Tải bản đầy đủ (.docx) (91 trang)

Luận văn thạc sĩ tăng cường tự chủ tài chính tại đề án biên soạn bách khoa toàn thư việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (449.38 KB, 91 trang )

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU........................................................................................................... 1
NHỮNG VẦN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ.......................................10
TỰ CHỦ TÀI CHÍNH TẠI CÁC TỔ CHỨC KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
CÔNG LẬP......................................................................................................10
1.2. Cơ chế tự chủ tài chính tại các tổ chức khoa học và cơng nghệ cơng lập...17
1.3. Tiêu chí đánh giá tự chủ tài chính...............................................................24
1.4. Kinh nghiệm thực hiện cơ chế tự chủ tài chính trong quản lý nghiên cứu
khoa học công nghệ từ nguồn ngân sách nhà nước............................................28
Chương 2..........................................................................................................36
THỰC TRẠNG TỰ CHỦ TÀI CHÍNH TẠI ĐỀ ÁN BIÊN SOẠN.................36
BÁCH KHOA TOÀN THƯ VIỆT NAM.........................................................36
2.1. Tổng quan về Đề án Biên soạn Bách khoa toàn thư Việt Nam...................36
2.2. Thực trạng về cơ chế tự chủ tài chính tại Đề án......................................... 44
Chương 3..........................................................................................................66
GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG TỰ CHỦ TÀI CHÍNH TẠI ĐỀ ÁN...................66
BIÊN SOẠN BÁCH KHOA TOÀN THƯ VIỆT NAM....................................66
3.1. Bối cảnh và những cơ hội, thách thức tăng cường tự chủ tài chính tại các tổ
chức khoa học và công nghệ công lập...............................................................66
3.2. Quan điểm về việc tăng cường tự chủ tài chính nhằm thúc đẩy cơng tác
quản lý tài chính tại tổ chức khoa học công nghệ công lập..........................71
3.3. Giải pháp quản lý tài chính theo hướng tự chủ tài chính tại Văn phịng Đề án
........................................................................................................................................73
3.4. Các kiến nghị đề xuất ...........................................................................................78
KẾT LUẬN......................................................................................................81
TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................................82


DANH MỤC CÁC CHỮ CÁI VIẾT TẮT

BKTT



Bách khoa toàn thư

BCNĐA

Ban chủ nhiệm Đề án

CNNV

Chủ nhiệm nhiệm vụ

ĐVSN

Đơn vị sự nghiệp

KH&CN

Khoa học và cơng nghệ

HĐCĐ

Hội đồng chỉ đạo

VPĐA

Văn phịng đề án


DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Hình 2.1: Cơ cấu tổ chức Văn phịng đề án.....................................................38

Hình 2.2: Ban chỉ đạo Đề án Biên soạn BKTT Việt Nam...............................42
Bảng 2.1: Nguồn kinh phí của VPĐA theo các năm.......................................49
Bảng 2.2: Chênh lệch thu - chi các năm của VPĐA....................................... 52
Bảng 2.3: Trích lập quỹ qua từng năm............................................................ 54


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Khoa học - công nghệ đã và đang trở thành động lực sản xuất trực tiếp và
quan trọng, thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của nhiều quốc gia trên thế
giới trong đó có Việt Nam. Nhiều nhà nghiên cứu xác định đây là “nhân tố
vàng” để nâng cao năng lực cạnh tranh của đất nước. Nhận thức được tầm quan
trọng này, Đảng và Nhà nước ta trong những năm gần đây đã quan tâm nhiều tới
phát triển khoa học – công nghệ cả về quy mô và chất lượng, một trong những
chính sách thể hiện sự đặc biệt chú trọng tới KHCN là sự đổi mới quản lý tài
chính công cho lĩnh vực khoa học công nghệ. Kể từ 01/8/2016, các tổ chức khoa
học và cơng nghệ có đã có một bước chuyển mình khi chuyển từ thực hiện cơ
chế tự chủ theo Nghị định 115/2005/NĐ-CP sang thực hiện theo Nghị định NĐ
54/2016/NĐ-CP ngày ngày 14/06/2016 của Chính phủ.
Sự thay thế của Nghị định NĐ 54/2016/NĐ-CP đối với Nghị định
115/2005/NĐ-CP kỳ vọng sẽ giải quyết được những tồn tại, những bất cập
đang có, tạo động lực cho các tổ chức khoa học công nghệ công lập phát triển
với những quyền cụ thể hơn như: quyền tự chủ về tài chính, quyền tự chủ về
thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, nhân sự, quản lý và sử dụng tài sản. Tuy
nhiên qua thực tế cơng tác tại Văn phịng Đề án Biên soạn Bách khoa toàn thư
Việt Nam - đơn vị thuộc Viện Hàn lâm Khoa học học xã hội Việt Nam – một
trong những cơ quan nghiên cứu khoa học hàng đầu của cả nước, nhận thấy
đơn vị chưa phát huy hết được tự chủ của mình trong cơng tác quản lý tài chính.
Bản thân Đề án mới đi vào hoạt động, nhiệm vụ biên soạn Bách khoa toàn thư
lần đầu tiên được thực hiện ở Việt Nam nên đang trong giai đoạn thử nghiệm,

mơ hình tổ chức mới, nhân sự mới, phương thức tổ chức và hoạt động mới,
nên việc thực hiện Đề án cũng như quản lý tài chính của Đề án cịn nhiều
vướng mắc. Văn phòng Đề án được thành lập để giúp triển khai công việc,

1


hoạt động và quản lý như một tổ chức khoa học công nghệ do Nhà nước đảm
bảo chi thường xuyên theo Điều 3 Nghị định 54/2016/NĐ-CP và được giao tự
chủ tài chính theo Quyết định số 2057/QĐ-KHXH của Viện Hàn lâm khoa
học xã hội Việt Nam. Tuy nhiên VPĐA lại khơng phải đơn vị sự nghiệp có thu
và nguồn thu đến thời điểm hiện tại hoàn hoàn từ ngân sách nhà nước cấp. Do
đó việc thực hiện cơ chế tự chủ tài chính tại Đề án đang là bài tốn cần tìm
lời giải.
Chính vì vậy tơi chọn đề tài “Tăng cường tự chủ tài chính tại Đề án
Biên soạn Bách khoa toàn thư Việt Nam" làm đề tài nghiên cứu cho luận
văn cao học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Cho đến nay đã có nhiều nhà khoa học, đề tài, luận án nghiên cứu về đổi
mới quản lý tài chính cơng nói chung và cơ chế tự chủ tài chính tại các đơn vị
sự nghiệp cơng lập nói riêng.
Về đổi mới quản lý ngân sách nhà nước, có nhiều cơng trình nghiên cứu đã
làm rõ khái niệm, bản chất, các nhân tố ảnh hưởng cũng như những thách thức
đặt ra đối với cải cách tài chính cơng nói chung và tự chủ tài chính nói riêng.
Tác giả Bùi Thị Minh Huyền trong cuốn “Một số vấn đề cơ bản về tài
chính cơng và cải cách tài chính cơng”, (2003), đã đề cập đến những vấn đề cơ
bản về lý thuyết tài chính cơng; đặc trưng và vài trị của tài chính cơng trong phát
triển kinh tế - xã hội. Cuốn sách cũng đánh giá thực trạng tài chính cơng ở Việt
Nam và chỉ ra sự cần thiết phải cải cách tài chính cơng trong thời gian tới.
Bài viết “Cải cách cơ chế tự chủ đối với đơn vị sự nghiệp công lập:

kinh nghiệm từ Trung Quốc” (Nguyễn Xuân Thắng, 2016) đã nghiên cứu
trình bày kinh nghiệm quản lý thu – chi tại các đơn vị sự nghiệp công lập của
Trung Quốc, và rút ra một số bài học kinh nghiệm cho Việt Nam trong quản
lý các đơn vị sự nghiệp công lập theo cơ chế tự chủ.


