đến
đời Nguyễn) của Thái Kim Đỉnh (Hội Liên hiệp VHNT, Hà Tĩnh, 2004); Khoa bảng
Nghệ An (1075 -1919) của Đào Tam Tỉnh (Nxb Nghệ An, 2005); Tiến sĩ Nho học
Thăng Long Hà Nội của Bùi Xuân Đính (Nxb Thanh Niên, 2010); Tiểu sử và hành
trạng các nhà khoa bảng Hán học Nam Bộ của Nguyễn Đình Tư (Nxb Đồng Nai,
2013); ... Riêng tác phẩm Các nhà khoa bảng Việt Nam (1075 -1919) của nhóm tác giả
Ngô Đức Thọ, Nguyễn Thúy Nga, Nguyễn Hữu Mùi biên soạn là công trình khảo cứu
rất công phu về thân thế, sự nghiệp của 2.894 vị Tiến sĩ đã trúng tuyển trong các khoa
thi Hội, thi Đình do triều đình tổ chức từ thời Lý đến triều Nguyễn. Công trình không
chỉ có giá trị về mặt tra cứu, mà còn có giá trị rất lớn trong việc tìm hiểu tình hình và

truyền thống đỗ đạt của các địa phương trong phạm vi cả nước.
Năm 2019, nhóm tác giả do Nguyễn Thúy Nga chủ biên đã xuất bản bộ sách về
khoa cử Việt Nam gồm 4 cuốn, khảo cứu những người đỗ kì thi Hương, thi Khảo hạch
của nước ta từ thời Lê đến thời Nguyễn. Trong đó hai cuốn: Khoa cử Việt Nam Hương
cống triều Lê và Khoa cử Việt Nam Sinh đồ triều Lê thời các chúa Nguyễn và Tây Sơn
1 Tác giả luận án còn sử dụng phần “Tổng luận” trong Quốc triều Hương khoa lục của Cao Xuân Dục, Nxb
Thành phố Hồ Chí Minh, 1993.

11


(Nxb Đại học QGHN) khảo cứu trực tiếp về thân thế, hành trạng các Hương cống và
Sinh đồ của triều Lê ở Đàng Ngoài, Hương cống của chúa Nguyễn ở Đàng Trong. Đây
là công trình khảo cứu đầu tiên liệt kê khá đầy đủ về những người đỗ đạt trong kì thi
Khảo hạch và thi Hương ở nhiều địa phương, vốn là những khoa thi được mở ở cấp địa
phương, tư liệu ghi chép không đầy đủ. Để nguồn tài liệu này phục vụ tốt cho nội dung
nghiên cứu của luận án, chúng tôi phải xác minh, chỉnh lý trước khi sử dụng.
1.1.2 Nước ngoài
Luận án còn khai thác nguồn tư liệu là các ghi chép của các Giáo sĩ, thương nhân
phương Tây, người Trung Hoa đến giao thương, truyền giáo và có ghi chép về Đại Việt
thế kỷ XVII, XVIII, trong đó có nhiều ấn phẩm đã được dịch và xuất bản như: Histoire
du royaume de Tunquin (Lịch sử vương quốc Đàng Ngoài) của Alexandre de Rhodes
viết năm 1651; Divers voyages et missions (Hành trình và truyền giáo) của Alexandre
de Rhodes; Relation nouvelle et singguiére du Royaume de Tunquin (Tập du ký mới và
kỳ thú về vương quốc Đàng Ngoài) của Jean-Baptiste Tavernier viết khoảng thời gian
từ năm 1639 - 1645, hoàn thiện năm 1681; A Description of the Kingdom of Tonqueen
(Mô tả vương quốc Đàng Ngoài) của Samuel Baron viết trong khoảng thời gian 16851686; Voyages and Discoveries (Một chuyến du hành đến Đàng Ngoài năm 1688) của
William Dampier; Journal de voyage du yacht hollandais Grol du Japon au Tonkin
1637 (Những thương nhân Hà Lan đầu tiên đến Đàng Ngoài và Kẻ chợ năm 1637) của
Geerts; Xứ Đàng Trong năm 1621 của Christophoro Borri; Description historique de

la Cochinchine (Mô tả lịch sử Đàng Trong) của Jean Koffler viết năm 1755; A voyage
to Cochinchina in the years 1792 -1793”(Một chuyến du hành đến xứ Nam Hà (1792


