Tải bản đầy đủ (.pdf) (105 trang)

Luận văn thạc sĩ Hành động hỏi trong truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (681.43 KB, 105 trang )

BỘ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO
UBND THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG
-------------

HOÀNG THỊ KIM TRANG
HÀNH ĐỘNG HỎI TRONG TRUYỆN NGẮN CỦA
NGUYỄN MINH CHÂU

LUẬN VĂN THẠC SỸ NGÔN NGỮ VIỆT NAM

Chuyên ngành: Ngôn ngữ Việt Nam
Mã số: 60.22.01.02
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Hà Quang Năng

HẢI PHÒNG, NĂM 2014


1

MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài
1.1. Cơ sở lí luận
Ngữ dụng học là một chuyên ngành thuộc ngôn ngữ học nghiên cứu các
vấn đề liên quan đến việc sử dụng ngôn ngữ trong hoạt động giao tiếp nhằm
đạt đến một mục đích nhất định. Từ khi ngữ dụng học xuất hiện thì khoảng
cách giữa ngôn ngữ và đời sống được rút ngắn lại, nhờ đó ngôn ngữ với tư
cách là phương tiện giao tiếp quan trọng nhất của con người có thể thực hiện
các chức năng giao tiếp và chức năng làm công cụ của tư duy ngày một hiệu
quả hơn. Muốn hoạt động giao tiếp hiệu quả, khi giao tiếp mỗi cá nhân vừa
phải lí giải, vừa phải nhận diện chính xác hành vi ngôn ngữ của người đối


thoại để có hành vi hồi đáp thích hợp.
Hành động ngôn ngữ là một trong những đối tượng trung tâm nghiên cứu
của ngữ dụng học. Trong đó hành động hỏi có vị trí quan trọng trong hoạt
động giao tiếp của con người. Đây là một hành động ngôn ngữ phổ biến, là
một thành tố tham gia thường xuyên vào cấu trúc hội thoại. Trong hoạt động
giao tiếp, trong những hoàn cảnh giao tiếp cụ thể, hành động hỏi ngoài việc
dùng để hỏi còn có thể thực hiện những hành động nói khác như: chào, giãi
bày, trách móc, hứa hẹn…. Việc nghiên cứu hành động hỏi, vì thể là công
việc cần thiết đã được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm.
1.2. Cơ sở thực tiễn
Trưởng thành từ cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, nhà văn Nguyễn
Minh Châu được xem là một nhà văn có phong cách độc đáo là “người mở
đường tinh anh và tài năng” (Nguyên Ngọc) cho công cuộc đổi mới văn xuôi
sau 1975. Theo nhận xét của Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu là người đã
kế tục xuất sắc những bậc thầy của nền văn xuôi Việt Nam và cũng là người
mở đường rực rỡ cho những cây bút trẻ sau này. Cùng với nhiều nhà văn
cùng thế hệ hoặc trẻ hơn, Nguyễn Minh Châu đã góp phần đổi mới nền văn


2

học nước nhà sau năm 1975, từ nền văn học đơn thanh điệu trong thi pháp thể
hiện sang một nền văn học đa thanh điệu, phức điệu trong thi pháp (theo nhận
xét của nhà nghiên cứu văn học Nguyễn Tri Nguyên). Một trong những
phương diện làm nên sự đặc sắc trong phong cách nghệ thuật Nguyễn Minh
Châu và xác lập vị trí vẻ vang của ông trong nền văn học Việt Nam chính là
phương diện ngôn ngữ. Trong đời viết văn của mình, Nguyễn Minh Châu rất
coi trọng việc sử dụng ngôn từ. Ông từng ví nhà văn như một người thợ thủ
công “bằng một cách thức tài nghệ riêng biệt của mình đập từng chữ ra để
tìm cho được cái nghĩa nguyên thủy của nó, rồi lại bằng một cách thức riêng

biệt không có ai giống ai và không thể bắt chước được, đem ghép những con
chữ ấy với nhau thành câu, thành đoạn, thành chương, cuối cùng thành một
thứ có cả thể xác và tâm hồn: một tác phẩm văn học” (Trang giấy trước đèn).
Trong sự nghiệp sáng tác của mình, Nguyễn Minh Châu thành công trong
cả thể loại tiểu thuyết lẫn truyện ngắn. Những tiểu thuyết như “Miền cháy”,
“Dấu chân người lính” có thể được coi là những cuốn tiểu thuyết lớn, một
bản anh hùng ca về đề tài chiến tranh cách mạng nói chung, chiến tranh
chống Mỹ nói riêng. Nhiều truyện ngắn đặc sắc của ông như: “Phiên chợ
Giát”, “Cỏ lau”, “Bến quê” … đã gây được tiếng vang lớn sau thời kỳ đổi
mới; nhiều đoạn trích của các truyện ngắn này đã được đưa vào chương trình
giảng dạy văn học ở nhiều bậc học.
Đã có nhiều công trình nghiên cứu về tác phẩm của Nguyễn Minh Châu
trên các phương diện văn học như nội dung và nghệ thuật. Ở phương diện
ngôn ngữ, cũng đã có những khảo sát, nghiên cứu về đặc điểm ngôn ngữ
trong các tác phẩm của Nguyễn Minh Châu nhưng đến thời điểm hiện tại
chưa có công trình nào nghiên cứu chuyên sâu, toàn diện về hành động hỏi
trong truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu.
Từ những lí do trên, tôi lựa chọn tìm hiểu “Hành động hỏi trong truyện
ngắn của Nguyễn Minh Châu” làm đề tài luận văn của mình.
2. Lịch sử vấn đề
2.1. Về câu nghi vấn và hành động hỏi


3

Câu nghi vấn là một trong bốn kiểu câu phân loại theo mục đích nói. Kiểu
câu này được sử dụng khá phổ biến trong tiếng Việt. Ở Việt Nam từ những
năm 80 trở lại đây, vấn đề hành động ngôn ngữ nói chung và hành động hỏi
nói riêng đã thu hút được sự quan tâm của nhiều nhà ngôn ngữ học như:
Nguyễn Đức Dân, Đỗ Hữu Châu, Diệp Quang Ban, Nguyễn Thiện Giáp….