Cùng với các nghiên cứu cá nhân đó, Chính phủ cũng nghiên cứu và
soạn thảo nhiều đề án liên quan tới cải cách tài chính cơng, cụ thể là đổi mới
cơ chế tài chính theo hướng tự chủ tại các đơn vị sự nghiệp công lập thuộc
các lĩnh vực kinh tế - văn hóa - xã hội.
Năm 2003, Bộ Tài chính tổng kết báo cáo tham luận của các bộ và địa
phương triển khai thực hiện Nghị định 10/2002/NĐ-CP ngày 16/12/2002 của
Chính phủ về chế độ tài chính áp dụng cho các đơn vị sự nghiệp cơng lập có
thu và Quyết định 192/2001/QĐ-TTG ngày 17/2/2001 của Thủ tướng chính
phủ về mở rộng thí điểm khốn biên chế và kinh phí quản lý tài chính đối với
cơ quan hành chính sự nghiệp ở Hà Nội.
Báo cáo tổng kết công tác thanh tra về thực hiện hiện cơ chế TCTC tại
các đơn vị hành chính và sự nghiệp cơng thời kỳ 2006 - 2010 tập trung tổng
hợp đánh giá phân tích những ưu điểm và hạn chế trong quá trình thực hiện
cơ chế tự chủ tài chính tại các đơn vị hành chính sự nghiệp được thanh tra;
Tuy nhiên, báo cáo chưa hệ thống và phân tích được nguyên nhân của những
bất cập của cơ chế tự chủ tài chính để kiến nghị điều chỉnh sửa đổi bổ sung
phù hợp với tình hình thực tế.
Về vấn đề tự chủ tài chính trong các đơn vị sự nghiệp cơng lập, đã có
nhiều cơng trình nghiên cứu việc thực hiện đổi mới cơ chế quản lý tài chính
theo hướng tự chủ tại các đơn vị sự nghiệp công lập, chủ yếu là tại các trường
đại học như:
Luận án tiến sĩ “Hoàn thiện cơ chế tài chính của các trường đại học
cơng lập ở Việt Nam” (Trần Đức Cân, 2012). Luận án đã lý giải các căn cứ
khoa học đối với việc hình thành các tiêu chí để đánh giá hiệu quả của tự chủ

tài chính trong các trường đại học cơng lập, như quy mơ, cơ cấu vốn, cơ cấu
chi phí, suất đầu tư trên sinh viên, cơng trình khoa học, tỷ lệ sinh viên trên
giảng viên; Đánh giá và phân tích thực trạng cơ chế tự chủ tài chính của các


trường đại học công lập bằng những nguồn số liệu phong phú, tác giả đánh
giá về tính hiệu lực, tính hiệu quả, tính cơng bằng, tính ràng buộc, tính đồng
thuận của các trường đại học công lập đối với cơ chế hiện hành. Từ những
vấn đề lý luận và thực tiễn, đề xuất các giải pháp và kiến nghị cụ thể nhằm
hồn thiện cơ chế tự chủ tài chính tại các trường đại học cơng lập phù hợp với
hồn cảnh Việt Nam. Song đề tài thiếu cách tiếp cận lịch sử - logic, do đó
hồn thiện cơ chế tài chính chưa được xem xét như một quá trình qua các giai
đoạn gắn với sự hình thành và phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN
của nước ta.
Mặc dù vậy, các nghiên cứu về tự chủ trong lĩnh vực khoa học công nghệ
hay cụ thể tại các đơn vị sự nghiệp khoa học công nghệ lại chưa được thực
hiện nhiều. Mới chỉ có một vài bài viết về quản lý tài chính cho hoạt động
khoa học cơng nghệ chung chung hoặc hoạt động nghiên cứu khoa học trong
đơn vị sự nghiệp giáo dục mà thơi.
Bài viết “Cơ chế tài chính cho hoạt động khoa học và công nghệ ở Việt
Nam: Một số hạn chế và giải pháp hoàn thiện” (Nguyễn Hồng Sơn, 2012)
phân tích một số hạn chế của cơ chế tài chính hiện nay đối với hoạt động khoa
học và công nghệ về huy động, phân bổ và sử dụng các nguồn lực tài chính
cho khoa học và cơng nghệ. Bài viết chỉ ra mặc dù chính phủ đã có nhiều
chính sách, ưu đã về mặt tài chính cho KHCN nhưng các doanh nghiệp vẫn
đầu tư ít bởi nhu cầu tự thân của các doanh nghiệp chưa cao, tiềm lực kinh tế
và quy mơ doanh nghiệp cịn hạn hẹp...; tăng cường hiệu quả trong việc phân
bổ các nguồn lực tài chính hiện hành lại chưa được chú trọng đúng mức và
chưa có nhiều cải thiện; các quy định về quản lý chi tiêu đã góp phần đảm bảo
chi NSNN đúng theo mục đích ban đầu khi lập dự tốn nhưng cũng kéo theo

một số hạn chế. Từ đó, tác giả để xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện cơ chế
tài chính cho các hoạt động KHCN theo hai hướng: Nhà nước cần phải nhanh