-1793) của J.Barrow; Histoire moderne du pays d Annam (Lịch sử cận đại xứ An Nam)
của Chrles.B Maybon. Hoặc một số ghi chép của người Trung Quốc như An Nam cung
2

dịch kỷ sự (Ký sự về việc phục dịch ở An Nam) của Chu Thuấn Thủy; Hải ngoại kỷ sự
của Thiền sư Thích Đại Sán biên soạn năm 1695.
Nhìn chung, các tác phẩm của người nước ngoài khi viết về Đại Việt ở thế kỷ XVII,
XVIII đã mô tả khá sinh động những nét chung về điều kiện tự nhiên, sản vật, tổ chức
bộ máy chính quyền, phong tục của cư dân, việc học hành, thi cử của từng vùng Đàng
Ngoài hoặc Đàng Trong. Những ghi chép đó chứa đựng nhiều thông tin quan trọng, bổ
sung thêm nhiều sự việc lịch sử không được ghi chép trong nguồn thư tịch chữ Hán,
do vậy đây cũng là nguồn tư liệu có giá trị cho luận án. Tuy nhiên khi sử dụng nguồn
tư liệu này, chúng tôi phải có sự đối chiếu, so sánh với thư tịch, ghi chép trong nước.
1.2. Tình hình nghiên cứu trong nước
1.2.1 Nhóm công trình viết về giáo dục, khoa cử Nho học Việt Nam
Trong nửa đầu thế kỷ XX đã xuất hiện một số công trình nghiên cứu về giáo dục
khoa cử Việt Nam thời quân chủ của các học giả Việt Nam vừa hiểu biết về Hán học
2

Bản dịch trích trong Vĩnh Sính (2016), Việt Nam và Nhật Bản giao lưu văn hóa [171] từ tr.303 đến tr.360.

12


vừa chịu ảnh hưởng bởi vốn kiến thức Tây học. Phần lớn những bài viết trong giai
đoạn này được đăng trên các tạp chí như Nam Phong, Thanh Nghị, Tri Tân.., có thể kể

đến một số bài như: “Khảo cứu về sự thi ta” của Dương Bá Trạc (Tạp chí Nam Phong,
số 23, 1919, tr.373 -385) giới thiệu những nét đại cương về giáo dục, khoa cử thời
quân chủ; “Vài thể văn khoa cử xưa” của Hoa Bằng (Tạp chí Tri Tân, 1942, số 44, tr.3
-5); “quyển Thi văn bình chú” của Ngô Tất Tố (Tạp chí Tri Tân, số 94, 1943; tr.8, 23;
số 95, tr 8 -9)... Đáng chú ý nhất là cuốn Lược khảo về khoa cử Việt Nam từ khởi thủy
đến Mậu Ngọ 1918 (H. Impr.du Nord, 1941) của Trần Văn Giáp, đây được xem như
chuyên luận sớm nhất của giới nghiên cứu hiện đại đối với thể chế khoa cử phong kiến
Việt Nam. Thông qua khảo cứu trường thi Nam Định, tác giả đã cung cấp những kiến
thức cơ bản về tổ chức giáo dục thời xưa và nhấn mạnh nội dung học tập chính yếu là
rèn tập cho học trò các thể văn bài để tham dự các kì thi. Tác giả đã có những khảo
cứu, so sánh giữa phép thi văn, thi võ và chế độ thi cử của ta với chế độ thi cử của các
triều đại Trung Quốc, cùng sự thay đổi của các phép thi qua mỗi triều đại từ thời Lý,
Trần đến thời Nguyễn.
Trong công trình: Tìm hiểu nền giáo dục Việt Nam trước năm 1945, Nxb Giáo dục,
Hà Nội, 1985, tác giả Vũ Ngọc Khánh đã trình bày một cách tổng quát về tiến trình
lịch sử nền giáo dục Việt Nam từ đầu cho đến thời kỳ Pháp đô hộ thế kỷ XX. Riêng
nội dung giáo dục, khoa cử thời quân chủ được tác giả trình bày trong phần thứ nhất:
“Trên tiến trình lịch sử từ đầu đến thế kỷ XIX” với dung lượng 130 trang từ tr.30 đến
tr.159. Từ kết quả nghiên cứu, tác giả đã đưa ra những nhận định, đánh giá khách quan
về mục tiêu, nội dung, tổ chức, phương pháp của giáo dục Nho học gồm cả hai mặt đối
lập của nó. Khi đánh giá về nội dung và chương trình giáo dục thời kỳ quân chủ, tác
giả coi đó là một cách học cần thiết nhằm: “học kinh nghiệm để quản lý xã hội. Học sử
chính là học kinh nghiệm các triều đại để rút ra bài học mà xử lý các mối quan hệ
trong triều chính và với các tầng lớp dân chúng. Nhận thức như vậy không phải là
không thiết thực” [89; tr 89]. Tác giả cũng chỉ ra những hạn chế của giáo dục Nho học
trong việc đề cao học để làm chính sự, giáo dục để đào tạo người ra làm quan, từ đó
gây nên tư tưởng “chỉ làm quan mới là vinh dự, là cao quý, còn bao nhiêu nghề khác
đều thấp kém” [89; tr 94]. Đây là công trình nghiên cứu sớm nhất đưa ra những nhận
xét, đánh giá về giáo dục Nho học, có ý nghĩa về mặt phương pháp luận trong việc
giúp tác giả luận án có cái nhìn, đánh giá khách quan về thực trạng và đặc điểm nền