Đến nay đã có nhiều công trình khoa học chọn câu nghi vấn và hành động
hỏi làm đối tượng nghiên cứu ở nhiều góc độ khác nhau. Có thể kể đến một
số công trình:
1) Nguyễn Thị Thìn, Câu nghi vấn tiếng Việt, một số kiểu câu nghi vấn
không dùng để hỏi, Luận án PTS khoa học Ngữ văn, Hà nội, 1994. Luận án
đã đưa ra phương pháp miêu tả một số kiểu câu nghi vấn không dùng để hỏi.
2) Nguyễn Thị Lương, Tiểu từ tình thái dứt câu dùng để hỏi với việc biểu
thị các hành vi ngôn ngữ, Luận án PTS khoa học Ngữ văn Hà Nội, 1996. Tác
giả đã dựa vào bốn điều kiện thỏa mãn các hành vi ở lời của Searle (điều kiện
mệnh đề, điều kiện chuẩn bị, điều kiện chân thành, điều kiện căn bản) để chỉ
ra cơ sở xác định các hành vi gián tiếp có liên quan đến hành vi hỏi do tiểu từ
tình thái dứt câu biểu thị.
3) Đặng Thị Hảo Tâm, Cơ sở lí giải nghĩa hàm ẩn của các hành vi ngôn
ngữ gián tiếp trong hội thoại, Luận án tiến sĩ, ĐHSPHN, 2003, đã chú trọng
đến việc tìm ra cơ sở giải nghĩa hàm ẩn của các hành vi ngôn ngữ gián tiếp
trong hội thoại.
4) Lê Đông, Ngữ nghĩa - Ngữ dụng câu hỏi chính danh, Luận án PTS
khoa học Ngữ văn, Hà Nội, 1996.
5) Trịnh Minh Thành, Câu hỏi trong truyện Kiều của Nguyễn Du và việc
sử dụng câu hỏi để biểu thị mục đích nói, Luận văn thạc sĩ.
6) Đỗ Thị Tươi, Câu hỏi và chất vấn trong tiếng Việt, năm 2007, Luận
văn thạc sĩ


4

7) Nguyễn Thị Hằng, Hành vi hỏi và hồi đáp trong truyện ngắn Nguyễn
Ngọc Tư, Luận văn thạc sĩ, Hải Phòng, 2013.
8) Nguyễn Thị Hồng Toan, Hành động hỏi trong truyện ngắn của Nguyễn
Công Hoan, Luận văn thạc sĩ, Hải Phòng, 2013.

9) Nguyễn Thị Thủy, Biểu thức ngữ vi thể hiện hành động khen, cảm ơn,
xin lỗi qua lời thoại nhân vật trong truyện ngắn Việt Nam, Luận văn thạc sĩ,
Vinh, 2009.
10) Nguyễn Thị Kim Huệ, Hành động cảnh báo trong tiếng Việt, Luận
văn thạc sĩ, Hà Nội, 2013.
11, Lê Thị Thu Hoài, Ngữ nghĩa ngữ dụng của câu hỏi tu từ trong tiếng
Việt, Luận án Tiến sĩ Ngôn ngữ học, Đại học KHXH và NV, Đại học Quốc
gia Hà Nội, 2013
V.v
Ngoài các công trình nghiên cứu trên, còn có thể kể đến một số bài viết
như:
- Câu trả lời và câu đáp của câu hỏi, Lê Đông, Ngôn ngữ (số phụ), 1985
- Thử tìm hiểu phát ngôn hỏi và phát ngôn trả lời trong sự tương tác lẫn
nhau giữa chúng trên bình diện giao tiếp, Nguyễn Chí Hòa, Ngôn ngữ số 1,
1993.
- Vai trò của thông tin tiền giả định trong cấu trúc ngữ nghĩa ngữ dụng
của câu hỏi, Lê Đông - Ngôn ngữ số 2, 1994.
- Một vài đặc điểm chung của câu nghi vấn (qua ngôn liệu một số ngôn
ngữ), Nguyễn Đăng Sửu, Kỉ yếu hội thảo Ngữ học trẻ, 1998.
- Một số tiểu từ tình thái đứng cuối câu dùng để hỏi, Nguyễn Thị Tuyết
Mai, Những vấn đề Ngôn ngữ học, Kỉ yếu hội nghị khoa học 2001, Viện
Ngôn ngữ học.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là: Hành động hỏi trong truyện ngắn của
Nguyễn Minh Châu.


5


3.2. Phạm vi nghiên cứu
Do hạn chế về thời gian nên phạm vi nghiên cứu của đề tài chỉ tập trung
tìm hiểu Hành động hỏi trong các truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu (In
trong: Nguyễn Minh Châu, Truyện ngắn, 2003, Văn học, Hà Nội và Nguyễn
Minh Châu tuyển tập, 2003, Văn học, Hà Nội).
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu “Hành động hỏi trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu” để
thấy được đặc điểm và chức năng ngữ dụng của hành động hỏi trong phong
cách xây dựng truyện của tác giả, đồng thời khám phá thêm một nét mới
trong phong cách xây dựng tính cách nhân vật của nhà văn dưới góc độ ngôn
ngữ.
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Đề tài cần phải giải quyết được ba nhiệm vụ cơ bản sau:
- Tìm hiểu cơ sở lí luận của đề tài
- Tìm hiểu hành động hỏi trực tiếp và gián tiếp trong truyện ngắn của
Nguyễn Minh Châu.
- Tìm hiểu hành động nói gián tiếp được thực hiện bằng hành động hỏi.
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp miêu tả
Luận văn sử dụng phương pháp miêu tả để phân tích, miêu tả đặc điểm
của hành động hỏi trực tiếp và gián tiếp, các hành động nói thực hiện bằng
hành động hỏi trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu.
5.2. Phương pháp phân tích diễn ngôn
Được sử dụng để phân tích nội dung các cuộc thoại được khảo sát trong
luận văn.
5.3.Thủ pháp thống kê, phân loại
Luận văn sử dụng thủ pháp thống kê, phân loại tần số xuất hiện của các
hành động hỏi trực tiếp và gián tiếp, các hành động nói gián tiếp thực hiện



6

bằng hành động hỏi trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu làm cơ sở rút ra
những nhận xét và kết luận về vai trò của hành động hỏi trong truyện ngăn
của nhà văn.
5.4. Thủ pháp so sánh, đối chiếu
Sử dụng thủ pháp so sánh, đối chiếu để so sánh giữa các hành động hỏi sử
dụng và không sử dụng Biểu thức ngữ vi và động từ ngữ vi, sự đồng nhất và
khác biệt giữa hành động hỏi trực tiếp và gián tiếp trong tiếng Việt với hành
động hỏi trực tiếp và gián tiếp trong truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu.
6. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn của đề tài
Về lí luận:
- Luận văn góp phần làm sáng tỏ thêm một số vấn đề lí luận về hành động
hỏi nói chung và hành động hỏi trong truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu
nói riêng.
Về thực tiễn:
- Luận văn làm rõ thêm những đóng góp của Nguyễn Minh Châu ở bình
diện ngôn ngữ học được thể hiện qua truyện ngắn của tác giả.
- Luận văn là tư liệu tham khảo cho giáo viên, học sinh và những người
có nhu cầu tìm hiểu về Nguyễn Minh Châu và truyện ngắn của ông.
7. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phần phụ lục, phần
Nội dung luận văn gồm 03 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lí luận liên quan đến đề tài
Chương 2: Hành động hỏi trực tiếp và gián tiếp trong truyện ngắn
Nguyễn Minh Châu
Chương 3: Hành động nói gián tiếp được thực hiện bằng hành động hỏi
trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu.