chóng tái cấu trúc lĩnh vực đầu tư cơng theo hướng tăng cường đầu tư cho
KH&CN, giáo dục, y tế trên cơ sở giảm đầu tư vào các lĩnh vực khác kém
hiệu quả và có thể thu hút được đầu tư của khu vực tư nhân thông qua các hợp
đồng cùng góp vốn; Đồng thời Nhà nước cũng cần tiếp tục duy trì các khuyến
khích hiện tại đối với việc nâng cao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các
tổ chức KH&CN trong lĩnh vực nghiên cứu ứng dụng. Nhà nước sẽ chỉ tài trợ
cho các lĩnh vực nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu chính sách.
Nghiên cứu của Nguyễn Trường Giang (2016), đã nêu được thực trạng về
cơ chế quản lý tài chính cho hoạt động KH&CN ở nước ta hiện nay, tham khảo
kinh nghiệm của các nước để đưa ra kiến nghị, chỉ rõ giải pháp quan trọng nhất
là đổi mới đồng bộ cách thức tổ chức quản lý hoạt động KH&CN trong đó có
đổi mới trong cơ chế quản lý tài chính, từ việc ưu tiên nguồn lực, nâng cao hiệu
quả đầu tư ngân sách nhà nước cho KH&CN, huy động các nguồn lực ngoài
ngân sách nhà nước đến cải thiện khung hành lang pháp lý, hệ thống chính sách,
cơ chế quản lý tài chính… Tuy nhiên, nghiên cứu này chưa chỉ ra các giải pháp
cụ thể, chi tiết cách làm và lộ trình triển khai. Vì vậy, cần tiếp tục nghiên cứu để
triển khai các ý tưởng được nêu trong nghiên cứu này.
Luận án tiến sĩ của Đỗ Diệu Hương (2018) về “Đổi mới quản lý tài chính
trong hoạt động khoa học xã hội: Trường hợp Viện hàn lâm Khoa học xã hội
Việt Nam” đã trình bày thưc trạng quản lý tài chính trong hoạt động khoa học xã
hội, lấy dẫn chứng tại Viện Hàn Lâm khoa học xã hội Việt Nam, là đơn vị công
lập hàng đầu cả nước hoạt động trong lĩnh vực khoa học xã hội. Kết quả nghiên
cứu của luận án đã chỉ ra những thành công đạt được và hạn chế, nguyên nhân
về cơ chế chính sách quản lý của nhà nước trong quản lý tài chính cho hoạt động
khoa học xã hội cũng như các hạn chế trong quản lý tài chính và triển khai thực
hiện của các tổ chức khoa học và công nghệ hoạt động trong lĩnh vực khoa học

xã hội, trong đó nhấn mạnh những hạn chế cơ bản là: nguồn thu chủ yếu
trong


hoạt động KHXH vẫn là ngân sách Nhà nước cấp, khả năng khai thác các nguồn
ngoài ngân sách của các tổ chức KH&CN hoạt động trong lĩnh vực KHXH còn
hạn chế; việc phân bổ, xây dựng định mức chi cho hoạt động KHXH còn thiếu
cơ sở thực tiễn; trong quản lý chi ngân sách cho hoạt động KHXH còn nhiều
phiền hà và bất cập. Trên cơ sở đó, luận án đã để xuất hai nhóm giải pháp liên
quan đến tiếp tục đổi mới cơ chế chính sách quản lý tài chính trong hoạt động
khoa học xã hội của cơ quan quản lý nhà nước và tiếp tục đổi mới quản lý tài
chính tại các tổ chức khoa học cơng nghệ hoạt động trong lĩnh vực khoa học xã
hội.
Các cơng trình nghiên cứu nói trên đều nghiên cứu tập trung về tài chính
cơng, cải cách tài chính cơng, cơ chế quản lý tài chính cơng theo hướng tự
chủ tại các đơn vị sự nghiệp công lập. Tuy nhiên, theo nhận thức của tác giả,
chưa có cơng trình nghiên cứu có hệ thống về cơ chế tự chủ tài chính tại đơn
vị sự nghiệp khoa học cơng nghệ cơng lập. Chính vì thế luận văn tập trung
nghiên cứu vấn đề tự chủ tài chính tại đơn vị sự nghiệp khoa học cơng nghệ
công lập, lấy dẫn chứng số liệu từ Đề án Biên soạn BKTT Việt Nam với mong
muốn ngoài làm rõ thêm cơ sở lý luận của tự chủ tài chính tại các đơn vị sự
nghiệp sự nghiệp khoa học công nghệ công lập, làm phong phú thêm các
trường hợp cụ thể về tự chủ tài chính tại các đơn vị sự nghiệp sự nghiệp khoa
học cơng nghệ, từ đó, cung cấp thêm các căn cứ, các luận điểm cho chương
trình cải cách tài chính cơng theo hướng tự chủ mà Đảng và Nhà nước đang
thực hiện.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu:
Luận văn nghiên cứu, đánh giá thực trạng thực hiện tự chủ tài chính tại
Đề án Biên soạn BKTT Việt Nam, từ đó đề xuất các kiến nghị, giải pháp



nhằm nâng cao hiệu quả quản lý tài chính theo hướng tự chủ tài chính, phát
huy vai trị tự chủ tài chính cho Đề án.
Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Hệ thống hóa các vấn đề lý luận về tự chủ tài chính đối với đơn vị sự
nghiệp cơng lập;
- Phân tích, đánh giá thực trạng tự chủ tài chính tại Đề án Biên soạn
BKTT Việt Nam;
- Kiến nghị các giải pháp nhằm tăng cường quản lý tài chính theo
hướng tự chủ tài chính, song song với việc phát huy tính tự chủ của chủ
nhiệm nhiệm vụ khi thực hiện các nhiệm vụ khoa học.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các vấn đề lý luận và thực tiễn về tự
chủ tài chính đối với tổ chức khoa học và công nghệ công lập.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài:
Phạm vi không gian: để làm rõ bức tranh thực trạng tự chủ tài chính tại
tổ chức khoa học và công nghệ công lập, luận văn sẽ tập trung phân tích thực
trạng thực hiện tự chủ tài chính tại Đề án Biên soạn Bách khoa tồn thư Việt
Nam
Phạm vi khơng gian: nghiên cứu thực trạng thực hiện tự chủ tài chính tại
Đề án từ năm 2016 đến năm 2018.
Văn phòng Đề án Biên soạn Bách khoa toàn thư (VPĐA) là đơn vị sử
dụng ngân sách. VPĐA có con dấu, tài khoản riêng, hoạt động giống như các
viện nghiên cứu chuyên ngành của Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam.
Mặc dù Văn phòng Đề án không phải tổ chức khoa học công nghệ nhưng
được Viện Hàn lâm giao là tổ chức chủ trì giúp việc triển khai các nhiện vụ
của Đề án. Nhân sự thực hiện các nhiệm vụ có thể thuộc Văn phịng hoặc các
nhà khoa học ngồi văn phịng. Các hoạt động từ lập kế hoạch, phân bổ ngân