giáo dục trong hai thế kỷ XVII, XVIII.
3

Đặc biệt từ năm 2013 đến năm 2015 , tập thể các nhà nghiên cứu của Viện Sử học
đã xuất bản công trình “Lịch sử Việt Nam” gồm 15 tập, trong đó phần nội dung giáo
dục, khoa cử trong lịch sử qua các triều đại được viết khá chi tiết ở các tập: tập 2 (Từ
3Đến năm 2017, Viện Sử học đã bổ sung, tái bản lại bộ Lịch sử này gồm 15 tập.

13


thế kỷ XI đến thế kỷ XIV), tập 3 (Từ thế kỷ XV đến thế kỷ XVI), tập 4 (từ thế kỷ
XVII -XVIII), tập 5 (từ năm 1802 -1858), tập 6 (từ năm 1858 đến năm 1896) do Nxb
Khoa học Xã hội xuất bản 2013. Trong đó tập 4 là công trình viết rất cụ thể, chi tiết
nhiều vấn đề liên quan đến thời kỳ vua Lê chúa Trịnh ở Đàng Ngoài, chúa Nguyễn ở
Đàng Trong như: việc phân chia quyền lực giữa vua Lê - Chúa Trịnh và chúa Nguyễn,
bộ máy chính quyền, tình hình kinh tế, chính trị, xã hội, tư tưởng, giáo dục cùng thành
tựu về văn hóa của hai miền đất nước. Trong chương 12 của cuốn sách (từ tr.512 tr.522), nhóm tác giả đã mô tả, phân tích các nét rất cơ bản về tình hình giáo dục, thi
cử ở cả Đàng Ngoài và Đàng Trong, so sánh và phân tích nguyên nhân về sự hạn chế
của khoa cử Đàng Trong so với Đàng Ngoài. Từ tr.523 đến tr.586 của chương, nhóm
tác giả cũng đã trình bày về thành tựu văn học, nghệ thuật, khoa học kỹ thuật của thế
kỷ XVII, XVIII, qua những thành tựu đó, thấy được đóng góp của nền giáo dục đối
với sự phát triển quốc gia Đại Việt trên nhiều lĩnh vực.
Từ thập niên 1990 của thế kỷ XX đến nay, các công trình nghiên cứu về vấn đề giáo
dục và khoa cử Việt Nam thời quân chủ xuất hiện ngày một nhiều, biểu hiện dưới nhiều
dạng thức khác nhau (bài viết, công trình chuyên khảo, luận án). Trong đó có thể kể đến
một số công trình sau: Tình hình giáo dục thi cử triều Mạc của Nguyễn Hữu Tâm (Tạp chí
Nghiên cứu Lịch sử, số 6 -1991); Khoa cử và giáo dục Việt Nam của Nguyễn.Q. Thắng,
Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 1993; Giáo dục Việt Nam thời cận đại của Phan Trọng
Báu (Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1994); Nho học ở Việt Nam - Giáo dục và thi cử của

Nguyễn Thế Long, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1995; Khoa cử và giáo dục Việt Nam của
Nguyễn. Q. Thắng (Nxb Văn hóa, Hà Nội, 1998); Lịch sử giản lược hơn 1000 năm nền
giáo dục Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, 2003 của Lê Văn Giạng; Chính sách giáo
dục của nhà Nguyễn đối với các dân tộc ít người ở Việt Nam vào nửa đầu thế kỷ 19 (Tạp
chí Dân tộc học, số 2/ 2005) của Phạm Thị Ái Phương; Giáo dục và thi cử Việt Nam
(trước Cách mạng tháng Tám 1945) của Phan Ngọc Liên (Nxb Từ điển Bách khoa, Hà
Nội, 2006); Giáo dục và khoa cử Nho học thời Lê ở Việt Nam qua tài liệu Hán Nôm, Nxb
Khoa học Xã hội, Hà Nội, 2009 của Đinh Khắc Thuân; Giáo dục và khoa cử Thăng Long
- Hà Nội, Nxb Hà Nội, 2010 của Bùi Xuân Đính;Khoa thi Tiến sĩ cuối cùng trong lịch sử
khoa cử Việt Nam: Kỷ Mùi, Khải Định năm thứ tư, 1919, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội,
2010 của Phạm Văn Khoái; Giáo dục Thăng Long - Hà Nội - Quá trình, kinh nghiệm lịch
sử và định hướng phát triển của Nguyễn Hải Kế (Nxb Hà Nội, 2010); Vài nét về giáo dục
Nho học từ thế kỷ XI đến đầu thế kỷ XX ở Việt Nam của Vũ Duy Mền (Tạp chí NCLS, số 5
(421)/2011); Hệ thống giáo dục và khoa cử Nho giáo triều Nguyễn, Nxb CTQG, 2011 của
Nguyễn Ngọc Quỳnh; Giáo dục khoa cử và quan chế ở Việt Nam thời phong kiến, thời
Pháp thuộc của Nguyễn Công Lý, Nxb Đại học Quốc gia TP.Hồ Chí Minh, 2011; Giáo
dục và thi cử triều Tây Sơn (Tạp chí Hán Nôm, số 4 (119), 2013) của Nguyễn Thúy Nga;