7

Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1. Lí thuyết về hành động ngôn ngữ
1.1.1. Khái niệm về hành động ngôn ngữ
Nhà ngôn ngữ học nổi tiếng người Anh J.L.Austin và sau này là J.Searle
đã phát hiện ra rằng: nói năng trước hết cũng là một dạng hoạt động của con
người cũng như hoạt động vật lí khác. Khi chúng ta nói năng là chúng ta hành
động, chúng ta thực hiện một loại hành động đặc biệt mà phương tiện là ngôn
ngữ.
Trong công trình nghiên cứu “How to do things with words” (Người ta
hành động thế nào bằng lời nói), nhà ngôn ngữ học J.L. Austin đã phát hiện
ra bản chất của ngôn ngữ và xây dựng nên lí thuyết về hành vi ngôn ngữ - một
trong những lí thuyết được coi là xương sống của ngữ dụng học. Sau này dần
dần được các nhà ngôn ngữ học trên thế giới bổ sung và hoàn thiện.
Ở Việt Nam, nhiều nhà ngôn ngữ học như Hoàng Phê, Đỗ Hữu Châu,
Nguyễn Đức Dân, Nguyễn Thiện Giáp và Diệp Quang Ban…đã quan tâm
nghiên cứu chuyên sâu về vấn đề này và đưa ra các khái niệm về hành động
ngôn ngữ (còn gọi là hành vi ngôn ngữ).
Theo Đỗ Hữu Châu: “Hành động ngôn ngữ được thực hiện khi người nói
(hoặc người viết) nói ra một phát ngôn U cho người nghe (hoặc người đọc)
Sp2 trong ngữ cảnh C”. [9, tr. 88].
Nguyễn Thiện Giáp gọi hành vi ngôn ngữ là hành động ngôn từ và cho
rằng: “Các hành động được thực hiện bằng lời gọi là hành động ngôn từ
(speech act). Hành động ngôn từ chính là ý định về mặt chức năng của một
phát ngôn”. [14, tr. 42].
Trong cuốn “Từ điển giải thích thuật ngữ ngôn ngữ học”, Nguyễn Như Ý
chủ biên, NXB Giáo dục, 1996 thì: “Hành động ngôn ngữ được các nhà

nghiên cứu định nghĩa là một đoạn lời nói có tính mục đích nhất định được
thực hiện trong những điều kiện nhất định, được tách biệt bằng các tiết tấu -


8

ngữ điệu và hoàn chỉnh, thống nhất về mặt cấu âm - âm học mà người nói và
người nghe đều có liên hệ với một ý nghĩa như nhau trong hoàn cảnh giao
tiếp nào đó”.
Tác giả Diệp Quang Ban dùng thuật ngữ hành động nói và cho rằng:
“Hành động nói là hành động được thực hiện trong việc nói ra một điều gì
nhằm tác động đến người nhận như hỏi, sai khiến, hứa,v.v…”. [dẫn theo 3,
tr.110].
Vì các lẽ trên, hành động ngôn ngữ được khẳng định là hành động nói của
con người và nó cũng là một hành động mang tính chất xã hội.
Về hành động ngôn ngữ, J.L.Austin đã phân thành 03 loại lớn: Hành động
tạo lời (locutionary act); Hành động mượn lời (perlocutionary act) và Hành
động ở lời (Illocutionary act).
- Hành động tạo lời (locutionary act): “Là hành động sử dụng các yếu tố
ngôn ngữ như: ngữ âm, từ, các kiểu kết hợp từ thành câu để tạo ra một phát
ngôn về hình thức và nội dung (J.L.Austin)”. [dẫn theo 9, tr.88].
- Hành động mượn lời (perlocutionary act): “Là hành động “mượn”
phương tiện ngôn ngữ để nói đúng hơn là mượn các phát ngôn để gây ra một
hiệu quả ngôn ngữ nào đó ở người nghe, người nhận hoặc ở chính người
nói(J.L.Austin)”. [dẫn theo 9, tr.88]
- Hành vi mượn lời thực hiện một phát ngôn là hành vi nhằm gây ra
những biến đổi trong nhận thức, tâm lí, trong hành động vật lí có thể quan sát
được gây ra một tác động nào đó đối với ngữ cảnh.
- Hành động ở lời (Illocutionary act): “Là những hành động người nói
thực hiện ngay khi nói. Hiệu quả của chúng là những hiệu quả thuộc ngôn

ngữ có nghĩa là chúng gây ra một phản ứng ngôn ngữ tương ứng với chúng ở
người nhận (J.L.Austin)”. [dẫn theo 9, tr.89].
Ba loại hành động: Hành động tạo lời, hành động mượn lời và hành động
ở lời được thực hiện một cách tổng hợp khi tạo ra một diễn ngôn. Tuy nhiên


9

trong khuôn khổ hạn hẹp của luận văn này, tôi chỉ tập trung nghiên cứu về
một tiểu hành động (hành động hỏi) trong hành động ở lời trong truyện ngắn
của Nguyễn Minh Châu.
1.1.2. Điều kiện thực hiện các hành động ở lời
Hành động ở lời cũng như các hành động khác, muốn thực hiện được phải
có những điều kiện nhất định.
J.R.Searle đã dùng 12 tiêu chí khác nhau để làm tiêu chuẩn phân loại các
hành vi ở lời, trong đó chú trọng 04 tiêu chí cơ bản: Điều kiện nội dung mệnh
đề; Điều kiện chuẩn bị; Điều kiện chân thành (điều kiện tâm lí) và điều kiện
căn bản.
1.1.2.1. Điều kiện nội dung mệnh đề:
Điều kiện nội dung mệnh đề chỉ ra bản chất nội dung hành động ở lời. Nội
dung mệnh đề có thể là một mệnh đề đơn giản (đối với các hành động khảo
nghiệm, xác tín, miêu tả) hay hàm mệnh đề (đối với các câu hỏi khép kín, tức
là câu hỏi chỉ có hai khả năng trả lời “có” hoặc “không”). Nội dung mệnh đề
có thể là một hành động của người nói (hứa hẹn) hay một hành động của
người nghe (lệnh, yêu cầu). (J.R.Searle). [dẫn theo 9, tr.117].
1.1.2.2. Điều kiện chuẩn bị
Điều kiện chuẩn bị bao gồm nhữn hiểu biết của người phát ngôn về năng
lực, lợi ích, ý định của người nghe và về các quan hệ giữa người nói và người
nghe. [Dẫn theo 9, tr.117]
1.1.2.3. Điều kiện chân thành (điều kiện tâm lí):

Điều kiện chân thành chỉ ra tạng thái tâm lí tương ứng của người phát
ngôn. Xác tín, khảo nghiệm đòi hỏi niềm tin vào điều mình xác tín; lệnh đòi
hỏi lòng mong muốn, hứa hẹn đòi hỏi ý định của người nói… .[dẫn theo 6,
tr.117].
1.1.2.4. Điều kiện căn bản:


10

Theo Đỗ Hữu Châu [dẫn theo 9, tr.117], điều kiện căn bản là điều kiện
đưa ra kiểu trách nhiệm mà người nói hoặc người nghe bị ràng buộc khi hành
vi ở lời đó được phát ra. Trách nhiệm có thể rơi vào hành động sẽ được thực
hiện (lệnh, hứa hẹn) hoặc đối với tính chân thực của nội dung (một lời xác tín
buộc người nói phải chịu trách nhiệm về tính đúng đắn của điều nói ra).
1.1.3. Phân loại các lớp hành động ngôn ngữ
J.L.Austin đã phân loại 05 phạm trù hành động ngôn từ: phán xử, hành
xử, cam kết, trình bày, ứng xử.
Theo J.R.Searle: Việc phân loại ngôn ngữ dựa trên 12 tiêu chí, trong đó
có 04 tiêu chí quan trọng là:
- Đích ở lời (point of the illocusion): “Thí dụ một thỉnh cầu hướng tới việc
đưa Sp2 đến việc thực hiện cái gì đó; một miêu tả phải hướng tới sự cung cấp
một sự biểu diễn sự vật như nó vốn có; một hứa hẹn nhằm ràng buộc người
nói Sp1 vào việc thực hiện cái gì đó” [9, tr.123]. Tiêu chí này tương ứng với
điều kiện cơ bản. Đích ở lời là bộ phận của hiệu lực ở lời nhưng không bao
trùm lên nó. Chẳng hạn như hành động khẩn cầu và hạnh động ra lệnh cùng
đích ở lời là nhận được hành động C ở B nhưng hiệu lực lại khác nhau. Hành
động ra lệnh có tính cưỡng bức đối với B, hành động thỉnh cầu chỉ là sự trông
đợi vào lòng tốt, sự ủng hộ của B.
- Hướng khớp ghép giữa lời với hiện thực mà lời đề cập đến: Thí dụ trần
thuật có hướng khớp ghép lời - hiện thực vì giá trị đúng sai mà nó nêu ra

được xác định trên cơ sở lời (phát ngôn) miêu tả có phù hợp hay không với sự
vật được nói tới; thỉnh cầu có hướng khớp ghép hiện thực - lời bởi vì thế giới
hiện thực phải thay đổi để thực hiện điều mà người nói Sp1 yêu cầu, đề nghị
hay ra lệnh.
- Trạng thái tâm lí được thể hiện:
Tiêu chí này tương ứng với điều kiện chân thành. Một hành động đòi hỏi có
trạng thái tâm lí phù hợp. Thí dụ như một lời trần thuật tỏ ra là Sp1 tin vào (P);
hứa hẹn thể hiện ý định của Sp1 thực hiện cái gì đó; thỉnh cầu thể hiện Sp1 mong
muốn Sp2 thực hiện cái gì đó.


11

- Nội dung mệnh đề:
Tiêu chí này tương ứng với điều kiện nội dung mệnh đề
Trên cơ sở những tiêu chí trên, J.R.Searle đã đưa ra 05 phạm trù lớn của
hành động ở lời: hành động biểu hiện (khảo nghiệm, miêu tả, thông tin); hành
động điều khiển (ra lệnh, yêu cầu, hỏi); hành động cam kết (hứa, hẹn, thề);
hành động biểu cảm; hành động tuyên bố.
- Hành động biểu hiện (xác tín):
Là hành động nói trình bày những gì mà người nói tin là đúng hoặc
không đúng.
Theo Đỗ Hữu Châu [9, tr.126], hành động biểu hiện có đích ở lời là miêu
tả lại một sự tình đang được nói đến. Hướng khớp ghép là lời - hiện thực,
trạng thái tâm lí là niềm tin vào điều mình xác tín, nội dung mệnh đề là một
mệnh đề. Các mệnh đề này có thể đánh giá theo đúng tiêu chuẩn đúng - sai
logic. Các hành động như: giải thích, chứng minh, nhận xét, khẳng
định,tường thuật, miêu tả, thông tin v.v…đều thuộc nhóm hành động xác tín.
- Hành động điều khiển là hành động nói mà người nói dùng để làm cho
người nghe làm một việc gì đó.

Theo Đỗ Hữu Châu [9, tr.126], hành động này có đích ở lời là đặt người
nghe vào trách nhiệm thực hiện một hành động tương lai. Hướng khớp ghép
là hiện thực - lời, trạng thái tâm lí là sự mong muốn của Sp1, nội dung mệnh
đề là hành động tương lai của Sp2.
Các hành động như: yêu cầu, khuyên, mệnh lệnh, thách thức, đề nghị, cho
phép..v.v đều thuộc nhóm hành động điều khiển. Hành động hỏi là dạng đặc
biệt cũng thuộc nhóm hành động điều khiển này.
- Hành động cam kết:
Là hành động nói mà người nói dùng để ràng buộc chính mình vào việc
thực hiện một việc nào đó trong tương lai.


12

Theo Đỗ Hữu Châu [9, tr.126], hành động này có đích ở lời là trách
nhiệm phải thực hiện hành động tương lai mà Sp1 bị ràng buộc. Hướng khớp
ghép là hiện thực - lời, trạng thái tâm lí là ý định của Sp1, nội dung mệnh đề
là hành động tương lai của Sp1.
Các hành động như: hứa hẹn, thề, cam đoan, cho, biếu, tặng v.v.. thuộc
nhóm hành động cam kết.
- Hành động biểu cảm (bộc lộ):
Là hành động nói trình bày trạng thái tâm lí của người nói do cảm nhận
được sự vật nào đó.
Theo Đỗ Hữu Châu [9, tr.126], hành động này có đích ở lời là bày tỏ
trạng thái tâm lí phù hợp với hành động ở lời, trạng thái tâm lí thay đổi tùy
theo từng loại hành động, nội dung mệnh đề là một hành động hay một tính
chất nào đó của người nói hay người nghe.
Các hành động như: khen, chê, trách, mắng, than, xin lỗi, chúc mừng, tán
thưởng, cảm ơn, mong muốn v.v.. thuộc nhóm hành động biểu cảm.
- Hành động tuyên bố:

Là hành động nói làm thay đổi thế giới thông qua từ ngữ trong nội dung
mệnh đề. Hành động tuyên bố đòi hỏi những điều kiện thuộc về thiết chế, cụ
thể là người nói phải có cương vị chuyên biệt do thiết chế quy định và ngữ
cảnh riêng biệt thuộc thiết chế để làm cơ sở cho một sự tuyên bố thích hợp.
Đích ở lời là nhằm làm cho có tác dụng nội dung của hành động. Hướng
khớp ghép là lời - hiện thực và là hiện thực - lời, nội dung mệnh đề là một
mệnh đề.
Các nhóm hành động như: tuyên bố, kết tội, từ chức, khai trừ, rút phép
v.v… đều thuộc nhóm hành động tuyên bố.
Sự phân loại trên có thể được tổng hợp qua bảng sau:
Bảng 1.1. Bảng phân loại các lớp hành động ở lời theo J.R.Searle


13

Các loại hành động ở lời
Hành động
biểu hiện
(xác tín)

Hành động
điều khiển

Hành động
cam kết

Hành động
biểu cảm

Hành động

tuyên bố

Kể

Dặn

Hứa

Cảm ơn

Bác bỏ

Thông báo

Cầu khiến

Thỏa thuận

Xin lỗi

Từ chối

Giải thích

Xua đuổi

Chúc

Giới thiệu


Mời

Chào

Miêu tả

Rủ rê

Khen

Mệnh lệnh

Tiếc

Khuyên
Hỏi
1.1.4. Cách sử dụng hành động ở lời
Căn cứ vào cách sử dụng hành động ngôn ngữ, có thể chia hành động ở
lời ra làm hai loại: hành động ở lời trực tiếp và hành động ở lời gián tiếp.
1.1.4.1. Hành động ở lời trực tiếp:
Theo George Yule: “Chừng nào có mối liên hệ trực tiếp giữa một cấu trúc
và một chức năng thì ta có một hành động nói trực tiếp” [40,tr.33].
Tác giả Nguyễn Thiện Giáp lại đưa ra một nhận định “Hành động ngôn
ngữ trực tiếp là hành động ngôn từ được thực hiện ở những phát ngôn có
quan hệ trực tiếp giữa một cấu trúc và một chức năng” [14, tr. 55].
Đỗ Hữu Châu thì cho rằng: “Những hành vi ngôn ngữ được sử dụng đúng
với mục đích, đúng với điều kiện chân thành của chúng là những hành vi ở
lời trực tiếp” [5, tr. 75].
Tác giả Diệp Quang Ban lại nhận định “Khi một kiểu câu được dùng đúng
với chức năng vốn có của nó, thì nó hoạt động với tư cách hành động nói trực

tiếp” [4, tr. 109].