sách thanh quyết toán cho thực hiện các nhiệm vụ đến các hoạt động bộ máy
khác đều có quy trình thực hiện tương tự như các Viện nghiên cứu chuyên
ngành của Viện Hàn lâm. Do đó tính chất các nguồn thu cũng như các khoản
chi của VPĐA cũng giống như của các đơn vị khác của Viện Hàn lâm.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng các lý luận về tài chính cơng và đổi mới quản lý tài chính
cơng để nghiên cứu vấn đề tự chủ tài chính tại các tổ chức khoa học công
nghệ công lập. Đề tài sử dụng phương pháp luận chủ đạo là duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử. Các phương pháp nghiên cứu cụ thể như:
- Phương pháp phân tích và tổng hợp lý thuyết được sử dụng nhằm làm
rõ lý thuyết, hệ thống hóa các vấn đề lý luận và thực tiễn về tự chủ tài chính
đối với tổ chức khoa học và cơng nghệ cơng lập trong chương 1. Trên cơ sở
nghiên cứu, tổng hợp và kế thừa các tài liệu, kết quả nghiên cứu từ các sách,
giáo trình, luận án, bài báo cũng như các Thông tư, Nghị định của Nhà nước,
các văn bản của Viện Hàn lâm và các văn bản quy phạm pháp luật liên quan
tự chủ tài chính, tác giả tiến hành tổng quan vấn đề nghiên cứu ở phần mở
đầu, hệ thống hóa những lý luận cơ bản về tự chủ tài chính tại tổ chức KHCN
cơng lập ở chương 1 bao gồm các khái niệm, nội dung, nguyên tắc thực hiện
của cơ chế tự chủ tài chính tại các tổ chức KHCN công lập cũng như các nhân
tố ảnh hưởng.
- Phương pháp thực chứng được sử dụng để phân tích tư liệu tại Đề án
Biên soạn Bách khoa tồn thư Việt Nam; phương pháp thống kê mô tả được
sử dụng để phân tích các số liệu trong giai đoạn 2016-2018, đối chiếu với các
nội dung tự chủ tài chính, nhằm đánh giá thực trạng tự chủ tài chính đối với
VPĐA ở chương 2 làm cơ sở khoa học để đề xuất các giải pháp kiến nghị tại
chương 3.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn



Qua nghiên cứu đề tài “Tăng cường tự chủ tài chính tại Đề án Biên soạn
Bách khoa tồn thư Việt Nam”, luận văn mong muốn:
- Về mặt lý luận: luận văn góp phần hệ thống hóa các vấn đề lý luận và
thực tiễn về cơ chế tự chủ tài chính, bao gồm khái niệm, nội dung và nguyên
tắc, tính khách quan của tự chủ tài chính; làm rõ các tiêu chí đánh giá tự chủ
tài chính và các nhân tố ảnh hưởng đến cơ chế tự chủ tài chính; nghiên cứu thực
trạng tự chủ tài chính tại Đề án Biên soạn Bách khoa toàn thư Việt Nam, đề xuất
những giải pháp góp phần hồn thiện cơ chế tự chủ tài chính tại đơn vị, từ đó
góp phần hồn thiện cơ chế tự chủ tài chính các tổ chức khoa học và cơng nghệ
nói chung và tổ chức khoa học cơng nghệ cơng lập nói riêng.
- Về mặt thực tiễn: Các kết quả nghiên cứu thực trạng và giải pháp
hoàn thiện cơ chế tự chủ tài chính của luận văn tại đơn vị có đặc thù cao như
Văn phịng đề án Biên soạn bách khoa tồn thư Việt Nam có ý nghĩa áp dụng
thực tiễn, làm cơ sở hoàn thiện cơ chế tự chủ tài chính đối với Đề án biên
soạn Bách khoa toàn thư Việt Nam trong thời gian tới cũng như các đề án sử
dụng ngân sách nhà nước có tính tương đồng trong tương lai. Đồng thời, kết
quả nghiên cứu có thể làm cơ sở tài liệu tham khảo cho các nghiên cứu, và
những người quan tâm tới các vấn đề quản lý tài chính cơng, tự chủ tài chính
tại ĐVSN khoa học cơng nghệ cơng lập.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, nội dung chính của
luận văn có kết cấu gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về tự chủ tài chính tại các
tổ chức khoa học và công nghệ công lập..
Chương 2: Thực trạng về cơ chế tự chủ tài chính tại Đề án Biên soạn
Bách khoa toàn thư Việt Nam.
Chương 3: Giải pháp tăng cường tự chủ tài chính tại Đề án Biên soạn
Bách khoa toàn thư Việt Nam.



Chương 1
NHỮNG VẦN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ
TỰ CHỦ TÀI CHÍNH TẠI CÁC TỔ CHỨC KHOA HỌC VÀ
CƠNG NGHỆ CÔNG LẬP
1.1. Khái quát về tổ chức khoa học và công nghệ công lập

1.1.1. Hoạt động khoa học công nghệ
Khoa học là hệ thống tri thức về bản chất, quy luật tồn tại và phát triển
của sự vật, hiện tượng tự nhiên, xã hội và tư duy. [22]
Như vậy thực chất của khoa học là sự khám phá các hiện tượng các
thuộc tính vốn tồn tại một cách khách quan. Sự khám phá này đã làm thay đổi
nhận thức của con người tạo điều kiện nghiên cứu, ứng dụng hiểu biết này
vào thực tế. Khoa học là kết quả nghiên cứu của quá trình hoạt động thực tiễn,
nhưng đến lượt mình nó lại có vai trị to lớn tác động mạnh mẽ trở lại hoạt
động sản xuất, con người hồn tồn có khả năng đưa khoa học thành lực
lượng sản xuất trực tiếp.
Cơng nghệ là giải pháp, quy trình, bí quyết kỹ thuật có kèm theo hoặc
khơng kèm theo công cụ, phương tiện dùng để biến đổi nguồn lực thành sản
phẩm. [22]
Trước đây cách hiểu truyền thống thường đồng nhất công nghệ với kỹ
thuật, thiết bị mà không lưu ý với thực tế vận hành, tay nghề của công nhân,
năng lực tổ chức quản lý hoạt động sản xuất, do vậy thuật ngữ “công nghệ”
thường được dùng thay cho thuật ngữ “kỹ thuật”. việc hiểu đúng nội dung
“công nghệ” như hiện nay đặc biệt có ý nghĩa quan trọng, khi công nghệ thực
sự trở thành nhân tố quyết định khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên thị
trường trong nước cũng như quốc tế.


Khác với khoa học các giải pháp kĩ thuật của cơng nghệ đóng góp trực
tiếp vào sản xuất và đời sống nên nó được sự bảo hộ của nhà nước dưới hình