14


Tìm hiểu về giáo dục và khoa cử thời xưa của Trịnh Hoành, Nxb Hồng Đức, 2014;
Giáo dục thời Lê sơ (1428 -1527) nhìn từ góc độ văn hóa học của Nguyễn Thành Nam
(Luận án Tiến sĩ Văn hóa học, Đại học Văn hóa Hà Nội, 2017)... Điểm chung của tất
cả các công trình là đã giới thiệu về giáo dục và khoa cử Nho học Việt Nam từ thời
Bắc thuộc đến đầu thế kỷ XX theo một tiến trình hoặc qua từng triều đại cụ thể, phản
ánh nhiều vấn đề cơ bản như: quan điểm triết học của Nho giáo, các loại hình trường
học, cách thức tổ chức thi cử... Tuy vậy, do thời gian trình bày trải rộng nên khá nhiều
công trình nghiên cứu trên đây chỉ trình bày những nội dung mang tính bao quát về
vấn đề giáo dục và khoa cử Nho học nói chung mà ít đi sâu từng khía cạnh cụ thể.

Tiếp cận từng vấn đề cụ thể thuộc giáo dục và khoa cử Nho học thời quân chủ như
trường lớp, sách học, mục tiêu giáo dục, các loại hình thi cử... đã nhận được sự quan
tâm tìm hiểu của nhiều nhà nghiên cứu.
Về trường lớp: Trải qua các triều đại Lý, Trần, Hồ, Lê sơ, Mạc và Lê -Trịnh, Quốc
Tử Giám Thăng Long luôn là trung tâm giáo dục Nho học với tư cách ngôi trường
quốc học lớn nhất của cả nước. Nghiên cứu về Quốc Tử Giám với các nội dung liên
quan đã thu hút sự quan tâm của nhiều tác giả. Trong công trình: Văn Miếu - Quốc Tử
Giám một biểu tượng của nền văn hóa Việt Nam (Trung tâm hoạt động Văn hóa khoa
học Văn Miếu Quốc Tử Giám, 1993), nhóm tác giả Đặng Đức Siêu và Nguyễn Quang
Lộc đã tìm hiểu về lịch sử Quốc Tử Giám với hai vai trò là nền quốc học Đại Việt lấy
Nho giáo làm cơ sở và là trung tâm hoạt động văn hóa khoa học của Thủ đô Hà Nội
trong giai đoạn hiện nay. Dưới góc độ tìm hiểu là trung tâm giáo dục dưới thời quân
chủ, công trình đã bước đầu trình bày, phân tích khái quát lịch sử hình thành Quốc Tử
Giám, khái luận một số nội dung liên quan đến trường từ thời Lý đến thời Lê -Trịnh
gồm sửa chữa trường, chế độ thầy giáo, học sinh.
Nhóm tác giả do Nguyễn Hoàng Điệp chủ biên trong công trình: Các vị Tư nghiệp
và Tế tửu Văn Miếu Quốc Tử Giám - Hà Nội, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 2010
đã khảo cứu, thống kê về thân thế của 103 vị Tư nghiệp, Tế tửu những bậc thầy đức
trọng của trường Quốc Tử Giám. Thông qua thân thế, hành trạng của các Học quan
tham gia quản lý, giảng dạy tại trường, nhóm tác giả đã làm rõ vấn đề về điều kiện lựa
chọn chức quan vào ngôi trường quốc học phải là những bậc Nho sĩ vừa có tâm, vừa
uyên thâm về trình độ. Đây là cơ sở quan trọng định hướng cho luận án tìm hiểu trong
hệ thống trường công ở địa phương, các trường quan phương ở Kinh đô, điều kiện và
quy chế tuyển chọn chức học quan diễn ra như thế nào.
Trung tâm hoạt động văn hóa, khoa học Văn Miếu - Quốc Tử Giám từ khi thành lập
(1988) đến nay đã tổ chức một số hội thảo khoa học để làm rõ lịch sử, giá trị và bảo
tồn phát huy giá trị di tích Nho học của Việt Nam, trong đó chú ý nhất là hội thảo năm
2012: Trường Quốc Tử Thăng Long và các trung tâm giáo dục Nho học Việt Nam. Hội
thảo không chỉ làm rõ về hiện trạng, quy mô trường Quốc Tử Giám thời quân chủ, các
15



