Tải bản đầy đủ (.doc) (124 trang)

Sự hợp tác phát triển kinh tế tiểu vùng sông mê kông mở rộng từ năm 1992 đến năm 2016 (2017)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.09 MB, 124 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA LỊCH SỬ
**************

HÀ THÚY CHIỀU

SỰ HỢP TÁC PHÁT TRIỂN KINH TẾ TIỂU
VÙNG SÔNG MÊ KÔNG MỞ RỘNG TỪ
NĂM 1992 ĐẾN NĂM 2016
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Lịch sử thế giới

Người hướng dẫn khoa học
TS NGUYỄN THỊ TUYẾT NHUNG

H À NỘI – 2017


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành bài Khóa luận tốt nghiệp này, em xin gửi lời cảm ơn
chân thành nhất tới TS Nguyễn Thị Tuyết Nhung - người đã nhiệt tình hướng
dẫn, giúp đỡ, chỉ bảo em trong quá trình nghiên cứu đề tài.
Em xin chân thành cảm ơn toàn thể các Thầy/Cô giáo khoa Lịch sử,
trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2, những người đã truyền cho em những bài
học, những kinh nghiệm quý báu và tạo mọi điều kiện cho em hoàn thành đề
tài nghiên cứu này. Xin gửi lời cảm ơn đến bạn bè, người thân luôn ở bên
cạnh động viên, giúp đỡ em trong những lúc khó khăn.
Em xin gửi lời cảm ơn đến Thư viện Quốc gia Hà Nội, Thư viện trường
Đại học Sư phạm Hà Nội 2, Thư viện trường Đại học Sư phạm Hà Nội, Thư
viện trường Đại học Quốc gia Hà Nội đã giúp đỡ em tìm hiểu, khai thác
nguồn tài liệu cần thiết, đây là một phần quan trọng giúp cho đề tài nghiên


cứu đạt kết quả cao nhất.
Cuối cùng em xin gửi lời cảm ơn đặc biệt nhất tới cha mẹ, người đã
sinh thành và nuôi dưỡng em khôn lớn, người luôn giúp đỡ em có thêm động
lực và niềm tin trong lúc đề tài gặp khó khăn hay bế tắc.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 26 tháng 04 năm 2017
Sinh viên
Hà Thúy Chiều


LỜI CAM ĐOAN
Em xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng em, dưới sự
hướng dẫn của cô giáo, Tiến sĩ Nguyễn Thị Tuyết Nhung.
Em xin cam đoan những kết quả nghiên cứu của khóa luận chưa từng
được công bố ở bất kỳ một công trình nghiên cứu nào, đó là những kết quả
đúng, nếu sai em hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Hà Nội, ngày 26 tháng 04 năm 2017
Sinh viên
Hà Thúy Chiều


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

ADB

: Ngân hàng Phát triển Châu Á

GMS

: Chương trình hợp tác tiểu vùng Mê Công mở rộng


RIE

: Khung đầu tư GMS

NSEC

: Hành lang kinh tế Bắc- Nam

EWEC

: Hành lang kinh tế Đông- Tây

SEC

: Hành lang kinh tế phía Nam

GMRA

: Hiệp hội đường sắt GMS

MTCO

: Văn phòng điều phối Du lịch Mê Công

WGE

: Nhóm Công tác môi trường GMS

BCI


: Sáng kiến hành lang bảo tồn đa dạng sinh học GMS

CEP

: Chương trình môi trường trọng điểm


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài........................................................................................... 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ............................................................................ 2
3. Đối tượng, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu................................................ 4
3.1. Đối tượng nghiên cứu................................................................................. 4
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................................. 5
3.3. Phạm vi nghiên cứu.................................................................................... 5
4. Phương pháp nghiên cứu............................................................................... 5
5. Đóng góp của đề tài....................................................................................... 6
6. Bố cục của đề tài ........................................................................................... 6
Chương 1. NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN HỢP TÁC KINH TẾ
TIỂU VÙNG SÔNG MÊ CÔNG MỞ RỘNG .............................................. 7
1.1. Khái quát về Tiểu vùng sông Mê Công mở rộng....................................... 7
1.2. Tiềm năng phát triển kinh tế của Tiểu vùng sông Mê Công.................... 11
1.3. Nhu cầu hợp tác kinh tế của các nước tiểu vùng sông Mê Công mở rộng ..
15
*Tiểu kết chương 1 .......................................................................................... 20
Chương 2. HỢP TÁC KINH TẾ TIỂU VÙNG SÔNG MÊ CÔNG MỞ
RỘNG (1992 - 2016)...................................................................................... 22
2.1. Mục tiêu và nguyên tắc hợp tác của Tiểu vùng sông Mê Công mở rộng ....
22

2.2. Chương trình hợp tác ............................................................................... 25
2.2.1. Cơ sở hạ tầng - giao thông vận tải ....................................................... 25
2.2.2. Năng lượng............................................................................................ 31
2.2.3. Du lịch và đầu tư thương mại ............................................................... 34
2.2.4. Phát triển nguồn nhân lực..................................................................... 38
2.2.5. Môi trường và tài nguyên thiên nhiên................................................... 41


2.3. Những tác động, cơ hội và thách thức trong hợp tác giữa các nước Tiểu
vùng sông Mê Công mở rộng.......................................................................... 45
2.3.1. Tác động và cơ hội ................................................................................ 45
2.3.2. Thách thức............................................................................................. 52
* Tiểu kết chương 2......................................................................................... 61
KẾT LUẬN .................................................................................................... 63
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..................................................... 66
PHỤ LỤC