14

Phương tiện để thể hiện hành động ngôn ngữ trực tiếp là các kiểu câu có
hình thức, chức năng phù hợp với hiệu lực ở lời của hành động nói đó.
- Cách thể hiện hành động ở lời trực tiếp:
Theo tác giả Diệp Quang Ban trong [3, tr. 237], sử dụng hành động nói
trực tiếp là dùng kiểu câu có cấu trúc phù hợp với chức năng vốn có của
chúng. Việc sử dụng hành động nói trực tiếp được thể hiện bằng những đơn
vị tương đối trọn vẹn có thể lớn hơn một câu, chúng được phân biệt thành hai
trường hợp cụ thể: sử dụng câu ngôn hành tường minh và câu ngôn hành hàm
ẩn.
+ Sử dụng câu ngôn hành tường minh: là sử dụng câu chứa động từ gọi
tên hành động nói đang thực hiện với điều kiện dùng ngôi nhân xưng thứ nhất
(tôi) và không có dấu hiệu chỉ quan hệ thời gian đã, đang, sẽ, vừa, mới,
sắp…Các động từ gọi tên hành động nói và được dùng trong hai điều kiện
vừa nêu được gọi là động từ ngôn hành, ví dụ như chào, cảm ơn, xin lỗi, cầu
chúc, trình bày, mời, quyết định, đề nghị, yêu cầu, hứa, thề, tuyên bố…
+ Sử dụng câu ngôn hành hàm ẩn (hay nguyên cấp): là sử dụng câu mà
phần ngôn hành tường mình được che khuất (hàm ẩn) có phần câu hiển lộ có
cấu trúc thức phù hợp với chức năng vốn có của chúng. Cụ thể:
* Sử dụng câu có thức trình bày để kể, nhận xét, xác nhận…
* Sử dụng câu có thức nghi vấn để hỏi
* Sử dụng câu có thức cầu khiến để đề nghị, yêu cầu, ra lệnh
* Sử dụng câu có thức cảm thán để bộc lộ cảm xúc
* Sử dụng câu nghi vấn để hỏi
1.1.4.2. Hành động ở lời gián tiếp
Trong thực tế giao tiếp, một phát ngôn thường không phải chỉ có một đích

ở lời mà theo Labor và Fansel “Đại bộ phận các phát ngôn được xem như là
thực hiện đồng thời một số hành vi...”. (dẫn theo Đỗ Hữu Châu), Hiện tượng


15

người giao tiếp sử dụng trên bề mặt hành động ở lời này nhưng lại nhằm hiệu
quả của một hành động ở lời khác được gọi là hiện tượng sử dụng hành động
ngôn ngữ theo lối gián tiếp.
Hành động ở lời gián tiếp được J.L.Austin khởi xướng và J.R.Searle kế
tục. Theo J.R.Searle “... một hành vi ở lời được thực hiện gián tiếp thông qua
sự thực hiện một một hành vi ở lời khác sẽ được gọi là một hành vi gián tiếp”.
Goerge Yule cho rằng: “Chừng nào có một mối liên hệ gián tiếp giữa một
cấu trúc và một chức năng, thì ta có một hành vi ngôn ngữ gián tiếp”
Tác giả Nguyễn Thiện Giáp đã nhận định: “Hành động ngôn từ gián tiếp
là hành động ngôn từ được thực hiện ở những phát ngôn có quan hệ gián tiếp
giữa một chức năng và một cấu trúc”. [14, tr.55]
Tác giả Nguyễn Đức Dân trong cuốn “Lôgíc và tiếng Việt”, Nxb Giáo
dục cho rằng: “Một hành vi tại lời này nhằm đến một hiệu lực tại lời là một
hành vi khác, thì hành vi này được gọi là một hành vi gián tiếp”.
Tác giả Diệp Quang Ban cũng cho rằng: “Khi một kiểu câu hoạt động với
một chức năng không phải vốn có của kiểu câu đó thì nó hoạt động vói tư
cách là hành động gián tiếp”. [4, tr.109]
Ở Việt Nam, định nghĩa về hành động ngôn ngữ gián tiếp chủ yếu được
chia sẻ theo ý kiến của Searle hoặc của Yule.
Theo Đỗ Hữu Châu: “Một hành vi được sử dụng gián tiếp là một hành vi
trong đó người nói thực hiện một hành vi ở lời này nhưng lại nhằm làm cho
người nghe dựa vào những hiểu biết ngôn ngữ và ngoài ngôn ngữ chung cho
cả hai người, suy ra hiệu lực ở lời của một hành vi khác”. [9,tr.146].
Hành động ngôn ngữ gián tiếp xuất hiện khi người tham gia giao tiếp sử

dụng hành động ở lời này nhưng lại nhằm đạt đích của hành động ở lời khác.
Hiệu lực gián tiếp trong hoạt động lời nói tạo cho con người cái khả năng thay
đổi linh hoạt và có hiệu quả cách sử dụng ngôn từ để hiện thực hóa tư tưởng,
ý đồ giao tiếp.
Sử dụng hành động ngôn ngữ gián tiếp có thể tạo ra được không khí giao
tiếp hòa bình, lịch sự, dễ nghe và dễ nói. Sử dụng hành động ngôn ngữ gián


16

tiếp còn cho khả năng sáng tạo ngôn ngữ, là cách để tạo ra những hiệu quả
khôi hài, châm biếm, che đậy ý đồ cá nhân: người ta mong muốn nói điều
khác với cái điều người ta đã nói ra.
- Cơ sở để xác định hành động ở lời gián tiếp:
Hành động ở lời gián tiếp không có sự tương ứng giữa hiệu lực ở lời với
hình thức và chức năng của câu biểu thị nó. Bởi vậy, không thể dựa vào dấu
hiệu hình thức của câu chữ để nhận diện hành động ở lời gián tiếp. Tuy nhiên,
theo các nhà nghiên cứu ngôn ngữ thì người nghe vẫn nhận diện được hiệu
lực ở lời dựa vào các nhân tố: ngữ cảnh, các thao tác suy ý, dựa vào lẽ
thường, sự vi phạm các quy tắc điều khiển của hành động ngôn ngữ, sự vi
phạm các quy tắc hội thoại.
+ Dựa vào hoàn cảnh giao tiếp:
Hoàn cảnh giao tiếp là bối cảnh chung mà câu nói đó phát ra. Tác giả Đỗ
Hữu Châu đã nhận định: “Hành động ngôn ngữ gián tiếp lệ thuộc rất mạnh
vào ngữ cảnh”. Hoàn cảnh giao tiếp có thể là: Những yêu tố ngoài ngôn ngữ
như: cử chỉ, điệu bộ, ánh mắt, giọng nói, ngữ điệu...; Ngữ cảnh (văn cảnh):
trong văn bản viết, ngữ cảnh thường được thể hiện ra ở trước hoặc sau câu
đang xét. Đây là yếu tố quan trọng để xác định các hành động ngôn ngữ gián
tiếp. Bởi vì trong một chuỗi phát ngôn, các phát ngôn đứng liền nhau thường
có quan hệ bổ sung và hỗ trợ cho nhau.