nội dung giáo dục trong trường như chương trình giảng dạy, chế độ học tập, thầy
giáo..., mà thông qua hội thảo góp phần làm rõ, khẳng định vị trí, vai trò đặc biệt quan
trọng của trường trong việc đào tạo đội ngũ trí thức Nho học cao cấp, cũng như giá trị
văn bia Tiến sĩ trong truyền thống giáo dục Việt Nam hiện nay. Ngoài ra, trung tâm
cũng đã tổ chức nhiều hội thảo về thân thế, sự nghiệp của các danh nhân Nho học, chủ
yếu là các vị Tế tửu, Tư nghiệp của trường như Đỗ Nhuận (1466- ?), Nguyễn Duy Thì
(1572 -1652), Nguyễn Mậu Tài (1616 -1688), Vũ Thạnh (1664 -1727), Vũ Miên (? 1732), Nhữ Đình Toản (1703 -1774), Nguyễn Nghiễm (1708 -1775)... Đây là nguồn tài
liệu tham khảo được tác giả luận án kế thừa trong việc tìm hiểu về đội ngũ học quan
Quốc Tử Giám cùng vai trò, đóng góp của họ đối với sự nghiệp giáo dục, đào tạo nhân
tài đất nước.
Nghiên cứu giáo dục Nho học dưới góc độ tìm hiểu giá trị lịch sử các di tích Nho
học từ trung ương xuống địa phương như Văn Miếu, Văn từ, Văn chỉ, văn bia đã được
đề cập ở nhiều công trình, thể hiện dưới nhiều dạng thức từ bài viết, công trình chuyên
khảo, luận án. Trong đó, nghiên cứu về Văn Miếu Thăng Long - Hà Nội nói chung, nội
dung, giá trị văn bia đề danh Tiến sĩ được dựng khắc ở Văn Miếu - Quốc Tử Giám Hà
Nội nói riêng đã thu hút sự quan tâm của nhiều tác giả, tiêu biểu là các công trình:
Quốc Tử Giám và trí tuệ Việt, Nxb Thanh Niên, 1995 (tái bản năm 1999) và Văn bia
Quốc Tử Giám Hà Nội, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 2000 của Đỗ Văn Ninh; Di
sản văn chương Văn Miếu -Quốc Tử Giám, Nxb Hà Nội, 2010 của Phan Văn Các;
Trần Nghĩa, Quốc Tử Giám Thăng Long nơi đào tạo cho nhà nước nhiều bậc “minh
triết” (Tạp chí Hán Nôm, số 5, 2010); Ngô Đức Thọ (cb), Văn bia Tiến sĩ Văn Miếu Quốc Tử Giám - Thăng Long, Nxb Hà Nội, 2010; Nguyễn Thị Chân Quỳnh, Văn Miếu
Thăng Long - Hà Nội, Nxb Hội nhà văn, 2017.
Bên cạnh đó, có một số tác giả đã đi sâu tìm hiểu giá trị Văn miếu, văn bia nhằm
làm rõ truyền thống tôn sùng Nho học ở các địa phương và cấp làng xã như: Văn Miếu
Bắc Ninh - Hải Dương - Hưng Yên, Luận án Tiến sĩ Lịch sử của Dương Văn Sáu
(Khoa Sử, ĐHKHXHVNV, 2008); Nguyễn Thị Phương Chi, Nguyễn Kỳ Nam, “Văn
Miếu, Văn từ, Văn chỉ trong lịch sử Việt Nam”, Tạp chí KHXHVN, số 12 (2013);...
Chú ý nhất là luận án: Nghiên cứu văn bia khuyến học Việt Nam (từ thế kỷ XV đến