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Tiểu vùng sông Mê Công bao gồm năm nước thuộc khu vực Đông Nam
Á lục địa, trong đó có ba nước nằm trên bán đảo Đông Dương là Việt Nam,
Lào, Campuchia, ngoài ra còn có Thái Lan và Myanmar. Với diện tích gần 2
2

triệu km , dân số hơn 200 triệu người, có nhiều nguồn tài nguyên thiên nhiên
phong phú, Tiểu vùng sông Mê Công có nhiều tiềm năng để phát triển kinh tế.
Sau khi trải qua một thời gian dài trong chiến tranh và xung đột, đến đầu năm
1990 nhân dân các nước thuộc Tiểu vùng Mê Công (đặc biệt là Việt Nam,
Lào, Campuchia và Myanmar) đã tập trung nỗ lực vào việc xây dựng và phát

triển kinh tế đất nước.
Các nước này có chung đường biên giới và có dòng sông Mê Công
chảy qua, sông Mê Công bắt đầu chảy từ thượng nguồn Trung Quốc, qua các
nước Thái Lan, Myanmar, Campuchia, Lào, rồi qua Việt Nam và chảy ra biển
Đông. Với việc có chung một dòng sông chảy qua, các nước trong khu vực
Tiểu vùng Mê Công đã lập kế hoạch hợp tác với nhau nhằm khai thác lợi ích
kinh tế từ sông Mê Công và đề ra các biện pháp duy trì và bảo vệ lợi ích từ
sông Mê Công mang lại.
Trong bối cảnh đó nhu cầu hợp tác khu vực trở thành một vấn đề được
nhiều quốc gia quan tâm. Năm 1992, Ngân hàng phát triển Châu Á đã đề xuất
sáng kiến hợp tác Tiểu vùng sông Mê Công mở rộng, bao gồm sáu nước: Việt
Nam, Lào, Campuchia, Thái Lan, Myanmar và hai tỉnh của Trung Quốc là
Vân Nam và Quảng Tây. Tiến hành hợp tác trên nhiều lĩnh vực: giao thông
vận tải, du lịch, bưu chính viễn thông, thương mại, đầu tư và nông nghiệp...
Cho nên, nghiên cứu về vấn đề hợp tác kinh tế Tiểu vùng sông Mê Công mở
rộng sẽ giúp có cái nhìn toàn diện hơn về quá trình hợp tác, các chương trình
hợp tác trong Tiểu vùng Mê Công mở rộng dưới sự hỗ trợ của Ngân hàng
phát triển Châu Á.
1


Đồng thời, trong bối cảnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập
quốc tế, nhu cầu hợp tác phát triển tăng cao giữa các khu vực cũng như trên
thế giới. Sự gia tăng nhanh chóng của quá trình toàn cầu hóa trên tất cả các
lĩnh vực khiến các quốc gia trên thế giới ngày càng tăng tính phụ thuộc vào
nhau, dẫn đến có nhu cầu đẩy mạnh và mở rộng hợp tác kinh tế với nhau. Các
nước trong Tiểu vùng sông Mê Công mở rộng tăng cường hợp tác để nâng
cao trình độ phát triển kinh tế đất nước, ổn định khu vực, đồng thời thu hút sự
đầu tư của các nước phát triển trên thế giới vào khu vực trên tất cả các lĩnh
vực và tăng cường sự ảnh hưởng ra bên ngoài. Đề tài nghiên cứu này sẽ khái

quát lên nhu cầu hợp tác, cũng như tầm quan trọng của xu thế hợp tác quốc tế
trong bối cảnh hiện nay. Đặc biệt là trong Tiểu vùng sông Mê Công mở rộng,
nhu cầu hợp tác khu vực là một vấn đề được tất cả các nước trong Tiểu vùng
đặc biệt quan tâm và tiến hành một cách nhanh chóng và cẩn thận để đảm bảo
phát triển kinh tế vùng.
Ngoài ra, GMS cũng đứng trước nhiều cơ hội và thách thức, vấn đề đặt
ra là phải đánh giá đầy đủ tiềm năng và những khó khăn trong quá trình hợp
tác của GMS gặp phải, tìm ra những định hướng, giải pháp hữu hiệu nhất để
phát triển Tiểu vùng hiện nay và trong tương lai. Công trình khoa học này sẽ
nghiên cứu một cách tổng thể, toàn diện, có luận cứ khoa học để đưa ra các
gợi ý chính sách cho Tiểu vùng.
Với tất cả những lí do trên có thể thấy nghiên cứu về sự hợp tác phát
triển kinh tế trong Tiểu vùng sông Mê Công đã trở thành một vấn đề vô cùng
cấp thiết, có ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn sâu sắc.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Vấn đề nghiên cứu Tiểu vùng sông Mê Công mở rộng không phải là
một vấn đề mới trong công tác nghiên cứu lịch sử. Tuy nhiên, việc hiểu và
đánh giá đúng đắn, hợp lý về sự hợp tác phát triển kinh tế trong Tiểu vùng

2


còn nhiều thiếu xót và chưa thỏa đáng. Việc nghiên cứu về các nước trong
Tiểu vùng sông Mê Công và sự hợp tác phát triển kinh tế của vùng mang lại
nhiều giá trị thiết thực trong công tác nghiên cứu sử học và có ý nghĩa trên
nhiều mặt.
Cho đến nay đã có khá nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề này. Tuy
nhiên, việc tìm hiểu về Tiểu vùng sông Mê Công mở rộng và các chương
trình hợp tác kinh tế còn rất hạn chế, đa phần các tài liệu chỉ dừng lại ở việc
tìm hiểu chung và khái quát về khu vực này, chứ chưa nghiên cứu nào thực sự