+ Dựa vào nhân tố người tham gia giao tiếp:
Người tham gia giao tiếp bao gồm cả người nói, người nghe cụ thể với
trình độ hiểu biết, vai xã hội riêng biệt, trạng thái tâm lí, tình cảm, tình huống,
cảnh ngộ cụ thể tại thời điểm phát ngôn. Các yếu tố đó có ảnh hưởng tới ngữ
cảnh của người phát ngôn. Các yếu tố trên là cơ sở để nhận biết các hành vi ở
lời gián tiếp của một phát ngôn được phát ra ở thời điểm đó.
Như vậy, ngữ cảnh rộng hơn hoàn cảnh giao tiếp. Ngữ cảnh là nhân tố
quan trọng để nhận diện hành động ngôn ngữ gián tiếp.
+ Dựa vào các ước định xã hội (lẽ thường):


17

Để xác định các hành động ngôn ngữ gián tiếp, người ta thường dựa vào
các lẽ thường trong cuộc sống hành ngày. Mỗi dân tộc thường có những ước
định riêng được coi là lẽ thường, là hiển nhiên được cộng đồng chấp nhận,
không cần bình luận, bàn cãi gì.
- Dựa vào các thao tác suy ý:
Suy ý hay suy diễn là các thao tác của lập luận. Nó được dựa trên các quy
tắc và thao tác logic, trên những chân lí đã được đánh giá theo tiêu chuẩn
đúng sai hay trên những lẽ thường đã được mọi người thừa nhận. Suy ý là một
thao tác thường được dùng để nhận diện các hành vi ngôn ngữ gián tiếp
không được biểu thị bằng câu chữ.
- Dựa vào sự vi phạm các quy tắc hội thoại:
Trong giao tiếp, người nói cần tuân thủ những quy tắc chung. Các quy tắc
hội thoại thường được nhắc đến đó là: Phương châm về lượng (cần nói có nội
dung; nội dung của lời nói phải đúng yêu cầu của giao tiếp, không thừa,
không thiếu), phương châm về chất (đừng nói những điều mà mình không tin
là đúng hay không có bằng chứng xác thực), phương châm quan hệ (cần nói
đúng vào đề tài giao tiếp, tránh nói lạc đề), phương châm cách thức (cần chú

ý nói ngắn gọn, rành mạch; tránh cách nói mơ hồ) và phương châm lịch sự
(cần tế nhị, khiêm tốn, và tôn trọng người khác). Các quy tắc đó phải được
người tham gia hội thoại tuân thủ thì cuộc hội thoại mới diễn tiến được. Song
nhiều trường hợp trong giao tiếp, người nói lại cố tình vi phạm một số các
quy tắc hội thoại để nhằm gián tiếp tạo nghĩa hàm ngôn cho câu.
Khi nghiên cứu hành vi ở lời gián tiếp chúng ta cần phải chú ý tới quan hệ
ngữ nghĩa giữa các thành phần của nội dung mệnh đề trong biểu thức ngữ vi
trực tiếp với ngữ cảnh. Mỗi hành động ngôn ngữ gián tiếp có một hoặc một số
biểu thức ngữ vi đặc trưng cho nó. Trong biểu thức ngữ vi, quan hệ giữa chủ
từ và vị từ trong biểu thức ngữ vi tạo nên nội dung mệnh đề về mặt ngữ nghĩa
với các nhân tố của ngữ cảnh.
Chúng ta cũng đã biết rằng một phát ngôn trực tiếp có thể thể hiện một số
hành động gián tiếp. Nói như tác giả Nguyễn Thiện Giáp “cùng một phát
ngôn có thể tiềm tàng nhiều hành động ngoài lời”. [14, tr.47]
Hành động ngôn ngữ gián tiếp không chỉ là một hiện tượng riêng rẽ do
hành động ngôn ngữ trực tiếp tạo ra mà trong thực tế, nó còn bị chi phối bởi lí


18

thuyết lập luận, bởi các phương châm hội thoại, bởi phép lịch sự, bởi các quy
tắc liên kết, bởi các quy tắc hội thoại và cả tính lôgic trong câu.
1.1.5. Biểu thức ngữ vi và động từ ngữ vi
1.1.5.1. Biểu thức ngữ vi
Phát ngôn ngữ vi là phát ngôn gây hiệu lực ở lời nhất định. Phát ngôn ngữ
vi mang một hiệu lực ở lời nào đó thì chúng có cấu trúc hình thức ấy, hay còn
gọi là cấu trúc đặc trưng, mà một kiểu cấu trúc đặc trưng ứng với một phát
ngôn ngữ vi được gọi là một biểu thức ngữ vi.
Theo Đỗ Hữu Châu, “Phát ngôn ngữ vi có một kết cấu lõi đặc trưng cho
hành vi ở lời tạo ra nó. Kết cấu lõi đó được gọi là biểu thức ngữ vi” [dẫn theo

9, tr. 91].
Biểu thức ngữ vi là một thể thức nói năng đặc trưng cho một hành động ở
lời. Nói như vậy có nghĩa là về nguyên tắc, trừ những trường hợp được sử
dụng gián tiếp còn thì có bao nhiêu hành động ở lời thì có bấy nhiêu biểu thức
ngữ vi. Biểu thức ngữ vi là dấu hiệu ngữ pháp - ngữ nghĩa của các hành động
ở lời, nhờ nó mà chúng ta phân biệt được các hành động ở lời khác nhau.
Mỗi biểu thức ngữ vi được đánh dấu bằng các dấu hiệu chỉ dẫn được
Searle gọi là các phương tiện chỉ dẫn hiệu lực ở lời (ilocutionary force
indicating devices - IFIDS). Đóng vai trò IFIDS là:
- Các kiểu kết cấu
- Những từ ngữ chuyên dùng trong các biểu thức ngữ vi
- Ngữ điệu
- Quan hệ giữa các thành tố trong cấu trúc vị từ- tham thể.
- Và có một IFIDS đặc biệt, đánh dấu cho một số biểu thức ngữ vi tường
minh là động từ ngữ vi.
Với quan niệm về biểu thức ngữ vi như trên, chúng tôi nhận thấy: Biểu thị
biểu thức ngữ vi hỏi là một phát ngôn ngữ vi mà trong đó có kết cấu lõi đặc


19

trưng cho hành động hỏi. Biểu thức ngữ vi trong hành động hỏi thường có các
phương tiện chỉ dẫn ở lời như sau:
- Đại từ nghi vấn
- Các cặp phụ từ lựa chọn theo các khuôn hỏi như: có…không, có…chưa,
có phải…không, (có) phải không, đã…chưa.
- Quan hệ từ hay/ hoặc/ hay là
- Ngữ điệu (gắn với ngữ cảnh và động từ)
- Một số từ tình thái kiểu như:
+ à, ư, hử, hả, liệu:

+ đã:
+ kia/ cơ:
- Một số từ phụ trợ khác mà trong câu hỏi bắt đầu mang chức năng của
những từ tình thái: đây, đấy, thế này…. Một số thành ngữ của nghi thức lời
nói: (tôi) hỏi khí không phải; tôi hỏi thật rằng…
1.1.5.2. Động từ ngữ vi
Theo Đỗ Hữu Châu, động từ ngữ vi được hiểu là “những động từ mà khi
phát âm chúng ra cùng với biểu thức ngữ vi (có khi không cần có biểu thức
ngữ vi đi kèm) là người nói thực hiện luôn cái hành vi ở lời do chúng biểu
thị.”. [dẫn theo 9, tr.97].
Một động từ được xem là động từ ngữ vi khi có đủ ba điều kiện:
+ Người phát ngôn phải là ngôi thứ nhất, số ít và người tiếp nhận hành
động ở lời phải là ngôi thứ hai
+ Động từ luôn ở thì hiện tại
+ Trước động từ không có các phụ từ tình thái như: không, chưa, chẳng,
đã, sẽ, đang, vừa, mới, sắp…
Khi phân loại các hành động ở lời, Searle đã quy chúng về 5 nhóm: xác
nhận, hứa hẹn, cầu khiến, tuyên bố, bộc lộ.
Trên cơ sở ấy, tôi phân chia động từ ngữ vi thuộc phạm vi tư liệu khảo sát
thành bốn nhóm như sau: Xác nhận (khẳng định, thừa nhận, đoan chắc, trình,


20

báo cáo, giới thiệu); Điều khiển (đề nghị, mời, xin, van, cầu, cấm, hỏi, đố,
thách); Cam kết (chấp thuận, tuân lệnh, hứa, thề, cam đoan, bảo đảm); Biểu
lộ (hoan nghênh, tán thành, đồng ý, ủng hộ, phê bình, phản đối, bác bỏ, chúc
mừng, chúc, xin lỗi, cảm ơn, chào, thưa, bẩm, lạy).
Tuy vậy, xét khả năng có thể hay không có động từ được dùng với chức
năng ngữ vi trong các biểu thức ngữ vi, các động từ nói năng tiếng Việt có thể

chia làm ba loại:
- Động từ nói năng vừa dùng trong chức năng ngữ vi, vừa dùng trong
chức năng miêu tả như: hứa, hỏi, mời, tuyên bố, tuyên án..
- Động từ nói năng chỉ dùng trong hiệu lực ngữ vi, không thể dùng trong
chức năng miêu tả như: cảm tạ, đội ơn, đa tạ, phỉ phui...
- Động từ chỉ dùng trong chức năng miêu tả lại hành vi ở lời, không thể
dùng trong chức năng ngữ vi như: hỏi han, bảo ban, sai khiến, chửi, mắng,
khoe, dọa, giễu…
1.1.5.3. Biểu thức ngữ vi tường minh và biểu thức ngữ vi hàm ẩn
- Biểu thức ngữ vi tường minh (BTNVTM)
Biểu thức ngữ vi có thể có động từ ngữ vi hay không có động từ ngữ vi
trên bề mặt câu chữ. Biểu thức ngữ vi có chứa động từ ngữ vi thì đó là biểu
thức ngữ vi tường minh.
Mô hình cấu trúc của câu có chứa biểu thức ngữ vi tường minh:
CTNP

CN

BTNVTM

Ngôi thứ nhất

VN
ĐTNV

BN 1
(Ngôi thứ 2)

BN2


- Biểu thức ngữ vi hàm ẩn (nguyên cấp) (BTNVNC)
Những biểu thức tuy vẫn có hiệu lực ở lời nhưng không có động từ ngữ vi
là biểu thức ngữ vi hàm ẩn hay còn gọi là biểu thức ngữ vi nguyên cấp.
Mô hình cấu trúc của câu có chứa biểu thức ngữ vi hàm ẩn (hay nguyên cấp)


21

CN
ĐTTr.T

CTNP
Ngôi hai/ngôi ba
BTNVTM

VN

BN1

BN

(ĐT miêu tả)
BN2

1.2. Câu nghi vấn và hành động hỏi
1.2.1. Khái niệm câu nghi vấn
Câu nghi vấn (câu hỏi) là một trong bốn kiểu câu phân chia theo mục đích
nói (câu trần thuật, câu nghi vấn, câu cảm thán và câu cầu khiến).
Tác giả Diệp Quang Ban trong Ngữ pháp tiếng Việt, tập 2, định nghĩa:
“Câu nghi vấn thường được dùng để nêu lên điều chưa biết hoặc còn hoài

nghi và chờ đợi sự trả lời, giải thích của người tiếp nhận câu đó”. [2, tr.226].
Nhóm tác giả Hoàng Xuân Tâm, Nguyễn Văn Bằng, Bùi Tất Tươm, Cao
Xuân Hạo quan niệm: Câu nghi vấn là câu có hành động ngôn trung (nội dung
hành động trong lời nói) yêu cầu một câu trả lời thông báo về một sự tình
hoặc một phần của sự tình được tiền giả định là hiện thực.
Câu nghi vấn trong tiếng Việt có thể nhận biết về đặc điểm như sau:
- Người nói có “sự hoài nghi”, “cái chưa rõ”, “cái chưa biết”.
- Người nói “mong muốn” được người nghe làm sáng tỏ điều chưa biết.
- Người nói sử dụng các phương tiện dùng để hỏi hoặc ngữ điệu hỏi.
- Ngoài ra, câu hỏi cũng được dùng để chuyển tải những giá trị ngôn trung
khác ngoài yêu cầu thông báo, cung cấp thông tin.
Như vậy, mục đích của câu nghi vấn là hướng tới yêu cầu thông báo, cung
cấp thông tin và chuyển tải những giá trị ngôn trung khác. Với mục đích thứ
nhất, xuất hiện những câu / phát ngôn mang hình thức câu nghi vấn để thực
hiện hành động hỏi. Với mục đích thứ hai xuất hiện những câu/ phát ngôn
mang hình thức câu nghi vấn nhưng không thực hiện hành động hỏi mà
hướng tới mục đích thực hiện những hành động ngôn ngữ gián tiếp khác.