thức sở hữu cơng nghiệp’ và do đó nó là thứ hàng để mua bán.
Khoa học và công nghệ có nội dung khác nhau nhưng chúng lại có mối
quan hệ chặt chẽ với nhau. Mối liên hệ chặt chẽ này thể hiện ở chỗ khi cịn ở
trình độ thấp, khoa học tác động tới kĩ thuật và sản xuất cịn rất yếu, nhưng đã
phát triển đến trình độ cao như ngày nay thì nó tác động mạnh mẽ và trực tiếp
tới sản xuất. Khoa học và công nghệ, là kết quả sự vận dụng những hiểu biết,
tri thức khoa học của con người để sáng tạo cải tiến các công cụ, phương tiệ
phục vụ cho sản xuất và các hoạt động khác
Hoạt động khoa học và công nghệ là hoạt động nghiên cứu khoa học,
nghiên cứu và triển khai thực nghiệm, phát triển công nghệ, ứng dụng công
nghệ, dịch vụ khoa học và công nghệ, phát huy sáng kiến và hoạt động sáng
tạo khác nhằm phát triển khoa học và công nghệ. [22]
Nhiệm vụ của hoạt động khoa học và công nghệ là:
- Xây dựng lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội của Việt Nam; xây dựng luận cứ khoa học cho việc định ra đường lối,
chính sách, pháp luật về phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phịng, an
ninh; góp phần xây dựng nền giáo dục tiên tiến, xây dựng con người mới Việt
Nam; kế thừa và phát huy giá trị truyền thống lịch sử, văn hoá dân tộc, tiếp
thu tinh hoa văn hoá nhân loại và đóng góp vào kho tàng văn hố, khoa học
của thế giới.
- Nâng cao năng lực khoa học và công nghệ để làm chủ công nghệ tiên
tiến, công nghệ cao, phương pháp quản lý tiên tiến; sử dụng hợp lý tài nguyên
thiên nhiên, bảo vệ môi trường, bảo vệ sức khỏe con người; kịp thời dự báo,
phòng, chống, hạn chế và khắc phục hậu quả thiên tai.


- Tiếp thu thành tựu khoa học và công nghệ của thế giới để tạo ra, ứng
dụng có hiệu quả cơng nghệ mới; tạo ra sản phẩm mới có sức cạnh tranh cao;
phát triển nền khoa học và công nghệ Việt Nam đạt trình độ tiên tiến trong
khu vực, tiếp cận với trình độ thế giới, làm cơ sở vững chắc cho việc phát

triển các ngành công nghiệp hiện đại; đẩy mạnh việc phổ biến và ứng dụng
thành tựu khoa học và công nghệ vào sản xuất và đời sống.
Nguyên tắc hoạt động khoa học và công nghệ là:
- Xuất phát từ nhu cầu thực tiễn, phục vụ phát triển kinh tế - xã hội, bảo
đảm quốc phòng - an ninh, phát triển khoa học và công nghệ.
- Xây dựng và phát huy năng lực nội sinh về khoa học và cơng nghệ kết
hợp với việc tiếp thu có chọn lọc thành tựu khoa học và công nghệ của thế
giới, phù hợp với thực tiễn Việt Nam.
- Bảo đảm quyền tự do sáng tạo, phát huy dân chủ trong hoạt động khoa
học và cơng nghệ vì sự phát triển của đất nước.
- Trung thực, khách quan, đề cao đạo đức nghề nghiệp, tự chủ, tự chịu
trách nhiệm.
- Bảo đảm an tồn tính mạng, sức khỏe con người, bảo vệ mơi trường.
1.1.2. Tổ chức khoa học và công nghệ công lập
Tổ chức Khoa học và công nghệ (KHCN) được định nghĩa trong Luật
Khoa học và công nghệ 2013 là tổ chức có chức năng chủ yếu là nghiên cứu
khoa học, nghiên cứu triển khai và phát triển công nghệ, hoạt động dịch vụ
khoa học và công nghệ, được thành lập và đăng ký hoạt động theo quy định
của pháp luật. [22]
Theo quy định tại Điều 9 Luật khoa học và công nghệ năm 2013 thì hình
thức và phân loại tổ chức khoa học và công nghệ tại Việt Nam được quy định
cụ thể như sau:
- Hình thức của tổ chức khoa học và công nghệ được quy định như sau:


+ Tổ chức nghiên cứu khoa học, tổ chức nghiên cứu khoa học và phát
triển công nghệ được tổ chức dưới hình thức viện hàn lâm, viện, trung tâm,
phịng thí nghiệm, trạm nghiên cứu, trạm quan trắc, trạm thử nghiệm và hình
thức khác do Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ quy định;
+ Cơ sở giáo dục đại học được tổ chức theo quy định của Luật giáo dục

đại học;
+ Tổ chức dịch vụ khoa học và công nghệ được tổ chức dưới hình thức
trung tâm, văn phịng, phịng thử nghiệm và hình thức khác do Bộ trưởng Bộ
Khoa học và Công nghệ quy định.
- Tổ chức khoa học và công nghệ được phân loại như sau:
+ Theo thẩm quyền thành lập, tổ chức khoa học và công nghệ gồm các
loại quy định tại khoản 1 Điều 12 của Luật khoa học và công nghệ năm 2013;
+ Theo chức năng, tổ chức khoa học và công nghệ gồm tổ chức nghiên
cứu cơ bản, tổ chức nghiên cứu ứng dụng, tổ chức dịch vụ khoa học và cơng
nghệ;
+ Theo hình thức sở hữu, tổ chức khoa học và công nghệ gồm tổ chức
khoa học và công nghệ công lập, tổ chức khoa học và cơng nghệ ngồi cơng
lập, tổ chức khoa học và cơng nghệ có vốn nước ngồi.
Tổ chức khoa học và công nghệ công lập là tổ chức khoa học và cơng
nghệ do cơ quan có thẩm quyền quy định tại các điểm a, b, c, d, đ, e và g
Khoản 1 Điều 12 Luật khoa học và cơng nghệ và do tổ chức chính trị, tổ chức
chính trị - xã hội, thành lập và đầu tư. [22]
Từ một cách tiếp cận khác, tổ chức KHCN công lập được nhận định là
tương đồng với đơn vị sự nghiệp công lập hoạt động trong lĩnh vực khoa học
và công nghệ bởi các đặc điểm về cơ quan thành lập, tính chất hoạt động và
cơ cấu nguồn tài chính của các tổ chức này.


Đơn vị sự nghiệp (ĐVSN) là những tổ chức được thành lập để thực hiện
các HĐSN, những hoạt động này nhằm duy trì và đảm bảo sự hoạt động bình
thường của xã hội, khơng nhằm mục đích thu lợi nhuận.Với cách hiểu này,
ĐVSN là đơn vị khơng có tính chất xí nghiệp, lấy phát triển kinh tế, văn hóa
và phúc lợi xã hội làm mục tiêu, nhân viên các ĐVSN thuộc sở hữu toàn dân
thuộc biên chế sự nghiệp. Nguồn kinh phí chủ yếu dựa vào cấp phát kinh phí
sự nghiệp của NSNN, một phần dựa vào thu nhập bản thân của hoạt động sự

