Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

MỘT số BIỆN PHÁP GIÚP học SINH lớp 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (376.77 KB, 12 trang )

MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH LỚP
2
HỌC TỐT PHÂN MÔN TẬP ĐỌC
( MÔN TIẾNG VIỆT )
 
A.ĐẶT VẤN ĐỀ
    Trong giáo dục phổ thông nói chung và ở trường Tiểu học nói
riêng, môn học Tiếng Việt là một môn quan trọng, chiếm vị  trí
chủ   yếu   trong   chương   trình.   Môn   Tiếng   Việt   vừa  là   môn   học
cung cấp cho học sinh một khối lượng kiến thức cơ bản nhằm
đáp ứng được mục tiêu, nhiệm vụ của từng bài học, vừa là công
cụ để học tập tất cả các môn học khác. Trẻ em muốn nắm được
kĩ năng học tập, trước hết cần học tiếng mẹ đẻ­ chìa khóa của
nhận thức, của sự  phát triển trí tuệ  đúng đắn, nó cần thiết cho
tất cả các em khi bước vào cuộc sống.
   Môn Tiếng Việt trong chương trình học tập  ở  bậc Tiểu học có
nhiệm vụ hình thành năng lực hoạt động ngôn ngữ cho học sinh,
trong đó phân môn Tập đọc lớp 2 có tầm quan trọng đặc biệt
trong chương trình môn Tiếng Việt, đọc trở thành một đòi hỏi cơ
bản đầu tiên đối với mỗi người đi học.
B.GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. Cơ sở lý luận của vấn đề
    Tập đọc là một phân môn có vị  trí quan trọng trong chương
trình Tiếng Việt ở Tiểu học. Phân môn Tập đọc trau dồi cho học
sinh kiến thức Tiếng Việt, kiến thức văn học, kiến thức đời sống
tình cảm và kiến thức thẩm mĩ. Qua việc đọc học sinh chiếm lĩnh
được tri thức văn hóa của dân tộc, tiếp thu nền văn minh của
nhân loại. Phân môn tập đọc không những đảm nhiệm việc hình
thành và phát triển cho học sinh kĩ năng đọc mà còn phát triển



cho các em vốn từ ngữ phong phú, tạo điều kiện cho các em học
tốt các phân môn khác.
  Đọc là một khả năng không thể thiếu được của con người trong
thời đại văn minh. Các em phải học đọc sau đó các em phải đọc
để  học. Đọc giúp các em chiếm lĩnh được ngôn ngữ  để  dùng
trong giao tiếp và học tập.Việc dạy đọc sẽ  giúp các em hiểu bài
hơn, bồi dưỡng các em biết yêu cái thiện, cái đẹp, tránh xa cái
ác đồng thời dạy cho các em biết suy nghĩ lôgic cũng như biết tư
duy hình  ảnh. Phân môn Tập đọc có nhiệm vụ  phát triển năng
lực trí tuệ, những phẩm chất tốt  đẹp của người học sinh, rèn
luyện tư duy giáo dục thẩm mỹ và giáo dục các em lòng yêu quý
giữ  gìn Tiếng Việt, trên cơ  sở  đó tạo điều kiện để  các em học
tập các môn học khác để phát triển toàn diện.
    Người giáo viên trực tiếp giảng dạy cần có biện pháp để giúp
học sinh đọc đúng, đọc hay, giúp học sinh hiểu được đọc có lợi
cho các em cả cuộc đời. Việc giảng dạy Tập đọc với mong muốn
giúp học sinh tiếp thu tri thức một cách chủ động, tích cực, giúp
các em phát triển vốn từ, đọc hiểu và tiến tới đọc hay. Học sinh
yêu quý Tiếng Việt sẽ được biểu hiện trong hành động cụ thể về
khả năng nói đúng, viết đúng Tiếng Việt.     
II. Thực trạng của vấn đề nghiên cứu
    Năm học 2017 ­  2018 tôi được nhà trường phân công giảng
dạy và chủ nhiệm lớp 2A.
    Qua khảo sát thực tế tôi nhận thấy ở lớp 2A có nhiều em tiếp
thu  môn  Tiếng  Việt   chưa nhanh,   đọc  chậm,   viết  chậm  và  sai
nhiều lỗi cơ bản khi đọc và viết.  Tôi đã gần gũi các em và đã tìm
hiểu có một số nguyên nhân như sau:
­ Một số  học sinh còn nhút nhát, thiếu tự  tin nên đọc nhỏ, đọc
chậm.
­ Học sinh tiếp thu môn Tiếng Việt chưa nhanh, chưa tích cực

học tập, chưa hứng thú với môn học.