tìm hiểu mang tính hệ thống và trọn vẹn nhất về quá trình hợp tác phát triển
kinh tế của Tiểu vùng.
Trong cuốn “Sông và Tiểu vùng Mê Công: Tiềm năng và hợp tác phát
triển quốc tế” của tác giả Nguyễn Trần Quế (chủ biên) do Nhà xuất bản Khoa
học xã hội xuất bản năm 2001, tác giả đã đề cập đến sự hợp tác trong Tiểu
vùng này. Tuy nhiên những nghiên cứu ở đây chỉ mang tính khái quát, chứ
không đi sâu nghiên cứu cụ thể vấn đề nào của quá trình hợp tác đó. Tuy vậy,
đây cũng là một nguồn tài liệu tham khảo tin cậy cho người viết khi thực hiện
nghiên cứu đề tài này.
Trong cuốn “Hợp tác phát triển Tiểu vùng Mê Công mở rộng hiện tại
và tương lai” của tác giả Nguyễn Trần Quế (chủ biên) do Nhà xuất bản Khoa
học xã hội xuất bản năm 2007, trong tác phẩm này tác giả cũng chỉ dựa vào
cuốn “Sông và Tiểu vùng Mê Công: Tiềm năng và hợp tác phát triển quốc tế”
để bổ sung, phát triển thêm một số vấn đề, còn về nội dung thì vẫn giữ
nguyên và cũng chưa đi sâu vào nghiên cứu cụ thể vấn đề.
Trong cuốn “Công nghệ thông tin và truyền thông với chính sách
thương mại đầu tư phát triển Tiểu vùng sông Mê Công” của tác giả Ngô Thu
Trang (chủ biên) do Nhà xuất bản Bưu điện Hà Nội xuất bản năm 2006, trong
tác phẩm này tác giả chỉ đề cập đến việc đầu tư trên lĩnh vực công nghệ thông

3


tin và truyền thông vào khu vực Tiểu vùng sông Mê Công mở rộng, chứ chưa
mở rộng sang nghiên cứu làm rõ các lĩnh vực khác như du lịch, giao thông
vận tải... và cũng như chưa đánh giá được khả năng phát triển và hạn chế của
Tiểu vùng Mê Công.
Ngoài ra còn có một số cuốn tạp chí, các công trình nghiên cứu khoa
học của các thầy cô và các bạn sinh viên trong các trường đại học và cao đẳng
trong cả nước đã cung cấp cho tác giả những kiến thức cơ bản, chung nhất về

khu vực Tiểu vùng sông Mê Công mở rộng. Chẳng hạn như, trong Tạp chí
khoa học xã hội (Số 5), (T.108 - 110) tác giả Nguyễn Việt Nga (2003) đã viết
về “Hợp tác giữa các nước tiểu vùng sông Mê Công: cơ hội và thách thức”,
hay tác giả Trần Cao Thành (1999) với bài viết “Các chương trình và triển
vọng hợp tác quốc tế phát triển kinh tế tiểu vùng Mê Công”, đăng trong
Nghiên cứu Đông Nam Á (Số 3), (T.8 - 17).
Trên cơ sở những tài liệu đã được tiếp cận, tác giả nhận thấy hầu hết
các tài liệu này mới chỉ đề cập một cách khái quát về sự hợp tác của vùng mà
chưa đi sâu tìm hiểu kĩ về quá trình hợp tác, cũng như các chương trình, kế
hoạch, định hướng tương lai và tác động của chương trình hợp tác đến sự phát
triển của Tiểu vùng. Song đây cũng chính là những tài liệu quan trọng để cho
tác giả thực hiện nghiên cứu đề tài này.
Đề tài hợp tác phát triển kinh tế Tiểu vùng sông Mê Công mở rộng từ
năm 1992 đến năm 2016 sẽ tiếp tục kế thừa các công trình nghiên cứu trước
đó và đi sâu nghiên cứu về những chương trình hợp tác kinh tế và tác động
của nó tới sự phát triển kinh tế của các quốc gia trong Tiểu vùng, cũng như
những thuận lợi và thách thức trong quá trình hợp tác phát triển.
3. Đối tượng, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là sự hợp tác phát triển kinh tế Tiểu vùng sông
Mê Công mở rộng từ năm 1992 đến năm 2016.

4


3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để nghiên cứu đề tài, tác giả đã triển khai làm rõ các vấn đề:
- Khái quát về Tiểu vùng sông Mê Công mở rộng và những nhân tố tác
động đến sự phát triển kinh tế của vùng.
- Tiềm năng phát triển kinh tế và nhu cầu hợp tác phát triển kinh tế của

các nước Tiểu vùng sông Mê Công mở rộng.
- Các lĩnh vực hợp tác kinh tế Tiểu vùng Mê Công mở rộng và tác động
của nó đến các quốc gia trong Tiểu vùng Mê Công mở rộng.
- Cơ hội và thách thức trong hợp tác giữa các nước ở Tiểu vùng sông
Mê Công mở rộng.
- Định hướng hợp tác phát triển kinh tế trong tương lai tại Tiểu vùng
Mê Công mở rộng.
3.3. Phạm vi nghiên cứu
Thời gian: Đề tài tập trung nghiên cứu trong khoảng thời gian từ năm
1992 đến năm 2016 của quá trình hợp tác kinh tế, trên các mặt cơ sở hạ tầnggiao thông vận tải, năng lượng, du lịch và đầu tư thương mại, phát triển nguồn
nhân lực và môi trường và tài nguyên thiên nhiên.
Không gian: Đề tài tìm hiểu về sự hợp tác tại Tiểu vùng sông Mê Công,
bao gồm sáu nước Trung Quốc, Myanmar, Thái Lan, Lào, Campuchia và Việt
Nam, chủ yếu trên lĩnh vực kinh tế.
4. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp luận: Để thực hiện đề tài nghiên cứu, tác giả dựa trên cơ
sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và
quan điểm chỉ đạo của Đảng ta về nghiên cứu sử học.
Phương pháp nghiên cứu: Trong quá trình tiến hành nghiên cứu đề tài,
tác giả sử dụng hai phương pháp chính là phương pháp lịch sử và phương
pháp logic. Ngoài ra, còn sử dụng nhiều phương pháp khác như: sưu tầm, liệt
kê, phân tích, đối chiếu, so sánh, phương pháp liên ngành…