những năm đầu thế kỷ XX) của tác giả Nguyễn Hữu Mùi (Viện Hán Nôm, Hà Nội,
2006). Trên cơ sở khảo cứu 874 văn bia mang nội dung khuyến học dựng tại các di
tích Văn Miếu, Văn từ, Văn chỉ của 23 tỉnh thành của Việt Nam, công trình cung cấp
những thông tin rất có giá trị về tình hình giáo dục cấp làng xã từ thời Lê sơ đến thời
Nguyễn. Đây là công trình tham khảo có giá trị cho luận án khi tìm hiểu về giáo dục
làng xã dưới thời quân chủ, trong đó có thời Lê -Trịnh qua nguồn tư liệu văn bia.
Về sách học, thể văn: Viết về sách học, các thể văn dùng trong chế độ khoa cử Nho
học đã nhận được sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu. Năm 2009, trong hội thảo
16


khoa học: Kinh điển Nho gia tại Việt Nam, tổ chức tại trường Đại học KHXHVNV,
Đại học Quốc gia Hà Nội đã đề cập nhiều nội dung quan trọng về vấn đề Nho học Việt
Nam, hệ thống sách Đại toàn, Tiết yếu và việc tiếp nhận chúng tại Việt Nam; những
bình giải của các nhà Nho Việt Nam về kinh điển Nho gia...Trong hội thảo, đã có một
số bài tham luận nghiên cứu sâu về sách vở của giáo dục Nho học, đáng chú ý là bài:
“Diên cách Chu Tử học tại Việt Nam: từ Tứ thư chương cú tập chú đến Tứ thư ước
giải” của Nguyễn Tuấn Cường. Đến tháng 8 năm 2019, trong Hội thảo Khoa học Quốc
tế “Khoa cử Nho học Việt Nam (1075 -1919) - 100 năm nhìn lại” tổ chức tại Viện Hàn
lâm Khoa học Xã hội Việt Nam, đã làm rõ những đặc điểm, thành tựu, tác động của
nền khoa cử Nho học Việt Nam trong 10 thế kỷ, trải qua các triều đại từ Lý, Trần, Lê
sơ, Mạc, Lê -Trịnh, Nguyễn và dưới thời Pháp thuộc. Đáng chú ý đã có một số bài
tham luận đã đề cập trực tiếp đến thể lệ, thể văn dùng trong thi cử của các triều đại
quân chủ như: “Thể lệ thi cử và bài thi trong thi Hội, thi Đình thời Lê sơ” của Đinh
Khắc Thuân; “Sử dụng điển tích, điển cố trong Văn sách Đình đối Việt Nam” của Lã
4

Minh Hằng . Không chỉ được đề cập trong các hội thảo, vấn đề về sách học, thể văn
dùng trong thi cử còn được các tác giả đăng tải trên nhiều tạp chí như: Sách văn và
Kinh nghĩa trong khoa thi trường Nho học ở nước ta (Tạp chí Hán Nôm, số 2, 2009;

tr.40 -tr.45.) của Trần Thị Kim Anh; Thể loại Từ tại Việt Nam từ thế kỷ X đến hết thế
kỷ XVIII của Phạm Văn Ánh (Tạp chí Nghiên cứu và phát triển, số 8-9 (2012, tr.3540); Sự hình thành và phát triển của sách dạy lịch sử Việt Nam viết bằng chữ Hán và
chữ Nôm (Tạp chí NCLS, số 11, 2011) của Nguyễn Thị Hường; Phiên dịch và giáo dục
Hán văn tại Việt Nam: mục đích phiên dịch kinh điển Nho gia qua góc nhìn trong cuộc
của tác gia trung đại của Nguyễn Tuấn Cường, Nguyễn Thị Tú Mai, (Tạp chí Hán
Nôm, số 5, 2017). Tất cả các công trình nghiên cứu đó đã góp phần làm rõ nhiều vấn
đề quan trọng về việc dùng sách gì để dạy học cho học trò, thí sinh phải rèn tập những
thể văn gì để phục vụ cho thi cử trong hệ thống trường học xưa.
Tìm hiểu khoa cử dưới góc độ về truyền thống giáo dục, khoa bảng của các dòng
họ, làng khoa bảng, cùng chế độ đãi ngộ dành cho người đỗ đạt ở cấp làng xã thuộc
các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ Việt Nam cũng có nhiều tác giả quan tâm
như: Vũ Huy Phú, Mộ Trạch- làng Tiến Sĩ (Hải Dương, 1997); Làng khoa bảng Tả
Thanh Oai của Đinh Xuân Lâm (Nxb CTQG, 2002); Hội Am làng khoa bảng của Đỗ
Văn Điện (Nxb Hải Phòng, 2006); Làng nghề thủ công và làng khoa bảng thời phong
kiến ở đồng bằng sông Mã của Hà Mạnh Khoa (Nxb Từ Điển Bách khoa, 2009);
Nguyệt Áng làng khoa bảng của Bùi Xuân Đính (Nxb Hà Nội, 2011); Lịch sử giáo dục
huyện Hoằng Hóa của nhóm tác giả Trịnh Nhu, Lê Trung Tấn, Nguyễn Đức Nhuệ
4 Các bài tham luận trong Hội thảo Khoa cử Nho học Việt Nam (1075 -1919) - 100 năm nhìn lại” mới được in
dưới dạng thức là Kỷ yếu tóm tắt mà chưa được in thành sách kỷ yếu. Tuy nhiên, tác giả luận án vẫn thống kê ra
đây, để từ đó thấy được sự ảnh hưởng của nền khoa cử Nho học của Việt Nam cho đến ngày nay vẫn còn giữ vị
trí quan trọng, nhận được sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu cả trong và ngoài nước.