nghiệp [28, tr.664].
Tùy theo yêu cầu quản lý của nhà nước cũng như chức năng nhiệm vụ
của từng đơn vị mà có nhiều cách phân loại các ĐVSN khác nhau.
Căn cứ vào chuyên ngành hoạt động của ĐVSN, có thể phân loại các
ĐVSN theo các lĩnh vực như y tế; giáo dục, đào tạo; văn hóa; thể dục thể
thao; khoa học công nghệ… Đây là cách phân loại theo chiều dọc, tuy
nhiên trên thực tế có rất nhiều ĐVSN tham gia hoạt động đồng thời ở nhiều
lĩnh vực.
Căn cứ vào cơ quan trực tiếp quản lý, có thể chia ĐVSN thành 4 nhóm:
ĐVSN thuộc các cơ quan hành chính nhà nước; ĐVSN trực thuộc các đơn vị
sự nghiệp cơng; ĐVSN thuộc các tổ chức chính trị - xã hội, xã hội – nghề
nghiệp; ĐVSN trực thuộc các doanh nghiệp nhà nước. Cách phân loại này
phân biệt rõ các cấp quản lý trực tiếp đối với các ĐVSN cơng, từ đó có sự rõ
ràng trong giao nhiệm vụ và cấp kinh phí hoạt động.
- Căn cứ quy định của Luật Ngân sách nhà nước, các ĐVSN công lập
được phân thành đơn vị dự toán cấp I, đơn vị dự toán ngân sách, đơn vị sử
dụng ngân sách: Đơn vị dự toán cấp I là đơn vị dự tốn ngân sách được Thủ
tướng Chính phủ hoặc Ủy ban nhân dân giao dự toán ngân sách..
- Đơn vị dự toán ngân sách là cơ quan, tổ chức, đơn vị được cấp có
thẩm quyền giao dự tốn ngân sách.


- Đơn vị sử dụng ngân sách là đơn vị dự toán ngân sách được giao trực
tiếp quản lý, sử dụng ngân sách.
1.1.3. Tài chính cơng và tài chính tổ chức khoa học và cơng nghệ
cơng lập
Tài chính cơng là một phạm trù gắn với hoạt động thu và chi bằng tiền
của nhà nước, phản ánh hệ thống các quan hệ kinh tế dưới hình thức giá trị
trong quá trình hình thành và sử dụng các quỹ tiền tệ của nhà nước nhằm
phục vụ việc thực hiện những chức năng vốn có của nhà nước đối với xã hội

(khơng vì mục tiêu lợi nhuận).
Nội dung của tài chính cơng bao gồm: Ngân sách nhà nước (NSNN) từ
trung ương đến địa phương; dự trữ nhà nước; tín dụng nhà nước; ngân hàng
nhà nước; tài chính của các cơ quan hành chính nhà nước, tài chính của các
đơn vị sự nghiệp nhà nước; các quỹ tài chính nhà nước (đối với nước ta).
Trong đó NSNN là bộ phận quan trọng nhất, chi phối đến các thành tố
khác. Ngân sách nhà nước là toàn bộ các khoản thu, chi của Nhà nước được
dự toán và thực hiện trong một khoảng thời gian nhất định do cơ quan nhà
nước có thẩm quyền quyết định để bảo đảm thực hiện các chức năng, nhiệm
vụ của Nhà nước.
Tài chính các đơn vị sự nghiệp cơng lập, trong đó bao gồm các tổ chức
KHCN cơng lập, là một bộ phận của tài chính cơng. Nguồn tài chính cho các
đơn vị này hoạt động chủ yếu dựa vào những khoản cấp phát theo chế độ từ
NSNN. Ngoài ra cịn một số khoản thu khác có nguồn gốc từ NSNN, các
khoản thu do đơn vị tự khai thác, hoặc từ qun góp, tặng, biếu khơng phải
nộp NSNN.
Nói rõ hơn, tài chính của các tổ chức KHCN cơng lập khơng giống tài
chính của doanh nghiệp. Xét về nguồn thu: Nếu doanh nghiệp có nguồn tài
chính đa dạng, từ vốn chủ sở hữu, vốn cổ phần, vốn vay… thì nguồn tài chính


của tổ chức KHCN công lập chỉ chủ yếu là khoản tài trợ từ ngân sách nhà
nước. Nếu doanh nghiệp có thể chủ động gia tăng vốn bằng cách huy động từ
nhiều nguồn khác nhau từ mọi chủ thể kinh tế, thì tổ chức KHCN cơng lập lại
chỉ có thể mở rộng nguồn thu từ các kinh phí NSNN, từ các khoản thu phí, lệ
phí theo đúng luật định. Xét về phân phối và sử dụng tài chính: Doanh nghiệp
được chủ động sử dụng tồn bộ nguồn tài chính của mình trong tổ chức và
hoạt động. Trong khi đó, tại các tổ chức KHCN công lập, các khoản chi phải
được thực hiện theo đúng các định mức đã quy định trong các văn bản pháp
luật liên quan.

Tóm lại, tài chính trong các tổ chức KHCN cơng lập vì sử dụng NSNN
nên bị ràng buộc bởi các định mức và khoản chi theo các văn bản quy định
của nhà nước và cơ quan chủ quản. Điều này ảnh hưởng không nhỏ tới hiệu
quả hoạt động của các tổ chức KHCN công lập, ảnh hưởng tới chất lượng các
dịch vụ công cũng như hiệu lực quản lý của nhà nước.
Chính vì thế, cải cách tài chính cơng là một địi hỏi khách quan và phù
hợp với các điều kiện đảm bảo tính khả thi của nó, xuất phát từ thực trạng tài
chính công hiện nay và yêu cầu về cải cách hành chính nhà nước trong thời
gian tới. Đối với tài chính các đơn vị sự nghiệp công lập: định mức, chế độ
chi tiêu cịn chưa hợp lý, thiếu cụ thể, khơng đồng bộ. Cơ chế quản lý biên
chế, quản lý kinh phí ngân sách cịn bất cập, chưa tạo động lực khuyến khích
sử dụng kinh phí tiết kiệm, hiệu quả, dẫn đến tình trạng lãng phí khả phổ biến.
Tăng cường tự chủ tài chính tại các đơn vị hành chính sự nghiệp cơng lập
trên cơ sở gắn chi tiêu tài chính với việc cải tiến cơ chế quản lý các đơn vị này là
một trong các giải pháp nhằm cải cách tài chính cơng đang được thực hiện.


1.2. Cơ chế tự chủ tài chính tại các tổ chức khoa học và công nghệ

công lập
1.2.1. Khái niệm cơ chế tự chủ tài chính
Trong lĩnh vực kinh tế nói chung và tài chính nói riêng, sự vận hành các
phạm trù thuộc lĩnh vực này luôn chịu sự chi phối của (i) các quy luật kinh
tế/tài chính đã và đang tồn tại trong môi trường kinh tế nhất định; (ii) con
người đưa ra những cách thức để hướng sự vận động của các phạm trù kinh
tế/tài chính mang tính quy luật khách quan theo những mục đích chủ quan của
mình. Với cách tiếp cận như vậy, có thể hiểu cơ chế tự chủ tài chính là cơ chế
quản lý nhằm tăng cường quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho các đơn vị về
các mặt hoạt động tài chính, tổ chức bộ máy và sắp xếp lao động qua đó làm
tăng chất lượng hoạt động và cung cấp dịch vụ của đơn vị. Nói cách khác, đây