­ Học sinh chưa có kĩ năng để học phân môn này.
­ Một số học sinh không thích học, còn ham chơi.
­ Một số  gia đình HS chưa thực sự  quan tâm đến việc học của
con em mình, chưa mua đầy đủ SGK, đồ dùng học tập cho con.
­ Kĩ năng đọc thành tiếng chưa được SGK chú trọng, không có
chỉ dẫn về đọc thành tiếng. Điều này làm cho GV gặp nhiều khó
khăn vì không có cái chuẩn chung để  hướng dẫn HS đọc đúng,
đọc hay. Học sinh phải thụ động theo cách đọc của thầy, cô mà
không có khả năng làm việc độc lập với SGK.
­   Chất   lượng   đọc   phụ   thuộc   phần   lớn   vào   GV.   Nếu   GV   đọc
không đúng, không hay thì  ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng
đọc của HS.
­ Một số  GV không biết sửa lỗi phát âm cho HS, không có biện
pháp luyện cho HS đọc to, đọc lưu loát và đọc diễn cảm.
­ Đồ  dùng trực quan phục vụ cho dạy và học còn hạn chế. Chủ
yếu là tranh ảnh ở SGK.
­ GV dạy còn nôn nóng, muốn học sinh phải hiểu ngay kiến thức
mà chưa hình thành kĩ năng, kĩ xảo cho các em.
­ Phương pháp của GV còn cứng nhắc, rập khuôn, chưa linh
hoạt giữa các đối tượng học sinh.
­ Việc đổi mới PPDH của giáo viên chưa thành thục, chưa quan
tâm đầy đủ tới những học sinh có khó khăn trong học tập.
­ Học sinh chưa có phương pháp học, chưa tự chủ động tiếp thu
kiến thức.
­ Nhiều HS đọc chưa đúng, chưa hay, chưa cảm thụ được nghệ
thuật của các tác phẩm văn học trong SGK.
­ Vì học phân môn tập đọc chưa tốt nên ảnh hưởng lớn đến chất

lượng học môn Tiếng Việt và các môn khác.


­ HS đọc chưa tốt sẽ  thiệt thòi, không theo kịp kiến thức của
chương trình học lớp 2.
   Từ thực trạng như vậy, để học sinh học tốt phân môn tập đọc,
tôi đã mạnh dạn đề  ra một số  biện pháp và giải pháp để  khắc
phục tình trạng trên.
III.Các giải pháp và tổ chức thực hiện
1. Xác định và nắm vững mục tiêu, nội dung từng bài của
phân môn Tập đọc
­ GV cần xác định cụ  thể  mục tiêu của từng bài học thì mới có
thể   chủ   động   lựa  chọn   phương  pháp   dạy  học,   chủ   động   tiến
hành từng bước trên lớp.
­ Khi xác định cụ thể mục tiêu của từng bài tập đọc, GV phải chỉ
ra được tốc độ  đọc, những nội dung luyện đọc đúng, luyện đọc
diễn cảm, luyện đọc hiểu. Xác định nội dung dạy học càng cụ
thể, chi tiết bao nhiêu thì việc tiến hành giờ  dạy càng có hiệu
quả bấy nhiêu.
­ Khi xác định mục tiêu, nội dung dạy học của từng bài, GV phải
chú ý đến tính mức độ, vừa sức của nội dung dạy học và các kĩ
năng, phải phù hợp với đối tượng học sinh và các điều kiện dạy
học thì việc dạy học mới có hiệu quả.
­ Mục tiêu, nội dung dạy học tập đọc còn được dùng để kiểm tra,
đánh giá chất lượng giờ dạy.
­ Nắm chắc được mục tiêu, nội dung dạy học của từng bài thì
trong giờ lên lớp GV không phải lệ thuộc vào Kế hoạch bài học.
Trong   giờ   học   GV   chỉ   tập   trung   sức   lực,   trí   tuệ   để   tổ   chức,
hướng dẫn học sinh chiếm lĩnh tri thức.
­ Mục tiêu luyện tập phải rõ ràng, trực quan, cụ thể.