17


(Nxb CTQG, 2015),... Những công trình nghiên cứu trên đã phần nào giới thiệu được
truyền thống học tập, đỗ đạt của các dòng họ ở mỗi địa phương từ thời quân chủ, có
ảnh hưởng đến ngày nay.
1.1.2 Nhóm công trình nghiên cứu về giáo dục và khoa cử Nho học Đại Việt thế kỷ
XVII, XVIII

Tìm hiểu về giáo dục và khoa cử Đại Việt thế kỷ XVII, XVIII cho đến nay chưa có
một công trình khảo cứu chuyên sâu và cụ thể. Tuy nhiên, trong rất nhiều công trình
nghiên cứu chuyên khảo về giáo dục, khoa cử nói chung, về lịch sử thế kỷ XVII,
XVIII nói riêng, các tác giả đều đề cập một cách khái quát hoặc từng nội dung riêng lẻ
thuộc giáo dục, khoa cử của thời kỳ lịch sử này.
1.1.2.1 Nhóm công trình viết về giáo dục và khoa cử Nho học Đàng Ngoài
Nghiên cứu một số nội dung thuộc giáo dục thời Lê-Trịnh đặt trong hệ thống chung
về lịch sử hình thành, phát triển nền giáo dục Nho học thời quân chủ Việt Nam, tác giả
Nguyễn Đăng Tiến trong công trình: Lịch sử giáo dục Việt Nam trước cách mạng
tháng 8 năm 1945 (Nxb Giáo dục, 1996) đã tập trung tìm hiểu về chương trình học tập
trên cơ sở phân tích các loại sách học, phương pháp dạy học theo lối kinh điển; đồng
thời trình bày, phân tích về hiện trạng giáo dục, khoa cử của các triều đại quân chủ nói
chung, của chính quyền Lê -Trịnh nói riêng qua một số sự kiện lịch sử cụ thể về giáo
dục. Từ việc phân tích quá trình suy giảm của chế độ phong kiến, tác giả đưa ra luận
điểm cho rằng từ thế kỷ XVI trở đi, nhất là từ cuối thế kỷ XVIII, do tác động của ý
thức hệ Nho giáo bước vào khủng hoảng, nên giáo dục Nho học thời kỳ này cũng bị
ảnh hưởng “đi vào suy thoái, bộc lộ nhiều hạn chế” [209; tr.126]. Tác giả đã đúng một
phần khi chỉ ra sự xuống cấp về mặt ý thức hệ Nho giáo vào giai đoạn từ cuối thế kỷ
XVI. Song thực tế tình hình giáo dục Nho học thế kỷ XVII, XVIII có bị suy thoái và
bộc lộ nhiều hạn chế như tác giả khẳng định không? Câu hỏi đặt ra cho tác giả luận án
tiếp tục phải tìm hiểu. Công trình cũng đã đề cập đến đội ngũ giáo quan, chất lượng
giảng dạy ở trường Quốc Tử Giám. Về việc dựng trường công ở Đàng Ngoài, theo tác
giả, triều Lê -Trịnh cũng giống như thời Lê sơ chỉ tổ chức đến các phủ mà thôi.
Tác giả Nguyễn Tiến Cường trong tác phẩm: Sự phát triển giáo dục và chế độ thi cử
ở Việt Nam thời phong kiến (Nxb Giáo dục,1998) đã góp phần làm rõ tình hình phát
triển của hệ thống trường lớp, các chức giáo quan, học sinh, nội dung giảng dạy, nội
quy trường học, tình hình thi cử, đỗ đạt từ thế kỷ XI đến cuối thế kỷ XIX, gồm cả giai
đoạn XVII - XVIII. Qua khảo sát nghiên cứu, tác giả đánh giá khá cao về sự phát triển
cả về mặt số lượng và chất lượng, qua đó cho thấy giáo dục Đại Việt trong hai thế kỷ
XVII, XVIII vẫn có vị trí rất quan trọng đối với sự phát triển xã hội. Tác giả viết: “nền