là hệ thống các ngun tắc, luật định, chính sách, cơng cụ về quản lý tài
chính và mối quan hệ tài chính giữa các đơn vị dự toán các cấp với cơ quan
chủ quản và cơ quan quản lý nhà nước trong những điều kiện cụ thể nhằm đạt
được các mục tiêu nhất định.
Cơ chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp công được định nghĩa tại Khoản 1
Điều 3 Nghị định 16/2015/NĐ-CP Quy định cơ chế tự chủ của đơn vị sự
nghiệp công lập như sau: “Cơ chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp công” là các
quy định về quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong việc thực hiện nhiệm vụ,
tổ chức bộ máy, nhân sự và tài chính của đơn vị sự nghiệp công [10]. Bản
chất của tự chủ là sự phân chia quyền lực từ nhà nước tới cơ sở hoạt động sự
nghiệp. Tự chủ tài chính là một nội dung trong tự chủ hoạt động của tổ chức
KHCN.
Có thể tóm tắt nội hàm của tự chủ tài chính đối với các tổ chức KHCN
công lập như sau:
- Tự chủ tài chính là phương thức quản lý tài chính trong nền kinh tế thị
trường. Điều này hoàn toàn khác với phương thức quản lý tài chính theo cơ
chế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp là căn cứ vào kế hoạch nhà nước giao,


NSNN cấp tồn bộ kinh phí hoạt động cho đơn vị. Tự chủ tài chính là phương
thức quản lý tài chính trong đó tổ chức KHCN cơng lập là những chủ thể độc
lập, tự quyết định các hoạt động sự nghiệp về tài chính, nhà nước khơng can
thiệp trực tiếp vào các quan hệ tài chính của đơn vị. Nhà nước thực hiện chức
năng quản lý của mình thơng qua cơ chế, chính sách tài chính, hỗ trợ và các
hợp đồng được đặt hàng của chính phủ. Nhà nước đóng vai trò là “người đại
diện xã hội” “mua” lại các dịch vụ của tổ chức KHCN cơng lập. Hay nói cách
khác, đây chính là phương thức quản lý chi NSNN theo kết quả đầu ra.
- Tự chủ tài chính đối với tổ chức KHCN công lập được thực hiện trên
cơ sở nhà nước trao quyền tự quyết định và tự chịu trách nhiệm về hoạt động
tài chính, đồng thời tạo điều kiện pháp lý cần thiết cho tổ chức KHCN thực

hiện quyền tự chủ của mình về tài chính. Trong khung khổ các quy định, các
văn bản quy phạm pháp luật, đối với từng loại tổ chức KHCN công lập theo
quy định của Chính phủ, từng nhóm được giao quyền quyết định trong huy
động, phân bổ và sử dụng các nguồn tài chính gắn với nhiệm vụ, trách nhiệm
của mình.
- Tự chủ tài chính trong tổ chức KHCN cơng lập được thực hiện một
cách đầy đủ và tập trung ở việc tự cân đối thu – chi qua các kỳ kế tốn. Tự
chủ tài chính và cân đối thu – chi của tổ chức KHCN công lập là hai mặt của
một q trình. Một mặt tự chủ tài chính nhằm tự cân đối được thu – chi, mặt
khác tổ chức KHCN cơng lập có tự cân đối được thu – chi thì mới thực hiện
được quyền tự chủ tài chính trên thực tế.
Đối với các tổ chức KHCN công lập, cơ chế tự chủ tài chính được hiểu
là cơ chế theo đó các đơn vị cơng được trao quyền tự quyết định, tự chịu
trách nhiệm về các khoản thu, khoản chi của đơn vị mình, nhưng khơng vượt
q mức khung do Nhà nước quy định.
Đơn vị thực hiện quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm phải là đơn vị dự
toán độc lập, có con dấu và tài khoản riêng, tổ chức bộ máy kế toán theo quy
định của Luật Kế toán.


Tự chủ tài chính đối với tổ chức KHCN cơng lập nhằm mục đích đảm
bảo cho tổ chức KHCN cơng lập khơng ngừng phát triển và hồn thiện, đáp
ứng nhu cầu ngày càng cao về dịch vụ công của xã hội, hoàn thành các nhiệm
vụ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Mục tiêu của cơ chế tự chủ tài chính đối với các tổ chức KHCN cơng lập
là:
Thứ nhất, trao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho đơn vị trong việc
tổ chức công việc, sắp xếp lại bộ máy, sử dụng lao động và nguồn lực tài
chính để hồn thành nhiệm vụ được giao; phát huy mọi khả năng của đơn vị
để cung cấp dịch vụ với chất lượng cao cho xã hội; tăng nguồn thu, nhằm

từng bước giải quyết thu nhập cho người lao động; phát huy tính sáng tạo,
năng động, xây dựng “thương hiệu riêng” cho đơn vị mình.
Thứ hai, thực hiện chủ trương xã hội hóa trong việc cung cấp dịch vụ
cho xã hội, huy động sự đóng góp của cộng đồng xã hội để phát triển các hoạt
động sự nghiệp, từng bước giảm dần bao cấp từ ngân sách nhà nước.
Thứ ba, thực hiện quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm đối với tổ chức công
lập, Nhà nước vẫn quan tâm đầu tư để hoạt động sự nghiệp ngày càng phát
triển; bảo đảm cho các đối tượng chính sách - xã hội, đồng bào dân tộc thiểu
số, vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn được cung cấp dịch vụ theo
quy định ngày càng tốt hơn.
1.2.2. Nội dung và nguyên tắc thực hiện tự chủ tài chính tại các tổ
chức khoa học và công nghệ công lập.
Các tiếp cận về khái niệm cho thấy nội dung của cơ chế tự chủ tài chính
là một văn bản pháp luật chứa đựng những quy định về quyền tự chủ tài chính
của tổ chức KHCN cơng lập. Nó là một tập hợp những quy định nhằm chuyển
đổi quyền hạn ra quyết định về tài chính của nhà nước sang các đơn vị hành
chính sự nghiệp, để hoạt động độc lập trong lĩnh vực tài chính.
Nội dung của cơ chế tự chủ tài chính tại các tổ chức khoa học và công
nghệ công lập được quy định tại Nghị định số 115/2005/NĐ-CP ký ngày