­ Việc xác định nội dung dạy học của giáo viên cũng còn phải
đảm bảo tính hệ  thống và đáp  ứng yêu cầu: dạy nội dung bài
mới dựa trên kiến thức, kĩ năng của học sinh đạt được ở bài học


trước và đảm bảo vừa đủ  để  tiếp thu bài học tiếp theo, từng
bước đạt  được yêu  cầu cơ  bản  nêu  trong  chương  trình môn
học.
­ Nêu những yêu cầu cần chuẩn bị  về  thiết bị, đồ  dùng dạy và 
học của giáo viên, học sinh;  dự  kiến hình thức, tổ  chức hoạt
động học tập đảm bảo phù hợp với từng nhóm đối tượng học
sinh.
2. Nắm vững đặc điểm và trình độ  học của học sinh trong
lớp
    Để làm tốt phần này, tôi đã tìm hiểu điều kiện, hoàn cảnh, khả
năng học tập của từng đối tượng học sinh trong lớp và yêu cầu
cần đạt ghi trong tài liệu để  xác định nội dung cụ  thể  của từng
bài học, xác định cách hướng dẫn cho từng nhóm đối tượng học
sinh.
­ Trước hết, người GV cần hiểu rõ học sinh của mình, cần nắm
vững các đối tượng học sinh trong lớp, hiểu rõ học sinh có hứng
thú với bài tập đọc nào, phát âm có gì sai chuẩn, khó phát âm
những từ ngữ nào trong bài, khó đọc đúng, đọc hay câu nào.
 Ví dụ :
    Trong bài “Quả tim khỉ” (SGK Tiếng Việt 2, tập 2, trang 50 )  
   GV cần hiểu rõ học sinh thường đọc sai các từ  ngữ: leo trèo,
quẫy mạnh, sần sùi, nhọn hoắt, lưỡi cưa, trấn tĩnh…để  hướng
dẫn học sinh đọc đúng.
     Cần   hướng   dẫn   học   sinh   đọc   đúng   câu:   “ Chuyện quan
trọng vậy//   mà   bạn   chẳng   báo   trước.//   Quả   tim   tôi   để   ở

nhà,// mau đưa tôi về,//tôi sẽ lấy tim dâng lên vua của bạn.//”
­ Khi dạy phần đọc hiểu, GV cần biết được học sinh chưa hiểu,
khó hiểu những từ ngữ nào, nội dung nào trong bài. Sự hiểu biết
này giúp giáo viên xác định tính vừa sức, phù hợp với đối tượng
học sinh.


­ Đồng thời với việc nắm trình độ  đọc chung của cả  lớp thì mỗi
học sinh là một cá thể  riêng biệt. GV cần biết rõ giọng đọc của
em nào có lợi thế  khi đọc bài này, giọng đọc của em nào chưa
phù hợp khi đọc bài này, những câu hỏi nào các em sẽ thích thú
và dễ dàng trả lời được, với em nào là quá khó. GV cần hiểu HS
để tạo điều kiện cho việc phát triển năng lực đọc của từng HS.
3. Luyện kĩ năng đọc cho giáo viên
­ GV phải có vốn sống, năng lực cảm thụ  văn học để  có thể
thâm nhập vào tác phẩm, hiểu được nội dung nghệ  thuật của
các văn bản trong SGK.
­ Muốn HS đọc tốt, trước hết GV phải đọc tốt. Để đọc dúng, đọc
hay, Gv phải có lòng ham muốn đọc hay và có ý thức tự  điều
chỉnh để mình đọc đúng hơn, đọc hay hơn, có ý thức trau chuốt
giọng đọc của mình để dạy đọc có hiệu quả.
­ GV cần làm chủ  được âm thanh giọng đọc của mình. Không
những phát âm đúng mà phải đọc đủ lớn, biết làm chủ ngữ điệu,
cường   độ,   cao  độ   để  đọc   diễn   cảm.   GV cần  có  kĩ  năng   đọc
thành thục.
­ GV phải đọc bài tập đọc với đúng giọng cần thiết; biết xác định
được từ, câu quan trọng đến việc hiểu được ý nghĩa, tình cảm
của văn bản.
Ví dụ :
     Khi đọc mẫu và hướng dẫn HS đọc bài:

                                Tôm   Càng   và   Cá   Con(   SGK   Tiếng   Việt   2,
Tập 2, trang 68)
     GV cần đọc mẫu và hướng dẫn HS như sau:
+ Giọng đọc toàn bài: Giọng thong thả, nhẹ  nhàng. Đoạn Tôm
Càng cứu Cá Con đọc với giọng hơi nhanh, hồi hộp.
+ Nhấn giọng các từ  ngữ:  nhấn giọng  ở  những từ  ngữ  tả  đặc
điểm, tài riêng của mỗi con vật .