22

1.2.2. Hành động hỏi
Qua khảo sát các công trình nghiên cứu Việt ngữ liên quan đến câu hỏi và
hành động hỏi, có thể nhận thấy, các nhà Việt ngữ quan niệm về hành động
hỏi theo hai cách sau:
Một là, hành động hỏi là hành động ngôn ngữ sử dụng câu hỏi để thực
hiện các mục đích giao tiếp khác nhau. Tiêu biểu cho quan niệm này là Đặng
Thị Hảo Tâm (2003), Nguyễn Đăng Sửu (2003), …
Hai là, hành động hỏi là đích giao tiếp mà người nói hướng tới - yêu cầu
cung cấp thông tin cần biết, chưa biết. Tiêu biểu cho quan niệm này là Lê

Đông (1996), Võ Quang Đại (2000).
Có thể thấy sự khác biệt khá rõ nét về nội hàm và tính chất của hành
động hỏi theo hai cách hiểu trên. Theo quan niệm thứ nhất “hành động hỏi”
được gắn chặt với hình thức cấu trúc, ngữ nghĩa và ngữ dụng của câu hỏi.
Theo quan niệm thứ hai, “hành động hỏi” được tách rời khỏi sự chi phối của
phương tiện biểu đạt - hình thức câu hỏi, đặt tâm điểm vào đích ngôn trung và
mở rộng phạm vi hành chức vượt ra khỏi phạm vi câu hỏi.
Trong luận văn này, chúng tôi đã đi theo quan niệm thứ nhất: Hỏi - để
yêu cầu cung cấp thông tin mà người nghe cần biết để khảo sát các hành động
hỏi trực tiếp; hỏi - để phê phán, sai khiến, khẳng định, phủ định, trách móc,
tỏ ý nghi ngờ, ra lệnh để khảo sát các hành động nói gián tiếp được thực hiện
bằng hành động hỏi…Tuy nhiên, chúng tôi cũng xem xét đến một số trường
hợp của hành động hỏi theo quan niệm thứ hai (người hỏi có thể sử dụng câu
hỏi hoặc kiểu câu khác để thực hiện hành động hỏi), lấy đó làm cơ sở lí thuyết
để khảo sát các trường hợp hành động hỏi gián tiếp.
1.2.3. Mối quan hệ giữa câu nghi vấn và hành động hỏi
Về mặt nội dung biểu hiện, hầu hết các nhà ngôn ngữ học đều cho rằng:
câu nghi vấn là nói ra điều mình muốn người ta cho mình biết với yêu cầu
được trả lời.
Đối với hình thức biểu hiện, các nhà nghiên cứu quan niệm rằng: câu nghi
vấn luôn có dấu chấm hỏi ở cuối câu, có chứa từ nghi vấn hoặc tiểu từ tình
thái dứt câu dùng để hỏi.


23

Xét mối tương quan giữa hành động hỏi với câu nghi vấn, có thể nhận
thấy rằng: hành động hỏi là một khái niệm thuộc ngữ dụng học còn câu nghi
vấn là khái niệm thuộc cú pháp học.
Thành tố của hành động hỏi thường gồm ba phần: chủ thể hỏi + nội dung

hỏi + phương tiện hỏi (từ dùng để hỏi), trong đó, từ nghi vấn là một yếu tố
trong thành tố đó.
Trong quá trình khảo sát chúng tôi nhận thấy các nhà Việt ngữ quan niệm
về mối quan hệ giữa hành động hỏi và câu câu nghi vấn vẫn có sự khác biệt.
Theo quan niệm của Đặng Thị Hảo Tâm (2003), Nguyễn Đăng Sửu
(2003),…: Hành động hỏi được gắn chặt với hình thức cấu trúc, ngữ nghĩa và
ngữ dụng của câu hỏi.
Lê Đông (1996), Võ Đại Quang (2000) quan niệm: “Hành động hỏi” được
tách rời khỏi sự chi phối của phương tiện biểu đạt - hình thức câu hỏi, đặt tâm
điểm vào đích ngôn trung và mở rộng phạm vi hành chức vượt ra khỏi phạm
vi câu hỏi.
Theo tôi, khi xét đến hành động hỏi cần phải giải quyết ba trường hợp
sau: Hỏi để hỏi, hỏi mà không phải là hỏi, không hỏi mà lại là hỏi.
Vì vậy ở luận văn này, chúng tôi sẽ xem xét trên cả hai quan niệm:
- Thứ nhất, hành động hỏi được gắn chặt với hình thức cấu trúc, ngữ nghĩa
và ngữ dụng của câu hỏi. Ở quan niệm này, luận văn có thể phân ra hành
động hỏi trực tiếp (hỏi để hỏi) và hành động nói gián tiếp thựch hiện bằng
hành đông hỏi (hỏi mà không phải là hỏi).
- Thứ hai, hành động hỏi không chịu sự chi phối của phương tiện biểu đạt
của hình thức câu hỏi mà đặt tâm điểm vào đích ngôn trung và mở rộng phạm
vi hành chức vượt ra khỏi phạm vi câu hỏi (như câu trần trần thuật, cảm thán,
cầu khiến). Theo quan niệm này sẽ có hành động hỏi gián tiếp (không hỏi mà
lại là hỏi). Tuy nhiên, theo quan niệm thứ hai, kết quả khảo sát cho biết, hành
động hỏi gián tiếp được thể hiện trên các kiểu câu khác lại chiếm số lượng rất
ít trong giao tiếp.


24

Nghiên cứu hành động hỏi trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu, luận

văn sẽ đi vào nghiên cứu hành động hỏi trong ngôn ngữ hội thoại, phân tích
và làm sáng tỏ các phương tiện thể hiện hành động hỏi như các tổ hợp chuyên
dụng, các kết cấu đặc trưng, những nhân tố gắn chặt với câu hỏi, nghiên cứu
ngữ dụng khi thực hiện hành động hỏi và cách thức thực hiện hành hành động
hỏi trong truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu.
1.3. Lí thuyết về phép lịch sự
Lịch sự là một nhu cầu trong các xã hội, đặc biệt trong các xã hội văn
minh. Lịch sự cũng là một trong những thuộc tính của diễn ngôn, một thực tế
khách quan trong giao tiếp bằng ngôn ngữ, một vấn đề ngày càng được quan
tâm trong ngữ dụng học.
Trong luận văn này, chúng tôi đặt ra vấn đề: Hành động hỏi có bị chi phối
bởi phép lịch sự hay không? Để giải đáp được vấn đề này, chúng tôi vận dụng
những lí thuyết về phép lịch sự của R.Lakoff, G.N.Leech, Brown và
Levinson.
1.3.1. Lí thuyết về phép lịch sự của R.Lakoff và G.N.Leech
1.3.1.1. Lí thuyết về phép lịch sự của R.Lakoff
R. Lakoff đã đưa ra ba quy tắc lịch sự trong giao tiếp:
- Quy tắc 1 là quy tắc lịch sự quy thức (formal politeness rule). Đó là quy
tắc “không được áp đặt”. Quy tắc này thích hợp với những ngữ cảnh, trong đó
giữa những người tham gia tương tác có những khác biệt về quyền lực và
cương vị như giữa sinh viên và giảng viên, giữa công nhân và giám đốc... Ở
đây là không áp đặt đối với người nghe (H - Hearer), không cản trở người
nghe hành động theo ý muốn của mình. Việc người nói (S - Speaker) thể hiện
lịch sự theo quy tắc không áp đặt sẽ tránh được hoặc giảm thiểu sự áp đặt
bằng cách xin phép hoặc xin lỗi người nghe khi buộc người nghe phải làm
việc gì đó mà người đó không muốn làm.
Lịch sự quy thức có tính phi cá nhân (impersonal). S sẽ lựa chọn các hành
động của mình sao cho giảm tối thiểu các mức độ mà S áp đặt đối với H bằng
cách buộc H nhận biết rằng S và H đều là những con người với những nhược



×