5


5. Đóng góp của đề tài
Khóa luận góp phần hệ thống hóa cơ sở lý luận và thực tiễn về hợp tác
kinh tế quốc tế, hội nhập khu vực và tiểu vùng; tiến hành phân tích, đánh giá
tổng quan về thực trạng hợp tác, nêu rõ vấn đề, định hướng của hợp tác kinh

tế của các nước ở Tiểu vùng sông Mê công từ năm 1992 - 2016.
Khóa luận là tài liệu tham khảo phục vụ cho công việc giảng dạy và
nghiên cứu về Tiểu vùng sông Mê Công. Ngoài ra, nghiên cứu vấn đề này sẽ
bổ sung những tư liệu khi giảng dạy và nghiên cứu về lịch sử các quốc gia
trong khu vực Đông Nam Á và Trung Quốc, cũng như lịch sử hợp tác phát
triển kinh tế của vùng. Bởi lẽ, trong khu vực Tiểu vùng sông Mê Công mở
rộng có tới năm quốc gia thuộc khu vực Đông Nam Á là Việt Nam, Lào,
Campuchia, Myanmar, Thái Lan, ngoài ra còn có Trung Quốc, một quốc gia
láng giềng của các nước Tiểu vùng Mê Công và có sức ảnh hưởng khá lớn đối
với Tiểu vùng.
6. Bố cục của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phần phụ lục, đề tài
có cấu trúc gồm hai chương:
Chương 1: Những nhân tố tác động đến hợp tác kinh tế Tiểu vùng sông
Mê Công mở rộng.
Chương 2: Hợp tác kinh tế Tiểu vùng sông Mê Công mở rộng từ năm
1992 - 2016.

6


Chương 1
NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN HỢP TÁC KINH TẾ
TIỂU VÙNG SÔNG MÊ CÔNG MỞ RỘNG
1.1. Khái quát về Tiểu vùng sông Mê Công mở rộng
Sông Mê Công, là con sông lớn thứ mười hai trên thế giới, chảy qua 6
nước: Trung Quốc, Myanmar, Thái Lan, Lào, Campuchia và Việt Nam. “Sông
Mê Công có chiều dài 4.200 km (phía lãnh thổ Trung Quốc, Myanmar dài
2


1800 km) chảy qua 6 nước. Diện tích lưu vực 795.000 km . Tổng lượng nước
3

bình quân nhiều năm 475 tỉ m . Lượng nước phân bổ không đều trong năm và
giữa các vùng, mùa khô dài ít nước, vùng Đông Bắc Thái Lan đất đai canh
tác nhiều mà mưa ít, phía Trung Quốc diện tích lưu vực là vùng núi cao khe
sâu, phía Lào và vùng Tây Nguyên Việt Nam mưa lớn đóng góp lượng nước
lớn, phía Trung quốc và Lào tiềm năng thủy điện lớn” [9; tr.125].
Gần một nửa chiều dài con sông này chảy trên lãnh thổ Trung Quốc,
phần lớn đoạn sông này chảy qua các dãy núi sâu và con sông này rời Trung
Quốc khi độ cao chỉ còn khoảng 500m so với mực nước biển.
Sau đó, đoạn sông Mê Công tạo thành biên giới giữa hai nước
Myanmar và Lào. Tại điểm cuối của biên giới, con sông này hợp với nhánh
sông Ruak tại Tam giác vàng (khu vực rừng núi hiểm trở nằm giữa
biên giới ba
nước Lào, Thái Lan, Myanmar). Điểm này cũng là điểm phân chia phần
Thượng và phần Hạ của Mê Công.
Sông Mê Công sau đó tạo thành biên giới của Lào và Thái Lan, trước
khi dòng chảy chạy vào đất Lào (tỉnh Bokeo). Khoảng sông ở Lào đặc trưng
bởi các hẻm núi sâu, các dòng chảy xiết và những vũng nước sâu khoảng nửa
mét vào mùa khô.
Sau đó, sông Mê Công chảy vào lãnh thổ Campuchia, tại đây con sông
này có tên là sông Tông - Lê Thơm (sông lớn). Ở phía trên Phnôm Pênh nó
hợp lưu với Tông-Lê Sáp, con sông nhánh chính của nó ở Campuchia.
7


Sông Mê Công tại Việt Nam, bắt đầu từ Phnôm Pênh, chia thành 2
nhánh: bên phải là sông Ba Thắc (sang Việt Nam gọi là Hậu Giang hay sông
Hậu) và bên trái là Mê Công (sang Việt Nam gọi là Tiền Giang hay sông

Tiền), cả hai đều chảy vào khu vực đồng bằng châu thổ rộng lớn ở Nam Bộ
Việt Nam. Tại Việt Nam, sông Mê Công còn có tên gọi là sông Lớn, sông Cái
hay sông Cửu Long.
Sông Mê Công mang lại nhiều lợi ích cho các quốc gia ven sông. Sông
Mê Công có nguồn tài nguyên thiên nhiên rất phong phú, đa dạng, nó tạo điều
kiện cho việc phát triển các ngành kinh tế như: phát triển giao thông, du lịch,
nông nghiệp, ngư nghiệp và thủy điện... để tiến hành khai thác hiệu quả các
nguồn lợi do dòng sông mang lại, các quốc gia trong Tiểu vùng cần bắt tay
hợp tác với nhau.
Về địa hình: Tiểu vùng sông Mê Công có năm khu vực địa hình chính
đó là: vùng núi phía Bắc, cao nguyên Korat, vùng núi phía Đông, vùng đồng
bằng và vùng cao phía Nam. Mỗi khu vực mang những đặc điểm khác nhau.
Tuy nhiên, có đặc điểm chung là đều có tiềm năng phát triển nông nghiệp,
vùng núi phía Bắc và vùng cao phía Nam hạn chế hơn do địa hình phức tạp,
có nhiều dãy núi cao nhưng tiềm năng thủy điện lớn và thích hợp phát triển
lâm nghiệp, xây dựng các khu vực bảo tồn quốc gia.
Tài nguyên đất: Hạ lưu sông Mê công chủ yếu phát triển nghề nông
nghiệp, gắn liền với các vụ mùa và hoa màu, cho nên đất là nguồn tài nguyên
quan trọng ở nơi đây. “Ở hạ lưu sông Mê Công đã xác định được 29 loại đất
chủ yếu, các loại đất này có thể chia thành 8 nhóm: 4 nhóm vùng đất thấp và
4 nhóm vùng đất cao” [9; tr.28].
Các nhóm đất vùng thấp chủ yếu tập trung tại cao nguyên Korat và
đồng bằng sông Mê Công, bao gồm các loại đất chính như: đất pha sét, đất
bùn, đất mặn và được chia thành các nhóm đất: đất phức hợp ven biển, đất
châu thổ, đất ở đồng bằng ngập lũ và đất phức hợp.