+   Đọc   đúng   các   từ   ngữ: nắc   nỏm,   ngắt,   quẹo,   uốn   đuôi,   đỏ
ngầu, ngách đá…
­ GV phải lựa chọn từ ngữ, câu, đoạn để luyện đọc sao cho tiết
kiệm thời gian luyện tập, cần tập trung vào các lỗi của HS.
Khi lập kế hoạch bài học, GV cần xác định được những kĩ năng
đọc cần có và luyện cho mình thành thục những kĩ năng đọc
này. GV phải tự  làm trước những gì mà HS phải làm trên lớp:
đọc thành tiếng, luyện phát âm, ngắt nhịp, luyện đọc diễn cảm,
trả  lời câu hỏi về  nội dung bài…Cần đánh dấu những từ, ngữ,
câu cần luyện đọc, câu quan trọng cần dạy nội dung, để  khi lên
lớp GV có thể dễ dàng nhớ được nội dung dạy học.
­ GV cần tích cực học hỏi đồng nghiệp, tìm hiểu tài liệu để  nâng
cao tay nghề; cần nhiệt tình tham gia dự  giờ, thao giảng, biết
cách sử  dụng thiết bị  dạy học, tự  làm thêm thiết bị  dạy học để
bài dạy thêm sinh động, lôi cuốn các em, các em sẽ tiếp thu bài
học tốt hơn. Biết cung cấp chọn lọc vừa phải kiến thức theo ch ủ
đề, song cũng phải biết lựa chọn từ ngữ; những từ xa lạ không
cần thiết với vùng địa lý, với cuộc sống hằng ngày của HS chỉ
mang tính chất cung cấp để  tham khảo, khi cần dùng tới. Coi
trong nguyên tắc dạy học vừa sức nhằm phát huy tiềm lực và
năng khiếu Tiếng việt ở mỗi HS.

­ GV cần áp dụng kiến thức học được của bản thân vào giảng
dạy từ  đó bản thân phải thực sự  đổi mới PPDH để   nâng cao
chất lượng đọc của HS.
­ GV phải biết nghe HS đọc và nhanh chóng nhận ra những gì
HS đọc đúng mẫu, những gì HS đọc sai.GV cần biết để chữa lỗi
phát âm cho HS, có biện pháp cho HS đọc to, đọc lưu loát và
đọc diễn cảm.
4. Luyện đọc thành tiếng cho học sinh
    GV cần tổ chức các hoạt động dạy học trên lớp một cách linh
hoạt, phù hợp với từng đối tượng học sinh nhằm đảm bảo yêu


cầu phát triển năng lực cá nhân và đạt hiệu quả  thiết thực sau
mỗi tiết dạy. Đổi mới phương pháp quản lý lớp học bằng các
biện pháp giáo dục tích cực. Bồi dưỡng hứng thú học tập cho
học sinh bằng nhiều cách.
     GV cần có lời động viên, khích lệ  các em, sự  vui mừng của
các   em   thể   hiện   rõ   trên   nét   mặt   khi   được   cô   khen.   Tạo   môi
trường học tập lành mạnh như: múa hát sân trường, tham gia
các hoạt động ngoài giờ lên lớp… đề các em thêm mạnh dạn, tự
tin hơn.
a, Chuẩn bị cho việc đọc
­ Tư  thế  ngồi đọc: Hướng dẫn cho HS ngồi ngay ngắn, khoảng
cách từ mắt dến sách nên nằm trong khoảng 30cm­ 35cm, cổ và
đầu thẳng.
­ Tư  thế  đứng đọc:  ở  lớp, khi được cô giáo gọi đọc, HS phải
bình tĩnh, tự  tin đứng dậy, không hấp tấp đọc ngay mà cần có
sự  chuẩn bị, cần  đứng thẳng người, cổ  thẳng,  hai chân rộng
bằng vai theo tư  thế  nghỉ. Tư  thế  đàng hoàng, thoải mái, sách
được mở rộng và cầm bằng hai tay.