5/9/2005 và được sửa đổi, bổ sung tại Nghị định số 96/2010/NĐ-CP ký ngày
20/9/2010 áp dụng cho các tổ chức nghiên cứu khoa học, tổ chức nghiên cứu
khoa học và phát triển công nghệ, tổ chức dịch vụ khoa học và cơng nghệ có
tư cách pháp nhân, có con dấu và tài khoản riêng, do cơ quan quản lý nhà
nước có thẩm quyền quyết định thành lập. Hiện nay, các tổ chức khoa học và
công nghệ công lập thực hiện cơ chế tự chủ theo Nghị định 54/2016/NĐ-CP
ngày 14 tháng 6 năm 2016. Theo đó, quyền tự chủ của tổ chức khoa học và
công nghệ công lập bao gồm quyền tự chủ về tài chính, thực hiện nhiệm vụ,
tổ chức bộ máy, nhân sự, quản lý và sử dụng tài sản. Trong khuôn khổ luận

văn chỉ nghiên cứu nội dung tự chủ tài chính của tổ chức khoa học và cơng
nghệ cơng lập.
Về mặt tài chính, các tổ chức khoa học và công nghệ công lập được thực
hiện tự chủ trong quản lý, khai thác nguồn thu và sử dụng nguồn tài chính của
mình.
Tự chủ trong quản lý và khai thác các nguồn thu bao gồm: a) Nguồn
thu từ hoạt động khoa học và công nghệ, sản xuất, kinh doanh, liên doanh,
liên kết và nguồn thu hợp pháp khác; b) Nguồn thu phí theo pháp luật về phí,
lệ phí được để lại để chi hoạt động thường xuyên và chi mua sắm, sửa chữa
lớn trang thiết bị, tài sản phục vụ cơng tác thu phí; c) Nguồn thu từ ngân sách
nhà nước nếu được cơ quan có thẩm quyền giao để thực hiện nhiệm vụ khoa
học và công nghệ, nhiệm vụ thường xuyên theo chức năng, dịch vụ sự nghiệp
công; d) Nguồn thu từ ngân sách nhà nước để thực hiện các nhiệm vụ không
thường xuyên nếu được cơ quan có thẩm quyền giao, bao gồm: Kinh phí thực
hiện các chương trình mục tiêu quốc gia, chương trình, dự án, đề án khác;
kinh phí đối ứng thực hiện các dự án; vốn đầu tư phát triển; kinh phí mua
sắm trang thiết bị phục vụ hoạt động sự nghiệp theo dự án được cấp có thẩm
quyền phê duyệt; kinh phí thực hiện nhiệm vụ đột xuất được cơ quan có thẩm
quyền giao;đ) Nguồn vốn vay, viện trợ, tài trợ theo quy định hiện hành.[11]


Tự chủ tài chính yêu cầu các tổ chức KHCN quản lý và khai thác các
nguồn thu theo đúng chế độ, đúng phạm vi và định mức, phải đưa vào dự toán
và được quản lý, hoạch toán đúng pháp luật. Các khoản thu đảm bảo tính
cơng khai, minh bạch, kết hợp chặt chẽ giữa yếu tố thẩm quyền và trách
nhiệm.
Tự chủ trong sử dụng nguồn tài chính tại các tổ chức KHCN công lập
là tự chủ trong quản lý các loại chi phí phát sinh khi đơn vị hoạt động sự
nghiệp.
- Chi thường xuyên: là các khoản chi hoạt động theo chức năng, nhiệm

vụ được giao. Các khoản chi thường xuyên bao gồm: Chi tiền lương, tiền
công, phụ cấp, BHXH, tiền thưởng; Chi hoạt động chuyên môn, chi quản lý;
Chi mua hàng hóa dịch vụ như điện, nước, xăng dầu, văn phịng phẩm, thơng
tin liên lạc, cơng tác phí, th mướn, sửa chữa… và những chi phí khác phục
vụ hoạt động thường xuyên của đơn vị.
- Chi không thường xuyên: chi đầu tư xây dựng cơ bản, mua sắm thiết
bị, sửa chữa lớn… và các khoản chi khác theo quy định.
Yêu cầu chi tiêu tài chính là các khoản chi phải đúng, đảm bảo định
mức, hợp lý; đảm bảo tiết kiệm, hiệu quả, chính xác, trung thực; chấp hành
nghiêm chế độ tài chính kế tốn của nhà nước và đơn vị. Việc cân bằng giữa
quyền quản lý và trách nhiệm là cốt lõi trong quản lý chi tiêu tổ chức công
lập. Đơn vị cần được giao quyền hạn rõ ràng trong phân bổ nguồn lực để thực
hiện cung cấp dịch vụ một cách nhanh chóng và hiệu quả nhất. Nhưng đồng
thời cũng cần gắn trách nhiệm cụ thể. Áp dụng cơ chế khoán chi cho phép các
đơn vị tự hạch tốn theo đúng quy định vừa đảm bảo tính độc lập vừa đảm
bảo tính đặc thù của mỗi đơn vị. Các đơn vị được tự xác định mức chi trả thu
nhập tăng thêm cho cán bộ viên chức theo quy chế chi tiêu nội bộ; được tự
chủ trong trích lập các quỹ nhằm phân phối hợp lý kết quả tài chính.
Quản lý tài chính theo hướng tự chủ tại tổ chức KHCN khoa học và công
nghệ công lập cần tuần thủ các nguyên tắc:


- Bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ được giao. Đối với hoạt động sản xuất
hàng hóa, cung cấp dịch vụ phải phù hợp với chức năng, nhiệm vụ được giao,
phù hợp với khả năng chun mơn và tài chính của đơn vị.
- Thực hiện công khai, dân chủ theo quy định của pháp luật, bảo đảm
quyền lợi hợp pháp của cán bộ công chức viên chức và người lao động.
- Thực hiện quyền tự chủ phải gắn với tự chịu trách nhiệm trước cơ
quan quản lý cấp trên trực tiếp và trước pháp luật về những quyết định của
mình; đồng thời chịu sự kiểm tra, giám sát của các cơ quan Nhà nước có

thẩm quyền.
- Bảo đảm lợi ích của Nhà nước, quyền, nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân
theo quy định của pháp luật.
1.2.3. Tính khách quan của thực hiện cơ chế tự chủ tài chính tại tổ chức
khoa học và công nghệ công lập.
Thực hiện Chiến lược phát triển KH&CN giai đoạn 2011 – 2020, nguôǹ
lực đầu tư từ NSNN cho phát triển KH&CN tiếp tục được mở rộng và tăng
cường, góp phần quan trọng trong việc thực hiện có kết quả các nhiệm vụ về
phát triển KH&CN nói riêng và nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội nói chung
của đất nước. Trong giai đoạn 2016 - 2019, mặc dù điều kiện NSNN cịn gặp
nhiều khó khăn, nhưng bố trí chi NSNN cho phát triển hoạt động KH&CN
luôn ưu tiên năm sau tăng cao hơn so với năm trước. Tổng dự toán chi NSNN
sự nghiệp KH&CN giai đoạn 2016 - 2019 đã được Quốc hội thông qua tại các
nghị quyết về về phân bổ ngân sách hàng năm là 46.729 tỷ đồng. Nguồn lực
tài chính cho phát triển KH&CN đã được bố trí tăng dần trong những năm
gần đây, theo đó trong năm 2019, tổng chi sự nghiệp cho KH&CN 12.825 tỷ
đồng, tăng khoảng 22% so với năm 2016 [34].
Tuy nhiên cơ chế quản lý tài chính đối với hoạt động khoa học cơng
nghệ vẫn cịn bất cập. Nước ta đã bước vào nền kinh tế thị trường, nhưng hoạt
động KH&CN còn chịu nhiều quy định mang nặng tính hành chính, tư duy
của thời bao cấp kế hoạch hóa. Trước hết là cơng tác xây dựng kế hoạch cho


×