giáo dục không chỉ được coi trọng về mặt số lượng (thể hiện qua số kì thi người đỗ đạt
các kì thi), hệ thống trường học được mở rộng mà còn được coi trọng cả về mặt chất
lượng, luôn gắn học với hành nhằm đào tạo người có tài học thực sự, có khả năng giải
18


quyết những vấn đề thực tiễn Việt Nam đặt ra” [26; tr.347]. Luận điểm trên đây có ý
nghĩa rất quan trọng cho luận án khi nghiên cứu và làm rõ thành tựu của giáo dục,
khoa cử đối với sự phát triển của xã hội Đại Việt ở vùng Đàng Ngoài.
Đối với trường học, gồm trường công và trường tư ở cấp địa phương, trường tư của
các Nho sĩ dưới triều Lê -Trịnh đã có một số công trình đề cập đến như: Trường công
lập ở các địa phương từ đầu thế kỷ XV đến đầu thế kỷ XIX (Tạp chí Nghiên cứu Giáo
dục, số chuyên đề 326, quý III, 1999, tr.28 -tr.30 và số 6, 1999, tr.25 -tr.26) của tác giả
Nguyễn Tiến Cường; “Dòng họ Nguyễn Huy Trường Lưu: Mô hình tiêu biểu về trường
tư thục ở Việt Nam thế kỷ XVIII” (Tạp chí Hán Nôm, số 3, 2019) của tác giả Nguyễn
Hữu Mùi. Trong đó, đáng chú ý nhất là bài viết: “Chánh sứ Nguyễn Huy Oánh với
trường học Nhạc Lộc ở Trung Quốc và trường học Phúc Giang ở Việt Nam”, Tạp chí
Nghiên cứu Lịch sử, số 8 của Nguyễn Tuấn Cường. Qua bài viết, tác giả đã làm rõ
công lao của Nguyễn Huy Oánh khi trên đường đi sứ đến Bắc Kinh đã học hỏi một
trong 9 mô hình shuyuan (Thư viện cung đình) do Nhà nước Trung Quốc thành lập từ
5

thế kỷ VIII thuộc 3 tỉnh Quảng Tây, Hồ Nam, Sơn Đông. Sau đó, khi về nước năm
1781, ông đã xây dựng mô hình trường tư thục gần giống với trường Nhạc Lộc của
Trung Quốc tại quê hương của mình.
Viết về khoa cử của Đàng Ngoài là chủ đề dành được nhiều quan tâm của các nhà
nghiên cứu. Nhiều công trình công bố đã phản ánh đa dạng nội dung của vấn đề này,
chủ yếu nhất là những công trình đi sâu khảo cứu về vai trò của khoa cử trong việc
tuyển chọn đội ngũ quan chức tham gia phục vụ cho bộ máy Nhà nước.
Tác giả Nguyễn Đức Nhuệ trong luận án “Cải cách của Trịnh Cương nửa đầu thế

kỷ XVIII” (Viện Sử học, 2000) đã dành một mục nhỏ 2.1.2.1để phân tích “Thi Nho
học” dưới thời Lê Trung hưng (từ tr.97 - tr.103). Tuy dung lượng số trang viết không
nhiều nhưng tác giả đã phác họa một cách khái quát về tình hình khoa cử trên các
phương diện: thể lệ quy định của nhà nước về quản lý trường thi, coi thi, chấm thi. Tác
giả đã thống kê được số lượng cụ thể các khoa thi văn từ năm 1554 đến năm 1787 gồm
72 khoa, lấy đỗ 740 người. Tác giả đánh giá khá cao vai trò của khoa cử thời Lê -Trịnh
đối với sự phát triển của xã hội, khi cho rằng tuy “không đạt thành tựu rực rỡ”, nhưng
khoa cử lại có vai trò rất quan trọng trong việc “tuyển chọn được đội ngũ quan lại
phục vụ trong bộ máy chính quyền, trong đó có nhiều người tài đức, xứng chức vị là
những danh thần, lương tướng một thời” [136; tr.98]. Nhận định đánh giá này tiếp tục
được tác giả khẳng định trong bài viết: Một số nét về khoa cử và thể lệ bổ dụng quan
lại thời Lê Trung hưng (Tạp chí NCLS, số 12/2006, tr.31-tr.38.)
Đồng quan điểm về việc đánh giá vai trò của giáo dục, khoa cử Nho học trong việc
đào tạo, tuyển chọn nhân tài, tác giả Trần Thị Vinh đã có khá nhiều công trình nghiên
5 Nguyễn Tuấn Cường, Nguyễn Tuấn Cường. 2017. “Chánh sứ Nguyễn Huy Oánh với trường học Nhạc Lộc ở
Trung Quốc và trường học Phúc Giang ở Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 8, tr.4.

19


×