b,Luyện đọc to
Vì các em thiếu tự  tin, chưa quen giao tiếp nên nhiều em đọc
quá nhỏ. GV cần khuyến khích HS đọc với giọng đủ  lớn cho cô
giáo và tất cả các bạn trong lớp đều nghe rõ.
c, Luyện đọc đúng
Đọc đúng là đọc một cách chính xác, không có lỗi, không đọc
thừa, không sót tiếng. Đọc đúng các âm, các thanh, đúng trọng
âm, ngắt nghỉ hơi đúng chỗ.
­ Học sinh cần đọc đúng các phụ âm đầu, âm chính và âm cuối,
đọc đúng các thanh.
Ví dụ :


+ trôi chảy:  Cần  đọc đúng  phụ  âm đầu tr, ch; không  đọc chôi
trảy
+ cây mía : cần đọc đúng tiếng mía; không đọc cây mí
­ Đọc đúng tiết tấu, đọc đúng chỗ  ngắt hơi, nghỉ  hơi, ngữ  điệu
của câu. HS phải biết dựa vào nghĩa, quan hệ ngữ pháp để ngắt
hơi cho đúng. GV cần luyện để HS không tách từ ra làm hai.
Ví dụ :
+  Câu Chim  véo  von  mãi  rồi  mới  bay  về  bầu   trời xanh   thẳm .
( Bài Chim sơn ca và bông cúc trắng ­ SGK Tiếng Việt 2 tập 2,
trang 23)
Ngắt nghỉ đúng là: 
                  Chim   véo   von   mãi/   rồi   mới   bay   về   bầu   trời   xanh
thẳm.//
Không ngắt nghỉ như sau:
Chim véo von mãi rồi/ mới bay về bầu trời xanh thẳm.//
Chim véo von /mãi rồi mới bay về bầu trời xanh thẳm.//
+ Câu : Cúc sung sướng khôn tả.( Bài Chim sơn ca và bông cúc

trắng ­ SGK Tiếng Việt 2 tập 2, trang 23) cần đọc liền mạch cả
câu, không ngắt câu:
            Cúc sung/ sướng khôn tả
            Cúc sung sướng khôn/ tả
­ Ngắt hơi phải phù hợp với dấu câu, nghỉ  hơi ít  ở  dấu phẩy,
nghỉ  lâu hơn  ở  dấu chấm, lên giọng  ở  cuối câu hỏi, hạ  giọng  ở
cuối câu kể, thay đổi giọng cho phù hợp với tình cảm cần diễn
đạt trong câu cảm.
d,Luyện đọc lưu loát, trôi chảy
­ Hướng dẫn HS đọc đúng tộc độ đọc.


­ HS thường đọc chậm, GV cần điều chỉnh theo chuẩn   trình độ
tối thiểu về tốc độ đọc và khả năng đọc của lớp mình.
Ví dụ :
­ Đến đầu HKII , học sinh lớp hai đã  phải đọc rõ ràng, trôi chảy
bài tập đọc đã học: phát âm rõ ràng, biết ngừng nghỉ  sau các
dấu câu, giữa các cụm từ, tốc độ đọc khoảng 40 tiếng/ phút.
­ Đến cuối HKII , HS đọc rõ ràng, rành mạch, phát âm rõ, tốc độ
đọc khoảng 50 tiếng/ phút.
­ Tốc độ  đọc còn phụ  thuộc vào độ  khó của bài đọc. Những bài
có nội dung khó hiểu cần đọc chậm hơn những bài có nội dung
đơn giản, thơ đọc chậm hơn văn xuôi.
e, Luyện đọc diễn cảm
­ Cần xác định giọng đọc chung của toàn bài. Qua tìm hiểu nội
dung của bài đọc sẽ  giúp HS xác định giọng đọc chung của cả
bài.
­ HS cần được luyện tập nhiều lần ( Đọc theo nhóm, cá nhân, cả
lớp). Từ đó GV và HS cùng tìm ra những chỗ khó đọc và tìm ra
giọng đọc hợp lý.