8


Nhóm đất phức hợp ven biển thường là đất pha sét, hơi chua, loại đất

này thích hợp để trồng lúa nước, phát triển hoa màu và thủy sản. Tuy nhiên,
hằng năm do mực nước sông Mê Công tăng lên làm hiện tượng xâm nhập
mặn ảnh hưởng đến việc sử dụng đất đai tại vùng đất này.
Đất châu thổ, cũng giống như vùng đất ven biển chủ yếu là đất pha sét,
tuy nhiên độ chua cao hơn so với vùng đất ven biển, nguyên nhân một phần do
chế độ thủy văn của sông Mê Công, mặt khác do hệ thống tiêu nước không
đảm bảo làm cho phèn chua tích đọng nhiều trong đất. Ngoài ra đây còn là
vùng đất bị nhiễm nhiều chất độc hại khác, cho nên việc phát triển hoa màu,
lúa nước ở vùng này rất hạn chế, đất chủ yếu dùng cho mục tiêu khác như
phát triển lâm nghiệp, đặc biệt là trồng cây tràm và phát triển nuôi trồng thủy
sản.
Ở đồng bằng ngập lũ chủ yếu là đất bồi pha sét, hơi chua và có độ phì
nhiêu trung bình. Nơi đây thích hợp cho các loại cây trồng cạn ở vùng đất cao
không bị ngập lũ và tại các vùng đầm lầy có thể trồng lúa nước. Tuy nhiên
cần tăng cường hệ thống thoát nước và điều tiết lũ để tránh ảnh hưởng đến
cấy trồng.
Ngoài ra ở vùng đất thấp còn có các loại đất phức hợp hay đất bùn, loại
đất này thích hợp cho cây lúa nhưng cần đảm bảo tưới tiêu và tăng độ phì
nhiêu cho đất.
Tại các vùng đất cao, chủ yếu là các loại đất potzon, đất đỏ và đen, đất
laterit và đất vùng núi. “Đất potzon có hàm lượng sét và chất hữu cơ thấp.
Chúng có khả năng ngập nước thấp, nhưng nếu được bón phân thì đảm bảo
được năng suất ổn định. Các loại đất đỏ và đen rất thích hợp với các loại cây
trồng vùng cao như cao su, ngô và bông. Đất laterit thường gặp tại các vùng
trên cao nguyên Korat và đồng bằng Mê Công, loại đất này nằm ở các tầng
nông và nói chung không thích hợp cho trồng trọt. Các loại đất vùng núi phần
lớn là đất nông, phát sinh từ các kết và đá phun trào có tính chua, tiềm năng
nông nghiệp của chúng hạn chế, kể cả đối với du canh” [9; tr.30].
9



Có thể thấy đất là tài nguyên quan trọng việc phát triển kinh tế, đặc biệt
là ngành nông nghiệp, lâm nghiệp tại vùng sông Mê Công. Tuy nhiên do hàm
lượng chất dinh dưỡng trong đất thấp, cộng với việc chịu ảnh hưởng của chế
độ thủy văn của sông Mê Công nên độ phèn, độ mặn tăng nhanh trong đất làm
ảnh hưởng khá lớn đến sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp nơi đây. Do đó, nó
đòi hỏi các khu vực quanh sông Mê Công cần có những biện pháp thích hợp
để cải tạo đất. Qua đây cho thấy, ngoài mặt lợi ích mang lại phù sa, nước tưới
tiêu cho đất, sông Mê Công còn là nhân tố làm ảnh hưởng xấu đến phát triển
nông nghiệp do làm tăng thêm độ chua, độ mặn trong đất, đó còn chưa kể tới
việc gây lũ lụt, ngập úng ảnh hưởng đến hoa màu và người dân ven sông.
Nhưng không thể phủ nhận vai trò của con sông này trong phát triển kinh tế.
Về khí hậu: Tiểu vùng sông Mê Công gồm các nước nằm trong khu vực
Đông Nam Á (trừ Trung Quốc), nơi đây chịu ảnh hưởng của khí hậu gió mùa,
khí hậu thất thường, chế độ mưa phụ thuộc vào phương hướng địa lý của từng
khu vực “Dãy núi Tenaserim ở Myanmar và các núi ven biển thuộc Thái Lan
và Campuchia trực tiếp chắn ngang hướng gió mùa Tây Nam nên nhận được
nhiều mưa tại phía sườn hướng ra biển, đồng thời che khuất đáng kể khu vực
phía sau, nằm sâu trong đất liền. Cũng như vậy các dãy núi duyên hải Việt
Nam che khuất vùng châu thổ và đồng bằng miền trung Thái Lan trong thời kỳ
gió mùa Đông Bắc” [9; tr.20]. Lượng mưa trên toàn khu vực Mê Công tương
đối nhiều nhưng phân bố không đồng đều. Lượng mưa hàng năm tập trung
nhiều từ các tháng 5 đến tháng 10, đặc biệt là vào tháng 9 với lượng mưa là
299mm (17,9%) lượng mưa trong cả năm. Tuy nhiên, do có lượng mưa lớn
nên thiên tai lũ lụt thường xảy ra vào tháng 8 và tháng 9 hàng năm. Các tháng
có lượng mưa thấp nhất là từ tháng 12 đến tháng 2, với lượng mưa trung bình
không quá 15mm. Lượng mưa phân bố không đều, dẫn đến nhiều vùng xảy ra
hạn hán, do đó sông Mê Công là nguồn cung cấp nước quan trọng cho các
vùng.
10