­ Cường độ  luyện tập phải cao. Luyện càng nhiều càng tốt. Một
nội dung luyện tập phải được nhắc đi, nhắc lại nhiều lần, được
cũng cố nhiều lần thành kĩ năng, kĩ xảo cho học sinh.
IV. Kiểm nghiệm
    Qua quá trình giảng dạy đến giữa học kì hai, áp dụng và thực
hiện  một  số  biện   pháp   trên   vào  thực  tế  giảng   dạy   ở   lớp  2A,
Trường Tiểu học  tôi đã có một số kết quả như sau: học sinh đã
nắm bắt được các yêu cầu cần đạt, đọc trôi chảy, rõ ràng, mạch
lạc, ngắt nghỉ  đúng nhịp, bước đầu biết đọc phân vai, thể  hiện
được lời nhân vật. Một số  học sinh đã biết đọc hay; thể  hiện
được tình cảm của bài văn, bài thơ. Với việc phối hợp nhiều
phương pháp, tổ  chức các trò chơi đã kích thích hứng thú học


tập và sự  tập trung cao độ  trong học tập của học sinh. C ác em
tiếp thu bài tốt, phát huy tính tích cực, chủ  động sáng tạo của
học sinh, giúp các em học tập một cách tự nhiên, nhẹ  nhàng và
hiệu quả. Chất lượng học sinh học môn Tiếng Việt nâng lên rõ
rệt. Câu văn của các em ít có từ  dùng sai hơn.  Đặc biệt rèn
luyện kĩ năng nói, diễn đạt của các em rất mạch lạc, phong phú,
tự nhiên.
C. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT
1. Kết luận:   
   Với phân môn Tập đọc, để  học sinh lớp 2 bước đầu biết đọc
đúng, đọc hay, có được vốn từ  phong phú, dùng từ  tương đối
chuẩn xác, có chọn lọc thì không thể “nhồi nhét” một cách cứng
nhắc kiến thức vào đầu học sinh mà đòi hỏi cả giáo viên và học
sinh phải kiên trì. Học sinh phải thực hành nhiều tạo thói quen,
từ  đó hình thành kĩ năng, kĩ xảo. Tùy theo từng bài, từng đối
tượng học sinh để  có những phương pháp và những hình thức

khác nhau thích hợp giúp học sinh nắm vững kiến thức.
2. Đề xuất
+ Đối với giáo viên:  Đọc là một trong bốn kĩ năng cơ  bản của
Tiếng Việt, mỗi giáo viên cần phải có trình độ hiểu biết sâu rộng,
có tri thức khoa học, có năng lực sư phạm thực sự cùng với lòng
say mê nghề nghiệp. Vận dụng linh hoạt các hình thức dạy học,
khuyến khích động viên những cố gắng nhỏ  bé của học sinh để
các em tự tin hơn khi đọc bài. Quan tâm đến mọi đối tượng học
sinh . Giáo viên phải tự  trau dồi kiến thức để  có từ  ngữ  phong
phú, ngôn ngữ phải chuẩn xác, diễn đạt rõ ràng, mạch lạc, trong
sáng, gần gũi đời sống ngôn ngữ của các em.
+ Đối với học sinh:  Học sinh phải tích cực học tập, chuẩn bị bài
trước khi đến lớp. Chuẩn bị đầy đủ SGK và đồ dùng học tập của
các   môn   học.Tích   cực   tham   gia   các   hoạt   động   trên   lớp,   rèn
luyện cho mình phương pháp học tập tích cực, bản lĩnh tự  tin,
biết ứng xử thông minh các tình huống trong cuộc sống.


+ Đối với nhà trường: nhà trường cần đầu tư  cơ  sở  vật chất và
các phương tiện dạy học, tài liệu tham khảo phục vụ kịp thời cho
giáo viên dạy học. từng bước hiện đại hóa các phương tiện dạy
học trong nhà trường tiểu học.
      Trên đây là một vài suy nghĩ của bản tôi trong quá trình dạy
học phân môn Tập đọc. Rất mong được sự  góp ý của các đồng
nghiệp, hội đồng khoa học nhà trường và các cấp lãnh đạo để
sáng   kiến   của   tôi   ngày   càng   hoàn   thiện
hơn.                                               Tôi   xin   chân   thành   cảm
ơn!            
 
 




×