Ngoài ra, các nguồn tài nguyên khác ở Tiểu vùng Mê Công cũng rất
phong phú, đặc biệt là thảm thực vật và tài nguyên khoáng sản như than đá,
dầu mỏ, khi đốt tự nhiên... Các nhân tố tự nhiên kết hợp với điều kiện kinh tế
xã hội đã tác động mạnh mẽ đến sự phát triển kinh tế của vùng.
1.2. Tiềm năng phát triển kinh tế của Tiểu vùng sông Mê Công
Tiểu vùng có tiềm năng lớn về phát triển kinh tế và hợp tác quốc tế.
Thứ nhất về nguồn nhân lực là tiềm năng tiềm tàng của vùng, lực lượng
lao động của tiểu vùng chiếm hơn 50% tổng dân số, hiện chưa được khai
thác tận dụng do tình trạng thất nghiệp và thiếu việc làm còn nghiêm trọng.
Chẳng hạn như, Việt Nam dân số trung bình năm 2016 của cả nước ước tính
92,70 triệu người, trong đó lực lượng lao động trong độ tuổi lao động tại thời
điểm trên ước tính 47,5 triệu người. Nhìn chung, Tiểu vùng có dân số trẻ và
hàng năm có hơn 5 triệu nguời đến tuổi lao động, cho thấy Tiểu vùng đang có
một nguồn lực lượng lao động dự bị hùng hậu và một nét chung về lực lượng
lao động ở đây là có kỷ luật tốt, cần cù, nhẫn nại và có trình độ học vấn tương
đối tốt.
Dân số đông, cơ cấu dân số trẻ là một yếu tố quan trọng thu hút đầu tư
trực tiếp của nước ngoài và xuất khẩu lao động. Đây là một nhân tố quan
trọng tạo tăng trưởng kinh tế cao liên tục trong thời kì phát triển kinh tế thị
trường, tự do cạnh tranh và hội nhập. Đây cũng là một lực lượng lao động dự
bị hùng hậu dành cho các doanh nghiệp mới và đang mở rộng.
Về kinh tế, các nền kinh tế và chính sách phát triển kinh tế của các quốc
gia thuộc Tiểu vùng Mê Công mở rộng đã và đang chuyển đổi theo cơ chế
kinh tế thị trường tự do, hướng ngoại hội nhập với những mức độ khác nhau.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế phát triển kinh tế hàng hóa và dịch vụ, tăng tỷ
trọng kinh tế công nghiệp và dịch vụ, giảm tỷ trọng kinh tế nông nghiệp trong
GDP, thu hút đầu tư nước ngoài là kết quả nổi bật ở các nước này trong quá
trình cải cách mở cửa. Kinh tế đối ngoại phát triển theo hướng gắn kết thị

11


trường ngoài nước, từng bước hạn chế tình trạng nhập siêu. Các nước GMS
có giá trị trao đổi thương mại tiểu ngạch tăng nhanh, mậu dịch biên giới có xu
hướng chiếm tỷ trọng cao trong tổng giá trị ngoại thương song phương giữa
các nước ở Tiểu vùng.
Tiềm năng về thủy điện của sông Mê Công và các nhánh sông của nó có
rất lớn, xếp thứ 10 thế giới về khối lượng nước và xếp thứ 12 về chiều dài.
Ước tính tiềm năng thủy điện của sông khoảng 1000 tỷ KWh/năm về sản
lượng. Trong đó, Lào và tỉnh Vân Nam (Trung Quốc) chiếm phần lớn nhất,
tiếp đến là Myanmar, Thái Lan, Campuchia và Việt Nam. Dọc theo dòng sông
và các nhánh của nó, có thể xây dựng hơn 100 nhà máy thủy điện vừa và nhỏ,
14 đập thủy điện đã và đang xây dựng trong lãnh thổ Vân Nam có công suất
tổng cộng lên tới 20.000 MgW, lớn hơn nhà máy Tam Hiệp lớn nhất thế giới
trên sông Dương Tử (Trung Quốc).
Ngoài Trung Quốc, thì Lào cũng có tiềm năng lớn về thủy điện và có
thể xây dựng 60 nhà máy thủy điện với tổng công suất 18.000 megawatts,
trong đó, Lào mới chỉ khai thác sử dụng được 1%. Với dân số ít ỏi, địa hình
núi xen kẽ với cao nguyên, Lào có điều kiện thuận lợi để xây dựng các đập
thủy điện. Nếu xuất khẩu được điện sang các nước láng giềng, Lào sẽ trở
thành một nước giàu có. Giáo sư Somkiat Osthsopha, một nhà kinh tế chính
trị học tại trường đại học Chulalongkom và là một cố vấn của chính phủ Thái
Lan nói: “Tương lai Lào sẽ là nhà máy thủy điện của Đông Nam Á, sản xuất
điện cho Thái Lan và có thể cho cả Việt Nam. Lào có thể giàu hơn Thái Lan
và tất cả các nước trong khu vực phải kính trọng bởi tầm quan trọng chiến
lược của họ” [9; tr.62].
Trữ lượng than đá, nguồn hydro, các bon, dầu lửa, khí đốt tự nhiên khá
lớn, được đánh giá bằng 100 lần mức tiêu dùng hàng năm hiện nay. Phần lớn
lượng dầu khí tìm thấy ở Việt Nam và Myanamar, than ở tỉnh Vân Nam

(Trung
12


Quốc) tạo điều kiện xây dựng và phát triển các nhà máy nhiệt điện. Tuy nhiên
việc khai thác sử dụng những nguồn năng lượng này còn ở mức thấp.
Mức tiêu dùng điện năng bình quân đầu người của Tiểu vùng năm 2005
là 360 kwh/năm, bằng một phần nhỏ so với các nước công nghiệp. Nhu cầu
điện của Tiểu vùng sẽ tăng nhanh trong thời gian tới cùng với nhịp độ tăng
trưởng kinh tế tương đối cao của Tiểu vùng. Ước tính mức tiêu dùng điện
năng năm 2020 của Tiểu vùng sẽ tăng gấp 6 lần năm 2005. Do đó việc phát
triển mạnh mẽ hệ thống sản xuất và phân phối truyền tải điện trong Tiểu
vùng là điều tất yếu, cần được xem xét kỹ lưỡng và đòi hỏi cần có sự hợp tác
giữa các quốc gia với nhau để sử dụng hiệu quả tiềm năng điện năng của Tiểu
vùng.
Tiềm năng về sản xuất nông nghiệp, ngư nghiệp, lâm nghiệp vẫn còn
chiếm tỷ trọng lớn trong GDP ở Tiểu vùng Mê Công. Trong đó, Thái Lan,
Myanmar và Việt Nam là những quốc gia xuất khẩu gạo nhiều nhất thế giới.
Sử dụng hợp lý và bền vững nước sông Mê Công sẽ giúp Tiểu vùng duy trì
lượng xuất khẩu gạo, dẫn đầu thế giới và đảm bảo vững chắc về an ninh
lương thực.Bộ công thương Thái Lan cho biết tính tới 14/12/2016 đã xuất
khẩu 9,3 triệu tấn gạo, trị giá 146 tỷ baht (tương đương 4,07 tỷ USD), chủ yếu
tới thị trường Trung Quốc và các quốc gia ở châu Phi. Tuy nhiên, Thái Lan
không giữ được vị trí dẫn đầu là quốc gia xuất khẩu gạo lớn nhất thế giới, và
nhường ngôi vị cho Ấn Độ, xếp thứ ba là Việt Nam. Ở Việt Nam, tính riêng
10 tháng đầu năm 2016, khối lượng gạo xuất khẩu ước đạt 4,2 triệu tấn, giá trị
1,9 tỷ USD, tuy nhiên giảm 21,2 % về khối lượng và giảm 16,9% về giá trị so
với cùng kỳ năm 2015.
Tiềm năng thủy sản tập trung ở Biển Hồ (Campuchia), biển Đông và
Vịnh Thái Lan.Tài nguyên rừng bao gồm rừng miền núi ở cả thượng lưu và hạ

lưu, rừng ngập nước ở châu thổ và xung quanh Biển Hồ. Diện tích rừng tuy
lớn nhưng khai thác bừa bãi trong thời gian qua làm cho diện tích rừng giảm
13


nhanh. Vấn đề là phải bảo vệ và khai thác rừng tự nhiên một cách hợp lý, lâu
dài kết hợp với trồng rừng, phủ xanh đất trống đồi trọc, đảm bảo hiệu quả
kinh tế xã hội và phát triển bền vững.
Sông Mê Công có tiềm năng vận tải đường thủy, tàu lớn từ của sông
Việt Nam có thể lên tới Phnômpênh, tàu nhỏ tới được Kratie. Đoạn sông
Luông Prabăng- Viên Chăn- Savanakhet có thể đi tàu nhỏ, nối với đường 9
sang Việt Nam và thông ra biển Đông, là đường ra biển ngắn nhất của Lào và
vùng Đông Bắc Thái Lan.
Tiềm năng du lịch của Tiểu vùng cũng rất đáng kể, nhờ di sản văn hóa
phong phú và hình thái tự nhiên đa dạng. Đây là khu vực có nhiều cảnh quan
thiên nhiên, di tích lịch sử - văn hóa được công nhận là di sản thế giới. Về văn
hóa, mặc dù cùng chịu ảnh hưởng của hai nền văn hóa lớn liền kề là văn hóa
Trung Hoa và Ấn Độ, nhưng trong quá trình phát triển mỗi nước đều có một
bản sắc dân tộc riêng. Chính điều này đã tạo cho tiểu khu vực sự đa dạng về
văn hóa nhưng vẫn có những điểm tương đồng nhất định.
Tiểu vùng thực sự thu được những lợi ích đáng kể từ lĩnh vực du lịch
này. Tiểu vùng không những có điều kiện phát triển những hình thức du lịch
truyền thống mà còn cả các hình thức du lịch sinh thái. Hiện nay, Thái Lan có
năm di sản thế giới trong đó có 3 di sản văn hóa và 2 di sản thiên nhiên, như
Cố đô Ayutthaya được UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới năm
1991 hay Khu vực khảo cổ Ban Chiang được công nhận năm 1992... Ngoài
Thái Lan thì các nước khác trong Tiểu vùng cũng đạt được nhiều thành tựu
trong lĩnh vực du lịch, nhiều di sản văn hóa được UNESCO công nhận, điển
hình như ở Việt Nam có Vịnh Hạ Long, Vườn Quốc Gia Phong Nha - Kẻ
Bàng...

Với những tiềm năng trên, các nước trong Tiểu vùng sông Mê Công mở
rộng hoàn toàn có khả năng phát triển kinh tế hơn nữa, tạo điều kiện hợp tác,
liên kết với nhau cùng phát triển.
14


1.3. Nhu cầu hợp tác kinh tế của các nước tiểu vùng sông Mê Công mở rộng
Hợp tác phát triển kinh tế là một vấn đề thiết yếu, cần được quan tâm
trên tất cả các quốc gia trên thế giới trong bối cảnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa và hội nhập quốc tế như ngày nay. Xu thế toàn cầu hóa đã khiến các
quốc gia, các dân tộc tăng cường tính phụ thuộc vào nhau và không một
quốc gia nào có thể phát triển một cách độc lập mà không có sự bắt tay hợp
tác với các quốc gia khác, kể cả các siêu cường có nền kinh tế, chính trị mạnh.
Hiện nay, có rất nhiều các tổ chức hợp tác quốc tế mang tnh khu vực,
tến hành hợp tác phát triển trên tất cả các lĩnh vực như: kinh tế, văn
hóa, chính trị, quân sự... Điển hình là tổ chức Liên Minh Châu Âu (EU) thành
lập năm 1993, tổ chức Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương
(APEC) thành lập năm 1989, hay tổ chức Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
(ASEAN) thành lập năm 1867, ngoài ra còn nhiều các tổ chức hợp tác quốc tế
khác. Như vậy có thể thấy nhu cầu hợp tác phát triển là một vấn đề đang
được các nước phát triển, đang phát triển trên thế giới quan tâm tiến hành.
“Hợp tác quốc tế phát triển Tiểu vùng sông Mê Công được bắt đầu
từ năm 1957 khi Ủy ban kinh tế của Liên Hợp Quốc về Châu Á và vùng Viễn
Đông (ECAFE) thành lập Ủy ban Mê Công gồm bốn nước thành viên là
Campuchia, Lào, Thái Lan và miền Nam Việt Nam” [10; tr.17]. Như vậy, ngay
trong thời kỳ chiến tranh chống đế quốc xâm lược, các nước Tiểu vùng Mê
Công đã nhận thức được vai trò, ý nghĩa của sự hợp tác quốc tế. Tuy nhiên,
do chiến tranh diễn ra triền miên nên các mục têu đề ra đã không đạt được.
Trải qua một thời gian dài trong chiến tranh và xung đột (trừ Thái Lan)
thì không một nước nào có đủ điều kiện để khai thác và phát huy tiềm

năng của mình để phát triển. Kinh tế kém phát triển, nền chính trị đang được
củng cố lại, cơ sở hạ tầng giao thông vận tải, điện lực, thông tin liên lạc bị
15


chiến tranh phá hủy nghiêm trọng. Có thể thấy, các quốc gia trong Tiểu
vùng Mê

16


Công trong thời kỳ chiến tranh không theo kịp sự phát triển cực kỳ năng
động của khu vực Châu Á- Thái Bình Dương.
Bắt đầu từ năm 1990 trở đi, tình hình đã được thay đổi, các quốc gia
thuộc Tiểu vùng Mê Công (đặc biệt là Việt Nam, Myanmar, Lào, Campuchia)
đã tập trung vào phát triển kinh tế - xã hội. Các nước trong Tiểu vùng Mê
Công lần lượt trở thành thành viên chính thức của Hiệp hội các quốc gia Đông
Nam Á (ASEAN): Việt Nam (1995), Lào (1997), Myanmar (1997), Vương quốc
Campuchia (1999), các nước này nhận được sự giúp đỡ của các quốc gia
trong và ngoài ASEAN.
Đặc biệt, các quốc gia trong Tiểu vùng ngày càng nhận thức sâu sắc
rằng phải phối hợp và tăng cường liên kết, hợp tác với nhau thì mới có
thể khai thác, sử dụng có lợi nhất, có hiệu quả các tiềm năng to lớn của Tiểu
vùng về nhân lực, thủy điện, trữ lượng khoáng sản, tài nguyên nước, thủy
sản, du lịch… bảo vệ tốt môi trường và phát triển bền vững. Chung nhau khai
thác dòng sông và các tài nguyên đa dạng gắn kết với nhau thành một
khối, các nền kinh tế trong Tiểu vùng nếu không hợp tác thì không những
không sử dụng có hiệu quả và lâu bền các nguồn lực của mình mà còn có
nguy cơ động chạm đến lợi ích của nhau. Hợp tác Tiểu vùng mở ra một thời
kỳ mới cho xây dựng cuộc sống phồn vinh giàu có cho tất cả các quốc gia

trong Tiểu vùng.
Ngoài ra, ngày nay một quốc gia không thể chỉ dựa vào nội lực để phát
triển kinh tế do nguồn lực của từng nước chỉ có hạn và không toàn diện. Các
nước GMS tuy có nhiều đặc điểm tương đồng song cũng có nhiều nét đặc
thù riêng về địa hình, đất đai, tài nguyên, điều kiện khí hậu, văn hóa, xã
hội và lịch sử... Do vậy, mỗi nước GMS đều có những lợi thế so sánh riêng.
Hợp tác với các quốc gia khác sẽ góp phần phát huy lợi thế so sánh của
từng nước cũng như tận dụng các ưu thế của bên ngoài. Hợp tác kinh tế sẽ
17


tạo ra thị trường rộng lớn hơn, ít rào cản hơn, điều kiện ưu đãi tốt hơn
cho các nước

18


trong Tiểu vùng. Đây sẽ là một trong những giải pháp để thu hút đầu tư, vốn
vay và viện trợ từ bên ngoài, sự thống nhất trong các chương trình hành
động chung của Tiểu vùng cũng sẽ tạo điều kiện thuận lợi trong việc đầu tư
các dự án liên quốc gia.
Nhận thức thấy điều đó và để phát triển kinh tế Tiểu vùng sông Mê
Công, năm 1992 Ngân hàng phát triển Châu Á (ADB) đã đề xuất sáng kiến
Hợp tác phát triển Tiểu vùng Mê Công mở rộng gồm: Lào, Myanmar, Thái
Lan, Campuchia, Việt Nam và tỉnh Vân Nam và năm 2001 thêm tỉnh Quảng
Tây (Trung Quốc). Ngân hàng phát triển Châu Á cho rằng hợp tác kinh tế
GMS dựa trên các yếu tố: Các nước GMS có đường biên giới liền kề; có
nhiều nét tương đồng thể hiện ở chỗ xuất phát điểm có nền kinh tế, xã
hội thấp, tương đương ở mức các quốc gia nghèo; cơ sở hạ tầng kém phát
triển; thiếu vốn, công nghệ và kinh nghiệm quản lý hiện đại; thiếu cán bộ

được đào tạo tốt; thị trường rộng lớn, tiềm năng phát triển cũng nhiều và
bảo vệ môi trường là yêu cầu chung của các quốc gia Tiểu vùng.
Ngân hàng phát triển Châu Á đã tiến hành nhiều hoạt động hỗ trợ kỹ
thuật để phát triển các nước trong Tiểu vùng như tài trợ các dự án về
năng
lượng thủy điện cho Lào và Thái Lan, “giúp Lào mở rộng sản xuất điện năng
để có thể cung cấp phần dư thừa sang Thái Lan, đồng thời tài trợ xây
dựng các đường truyền tải ở Thái Lan để có thể “hấp thu” phần điện năng
được cung cấp. Nguồn tài trợ của Ngân hành một mặt đã giúp Lào có được
nguồn thu ngoại tệ kể từ việc xuất khẩu điện sang Thái Lan, mặt khác giúp
Thái Lan thỏa mãn được một phần nhu cầu thiếu hụt về năng lượng” [9;
tr.71]. Ngoài ra ADB còn đầu tư xây dựng các tuyến đường giao thông nối
khác khu vực trong Tiểu vùng với nhau, điển hình là xây dựng cây cầu bắc
qua sông Mê Công nối liền hai nước Lào và Thái Lan.
19


×